VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 216: NĂM HI NINH THỨ 3 (CANH TUẤT, 1070)
Từ tháng 10 năm Hi Ninh thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Mậu Ngọ (mùng 1), sai Trực sử quán Lý Thọ Bằng xem xét và định lại các bản tấu chương của bách quan chuyển đối.
[2] Ngày Tân Dậu (mùng 4), Long Đồ các Trực học sĩ, Tri thành Đức quân Ngô Trung Phục được bổ nhiệm làm Tri Thành Đô phủ.
[3] Xuống chiếu cho Hoàng thành sứ, Đoan châu Đoàn luyện sứ, Xu mật phó đô thừa chỉ Lý Thụ đứng hàng sau Đô thừa chỉ và trước Cung uyển sứ. Lại xuống chiếu rằng các Phó thừa chỉ các phòng trong Xu mật viện, nếu đã thăng đến hạng nhất và đủ ba kỳ, thì được bổ làm ngoại quan với chức Tả tàng khố Phó sứ. Theo lệ cũ, các Phó thừa chỉ các phòng có thể thăng lên đến chức Đô thừa chỉ. Đến lúc này, Phó đô thừa chỉ lại dùng người có học, nên đặt ra quy định này. Sách 《Nhật lục》 chép: Ngày mùng 1 tháng 9, Vương An Thạch và Hàn Dịch cùng tiến cử Lý Thụ, được bổ làm Phó thừa chỉ. Cần tra xét quê quán của Thụ.
[4] Phán Diên châu Quách Quỳ tâu: “Sắp tới, biên giới phía tây sẽ gửi văn thư báo về việc sứ giả đến chúc mừng ngày Chánh đán, không biết có nên nhận hay không.” Vua xuống chiếu bảo Quỳ trả lời theo ý mình, rằng vì trước đây họ từng xâm phạm Khánh châu, nên không dám nhận sứ giả và dẫn đường. 《Cựu kỷ》 chép: Vì người Hạ xâm phạm Hoàn Khánh, nên xuống chiếu cho Diên châu không tiếp nhận sứ giả của họ[1]. 《Tân kỷ》 chép: Xuống chiếu cho Diên châu không tiếp nhận sứ giả của người Hạ.
[5] Hiệu lý Tập hiền là Triệu Tiết tâu rằng: “Giặc vừa xâm phạm biên giới, mẹ con Bỉnh Thường không có lợi gì, chỉ là do tù trưởng Hồng Châu, Hựu Châu là Kết Minh Ái và Vượng Mãng Ngạch xúi giục, chưa thể thực hiện được ý đồ xấu xa mà người và gia súc đều mệt mỏi, triều đình lại cắt bỏ tứ vật hàng năm, thế lực suy yếu, trên dưới nghi ngờ lẫn nhau. Trước đây dùng kế của Lương Y Đặc Mại, bắt giam Hàn Đạo Hỉ, từ đó họ Vượng và họ Lương oán hận lẫn nhau, e rằng Y Đặc Mại sẽ mưu hại Minh Ái. Xin cho quan lại biên giới dụ dỗ họ, nếu có thể bắt được Vượng Mãng Ngạch, Kết Minh Ái và các thủ lĩnh đồng mưu đến đây, triều đình sẽ ban thưởng không tiếc. Như vậy thì lòng dạ chúng sẽ chia rẽ, dù có mưu kế xảo quyệt cũng không thể thực hiện được. Nếu hai người này đến, hậu đãi để làm gương cho các tù trưởng khác, họ sẽ tự tan rã, nhân đó chiêu dụ dân chúng vùng Hoành Sơn, không đánh mà khuất phục được quân địch.”
[6] Ty Tuyên phủ Thiểm Tây tâu: Quan và tư đều thiếu ngựa tốt, vì giá quan đưa ra quá thấp, xin các châu quân mua ngựa tăng giá để mua. Do đó có chiếu: Chỉ trừ ngựa cái không tăng giá, còn ngựa lớn đang mua ở Tần Châu, Nguyên Châu, Đức Thuận Quân thì tăng giá khác nhau, nếu giá cao[2], thương nhân không muốn bán cho quan thì cho phép dân gian mua.
[7] Ngày Quý Hợi, Công bộ lang trung kiêm Thị ngự sử tri lam sự, tri Thẩm quan Tây viện là Tạ Cảnh Ôn được bổ làm tri Đông viện, Ty phong viên ngoại lang, Trực sử quán, tri Đông viện là Thái Diên Khánh được bổ làm tri Tây viện, vì Cảnh Ôn tâu rằng: “Trước đây từng đàn hặc đồng tri Tây viện là Lý Thọ Bằng, em ông ta là Phục Khuê làm tri Khánh Châu, cầu công sinh sự, Thọ Bằng vì thế mà oán hận, nhiều lần tỏ ra giận dữ, xin đổi chỗ khác.”
[8] Chức phương viên ngoại lang Đặng Oản được bổ làm Tập hiền hiệu lý, Kiểm chính trung thư khổng mục phòng công sự[3]. Oản vốn tên là Duy Thanh, người huyện Song Lưu, đỗ tiến sĩ cao đệ, nhiều lần thăng chức làm Thông phán châu Ninh, dâng thư nói: “Bệ hạ được người phò tá như Y Doãn, Lã Vọng, ban hành các phép Thanh miêu, Miễn dịch tiền, trăm họ không ai là không ca ngợi ân trạch của thánh thượng. Thần lấy những gì thấy ở châu Ninh mà xét, biết được một lộ; từ một lộ mà xét, thấy cả thiên hạ đều như vậy. Đây thực là phép tốt hiếm có, xin bệ hạ kiên trì thực hiện, đừng vì những lời bàn tầm phào mà thay đổi.” Lại viết thư và bài tụng gửi Vương An Thạch, An Thạch rất mừng, tâu lên Vua, sai Oản đi ngựa trạm đến kinh đô, lại nhiều lần hạ chiếu thúc giục. Khi đến nơi, Vua sai mấy người đón ở Trung Mâu, Bát Giác, cửa Thuận Thiên để dò xét. Đến tối, Oản vào cửa đến nhà nghỉ. Người dò xét đêm đó phi tấu, đưa vào qua lỗ cửa hữu dịch. Sáng hôm sau, Vua triệu vào hỏi. Lúc đó châu Khánh đang có giặc Hạ quấy nhiễu, Oản dâng việc biên cương. Vua hỏi: “Ngươi có biết Vương An Thạch không?” Oản đáp: “Không biết.” Vua nói: “Đó là bậc cổ nhân thời nay.” Lại hỏi: “Ngươi có biết Lữ Huệ Khanh không?” Oản đáp: “Không biết.” Vua nói: “Đó là bậc hiền nhân thời nay.” Oản lui ra, gặp An Thạch, vui vẻ như bạn cũ. An Thạch hỏi: “Gia quyến đã đến cả chưa?” Oản đáp: “Vâng lệnh gấp triệu, chưa biết việc gì, không dám đưa cả đến.” An Thạch nói: “Sao không đưa cả đến, ngươi không về chức cũ nữa đâu.”
Mấy ngày sau, nhân lúc An Thạch trai giới, Trần Thăng Chi và Phùng Kinh cho rằng Oản hiểu việc biên cương, tâu xin bổ làm Tri châu Ninh. Oản nghe tin rất hận, nói với các quan trong triều: “Gấp triệu ta đến, lại bảo ta về làm Tri châu Ninh! Ta đã nói với Giới Phủ rồi.” Rất bất bình. Các quan hỏi: “Nay ông sẽ nói gì?” Oản đáp: “Ta không mất chức quán chức.” Có người hỏi: “Ông có thể làm Gián quan không?” Oản đáp: “Chính là có thể làm được.” Hôm sau, quả nhiên có lệnh đó. Oản từ khi đến kinh đô, không dám gặp người quê, người quê đều chê cười, Oản nói: “Cứ chê cười đi, ta vẫn phải làm quan tốt.” Lại có lệnh cho Oản kiêm Biên tu trung thư hộ phòng điều lệ. Việc này theo《Nhật ký Tư Mã Quang》mà thêm vào. Việc kiêm biên lệ vào tháng 10 ngày Ất Hợi, nay ghi chung.
