VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 218: NĂM HI NINH THỨ 3 (CANH TUẤT, 1070)
Bắt đầu từ tháng 12 năm Hi Ninh thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 12, ngày Đinh Tị (mùng một), Quản câu Lưỡng Chiết lộ thường bình đẳng sự, Trứ tác tá lang Vương Thuần, lệnh cho Thẩm quan đông viện điều chuyển đến chỗ hợp với chức vụ, lấy Điện trung thừa, Thẩm quan tây viện chủ bạ Trương Tịnh thay thế. Vì Thuần tại chức không thi hành pháp luật mới. Ngày 28 tháng 6, Trương Tịnh và Triệu Tử Vân đều làm chủ bạ, theo lời tiến cử của Hàn Chẩn. Ngày 18 tháng 4 năm thứ 4 (Quý Dậu), Thuần cùng Lâm Anh, Trương Tuân đều bị cách chức. Nên chuyển việc này ghi kèm vào đó. 《Hội yếu》 chép: Vì Anh tại chức không thi hành pháp luật mới. Hơi khác so với 《Thực lục》.
[2] Chiếu cho toàn đạo Sâm, Đàm, Hoành, Thiệu, Vĩnh châu và Quế Dương giám, những huyện có người Man, Dao ở vùng khê động, chủ bạ, uý, cùng các quan coi mỏ bạc, đồng, chì, thiếc ở các châu, lệnh cho Chuyển vận ty theo phép của 7 lộ Xuyên, Quảng mà bổ nhiệm.
[3] Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho Tam ty mỗi năm cấp 5.000 quan tiền công dụng cho cung Bộc vương. Trước đó, chiếu cho các anh em trong cung Bộc vương khấu trừ một phần bổng lộc để phụng cúng tế lễ 4 tháng Trọng cho Bộc vương. Đến đây, Tông Phác tâu rằng chế độ gần đây không cho khấu trừ bổng lộc của tông thất, nên lấy tiền công để cấp.
[4] Chiếu cho Tuyên phủ sứ Hàn Giáng không cần thân chinh đến Hà Đông, chỉ trao đổi văn thư qua lại[1]. Những việc không phải là chiêu phủ bộ tộc, khai thác đất đai, điều động binh mã, thu nạp tiền lương, thì không được can dự.
[5] Vua phê: “Việc biên cương đang dấy lên, các châu Lam, Thạch, Thấp, Lân, Phủ ở Hà Đông là những nơi quan trọng nhất để ứng cứu khẩn cấp cho Thiểm Tây, những năm gần đây quân mã đóng trống rỗng, nghe nói lương thảo thiếu thốn nhiều. Hãy lệnh cho Tam ty xuất 32 vạn quan tiền hoặc lụa vải để cùng với Ty chuyển vận mua lương thực.” Bèn hạ lệnh cho năm châu Lân, Phủ, Phong, Thạch, Thấp chiêu mộ người vào nộp lương. Vua phê: “Phía bắc châu Phong, xa xôi hẻo lánh, thành nhỏ không thể tập trung nhiều quân mã, khi cấp bách di chuyển lương thảo đến các thành trì, đường đi cũng hiểm trở, ắt phải tự ít người vào nộp lương, có thể lệnh thêm cho khách hộ ở Định Viễn và trại Phục Lạc Tân lo liệu.”
[6] Ngày Kỷ Mùi, triều đình ban bố pháp lệnh về việc thay đổi quân đồn trú ở phủ Khai Phong và các lộ. Quân đồn trú ở phủ Khai Phong vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Hà Bắc, Kinh Đông Tây, Hoài Nam đến để canh giữ. Quân đồn trú ở Kinh Đông lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ phủ Khai Phong và Kinh Tây đến. Quân đồn trú ở Kinh Tây lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ phủ Khai Phong, Hoài Nam, Hà Bắc, Kinh Đông đến. Quân đồn trú ở Hà Bắc lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Tây và phủ Khai Phong, Hoài Nam, Hà Bắc đến[2].
Quân đồn trú ở Hà Đông lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Đông đến. Quân đồn trú ở Thiểm Tây lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Hà Đông, phủ Khai Phong đến. Tất cả những quân lính lẻ tẻ đồn trú này đều được điều trở về nguyên quán. Quân đồn trú ở phủ Khai Phong và Kinh Đông Tây sẽ được thay thế bằng quân lính được điều từ các lộ khác về để nhận lương. Trong đó, quân ở Kinh Đông vẫn chia phiên, giống như quân Vũ Vệ thuộc bốn lộ Hà Bắc đồn trú; quân ở Kinh Tây vẫn chia phiên, với các châu quân gần phía tây đi Thiểm Tây, gần phía nam đi Hồ Bắc và Quỳ Châu lộ đồn trú. Những quân lính hết phiên sẽ trở về canh giữ tại lộ của mình.