[9] Thượng phê: “Quân cấm binh ở Thiểm Tây vốn định mức mười vạn người. Từ mùa xuân năm nay, lệnh cho các ty giám sát phân loại, đến nay chưa tâu lên số lượng đã giảm bớt và số lượng hiện quản lý. Huống chi hiện nay đang bắt đầu dùng binh, Quan Trung không được mùa, nếu cần tuyển chọn, không thể chậm trễ. Lệnh cho các ty Đô Tổng quản ở Thiểm Tây, Hà Đông căn cứ vào số lượng thiếu hụt của quân địa phương, chọn quan binh đến các châu quân nhanh chóng tuyển chọn đủ số lượng.”
[10] Chiếu cho quan Thư khố Quốc tử giám sai người thân dân và người giữ chức giám đương nhiệm kỳ thứ hai. Do Hữu ty gián, Trực tập hiền viện Chương Hoành tâu rằng trước đây nhiều con em quyền quý xin xỏ, không chăm lo công việc, nên có lệnh này.
[11] Ngày Giáp Tí, mưa đóng băng trên cây.
[12] Lý Tổng, Huyện úy Nam Khang, được thăng làm Chủ bạ Tướng tác giám, do có công bắt giặc.
[13] Chiếu cho các ty Phát vận, Chuyển vận chủ quản văn tự và các quan chưởng cơ nghi ở các lộ, được phép tiến cử người có thể vào Xuyên, Quảng.
[14] Ty Đề cử Thường bình Kinh Đông lộ tâu: “Ty Chuyển vận còn nợ kho Nội tàng mười bốn vạn quan tiền lụa, xin mượn để làm tiền Thanh miêu, đợi ba năm sau sẽ hoàn trả lại kho Nội tàng.” Được chấp thuận.
[15] Ngày hôm đó, chiếu cho Chủng Ngạc về kinh. Trước đây, Ngạc từ chức An trí ở Tùy Châu được phục chức Tả Tàng khố phó sứ Tây Kinh, Đô giám Thương Châu. Khi Ngạc đang để tang mẹ, Ngạc mới được phục chức, đã ghi vào ngày 12 tháng 12 năm thứ nhất. Sau đó, Ngạc được đổi làm Đô giám Tần Châu, các tướng Kinh Nguyên, Tần Phượng đều mời, nhưng Ngạc đều không nhận. Hàn Giáng làm Tuyên phủ Thiểm Tây, triệu Ngạc hỏi kế sách, bổ nhiệm làm Tri Thanh Giản thành kiêm Kiềm hạt Phu Diên lộ, chuyên quản việc bộ tộc Phiên. Chiết Kế Thế nói với Ngạc, xin xây thành La Ngột, và nói: “Dân chúng ở Hoành Sơn đều muốn quy thuận nhà Hán. Nếu đại quân ra khỏi biên giới, đất Hà Nam có thể chiếm được.” Ngạc bèn bàn với Giáng, từ Tuy Đức tiến quân chiếm thành La Ngột, xây sáu trại để thông với Lân Phủ, bao trùm mấy trăm dặm đất, thì Phu Diên, Hà Đông sẽ có thế hỗ trợ lẫn nhau, đủ để khống chế giặc. Thượng cho là phải, nên lệnh cho Ngạc vào triều. Việc triệu Ngạc căn cứ vào 《Ngự tập》, còn lại thì lấy từ 《Ngạc truyện》 và 《Mộ chí》. Ngày 21 tháng 12, miễn cho Ngạc về kinh.
[16] Ngày Bính Dần, các quan chức ở Đại Thuận Thành, Khánh Châu gồm: Kiềm hạt bản lộ, Cung bị khố sứ Lương Tòng Cát; Tuần kiểm bộ phiên, Cung bị khố phó sứ Triệu Dư Đức; Tri thành, Nội điện thừa chế Quách Nhu; Đô giám, Nội điện thừa chế Lôi Tự Văn; Đô tuần kiểm bắc lộ Nhu Viễn Trại, Tả tàng khố phó sứ Lâm Quảng; Đô tuần kiểm quan phiên, Tây kinh tả tàng khố phó sứ Triệu Dư Khánh; Quyền trú bạc đô giám, Lễ tân sứ Lý Khắc Trung; Trại chủ, Nội điện thừa chế Tôn Tông Tín; Giám áp, Đông đầu cung phụng quan Mộc Tín Chi; Đô tuần kiểm đông lộ Lệ Nguyên Bảo kiêm quyền đô giám bản bảo, Tây kinh tả tàng khố phó sứ Diêu Hủy; Quyền trại chủ Tây Cốc Trại, Tây kinh tả tàng khố phó sứ Trương Kế Ngưng, đều được thăng một chức; những người khác được chuyển tư, giảm năm khảo khóa khác nhau. Vì người Hạ xâm lược, Tòng Cát và các tướng kháng chiến có công nên được ban thưởng.
[17] Người Hạ đem toàn quốc xâm lược, các trại bảo ở Hoàn Khánh đều bị vây. Diêu Hủy đóng quân ở Lệ Nguyên Bảo, dẫn quân ra chiếm giữ nơi hiểm yếu, lại bày binh nghi binh trên các núi, khiến giặc không thể cướp phá trong địa giới, thỉnh thoảng xuất kỳ binh đánh úp, giặc dần lui. Ngày hôm sau, giặc tăng thêm quân tấn công rất gấp, Hủy cưỡi ngựa bắn tên, tổng cộng hơn ba trăm phát, đều trúng đích giặc chết, ngón tay rách chảy máu nhưng vẫn không ngừng bắn. Lại sai con trai là Hùng dẫn kỵ binh tinh nhuệ ra đánh, tự cầm cờ từ trên thành vẫy lệnh, giặc không dám đối đầu, liền rút về phía tây, tấn công Đại Thuận Thành, Hủy lại đến cứu viện, thành lại được bảo toàn. Được thăng làm Văn tư phó sứ. Việc này căn cứ theo bản truyện của Hủy, phụ chép.
[18] Truy tặng Hoàn Khánh lộ đô giám, Đông đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Cao Mẫn làm Gia Châu thứ sử, phong vợ ông làm Tinh Đức huyện quân, cho hai con trai làm Tả, Hữu thị cấm, một người làm Tả ban điện trực. Kiềm hạt, Hoàng thành sứ Quách Khánh, hai con trai đều làm Hữu thị cấm. Chỉ sử Ngụy Khánh Tông, Tần Bột[4], mỗi người một con trai, làm Trà tửu điện thị.
[19] Ngày Mậu Thìn, Diên Phúc cung sứ, Vũ Tín quân Lưu hậu Thạch Toàn Bân qua đời, được truy tặng Thái úy, Định Vũ quân Tiết độ sứ, thụy hiệu là Cung Hi.
[20] Ngày Kỷ Tỵ, Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Chiêu Châu Đoàn luyện sứ Khắc Ngỗi được lĩnh chức Giải Châu Phòng ngự sứ. Khắc Ngỗi đã tham gia thi thơ, nghĩa lớn của Kinh Dịch và luận văn tại Học sĩ viện, đều đạt yêu cầu.
[21] Đề cử Thiểm Tây thường bình đẳng sự, Thái tử Trung xá Lưu Quản được bổ nhiệm làm Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ, Hoàn Khánh lộ Đô giám. Quản được Tuyên phủ sứ Hàn Giáng tiến cử vì tài năng, nên được đổi chức và thăng chức. Quản giữ chức Thiểm Tây thường bình từ ngày 12 tháng 9 năm thứ hai.
[22] Ngày Canh Ngọ, Phán Diên Châu Quách Quỳ tâu rằng, sau khi phá xong các trại bảo mới xây dựng ở biên giới phía tây, có quân sĩ Bảo Tiệp là Vương Thanh đã đổi đầu lấy kim thoa với Phó chỉ huy sứ Lưu Hưng, nhưng chưa nhận được, nên đã tự thú. Vua phê rằng: “Tội bán đầu lấy tiền sẽ xử theo pháp luật, nhưng vẫn được hưởng phần thưởng xứng đáng.”
[23] Sắc tứ Đồng học cứu xuất thân Từ Bố tâu rằng: “Kho dự trữ của thường bình và nghĩa thương hiện có khoảng hơn một nghìn ba trăm vạn, chưa bằng một phần năm thời Đường. Bệ hạ nhân từ yêu thương dân chúng[5], đã sai sứ giả đi khắp thiên hạ, thực hiện pháp bổ trợ xuân thu. Nhưng các nho sĩ hủ lậu khó mà bàn việc mới. Thần ngu muội, mong được quyền cân nhắc việc ban phát và thu gom, để giúp đỡ dân nghèo và hạn chế sự thôn tính. Mong được ban cho buổi yến tiệc thanh nhàn, để có thể trình bày chi tiết trước mặt.” Vua phê rằng: “Có thể triệu đến Trung thư, hỏi cặn kẽ.” Hôm đó, Trung thư trình lên, nhưng bị bỏ qua. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》. Lý do bị bỏ qua cần xem xét thêm.
[24] Ngày Tân Mùi, chiếu rằng bổng lộc của các quan Kiểm chính ở Trung thư sẽ giống như các Phán quan của Tam ty, và Đô kiểm chính quan được thêm hai người phụ tá.
[25] Tam ty tâu rằng: “Vào ngày cấp phát quân lương, mỗi kho chọn một viên quan triều đình, cùng với quân chức ở cửa kho kiểm tra túi vải. Lương cho gia đình quân nhân đi trấn thú, xin sai năm viên nội thần, phân định chỉ huy, giám sát việc lạm dụng dọc đường, và mỗi ngày đến kiểm tra một hai chỉ huy.” Vua đồng ý.
[26] Ngày Nhâm Thân, Vua đến cung Cảnh Linh bái yết điện Thiên Hưng, triều yết bốn điện là Phụng Chân, Quảng Hiếu, Hiếu Nghiêm, Anh Đức. Sử cũ chép là triều yết cung Cảnh Linh, sử mới không chép. Nay theo thực lục ghi chép chi tiết.
[27] Ngày Giáp Tuất, Đề điểm Thiểm Tây lộ hình ngục Cao Phú được điều sang Hà Đông lộ; bãi chức Chuyển vận phán quan Lý Sư Tích, lệnh về kinh; Đề điểm Hà Đông lộ hình ngục, Đồn điền lang trung Hàn Đạc, Kinh Tây lộ Chuyển vận phán quan, Thái thường bác sĩ Lý Nam Công, đều được điều sang Thiểm Tây lộ; Quang lộc tự thừa Lữ Đại Quân làm Thư tả cơ nghi văn tự ở Tuyên phủ ty, đều theo lời xin của Tuyên phủ sứ Hàn Giáng. Giáng nói, Phú không phải là người tài giỏi, Sư Tích nhu nhược không xứng chức, nên điều bãi. Đại Quân là em của Đại Phòng.
[28] Trước đó, Tư không Hàn Kỳ muốn dùng Lý Đạc làm chuyển vận sứ Hà Đông, nhưng Vương An Thạch không đồng ý. Sau đó, Vua cũng muốn dùng Đạc, nói: “Đạc kiểm tra việc thành trì, khí giới rất cẩn thận.” An Thạch tâu: “Triều đình sai Đạc đi kiểm tra, cẩn thận là chức phận của ông ta. Đạc xử lý việc thường bình rất sai trái, hiện đang bị hặc tội, sao có thể lại thăng chức?” Vua nói: “Cần phải tính toán chung các việc[6], sao có thể chỉ vì việc thường bình mà thăng giáng người?” An Thạch đáp: “Thần chỉ thấy Đạc xử lý việc thường bình sai trái nên bị giáng chức, chưa thấy ông ta làm việc gì khác đáng được thăng. Bệ hạ dường như chưa hiểu ý thần, thần đâu phải vì bàn việc lập pháp thường bình mà muốn chỉ dùng việc thường bình để thăng giáng người? Pháp thường bình chỉ là một phần vạn trong việc thiên hạ, thần phụng sự bệ hạ không phải chỉ vì bàn việc lập pháp thường bình. Bệ hạ dường như chưa hiểu ý thần.”
An Thạch từng dâng lên tác phẩm 《Hồng Phạm truyền》 của mình, Vua ban chiếu trả lời, khi việc tâu bày xong, An Thạch ở lại tạ ơn. Vua nói: “Tăng Công Lượng già yếu sắp về hưu, Trẫm đang dựa vào khanh để lo việc thiên hạ, khanh đừng nói Trẫm không hiểu khanh.” Ngày 13 tháng 9, Công Lượng đã từ chức. An Thạch lại tâu với Vua về việc Đạc: “Hiện nay trong ngoài đều làm việc cẩu thả, coi thường pháp lệnh, việc trị lý không thể không gấp[7]. Nếu vừa bị hặc tội vì coi thường pháp lệnh lại được thăng chức, thì người ta còn sợ gì nữa! Trị thiên hạ như dùng thuốc, khi lạnh dù uống toàn ô đầu, phụ tử, lưu hoàng cũng không quá nóng; khi nóng dù uống toàn đại hoàng, phác tiêu cũng không quá lạnh. Bệ hạ nên xem xét bệnh tình thời thế mà khuyên răn, sự nhanh chậm không thể không ứng với bệnh.” Vua bèn không dùng Đạc. Khi đó, Hàn Kỳ đi sứ Thiểm Tây, nhân đó xin điều Đạc, Vua vừa nghe theo lời Kỳ, lại ban chiếu thúc Đạc lên đường nhậm chức. Việc thúc Đạc nhậm chức, theo 《Ngự tập》 là ngày 12 tháng 11 năm thứ 3; Đạc ban đầu được bổ làm Hiến ty Hà Đông khi đang quyền tri châu Tào, vào ngày mồng 8 tháng 8 năm thứ 2, nay ghi chung lại. 《Hồng Phạm truyền》 có thể phụ lục một vài điều ở đây, ngày Nhâm Tý tháng 9 cũng có thể phụ lục.
[29] Tri Quế Châu Phan Túc tâu: “Chủ quản văn tự Khê Động châu Ung là Tưởng Thánh Dũ, vừa mới nhậm chức, đã dâng tấu muốn đánh Giao Chỉ, e rằng sẽ gây ra việc. Xin đổi bổ nhiệm Thánh Dũ làm sai khiển ở lộ Quảng Nam Đông.” Vua nghe theo. Cuối tháng 3, Vương An Thạch có nói gì đó, có thể tra cứu.
[30] Ngày Ất Hợi, Hàn Giáng xin sai Trứ tác tá lang Lữ Đại Trung đến ty Tuyên phủ, để chuẩn bị đề cử nghĩa dũng. Vua nghe theo. Giáng xin sai Giá bộ viên ngoại lang Mã Đầm, Bí thư thừa Lưu Củng, Điện trung thừa Lạc Hoán và Đại Trung, tổng cộng bốn người. Theo ghi chép ngày 4 tháng 5 năm sau, bãi bỏ việc phân giáo nghĩa dũng, bãi chức tám người, việc này chưa đầy đủ. Nay xóa bỏ, chỉ giữ lại tên Đại Trung. Ngày 4 tháng 5 năm sau, bãi chức cả tám người.
[31] Giáng lại tâu: “Nay chia nghĩa dũng thành bảy lộ: Phu, Diên, Đan, Phường làm một lộ[8]; Bân, Ninh, Hoàn, Khánh làm một lộ; Kinh, Nguyên, Nghi, Vị làm một lộ; Tần, Lũng làm một lộ; Thiểm, Giải, Đồng và phủ Hà Trung làm một lộ; Giai, Thành, Phượng châu và phủ Phượng Tường làm một lộ; Càn, Diệu, Hoa và quân Vĩnh Hưng làm một lộ. Hàng năm, lấy số lượng một châu, chia làm bốn phiên. Bốn lộ biên giới gồm mười bốn châu, mỗi năm vào mùa thu đông, mỗi phiên đều phải đồn trú. Ba lộ gần trong gồm mười hai châu quân, lập tức theo đó định ra thứ tự phiên. Chưa được hàng năm sai phát, nếu nơi đó thiếu chính binh, thì được điều động hoặc đổi đến biên giới thứ cấp để phòng thủ.” Vua nghe theo. Phiên mùa thu bắt đầu từ ngày 1 tháng 8, phiên mùa đông bắt đầu từ hạ tuần tháng 10, mỗi phiên phải đủ ba tháng mới được về, xong một vòng lại bắt đầu lại, vẫn theo thứ tự mùa mà thay đổi sai phát. Lúc đó, vì giặc phương Tây thường gây hấn vào mùa xuân và thu, nên phiên mùa đông đổi thành phiên mùa xuân, từ ngày 15 tháng 1 đến cuối tháng 3 thì được về. Việc chia lộ nghĩa dũng, theo 《Tống hội yếu》 là vào tháng 12, nay ghi chung lại, hoặc dời đến ngày 5 tháng 11. Ngày 8 tháng 7, việc năm phiên của Thái Đĩnh có thể tra cứu.