Quân đồn trú ở Hà Bắc lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Tây và phủ Khai Phong, Hoài Nam, Hà Bắc đến[3]. Quân đồn trú ở Hà Đông lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Đông đến. Quân đồn trú ở Thiểm Tây lộ vốn là những binh sĩ lẻ tẻ được điều từ Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Hà Đông, phủ Khai Phong đến. Tất cả những quân lính lẻ tẻ đồn trú này đều được điều trở về nguyên quán. Quân đồn trú ở phủ Khai Phong và Kinh Đông Tây sẽ được thay thế bằng quân lính được điều từ các lộ khác về để nhận lương. Trong đó, quân ở Kinh Đông vẫn chia phiên, giống như quân Vũ Vệ thuộc bốn lộ Hà Bắc đồn trú; quân ở Kinh Tây vẫn chia phiên, với các châu quân gần phía tây đi Thiểm Tây, gần phía nam đi Hồ Bắc và Quỳ Châu lộ đồn trú. Những quân lính hết phiên sẽ trở về canh giữ tại lộ của mình. Quân đồn trú ở Hà Bắc sẽ được thay thế bằng toàn bộ quân lính thượng phiên từ Kinh Đông, quân đồn trú ở Hà Đông sẽ được thay thế bằng quân lính được điều từ Thiểm Tây về để nhận lương, quân đồn trú ở Thiểm Tây sẽ được thay thế bằng toàn bộ quân lính thượng phiên từ Kinh Tây. Quân đồn trú ở Hà Đông sẽ được ấn định số lượng quân lính được điều từ Hà Bắc Tây lộ, và sẽ thay phiên nhau điều động đến Hà Bắc Trung lộ và Đại Danh phủ lộ. Các châu quân ở ba lộ Hà Bắc được điều động những quân lính này sẽ được thay thế bằng quân lính thượng phiên từ Kinh Đông. Quân lính lẻ tẻ từ các lộ đang đồn trú ở Ích, Tử, Lợi, Quỳ lộ sẽ được điều trở về sau khi hết hạn, từ nay về sau sẽ không điều động nữa. Quân đồn trú ở Ích, Lợi, Tử lộ chỉ được điều động từ kinh đô và phủ Khai Phong, quân đồn trú ở Quỳ Châu lộ chỉ được điều động từ Hồ Bắc và Kinh Tây. Nếu Hồ Bắc thiếu quân, sẽ được bổ sung bằng quân đồn trú từ Kinh Tây. Tất cả các lộ trực thuộc trên đây sẽ không cần phải nhận chiếu chỉ mỗi lần điều động.
Trước đó, Vua phê rằng: “Quân đồn trú ở các lộ phần lớn là lẻ tẻ, không thành đội ngũ, dẫn đến không chỉnh tề, vi phạm kỷ luật. Việc thay đổi điều động liên tục khiến quân lính phải đi lại trên đường xa, chịu nắng mưa, gây bất tiện cho cả công và tư.” Vì vậy mới ban bố pháp lệnh này. Pháp lệnh thay đổi quân đồn trú, bản mực quá đơn giản, nay theo bản chu. 《Lữ Công Bật truyền》 chép: Công Bật đề nghị thay đổi quân lính tập luyện ở Đông Nam để đồn trú ở hai Quảng, giảm bớt quân phía Bắc vượt núi. Cần xem xét. Tuy nhiên, Công Bật đã bị cách chức Xu mật sứ vào tháng 7 ngày Nhâm Thìn. 《Tân kỷ》 chép: Ban chiếu lập pháp lệnh thay đổi quân đồn trú ở các lộ, những quân lính từ các lộ khác đang đồn trú sẽ được trả về. 《Cựu kỷ》 chép: Ban chiếu rằng: “Quân đồn trú lẻ tẻ, không thành đội ngũ, vi phạm kỷ luật, đi lại trên đường xa, gây bất tiện cho cả công và tư.” Lập pháp lệnh thay đổi quân đồn trú. 《Binh chí》 quyển 5 chép: Năm thứ 3, ban chiếu rằng: “Quân đồn trú ở các lộ lẻ tẻ, không thành đội ngũ, dẫn đến vi phạm kỷ luật. Hoặc thay đổi điều động quân lính giữa các quận, đi lại trên đường xa gian khổ[4], nên bãi bỏ hết. Thay bằng toàn bộ quân lính thượng phiên hoặc quân lính nhận lương để đồn trú, những người được điều động đều thuộc Tổng quản ty, làm theo chiếu lệnh.”
[7] Chiếu cho các cửa cung điện, từ nay về sau, khi gặp ngày thiết triều ở điện Sùng Chính, các đô thừa chỉ của Xu mật viện được phép tâu việc sau khi các ban đã vào chầu.
[8] Ngày Canh Thân, phong con gái thứ hai của hoàng đế làm Bảo Khánh Công chúa.