[32] Ngày Bính Tý, ban sắc: “Công bộ lang trung, trực Long đồ các, tri Khánh châu Lý Phục Khuê, tự ý động binh, đánh dẹp đất Khương, khiến rợ Di nổi loạn, quấy nhiễu biên cương, bộ lạc tiêu điều, máu đổ nơi đồng nội. Có thể giáng chức làm Kiểm hiệu Công bộ lang trung, Bảo Tĩnh quân Tiết độ phó sứ, không được ký tên vào công vụ của bản châu.”
[33] Trước đó, Ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu: “Rợ Khương phương Tây quấy nhiễu biên giới, các thành trì ở Hoàn Khánh đều bị hại, nguyên do là Phục Khuê tham công sinh sự, khiến cả một vùng lâm vào cảnh lầm than. Trộm nghe Phục Khuê từ khi làm thống soái, nhiều lần cướp bóc, đem quân đi hơn hai mươi trận, khiến người phương Tây oán hận, cả nước kéo sang xâm lấn, binh sĩ tử thương, dân biên giới ly tán, đều do Phục Khuê gây ra. Trước đây đã có chiếu tra xét ở Hà Trung phủ, sau lại nghe nói tha tội cho hắn, như thế thì pháp luật triều đình không được thi hành, bề tôi biên cương tự tung tự tác, gây hại cho dân chúng, không phải là việc nhỏ. Quân đội của bậc đế vương, lấy tín nghĩa làm gốc. Giả sử Phục Khuê có công thắng trận, nhưng mất tín nghĩa, cũng không đáng khen, huống chi còn khinh địch tổn uy, hao tài hại dân đến thế! Xin hạ lệnh cho Tuyên phủ sứ Hàn Giáng xét rõ nguyên nhân gây họa, kiểm tra số người bị thương vong, nghiêm khắc trừng phạt[9], để răn đe biên thần.” Lúc đó đã hạ lệnh cho bản lộ điều tra, khi kết quả đến thì có lệnh trách phạt này. Việc này căn cứ vào 《Mặc sử》. 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép Phục Khuê bị cách chức vì tội tự ý động binh.
[34] Hàn Giáng dâng chương xin tha tội cho Phục Khuê, chiếu đáp rằng: “Phục Khuê tuy có tài trí đáng khen, nhưng việc làm này phần nhiều dối trá, khiến dân chúng bị hại, tướng sĩ bị giết, xét từ đầu đến cuối, đều là lỗi của Phục Khuê. Xem xét lời tâu của khanh, Trẫm đã suy nghĩ nhiều lần, nhưng chưa thể theo lời thỉnh cầu, khanh hãy hiểu rõ lòng trung thành, nên thể theo ý Trẫm.” Việc này căn cứ vào 《Thần Tông bảo huấn》.
[35] Ngự sử đài tâu: “Vâng chiếu định đoạt việc mẹ đẻ của Lý Định, quân sự phán quan châu Tú châu đã mất, có nên truy phục hay không. Xét kỹ: Con thứ là người kế tự cha, nếu mẹ đích còn, thì để tang mẹ đẻ ba tháng, đồng thời xin giải chức để chịu tang trong lòng. Nếu không phải là người kế tự cha, thì để tang mẹ đẻ ba năm, chính thức để tang rồi mới hết tang. Nay theo lời khai của thân nhân và hàng xóm do Lưu nội tuyển và Hoài Nam chuyển vận ty thu thập, nói rằng: ‘Lý Định là con của họ Cừu, khi họ Cừu mất, Định chưa từng xin giải chức để chịu tang trong lòng, chỉ là năm đó nói cha đã 89 tuổi, việc đón tiếp không tiện, xin được ở nhà phụng dưỡng.’ Tức là chưa thấy Định vì là con của họ Cừu mà xin giải chức để chịu tang trong lòng. Nay Định lại nói: ‘Khi họ Cừu mất, có người làng bí mật bảo rằng đó là mẹ đẻ của Định. Định hỏi cha, cha nói không phải là mẹ đẻ của con. Lúc đó vì không được cha cho phép, lại có lời bí mật của người làng, nên tự nghi ngờ, do đó không muốn làm quan, chỉ xin giải chức để phụng dưỡng, danh nghĩa là phụng dưỡng, nhưng thực chất là thực hiện chế độ tang trong lòng.’ Tuy nhiên, Định lại có lời tự nghi ngờ như vậy, tức là lúc đó chưa có quyết định rõ ràng. Vì chế độ tang trong lòng vốn dựa trên tình cảm của người con hiếu thảo, nếu lúc đó chưa xác định rõ họ Cừu là mẹ đẻ, thì đã không có ân tình mẹ con, sao lại thực hiện chế độ tang trong lòng? Nay chuyển vận ty căn cứ vào lời khai của hàng xóm, nói rằng Định thực sự là con của họ Cừu, càng rõ ràng là nên theo lễ chế, truy phục ba tháng, giải chức và chịu tang trong lòng ba năm. Nếu Định nói thực sự không phải là con của họ Cừu, lại có lời biện bạch, xin triều đình xử lý riêng.”
Chiếu rằng: “Lý Định đổi làm Thái tử trung doãn. Những người hàng xóm như Lý Triệu nói họ Cừu là mẹ đẻ của Định, lệnh cho Hoài Nam chuyển vận ty bắt phải phân tích rõ ràng, xác minh rồi tâu lên.” 《Yếu lục》 chép: Sau đó, Tri tạp Tạ Cảnh Ôn nói: “Định thường nói Lý Triệu là hàng xóm thuê nhà từ năm Gia Hựu thứ bảy, khó lấy làm tin. Kiểm tra lại lời khai ban đầu của Định, nói rằng có người làng bí mật bảo Định là con của họ Cừu. Chỉ cần bắt Định khai tên người làng, lệnh cho chuyển vận ty điều tra, chắc chắn sẽ thấy rõ tình hình. Do đó, chiếu cho Hoài Nam chuyển vận sứ hỏi rõ sự việc của người làng rồi tâu lên.” Ngày 5 tháng 11, Tạ Cảnh Ôn nói như vậy.
[36] Thái thường bác sĩ Trần Châm được bổ nhiệm làm Tây thượng các môn phó sứ, tri Khâm châu. Sau đó, có chiếu chỉ cho Trần Châm quyền làm Kiềm hạt Quảng Nam Tây lộ, đóng quân ở Ung châu. Chiếu chỉ này căn cứ theo 《Hội yếu》. 《Ngự tập》 quyển 151 ghi: Xu mật viện tâu rằng, sai Tây thượng các môn phó sứ, tri Khâm châu Trần Châm đến Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ, cùng với Phan Túc và Chuyển vận ty cùng xem xét, đánh giá công việc. Khi công việc hoàn tất, chưa rõ có nên cho tự mình mang tấu chương về kinh đô, hay sau khi bàn bạc xong thì dâng tấu chương lên? Ngự phê: Nếu có việc cần phải trình bày trực tiếp, thì cho về kinh đô. Ngày 15 tháng 11 năm Hi Ninh thứ 3 ban hành. Y học Ôn Cảo tâu về việc xử lý vấn đề Giao Chỉ, ngự phê: Những điều nói ra rất đáng tham khảo, nên nhanh chóng xem xét và tâu lên. Ngày 15 tháng 11 năm Hi Ninh thứ 3, Ôn Cảo được sai đến Quảng Tây cùng Trần Châm xử lý công việc, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được văn bản bổ nhiệm[10], nên lập tức xem xét, đồng thời gửi trát văn yêu cầu khi đến đó, mọi việc phải bàn bạc với Trần Châm. Ngày tháng 11 năm Hi Ninh thứ 3 ban hành.
《Tư Mã Quang nhật ký》 ghi: Ngày 13 tháng 11, Áp ban Lý Nhược Ngu đến Quảng Tây xử lý công việc. Có tướng phản loạn của Giao Chỉ dẫn quân đến đầu hàng, Nhược Ngu nói: “Việc này không thể nhận, có thể quyết định từ xa, không cần phải đến đó.” Ngày 21, Thái bác Trần Châm được đổi làm Tây các phó sứ, tri Bân châu[11], Lý Nhược Ngu không còn phụ trách Quảng Tây, chỉ lệnh cho Trần Châm xem xét việc biên giới. Ngày 22 tháng 3 năm thứ 4, 《Vương An Thạch nhật lục》 ghi: Hoàng đế không muốn dùng Trần Châm làm tri Ung châu, vì sợ xung đột với Tiêu Chú. Tôi cho rằng do Chú lấn át nên mới dẫn đến tình trạng này. Hoàng đế muốn cho Trần Châm làm tri Khâm châu. Hôm trước, Nam sảnh bàn việc dời Kinh lược ty từ Quế châu đến Ung châu, nhưng lo ngại Giao Chỉ sẽ phản ứng, nên đợi khi Giao Chỉ vào cống mới bàn việc dời Kinh lược ty. Hôm nay, lấy Tô Giám làm tri Ung châu, hoàng đế đồng ý. Xét việc Trần Châm nhận chức tri Khâm châu là ngày 20 tháng 10 năm thứ 3, có lẽ 《Nhật lục》 ghi nhầm thứ tự, cần xem xét lại.
[37] Phán Diên Châu Quách Quỳ tâu: “Đô tuần kiểm Diên Châu Tây lộ là Giả Dực cùng người vào cõi Tây, đánh giặc có công, nên thưởng.” Chiếu rằng: “Sứ thần bậc ưu được thăng một chức, giảm hai năm khảo hạch; sứ thần bậc nhất cùng phiên quan, Phó đô quân chủ, Điện thị, Đại tướng quân đều được thăng một bậc; bậc hai, bậc ba giảm năm khảo hạch tùy theo mức.”
[38] Viện Tường định biên sắc tâu: “Quan san định biên sắc năm Gia Hựu lấy hai năm làm một nhiệm kỳ, năm năm làm hai nhiệm kỳ. Xin từ nay các quan san định mỗi tháng tu sửa mười điều sắc lệnh gửi cho quan tường định. Nếu trong hai năm hoàn thành, không kể ngày tháng, đều tính là hai nhiệm kỳ. Nếu có chậm trễ, dù quá hai năm cũng chỉ tính một nhiệm.” Theo lời tâu. Việc này căn cứ vào sách 《Hội yếu》 ngày 19 tháng 10 năm thứ ba ghi chép thêm vào, ngày 17 tháng 5 năm thứ hai và ngày 22 tháng 7 năm thứ ba có thể tra cứu.
[39] Ngày Mậu Dần, vì mẹ Tể thần Trần Thăng Chi mất, ngừng triều. Chiếu cho mẹ Thăng Chi về chôn ở Nhuận Châu, sai một viên nội thần lo việc dọc đường, mọi chi phí tang lễ đều do quan cấp.
[40] Hàn Giáng tâu: “Gần đây có chiếu cho Ty chuyển vận Thiểm Tây xem xét các Thông phán, Tri huyện trong lộ, nếu chọn lọc kỹ, sẽ có nhiều người bị cách chức; chờ triều đình bổ nhiệm, không chỉ thiếu quan lâu ngày, mà còn lo người được điều động thường không đủ tài. Xin cho các Giám ty trong lộ chọn người tài từ những người đang chờ bổ nhiệm, thay thế, hoặc những người có thứ bậc thấp, cùng liên danh tâu cử, tạm cho quyền nhiếp chức, cấp bổng lộc như chính thức. Đến nhiệm làm việc tốt thì chính thức bổ nhiệm.” Theo lời tâu.
[41] Xu mật viện tâu, các lộ Tẩu mã thừa thụ, sứ thần, mùa xuân thu về kinh, chỉ đến Ty kinh lược an phủ lấy bản tường trình tình hình an ninh các thành trại để dâng lên. Chiếu cho Hà Đông, Thiểm Tây, phải tự đến các thành trại lấy báo cáo, đến nơi lưu lại một ngày, không được dự yến tiệc. Lập thành lệnh.
[42] Chiếu cho Thái Bình, Thường Châu về việc trà, diêm, rượu, thuế, phèn, thêm một viên kinh triều quan cùng giám sát. Theo lời thỉnh của Ty phát vận.
[43] Ngày Kỷ Mão, Lý Sư Trung, nguyên là Tri châu Tần Châu, Hữu ty Lang trung, Thiên Chương các Đãi chế, bị cách chức Thiên Chương các Đãi chế, giáng làm Độ chi Lang trung, nhậm chức Tri châu Thư Châu; Hướng Bảo, nguyên là Đô kiềm hạt lộ Tần Phượng, Hoàng thành sứ, Đái ngự khí giới, bị cách chức Đái ngự khí giới, giữ chức Kiềm hạt lộ Tần Phượng; Vương Thiều, Trứ tác tá lang, bị giáng làm Tiết độ suy quan quân Bảo Bình, vẫn giữ chức Đề cử bộ Tây lộ châu Tần và Ty thị dịch.
[44] Ban đầu, triều đình cử Vương Khắc Thần và Lý Nhược Ngu đi xem xét việc Lý Sư Trung và Vương Thiều bàn về lợi hại của chính sách thị dịch cùng số lượng ruộng đất bỏ hoang. Khắc Thần và Nhược Ngu tâu rằng kết quả khảo sát phù hợp với báo cáo của Sư Trung. Triều đình nghi ngờ điều này không đúng, bèn sai Trầm Khởi đi xem xét lại. Khởi tâu: “Vùng đất hoang mà Vương Thiều nói đến, không thấy có địa điểm cụ thể. Dù có thật, nhưng hiện tại chưa thể kiểm tra và cho người đến canh tác, vì sợ rằng các tộc người Tây Phiền thấy việc này sẽ cho rằng triều đình đang chiêu an thủ lĩnh, ban chức tước và bổng lộc, bắt họ dâng đất. Như vậy sẽ khiến lòng người hoang mang, gây hại lớn cho kế hoạch chiêu an. Xin tạm dừng việc bàn về khai khẩn ruộng đất, đợi khi các tộc Tây Phiền đã tin phục, lòng người thông thuận, rồi mới làm cũng chưa muộn.”
Lúc này, Thị ngự sử kiêm chức Lam sự Tạ Cảnh Ôn tâu: “Gần đây nghe nói Trầm Khởi khảo sát đất đai của các xạ thủ ở thành Cam Cốc có nhiều hơn, xin đợi khi biên sự tạm yên sẽ tiến hành đo đạc. Theo báo cáo ban đầu của Vương Thiều, từ thành Vị Nguyên đến huyện Thành Kỷ dọc sông có vạn khoảnh ruộng tốt bỏ hoang, xin chọn ngàn khoảnh đất màu mỡ, mỗi năm thu ba mươi vạn hộc lương để giúp biên trữ. Nay thành Cam Cốc cách xa sông Vị, không phải là nơi mà Vương Thiều từng chỉ. Việc này chỉ là lấy cớ để tránh tội khi dối ngày trước. Trước đây, Khắc Thần và Nhược Ngu từng tâu rằng không có ruộng đất bỏ hoang, Đậu Thuấn Khanh cũng nói chỉ đo được một khoảnh bốn mươi ba mẫu, khác với báo cáo của Khởi. Khởi cũng vì tình cảm với Thiều, lấy ruộng đất khác làm lý do, phụ họa dưới, lừa dối trên. Xin đem nguyên trạng của Thiều, cử một quan viên đi khảo sát lại, nếu có gian dối thì xử phạt nặng.”
Ngự sử Tiết Xương Triều cũng tâu: “Vương Thiều dâng kế hoang đường, cầu công sinh sự. Nay Khởi khảo sát, kết quả khác nhiều so với Khắc Thần. Khởi lại lấy đất thành Cam Cốc[12] để phụ họa lời Thiều, xin đem các văn bản trước sau của Sư Trung[13] cùng các báo cáo khảo sát của Khắc Thần, Khởi giao cho hữu ty xét xử, trị tội từng người.”