[9] Thị ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu rằng: “Tri thanh châu Trịnh Giải đang bệnh nặng, xin chọn người khác thay thế.” Chiếu cho Tri Hàng Châu, Tư chính điện học sĩ Triệu Biện làm Tri thanh châu, và lệnh cho Kinh Đông chuyển vận ty điều tra tình trạng bệnh của Trịnh Giải để tâu lên. Khi Triệu Biện đến Thanh Châu, lúc đó Kinh Đông đang bị hạn hán và nạn châu chấu, châu chấu sắp bay vào địa phận thì gặp gió, bay ngược lại rơi xuống nước và chết hết, Thanh Châu không bị hại.
(Việc Thanh Châu không bị hại, theo bản truyện. Còn việc điều tra bệnh tình của Trịnh Giải cuối cùng thế nào thì không rõ.)
[10] Khai Phong phủ phán quan, Từ bộ lang trung Triệu Chiêm được bổ làm Tri Đặng Châu. Triệu Chiêm nhân dịp đi sứ được tâu việc, Vua hỏi: “Khanh làm giám ty đã lâu, hẳn biết phép Thanh Miêu có tiện lợi không?” Chiêm đáp: “Phép Thanh Miêu, nhà Đường thi hành vào thời mạt vận, trong cảnh loạn lạc, bóc lột dân chúng thì quả là tiện. Nay bệ hạ muốn tính kế lâu dài, thương dân thì quả là không tiện.” Vương An Thạch ngầm sai đồng đảng là Du Sung dụ dỗ Chiêm rằng: “Sẽ cho làm Tri tạp ngự sử.” Chiêm không nghe, do đó không được ở lại kinh sư.
(Lúc đó Triệu Chiêm đi sứ chưa về. Việc Chiêm được bổ làm Tri Đặng Châu, mộ chí và bản truyện đều không chép, chỉ chép việc Chiêm không được ở lại kinh sư, ra làm Thiểm Tây chuyển vận phó sứ. Lúc đó, Chiêm đang đi sứ phương bắc, đoán là sắp về, nên có lệnh bổ nhiệm này. Khi Chiêm đi sứ về, cũng không đến Đặng Châu nhậm chức, vẫn giữ chức Khai Phong phán quan, rồi được bổ làm Thiểm Tây chuyển vận phó sứ vào ngày 14 tháng 3 năm sau.)
[11] Cung phụng quan[5] Điền Thiệu Địch tâu rằng khi áp tải giáp trụ đến Hà Trung phủ và Vĩnh Hưng quân, xin tăng thêm sứ thần. Vua phê: “Các trạm dịch ở Thiểm Tây đang chuyên chở bạc, đồng, lụa và cung nỏ, sao có thể tăng thêm việc này!” Bèn chiếu cho Thiểm Tây đô chuyển vận ty, chọn giáp trụ ở Vĩnh Hưng quân và các châu quân gần đó chở đến các lộ, không cần phải xuất phát từ kinh sư nữa.
[12] Chiếu rằng: “Quân mã đóng ở thượng quan trên đường Cao Dương Quan, ăn lương thảo biên giới một cách vô ích[6], khi cần kíp điều động thì địa lý không xa, e rằng không cần thiết phải đóng ở thượng quan. Lệnh cho An phủ sứ xem xét kỹ rồi tâu lên.” Cuối cùng thế nào.
[13] Tuyên phủ sứ Thiểm Tây Hàn Giáng tâu: “Dân châu Diên là Mã Chí Thành tạo ra lời yêu ngôn, mưu việc bất thuận, lời nói liên quan đến tướng quan. Đã bắt giam nhiều ngày, lấy được lời khai, giao cho Chuyển vận sứ Tôn Thản thân hành tra hỏi, không có gì khác lạ. Đã xem xét kỹ tình tội của từng người mà xử phạt, và miễn cho thân thuộc của những người bị xử không phải chịu tội liên đới.” Theo đó. Việc này căn cứ vào 《Trung thư thời chính ký》, ngày Canh Thân mùng 4 tháng 12 năm thứ 3. Mã Chí Thành lại xuất hiện vào ngày Giáp Thìn 19 tháng 3 năm thứ 4. 《Nhật ký Tư Mã Quang》 chép: Triết Kế Thế nhờ công ở châu Tuy được phong làm Tả Kỵ Kỵ sứ, Quả Châu Đoàn luyện sứ, ban thưởng vô số. Năm ngoái bị bệnh phong, sai Ngự dược sứ đến chữa trị. Kế Thế đón yêu nhân Mã Chí Thành, muốn tôn lên để phát binh chiếm thành Thanh Giản, Chỉ huy sứ Thác Bạt Trung khuyên can nên dừng lại, bắt giam để tra xét, lâu ngày không quyết định. Tử Hoa đến châu Diên, chém Chí Thành cùng hơn 20 người, vì Kế Thế có công nên không hỏi tội.
[14] Ngày Tân Dậu, Hữu gián nghị đại phu, Tri Đặng Châu Lã Hối được cử làm Đề cử Sùng Phúc cung núi Tung Sơn. Trước đó, tháng 9, Vua muốn điều Hối làm Tri Hà Nam, mệnh chưa ban thì thôi. Hối tuy ở ngoài, gặp việc lớn được mất của triều đình vẫn không ngừng nói. Vì thế lấy cớ bệnh xin nghỉ, nên có mệnh này.