Lúc này, Trung thư cho rằng Khởi chưa từng chỉ đất thành Cam Cốc để tính vào số đất mà Thiều nói, còn Sư Trung và Đậu trước đây ở Tần châu[14], trì hoãn chỉ dụ triều đình, báo cáo mâu thuẫn. Đậu và Thiều tranh luận qua lại, mỗi người đều có đúng sai, Thiều vì chỉ sai ruộng hoang nên bị trách phạt. Sau đó, Hàn Chẩn làm Tri Tần châu, đi khảo sát, tâu rằng thực có hơn bốn ngàn khoảnh đất trống chưa cấp cho xạ thủ ở trại Cổ Vị, bèn khôi phục chức cho Thiều như cũ. Việc khôi phục chức vào ngày 23 tháng 6 năm thứ 4, sự việc đầu đuôi xem ở đó. 《Cựu kỷ》 chép: Tri Tần châu Lý Sư Trung báo cáo mâu thuẫn, hại công của Vương Thiều, bị cách chức Thiên Chương các Đãi chế, giáng làm Độ chi Lang trung, Tri Thư châu. 《Tân kỷ》 bỏ đi, việc bỏ đi là không đúng.
[45] Công bộ Lang trung, Trực sử quán Lý Thọ Bằng, Thái thường Bác sĩ, Tập hiền Hiệu lý, Đồng tri Gián viện Tôn Chu, đều kiêm chức Trực xá nhân viện. Tập hiền Hiệu lý Đặng Oản làm Đồng tri Gián viện.
[46] Chiếu cho Hàn lâm Học sĩ, Hộ bộ Thị lang kiêm Thị độc, Tập hiền điện Tu soạn Phạm Trấn bãi chức Hàn lâm Học sĩ, giữ nguyên chức Hộ bộ Thị lang về hưu.
[47] Trước đó, Trấn dâng tâu xin về hưu rằng: “Thần gần đây tiến cử Tô Thức làm Gián quan, bị Ngự sử hặc tấu; lại tiến cử Khổng Văn Trọng ứng thi Chế khoa, bị hạ lệnh cho Lưu nội tuyển, bảo về lại chức cũ. Vì việc của thần mà trên làm tổn thánh đức, dưới làm liên lụy hiền tài, thần không còn mặt mũi nào đứng trong hàng ngũ triều đình, mong được cho thần về hưu, và không thăng chức, để chuộc tội vu khống Tô Thức buôn muối, cùng lỗi đối sách thẳng thắn của Văn Trọng.” Không được trả lời.
[48] Lại tâu: “Tô Thức năm Trị Bình, cha mất ở kinh sư, Tiên đế ban cho trăm tấm lụa, trăm lạng bạc, từ chối không nhận, mà xin truy tặng cha chức quan. Tiên đế khen ngợi ý ấy, truy tặng cha ông làm Quang lộc Tự thừa, lại ra lệnh các lộ cung cấp người và thuyền. Lúc ấy, Hàn Kỳ cũng tặng ba trăm lạng bạc, Âu Dương Tu tặng hai trăm lạng, đều từ chối không nhận. Phong tiết của Tô Thức, cũng có thể thấy rõ. Nay có người nói rằng ông sai nhiều người thuyền buôn muối lậu, đó là vu khống. Tô Thức có học vấn uyên thâm, văn chương nổi tiếng đương thời, lại dám nói thẳng những điều được mất của triều đình, nên thần tiến cử làm Gián quan. Nay lại vì Tô Thức mà bị liên lụy, thần đâu dám im lặng không nói một lời! Lại nữa, đối sách của Văn Trọng, trong ngoài đều khen là thẳng thắn, dù có quá đáng, cũng do ông là tiểu quan xa cách, không biết kiêng kỵ. Lại dùng lời thẳng mà cầu, lại dùng lời thẳng mà trị tội, đó là bẫy người trung trực trong thiên hạ vào tội lỗi, há chẳng làm tổn thánh minh sao? Bệ hạ thông minh duệ trí, muốn làm những việc của Nghiêu, Thuấn, Thang, Văn, mà lại ngăn trở lời can gián, ghét lời thẳng, thần lấy làm tiếc. Xin minh xét Tô Thức không có tội, tha thứ cho lời thẳng của Văn Trọng, cho thần về hưu.”
[49] Cuối cùng, ông dâng tấu rằng: “Thần xin được nghỉ hưu, đã bốn lần dâng sớ, trải qua nhiều ngày, vẫn chưa được nghe tin phúc đáp. Vì lòng thần, có hai điều khiến thần phải rời đi: Thần nói về chính sách Thanh Miêu mà không được nghe theo, đó là điều thứ nhất; tiến cử Tô Thức, Khổng Văn Trọng mà không được dùng, đó là điều thứ hai. Mang hai điều đáng phải rời đi, lại thêm bệnh tật nhiều, sớm suy yếu, há có thể tiếp tục được sao! Nay có người nói, dâng lời trung với dâng lời nịnh, điều nào đúng? Tất nhiên là dâng lời trung đúng. Nghe lời can gián với cự tuyệt lời can gián, điều nào đúng? Tất nhiên là nghe lời can gián đúng. Tô Thức, Khổng Văn Trọng có thể gọi là dâng lời trung rồi, mà bệ hạ cự tuyệt không nghe theo, ắt là có kẻ dâng lời nịnh để làm lầm bệ hạ, không thể không xem xét.
Như Lý Định trốn tránh việc để tang, không nhận mẹ mình, đó là phá hoại luân thường, nghịch lại đạo trời, mà lại muốn cho làm Ngự sử, Ngự sử đài vì thế mà bãi chức Trần Tiến, Xá nhân viện bãi chức Tống Mẫn Cầu, Lý Đại Lâm[15], Tô Tụng, Gián viện bãi chức Hồ Tông Dũ. Vương Thiều dâng thư lừa dối, gây chuyện biên giới, thất bại thì bỏ qua không hỏi, ngược lại còn trị tội tướng quân Lý Sư Trung. Còn Ngự sử chỉ cần nói một lời về Tô Thức, liền sai bảy lộ truy xét lỗi lầm của ông. Khổng Văn Trọng thì bị đuổi về nhiệm sở. Lấy hai người này so với hai người kia, lấy việc này so với việc kia, điều nào đúng, điều nào sai, điều nào được, điều nào mất, bệ hạ là bậc minh chủ, há có thể tránh khỏi sự soi xét của thánh nhân sao? Xin bệ hạ hãy suy nghĩ kỹ và tính toán cẩn thận. Triều đình dựa vào thưởng phạt, mà thưởng phạt như thế, thì thiên hạ sẽ ra sao! Tông miếu xã tắc sẽ ra sao!
Còn nói về Thanh Miêu, thì bảo rằng có hiệu quả, há chẳng phải là mỗi năm thu được mấy chục trăm vạn tiền sao? Mấy chục trăm vạn tiền ấy, không phải từ trời mà ra, không phải từ đất mà ra, không phải từ nhà người đề xuất mà ra, mà là từ dân mà ra. Dân như cá, tài như nước, nước sâu thì cá sống, tài đủ thì dân có sinh kế. Nuôi dân mà cạn kiệt tài sản của họ, ví như nuôi cá mà muốn cạn kiệt nước vậy. Nay các quan chỉ biết phân phát nhiều Thanh Miêu, thúc ép thu hồi, thì có kẻ từ Tri huyện được thăng lên làm Chuyển vận phán quan, Đề điểm hình ngục, những kẻ ham tiến thân may mắn, há còn nghĩ đến bách tính của bệ hạ sao? Bệ hạ có tấm lòng nghe lời can gián, mà đại thần lại dùng kế cự tuyệt; bệ hạ có tính yêu dân, mà đại thần lại dùng thuật hại dân. Thần giữ chức hiến thế, mà không nói một lời, thì phụ bệ hạ nhiều lắm! Thần biết lời nói sẽ chạm đến lòng giận của đại thần, tội sẽ khó lường. Nhưng thần từng lấy lòng trung thờ Nhân Tổ, Nhân Tổ không giết thần, chỉ nghe lời giải chức mà thôi; lấy lễ thờ Anh Tông, Anh Tông không trị tội thần, chỉ sai bổ nhiệm ở quận gần kinh mà thôi. Nếu không lấy tấm lòng thờ Nhân Tổ, Anh Tông mà thờ bệ hạ, thì thần tự bỏ mình ở đời này vậy. Thần viết tờ tấu này, nhiều lần muốn dâng lên rồi lại thôi, sau tự nghĩ rằng: Từ nay về sau, về quê ẩn dật, dù có lời trung, kế hay cũng không thể đến tai triều đình nữa! Xin bệ hạ xét xá, sớm cho thần được nghỉ hưu.”
[50] Vương An Thạch thấy thế, nổi giận, cầm tờ tâu mà tay run lên. Phùng Kinh nói với An Thạch: “Sao phải làm thế?” An Thạch sai Thái Diên Khánh ở Viện Xá nhân soạn chiếu, nhưng không vừa ý, lại sai Vương Ích Nhu soạn, rồi An Thạch tự sửa chữa lời văn rằng: “Trấn trước đây ở Ngự sử đài, vì kết bè đảng mà bị công kích; sau này ở Hàn lâm viện, vì nịnh hót mà bị đuổi. Nhưng vẫn thường mượn danh nghị luận công khai để che đậy tội ác gian tà. Thậm chí còn vu cáo Tiên đế để che đậy tội phụ hạ võng thượng; dẫn dụ tiểu nhân, quen thói phá hoại phong tục. Xét theo pháp luật, đáng bị đày đi xa; nhưng khoan hồng cho về quê, tạm thể hiện sự khoan dung.” Tất cả các ân điển đáng được hưởng đều không ban cho. Người nghe đều lo sợ cho Trấn, Trấn dâng biểu tạ ơn, đại lược nói: “Dù xin từ quan về quê, nhưng đâu dám quên lòng lo nước!” Lại nói: “Mong bệ hạ tập hợp ý kiến của quần thần làm tai mắt, để trừ bỏ kẻ gian tắc nghẽn; dùng lão thần làm tâm phúc, để nuôi dưỡng phúc lành hòa bình.” Thiên hạ nghe đều khen ngợi. Dù An Thạch công kích dữ dội, người ta càng cho là vinh dự. Tư Mã Quang soạn sẵn truyện về Trấn rằng: “Sự tiên kiến của Lữ Hiến Khả, sự dũng cảm quyết đoán của Phạm Cảnh Nhân, đều là điều ta không theo kịp.” 《Cựu kỷ》 chép Phạm Trấn vì tội phụ hạ võng thượng, dẫn dụ tiểu nhân, bị cách chức Hàn lâm học sĩ về hưu. 《Tân kỷ》 bỏ đi, việc bỏ đi là không đúng.
[51] Chiếu rằng các chức Dao quận Thứ sử, Đoàn luyện Phòng ngự sứ thuộc ba bậc thăng chuyển, đều xét theo lệ khảo xét 10 năm, còn lại như chế độ cũ. Do Đồng tri Thẩm quan Tây viện Lý Thọ Bằng tâu rằng: “Hiện quản lý hơn 30 viên Hoàng thành sứ, phần nhiều giữ chức Dao quận, mà vẫn cho khảo xét, theo lệ đổi tên Dao quận Thứ sử, Đoàn luyện Phòng ngự sứ, mỗi lần thăng một chức, tăng bổng lộc 50 ngàn tiền, lại tăng thêm lộc thóc cấp phát, thật là ưu đãi quá mức. Nếu lệnh không cho khảo xét nữa, lại vì ở dưới các chức Hậu hành Lang trung, phẩm trật quá thấp. Thần ngu muốn xin ở trên chức Hoàng thành sứ đặt thêm hai bậc sứ, ngang với các chức Trung hành, Tiền hành Lang trung, tăng thêm bổng lộc, xếp thứ tự dưới chức Chiêu tuyên sứ, đứng đối diện ở phía trước Đông Tây ban. Khi gặp khảo xét, không phân biệt sứ thần trong ngoài, đều cho thăng chuyển theo thứ tự, nếu thăng hết thì cho đặt tên sứ, tức theo lệ văn thần đến chức Tiền hành Lang trung thì dừng, còn các chức Dao quận Thứ sử, vẫn hạn chế số lượng, so sánh loại với các chức Thiếu khanh, Giám để thăng chuyển. Các chức Dao quận Đoàn luyện, Phòng ngự sứ, không cho thăng chuyển theo thứ tự nữa, đều theo lệnh triều đình ban thưởng công trạng không theo thứ tự”, nên có chiếu này.
[52] Ngày Canh Thìn, Cúc Kinh, Huyện úy huyện Tín Phong, được bổ làm Đại Lý bình sự, để thưởng công bắt giặc.
[53] Tri Khánh Châu Vương Quảng Uyên tâu: “Phèn muối ở Hà Đông là nguồn lợi lớn nhất. Xin lập riêng pháp lệnh về phèn ở Hà Đông, Kinh Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây, đặt quan đề cử. Bãi bỏ chức sứ thần tuần tróc, giao cho tuần kiểm, huyện úy thu bắt, cử một viên triều thần đi lại đề cử.” Chiếu cho Quang lộc tự thừa Dương Bàn đi ngựa trạm cùng các lộ chuyển vận sứ xem xét lợi hại rồi tâu lên. Sau đó, Dương Bàn tâu: “Ở huyện Nghi Quân, châu Phường, xã Bình Đài, vốn có sản xuất phèn. Quan ty trước đây từng lập trường thu mua, nhưng vì phèn tư của dân nhiều, thương nhân không muốn đến quan xin tính toán. Nay muốn chiêu mộ các hộ nấu phèn, cho họ ước lượng số lượng quan dùng, hạn định số hộ thu mua. Còn thương nhân xin tính toán, cho phép họ buôn bán ở các châu quân Thiểm Tây, phía bắc đến Hoàng Hà, phía đông đến Đồng Quan, cùng các châu Quân, Phòng, Tương, Đặng, Kim và quân Quang Hóa ở Kinh Tây làm giới hạn. Lấy các hộ nấu phèn lập thành bảo giáp, giám sát lẫn nhau, tố cáo bắt giữ, không được buôn bán riêng và vượt giới hạn; nếu vi phạm, đều xử theo điều lệ phèn trắng tư, xử phạt và thưởng. Xin cho chuyển vận ty cử một viên quan giám đương, nếu quan ty dám lấy phèn tư bắt được, giả mạo là phèn giỏ, cố ý giảm cân nặng, thì xử theo tội cố ý làm sai lệch án.” Đều theo lời tâu. 《Bản chí》 cũng chép như vậy.
[54] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu cho tiến sĩ Thường Lập ở Dĩnh Châu đến Viện Xá Nhân dự thi. Do Thị ngự sử tri lam sự Tạ Cảnh Ôn tâu rằng Lập có đạo đức trong sạch, trước đây được cử đi nhưng vì bệnh không kịp dự thi, nên có chiếu này. Lập là con của Thường Trật.
[55] Xu mật viện tâu: “Các tướng sĩ có công ở các lộ, phần nhiều không theo đúng quy định ban thưởng trước đây, xin sớm định đoạt tâu lên, sợ chậm trễ sinh ra sự may rủi.” Chiếu cho Tuyên phủ ty Thiểm Tây chỉ huy các lộ kinh lược ty, đều thi hành theo quy định ban thưởng khi hành quân.
[56] Ngày Giáp Thân, triều đình ra chiếu chỉ cho Lý Thọ Bằng, Lang trung Công bộ, Trực Xá nhân viện, kéo dài thời gian khảo sát thêm hai năm. Ông bị xử tội vì trước đây khi làm Tri châu Thương Châu đã ra lệnh cho các huyện giữ lại tiền thưởng từ việc xử phạt tội phạm, bắt dân đóng góp lúa mì và gạo nếp vào quỹ công, buôn bán kiếm lời, mua sắm đồ đạc, lại cùng với Thông phán Lưu Thúc Bảo tố cáo lẫn nhau. Thọ Bằng còn dám dâng thư lên Trung thư, tự cho rằng mình không đáng bị tội. Dù đã được ân xá, nhưng việc buôn bán và sử dụng quỹ công không được miễn tội, nên mới có hình phạt này.
[57] Ngày Ất Dậu, Ty Chuyển vận Kinh Tây[16] tâu rằng: “Dân các châu huyện trước đây được bổ sung làm hương cung thủ, nhưng không có thời hạn bắt trộm cướp, chỉ tập trung tại ty Huyện úy mỗi năm một tháng rồi giải tán. Khí giới cá nhân được cấp phát đều nộp lại vào kho quan, nhưng họ vẫn được miễn toàn bộ thuế má và lao dịch, điều này thật sự là sự may mắn quá đáng.” Triều đình ra chiếu chỉ bãi bỏ việc bổ sung cung thủ ở các lộ Kinh Đông Tây, Hoài Nam, Lưỡng Chiết, Giang Nam, Kinh Hồ, Phúc Kiến. Việc bổ sung cung thủ cần xem xét lại từ đầu. Ngày 8 tháng 6 năm thứ hai, Phú Bật và Tăng Công Lượng không chịu bãi bỏ ngay. Tham khảo thêm.