[15] Ngày Nhâm Tuất, cấp 100 tờ chiếu trống, 50 tờ cáo, giao cho Tuyên phủ ty Thiểm Tây. Các tờ cáo, lệnh cho Lã Đại Phòng tạm thời soạn lời.
[16] Ty Đề điểm phủ Khai Phong tâu: “Sai quan xem xét ruộng chức điền của các huyện, căn cứ vào số mẫu và độ màu mỡ để định mức thuế, không được tùy tiện quy định. Gặp năm mất mùa, theo thuế mà giảm bớt.” Theo đó.
[17] Ngày Giáp Tý, Tri chế cáo Dương Hội được làm Hàn lâm học sĩ.
[18] Chuyển vận phán quan Tử Châu lộ là Lý Tủng tâu: “Thần phụng chiếu, được lệnh trình bày về lợi hại của việc sử dụng tài nguyên. Thần thấy rằng ở các vùng Giang Hoài, Kinh Sở, nghề nghiệp của dân chúng còn yếu kém, phần lớn sống bằng nghề trồng lúa nước. Đất đai nhiều nơi giáp sông, núi, cao thấp không đều, tuy có công lao cày cấy nhưng ít chú trọng đến việc đắp đê phòng lụt; hễ mưa nắng trái mùa thì ắt gặp hạn hán hoặc lũ lụt. Tuy có chiếu chỉ khôi phục thủy lợi, nhưng các quận huyện ít chịu tìm hiểu và thực hiện. Khi thần còn làm Tri huyện Thái Hồ thuộc Thư Châu, thần nghe nói ruộng dân ở các làng ven sông suối nhiều năm cày cấy vất vả, không lụt thì hạn. Thần tìm hiểu thì biết xưa kia đã có đê đập ngăn nước, nhưng do nhiều năm lũ lớn làm vỡ, nên bỏ mặc không tu sửa. Thần nhân lúc nông nhàn, khuyên nhủ các địa chủ gần đó chuẩn bị vật liệu và nhân công để xây dựng lại. Ban đầu dân chúng chưa tin tưởng, nhưng cũng tạm nghe theo, cuối cùng đắp được mấy đoạn đê. Năm sau mưa nhiều, nước sông dâng cao, nhờ có đê mới nên tránh được ngập lụt. Những vùng đất trước kia không trồng trọt được, nay trở thành ruộng tốt. Từ đó, thần lại ra lệnh tu sửa thêm, dân chúng bắt đầu vui vẻ làm theo. Sau đó thần rời nhiệm sở, ước tính công việc ở Thái Hồ mới hoàn thành được một hai phần mười, nếu tính trên cả nước thì lợi ích bỏ sót còn nhiều.
Thần xin đặc biệt hạ chiếu cho các quận huyện, giao cho các quan lại tìm hiểu trong địa phương những đập đê xưa bị hư hỏng, bỏ hoang nhiều năm, cùng với các hạng người khác, trình bày lợi hại[7] và thứ tự tu sửa, báo cáo lên quan phủ để chuẩn bị trước, nhân năm được mùa và lúc nông nhàn, căn cứ vào số ruộng đất của các hộ dân, khuyên họ chuẩn bị vật liệu và nhân công để tu sửa, hoặc cấp một phần lương thực từ kho Quảng Huệ để làm lương thực, không được dùng uy quyền ép buộc, và cần đặc biệt giám sát các công nhân, kỳ bảo để tránh gây phiền nhiễu. Sau khi công trình hoàn thành, châu đó báo lên Ty Đề hình, Ty Chuyển vận cử quan kiểm tra. Đến mùa thu, nếu thực sự tránh được hạn hán, lũ lụt, thì xin khen thưởng các quan khuyến khích, đốc thúc tùy theo công lao lớn nhỏ; người đề xuất tu sửa cũng được miễn một lần dịch vụ; hoặc những hộ không thuộc diện phải đi dịch[8], thì cấp một ít tiền thuế rượu để thưởng. Như vậy thì đất đai không bị bỏ phí, lương thực dân chúng dồi dào.”
Chiếu cho Ty Thường bình, Ty Quảng Huệ của Hoài Nam xem xét thi hành. Việc này theo 《Tống hội yếu》 ngày 8 tháng 12 năm thứ 3, nay phụ vào ngày tháng này. Ty Thường bình Hoài Nam xem xét, sau này sẽ khảo cứu thêm.
[19] Đại Lý tự thừa, câu đương Khai Phong phủ giới thường bình đẳng sự Triệu Tử Kỷ làm Thái tử trung xá, quyền phát khiển đồng đề điểm các huyện trấn công sự, các chức vụ hiện tại của võ thần khác được sai khiển. Trước đó, có chiếu bãi bỏ các lộ võ thần đề điểm hình ngục, thay bằng văn thần, mà phủ giới đồng đề điểm vốn cũng kiêm dụng võ thần, nên đều thay đổi. Triệu Tử Kỷ, đã gặp trước đây.
[20] Giáng chức Tri Thọ châu, Thái thường thừa Cúc Chân Khanh làm Thái tử trung doãn, vì khi còn làm Giang Tây chuyển vận sứ đã ức hiếp dân chúng, bắt nộp tiền thay cho lúa, việc này đáng lẽ không xét vì đã thôi chức, nhưng đặc biệt trách phạt. Tháng chạp năm ngoái ngày Ất Hợi đã trách phạt Thọ châu, nay lại trách phạt.
[21] Ngự sử Tiết Xương Triều tâu rằng từ cấp giám sát trở xuống ở Thành Đô phủ lộ, uống rượu yến tiệc quá nhiều, không còn kiêng dè gì. Chiếu cho đề điểm hình ngục Tiết Liên, Lý Nguyên Du bí mật điều tra tâu lên. Việc Phạm Thuần Nhân, Tạ Cảnh Ôn ban đầu trái ý chấp chính, nên ghi chép ở đây.
[22] Thị ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu: “Gần đây bổ nhiệm Kiều Tự làm Hồ Nam lộ chuyển vận phán quan, nghe nói khi làm Tri Bộc châu Lôi Trạch huyện, tham nhũng bừa bãi, trong một năm thu tơ của dân làng đến vạn lạng, không biết dùng vào việc gì.” Chiếu cho Kinh Đông đồng đề điểm hình ngục Khổng Tông Hàn, Tri Bộc châu Trịnh Đào bí mật điều tra tâu lên. Sau đó, giao cho Tào châu xét xử, Kiều Tự ngoài việc mua tơ không có tội, chỉ vì từng bán ngựa ở nơi mình giám sát, có lợi nhuận thừa, bị phạt trượng tám mươi, đặc cách cách chức.
[23] Hữu gián nghị đại phu Lý Huy Chi được cử làm đề cử Hồng Khánh cung. Huy Chi xin nghỉ bệnh bốn năm, đến nay xin được tham gia triều chính, nên có mệnh này. Ngày 12 tháng 5 năm thứ 4[9], Vua nói Huy Chi hay thất ngôn.
[24] Chiếu cho Khai Phong phủ thu nhận những người nghèo khổ, già yếu, cô nhi không nơi nương tựa trong và ngoài kinh thành, chia đưa đến bốn Phúc Điền viện, người trong ngạch mỗi ngày được cấp tiền, đợi mùa xuân ấm áp, tâu lên Trung thư bãi bỏ. Sử cũ ghi: Chiếu lấy những người nghèo khổ, già yếu không nơi nương tựa, mỗi tháng cấp tiền, đến cuối xuân thì thôi. Sử mới không ghi.
[25] Ngày Ất Sửu, Phò mã đô uý, Thành châu Đoàn luyện sứ Vương Sư Ước được cử cùng quản lý Tam ban viện. Triều đình trước đây chưa từng giao việc cho phò mã, Vua bắt đầu dùng Sư Ước quản lý Tam ban, sau quả nhiên ông làm tốt chức vụ. Việc này căn cứ theo 《Huy Tông lục Vương Sư Ước truyền》. Triều đình không giao việc cho phò mã, cần xem xét thêm.
[26] Trung thư tâu rằng, Tư nông tự định ra điều lệ về bảo giáp ở các huyện thuộc kinh thành:
[27] Cứ 10 nhà làm một bảo, chọn một người trong số chủ hộ có tài năng và tâm huyết làm bảo trưởng.
50 nhà làm một đại bảo, chọn một người trong số chủ hộ có tâm huyết nhất và tài sản nhiều nhất làm đại bảo trưởng.
10 đại bảo làm một đô bảo, lại chọn hai người trong số chủ hộ có đạo đức, tài năng và dũng cảm được mọi người kính phục làm đô bảo chính và phó bảo chính.
[28] Khi chọn bảo đinh, cứ một nhà có hai đinh trở lên, bao gồm cả chủ và khách, đều được gọi là bảo đinh. Những người từ 15 tuổi trở lên đều được sung vào[10]. Những nhà có một đinh, người già, trẻ nhỏ, người bệnh tật, hộ nữ, đều cho phụ vào bảo gần nhất. Những nhà có hai đinh trở lên, nếu còn người khỏe mạnh, cũng cho phụ vào bảo, trong đó người có tài năng và dũng cảm được mọi người kính phục, hoặc có tài sản nhiều nhất, được sung làm bảo đinh của bảo đó. Ngoài vũ khí cấm, các loại cung tên khác được phép tự trang bị để tập luyện võ nghệ.