[58] Châu Vị tâu: “Trước đây bãi bỏ việc bắt dân đóng góp tiền thay lao dịch, chỉ yêu cầu mỗi người nộp 3.000 đồng. Nay căn cứ vào tình hình các huyện Bình Lương, dân bảo nghị đã được bổ sung từ lâu, phần lớn không phải là đinh chính của hộ, lại đều nghèo khó, xin miễn nộp tiền và cho họ tiếp tục tham gia các công việc tu sửa thành trì như trước.” Triều đình ra chiếu chỉ giảm mỗi người 1.000 đồng.
[59] Ban đầu, vào năm Hàm Bình thứ 5, Lý Kế Thiên làm phản, quân đội phương Tây được huy động, triều đình cử Thị ngự sử Ngô Thiến cùng với Thiểm Tây chuyển vận sứ đi kiểm tra số thanh niên trai tráng ở vùng biên giới, thu được 68.700 người, đặt tên là “Bảo Nghị quân”, cấp lương thực, cùng các quân khác chia nhau canh giữ. Tên gọi “Bảo Nghị” bắt đầu từ đây. Đến giữa niên hiệu Trị Bình, triều đình thiết lập Nghĩa Dũng quân ở Thiểm Tây, bèn lệnh cho Bảo Nghị quân ở Hoàn Khánh lộ chuyển thành Nghĩa Dũng quân; ở Phu Diên lộ, một số trở thành Nghĩa Dũng quân, số còn lại vẫn giữ nguyên; còn ở Tần Phượng lộ và Kinh Nguyên lộ, số người đăng ký làm Bảo Nghị quân vẫn còn hơn 5.000 người. Đến năm Hi Ninh thứ 2, Tiết Hướng và các quan tâu rằng: “Bảo Nghị quân ở hai lộ này đều bị phân công thu thuế dựa trên diện tích đất, lâu ngày chỉ còn tên gọi thuế. Ban đầu không có đinh chính, đều là các hộ dân tạm thời góp tiền theo diện tích đất, thuê người đi làm dịch vụ. Mỗi khi mua bán đất đai, liền ghi rõ số thuế Bảo Nghị phải nộp, theo hợp đồng chuyển giao. Xin miễn toàn bộ nghĩa vụ Bảo Nghị, chỉ yêu cầu nộp tiền, để dùng vào việc tu sửa thành trì và chi phí hành quân.” Triều đình đồng ý. Đến lúc này, vì số tiền phải nộp quá lớn, dân chúng không thấy thuận tiện, nên lại lệnh giảm bớt số tiền. 《Binh chí》 quyển 3 chép: Bảo Nghị quân ở Thiểm Tây, năm Hi Ninh thứ 4, có chiếu bãi bỏ quân này. Nay phụ chép vào đây.
[60] Chiếu: Các chức Nội thị đô tri, Áp ban trong Nội thị tỉnh khi mãn nhiệm kỳ được thăng chức, từ nay giao cho Xu mật viện thi hành.
[61] Chiếu: “Thuế trà muối ở Tín châu, tháp Tăng Già ở Tứ châu, cảng Sài Khư ở Thái châu[17], thuế rượu ở Mục châu, ty dệt lụa ở Giang Ninh phủ, thuế suối nước nóng ở Thấp châu, trước đây đều do nội thị giám sát, từ nay đều giao cho Tam ban cử người phụ trách.” Hoàng đế nói với các quan phụ chính rằng, các trường vụ thu thuế không muốn để các hoạn quan trẻ tuổi tham gia vào.
[62] Ngày Bính Tuất, Trứ tác tá lang, Quán các hiệu khám Vương Tồn, Đại Lý tự thừa, Quán các hiệu khám Cố Lâm, Trứ tác tá lang Tiền Trưởng Khanh, Đại Lý tự thừa Lưu Phụng Thế, cùng biên tu sách 《Kinh Vũ Yếu Lược》 kiêm san định các sách lệ của các phòng, vẫn lệnh Đô, Phó thừa chỉ đề cử biên định. Vua nói: “Tồn và những người khác đều là chức quán, không muốn cho họ đề cử, có thể đổi thành quản câu.” 《Thông Lược》 chép: Tồn, người Đan Dương. Lâm, người Hội Kê. Phụng Thế, con của Xưởng.
[63] Ty Tuyên phủ Thiểm Tây tâu: “Trưởng hành Chấn Vũ châu Bân là Dương Nguyên đánh nhau với giặc Tây, bị trọng thương, sợ rằng sẽ thành phế nhân. Đã lệnh cho châu Bân cấp nửa phần lương để cấp dưỡng suốt đời.” Chiếu rằng từ nay các quân nhân vì đánh nhau với giặc mà bị trọng thương dẫn đến tàn tật, phế tật, đều cấp tiểu phần, được hưởng lương suốt đời, ai muốn xin nghỉ việc thì cho phép.
[64] Chiếu rằng các lộ hiện thiếu chức Binh mã đô giám, nếu chưa có người đủ tiêu chuẩn nhậm chức, thì tạm chọn một viên Châu trú bạc đô giám để quản câu việc Đô giám của lộ đó.
- Chữ 'Diên' nguyên bản viết là 'Đình', theo các bản khác và văn cảnh sửa lại ↵
- 'Như giá cao' trong 《Tống hội yếu》 binh 22-7 chép là 'kì giá cao mã tiểu'. ↵
- Kiểm chính trung thư khổng mục phòng công sự, chữ 'Kiểm' nguyên là 'Kiêm', theo bản trong các kho sách mà sửa ↵
- Tần Bột, các bản và 《Tống sử》 quyển 486 《Hạ quốc truyền》, 《Tây Hạ thư sự》 quyển 22, 《Tục tư trị thông giám》 quyển 68 đều chép là 'Tần Bột'. ↵
- nhân từ yêu thương dân chúng, chữ 'dân' nguyên bản là 'Minh', theo bản khác sửa lại ↵
- Theo văn nghĩa, chữ 'quân' có lẽ nên là 'sự'. ↵
- Chữ 'trị' nguyên là 'pháp', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Chữ 'Phu' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 2-4 bổ sung. ↵
- 'trừng phạt' nguyên bản là 'Trắc', căn cứ vào 《Trị tích thống loại》 quyển 15, Hàn Giáng tuyên phủ Thiểm Tây sửa lại. ↵
- Chữ 'tự' nguyên là 'vũ', căn cứ theo các bản khác sửa lại. ↵
- Trần Châm đổi làm Tây các phó sứ, tri Bân châu, 'Bân châu' căn cứ theo chính văn và các đoạn trước sau, nghi ngờ nên là 'Khâm châu'. Thời điểm Trần Châm nhận chức tri Khâm châu, chính văn ghi là ngày 19 tháng 10 (Bính Tý), 《Tư Mã Quang nhật ký》 ghi là ngày 21, chú thích ghi là ngày 20, chưa rõ bên nào đúng. ↵
- 'Đất' nguyên bản là 'Ao', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 2-3, 《Tống sử》 quyển 176 Thực hóa chí sửa. ↵
- 《Tống hội yếu》 Thực hóa 2-3 có chữ 'Thiều' trước 'Sư Trung', có lẽ bị thiếu. ↵
- 'Tần châu' nguyên bản là 'Tần Xuyên', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 2-3 sửa. ↵
- Lý Đại Lâm, chữ 'Đại' nguyên bản viết là 'Thái', theo các bản khác và 《Biên niên cương mục》 quyển 18, 《Tống sử》 quyển 331 truyện Lý Đại Lâm sửa lại. ↵
- Nguyên bản viết 'Tây Kinh', căn cứ vào các bản khác và văn bản dưới đây sửa lại. ↵
- Chữ 'Thái' trong 'Thái châu' nguyên bản viết là 'Tần', căn cứ theo 《Cửu vực chí》 quyển 5 sửa lại. ↵