[29] Mỗi đại bảo mỗi đêm luân phiên cử năm người đi tuần tra trong khu vực của bảo[11]. Nếu gặp trộm cướp, lập tức đánh trống báo cho đại bảo trưởng trở xuống, các hộ trong cùng bảo lập tức ứng cứu và truy bắt. Nếu trộm cướp chạy sang bảo khác, thì đánh trống báo hiệu, các bảo khác tiếp ứng và đuổi theo. Mỗi khi bắt được trộm cướp, ngoài phần thưởng theo quy định, nếu tố cáo bắt được kẻ trộm, tội đồ trở lên mỗi tên thưởng 3.000 tiền, tội trượng trở lên thưởng 1.000 tiền.
[30] Trong cùng một bảo, nếu có người phạm tội cướp bóc, giết người, mưu sát, phóng hỏa, hiếp dâm, bắt cóc, truyền bá tà giáo, nuôi trùng độc, biết mà không tố cáo, sẽ bị xử theo luật Ngũ bảo[12]. Những việc khác không liên quan đến mình, ngoại trừ những điều được phép tố cáo theo chiếu chỉ và luật lệ, đều không được tố cáo. Dù biết hay không biết, đều được miễn tội. Những trường hợp trong biên sắc mà láng giềng cùng bảo phải chịu tội, vẫn theo điều lệ cũ. Nếu có kẻ cướp ở lại quá ba ngày với số lượng từ ba người trở lên, dù láng giềng trong cùng bảo không biết, cũng bị xử tội không phát hiện.
[31] Nếu trong bảo có hộ dân bỏ trốn, chết hết, phải báo lên huyện. Nếu cùng bảo không đủ năm hộ, cho phép sáp nhập vào bảo khác. Nếu có hộ dân từ nơi khác đến ở trong bảo, cũng phải báo lên huyện để ghi vào bảo giáp. Nếu số hộ trong bảo đủ, tạm thời cho phụ vào bảo, đợi khi đủ mười hộ thì lập thành một bảo riêng. Nếu trong bảo có người từ nơi khác đến, hành tung không rõ ràng, phải phát hiện và bắt giữ đưa lên quan. Mỗi bảo đều lập bảng ghi tên hộ dân và bảo đinh. Nếu có văn bản báo lên huyện, phải cử bảo đinh luân phiên mang đi. Xin chọn quan đến hai huyện Khai Phong và Tường Phù để tổ chức bảo giáp, đợi khi ổn định rồi dần dần mở rộng sang các huyện khác. Được chấp thuận.
[32] Trước đây, Triệu Tử Kỷ, đồng quản câu Khai Phong phủ giới thường bình đẳng sự, tâu rằng: “Trước đây thần giữ chức Tào quan ở Khai Phong phủ, đi lại các huyện trong kinh thành, thăm hỏi dân gian về những khổ cực, đều nói rằng những năm gần đây, giặc cướp hoành hành, công khai cướp bóc. Dù có các bậc kỳ lão, tráng đinh trong làng xóm, nhưng phần lớn đều yếu thế, không địch nổi giặc; dù có thể báo quan bắt giữ, thì những đồng bọn còn lại lại báo thù, tàn sát dã man, không thể kể xiết. Khi hỏi về nguyên nhân khiến giặc cướp hoành hành, họ đều nói: ‘Từ trước đến nay, các hộ trong làng xã đều lập thành bảo giáp theo khoảng cách xa gần, nhằm phát hiện kẻ gian, ngăn chặn giặc cướp. Nhưng qua thời gian dài, phép này đã bị bỏ phế. Hơn nữa, khi mới lập bảo giáp, các nơi làm qua loa, không có quy định lâu dài, nên những kẻ hung ác, trốn tránh pháp luật đều ẩn náu trong đó, tụ tập đồng bọn, nhân cơ hội gây hại cho dân.’
Nay muốn dựa vào bảo giáp cũ mà chỉnh đốn lại, lấy số hộ khẩu hiện có của các huyện, trừ những người bệnh tật, già cả, trẻ nhỏ, đinh đơn, hộ nữ thì lập thành phụ bảo riêng[13], còn lại các hộ chính và hộ khách có từ hai đinh trở lên, từ gần đến xa, kết thành các bảo lớn nhỏ, mỗi bảo đều có người đứng đầu, để quản lý lẫn nhau. Như vậy, người giàu có thể sống yên ổn mà không lo bị cướp bóc, nhờ người nghèo cùng bảo vệ để tồn tại; người nghèo có chỗ nương tựa mà được chu cấp, nhờ người giàu cùng bảo vệ để sống. Khiến người giàu nghèo thân thiết với nhau, cùng vui vẻ làm ăn, thì không gì bằng phép lập bảo giáp. Còn việc lập bảo, thưởng bắt giặc, tuần tra trong bảo, cùng nhau ước thúc, thứ tự điều lệ. Mong bệ hạ tha thứ cho thần kẻ ngu muội, ban cho quyền trừ giặc, để thần nhân việc quan đi khắp các huyện trong kinh thành, được cử một hai viên tuyển nhân và chọn chủ bạ, úy, cùng các quan lại tại chức tham khảo sổ cũ mà đặt ra phép mới. Đối với dân biên hộ, không chỉ giúp họ sống yên ổn, khiến trống chiêng không phải vang lên; nếu thực hiện được, qua thời gian dài, không bị thói quen thường tình làm hỏng, quy mô thi hành mở rộng khắp thiên hạ, thì sẽ thành phép lâu dài giữ yên muôn đời.”
Bèn hạ lệnh cho Ty Nông tự xem xét quyết định. Đến đây, sửa đổi rồi thi hành. Ngày 12 tháng 9 năm thứ 2, ngày 5 tháng 10, ngày 13 tháng 12, ngày 17 tháng 3 năm thứ 3, ngày 9 tháng 3 năm thứ 4, bản Chu ở đây viết thêm: Vua bắt đầu muốn thay đổi pháp độ, liền quyết tâm coi việc tổ chức dân binh là nhiệm vụ cấp bách, nhưng rất coi trọng việc này, đã nhiều lần bàn luận với các quan chấp chính về việc nghĩa dũng, cung xã, dân binh. Đến đây, mới tập hợp ý kiến, sáng lập ra phép bảo giáp, ra lệnh thi hành. Sau đó, phép bảo giáp hoàn thiện, nên các điều ước về nghĩa dũng cũng đều quy về một mối. Bản mới đều bỏ đi, nay theo bản mới. Bản Chu lại lấy bảy tám việc trong 《Nhật lục》 ghi chung ở đây, nay đều trích ra, ghi riêng vào ngày đó, bản kỷ mới và cũ đều ghi ngày Ất Sửu lập phép bảo giáp.
[33] Một hôm, Vua nói với Vương An Thạch: “Dùng quân mộ và quân dân cũng không khác gì, nếu bắt họ làm việc quá khổ nhọc thì cũng sẽ sinh biến.” An Thạch đáp: “Bắt họ làm việc quá khổ nhọc thì sinh biến, đúng vậy. Quân mộ phần nhiều là những kẻ lêu lổng không sợ chết, nên họ thích gây họa loạn, không thể so với những người nông dân lương thiện. Tuy nhiên, thần đã từng tâu rằng, quân mộ không thể hoàn toàn không có. Theo quan chế nhà Chu, những người có sức mạnh trong nước thuộc về Ty Hữu, khi có việc thì có thể dùng họ làm tiên phong, lại khiến những tráng sĩ có chỗ quy thuộc, cũng là để ngăn ngừa tai họa.”
Vua bàn về việc biến nghĩa dũng thành quân dân, nên trước hết làm vui lòng và ban lợi cho những hào kiệt, thì dân chúng sẽ nghe theo. Nhân đó, Vua nói về việc Hán Cao Tổ phong tước cho con cháu họ Triệu. An Thạch nói: “Không chỉ Hán Cao Tổ, các bậc tiên vương trị thiên hạ cũng vậy. Nhà Chu được hai người cha của thiên hạ, thì thiên hạ theo về. Có người cha của thiên hạ, có người cha của một nước, có người cha của một làng. Nếu được người cha của một làng, thì đủ để thu phục một làng; được người cha của một nước, thì đủ để thu phục một nước; được người cha của thiên hạ, thì đủ để thu phục thiên hạ.”
Vua nói: “Quân dân tuy tốt, nhưng chỉ làm trở ngại việc nông, làm sao đây?” An Thạch đáp: “Các bậc tiên vương lấy nông dân làm quân, dựa vào làng xã để ngụ quân đội. Khi họ còn ở ruộng đồng, tổ chức thập ngũ đã định, chỉ khi có việc mới huy động họ đi chiến đấu và phòng thủ, nên thời gian làm trở ngại việc nông ít. Nay nông dân vùng biên cương không có tổ chức thập ngũ, không biết phép chiến đấu và phòng thủ, lại phải mộ thêm dân làm lính thú. Vì người biên cương cày dệt không đủ cung cấp quần áo và lương thực, đến nỗi quan phải chuyển vận tốn kém, vẫn lo không đủ, khi có việc khẩn cấp, thì quân mộ lại không đủ để ứng phó kẻ địch[14]; khi không có việc, thì dân chúng cày cấy không đủ cung cấp, sao có thể gọi là phép tốt được!” Vua nói: “Chỉ là quân dân chưa thể dựa vào để chiến đấu và phòng thủ, làm sao đây?” An Thạch đáp: “Trước thời Đường chưa có quân xăm mình[15], nhưng vẫn có thể chiến đấu và phòng thủ. Thần cho rằng quân mộ và quân dân không khác gì, chỉ xem tướng súy dùng thế nào mà thôi. Tướng súy không khó tìm, chỉ cần nhà Vua biết xét rõ tình thật hay giả của quần thần, khéo điều khiển họ, thì nhân tài sẽ xuất hiện và được dùng, không lo không có tướng súy; có tướng súy, thì không lo quân dân không được dùng!” Bản Chu ghi việc này sau khi thi hành bảo giáp, tra trong 《Nhật lục》 không thấy, nay tạm theo bản Chu. Vì bản in và bản chép tay của 《Nhật lục》 đều thiếu bốn tháng từ tháng 10 năm thứ 3 đến tháng giêng năm thứ 4. Nên tìm rộng thêm. Sau tra bản của Bí thư tỉnh Quốc sử viện, cũng chỉ như vậy.
[34] Trung thư tâu: “Các trường vụ nhẹ nhàng ở phủ Khai Phong, xin cho phủ giới đề điểm cùng ty Sai dịch cùng ra bảng, kêu gọi người mua, và hạn trong hai tháng cho phép mọi người nộp đơn kín, giao cho ty này thu nhận và giữ kín. Khi hết hạn, sẽ mở công khai, chọn người trả giá cao nhất để cấp. Trước đó cần thông báo rõ cho dân chúng biết.” Được chấp thuận. Việc này căn cứ vào tờ thiếp của Bộ Hình ngày 13 tháng 2 năm Hi Ninh thứ 5 và tờ tráp tử của Trung thư ngày 9 tháng 12 năm thứ 3, nay phụ thêm vào ngày tháng này. Việc nộp đơn kín mua phường trường, trong thực lục không thấy ghi rõ ngày tháng, cần tra cứu thêm. Ngày 7 tháng 11 năm thứ 3, ngày 1 tháng 2 và ngày 14 tháng 3 năm thứ 4, đều cần tham khảo. Việc bán rộng rãi các tửu vụ trong thiên hạ, thì vào ngày 22 tháng 2 năm thứ 5[16].
[35] Chiếu cho ty Địch tiện Hà Bắc đặt một chức Câu đương quan, do quan đề cử tiến cử.
[36] Quyền tri phủ Khai Phong Hàn Duy tâu: “Các nha dịch đầu danh và hương hộ nha tiền trong phủ, số người phân bố không đều, dân lành bị hại nhiều. Nguyên nhân là do điều lệ rườm rà, lại nhũng nhiễu lợi dụng. Nay xin giảm bớt 835 hương hộ nha tiền trong phủ, tổng cộng giảm được 181.000 việc nặng nhọc. Các việc khác, hoặc triệu thuế hộ và các loại người, hoặc cử người đang làm áp lục, hoặc tạm cử tướng quân của Tam ty, hoặc không cử người.” Được chấp thuận. Việc thi hành, thời đó cho là tiện lợi, bèn ban chiếu khen ngợi. Truyện Đặng Oản chép: “Miễn cho 830 người nha tiền về làm ruộng.” Tức là việc này. Ngày 22 tháng 1 năm thứ 4[17] Chú, có thể tra cứu.
[37] Ngày Đinh Mão, Lại bộ Thị lang, Tham tri chính sự Hàn Giáng được giữ nguyên chức vụ cũ làm Bình chương sự, Chiêu văn quán Đại học sĩ, sai sứ đến quân trung để bái nhận, ban cho thư tay, nói: “Khanh hãy càng thêm gắng sức trung thành, để đáp lại lòng mong mỏi của Trẫm, mọi chế mệnh ban ra, nên kính cẩn tuân theo.” Lại ban thư tay nói: “Tuy khanh từ nhỏ đã ôm lòng trung nghĩa, có chí công danh, trước đây Trẫm sai khanh đi Tây lộ, thực lòng Trẫm kỳ vọng vào khanh, ắt có thể hoàn thành việc biên cương. Khanh hãy thấu hiểu sự quan tâm sâu sắc của Trẫm, đừng thay đổi lòng dạ ban đầu[18].”
[38] Hữu Gián nghị đại phu, Tham tri chính sự Vương An Thạch được bổ làm Lễ bộ Thị lang, Bình chương sự, Giám tu Quốc sử. Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, Đoan minh điện học sĩ, Hàn lâm thị độc học sĩ, Lễ bộ Thị lang Vương Khuê giữ nguyên chức, làm Tham tri chính sự. Ngày hôm trước, sứ giả nhiều lần đến triệu Vương Khuê, đến cửa Tả Dịch thì cửa đã đóng, phải đến cửa Hữu Dịch, một lúc lâu sau mới có chỉ truyền mở cửa, rồi mới được vào. Vua ngự ở tiểu điện, dụ rằng sẽ cho Hàn Giáng và Vương An Thạch làm tướng, nhân đó đưa tờ ngự phê cho Vương Khuê xem, nói: “Đã bổ khanh làm Tham tri chính sự rồi.”
(Sách 《Lâm Hi dã sử》 chép: Khi Vương Khuê được bổ làm Tham tri chính sự, Tạ Cảnh Ôn nói: “Khuê chỉ có văn chương phù phiếm, làm chấp chính há phải là việc thích hợp sao?” Vua nói: “Khuê đã lâu ở chức vụ này, tạm dung cho. Trung thư có ba người, Hàn Giáng đi sứ, gặp lúc trai giới, tế lễ, cáo bệnh, thì không có ai để áp ban, nên tạm dùng Khuê.” Tiết Xương Triều nói: “Chấp chính là việc hệ trọng của thiên hạ, há chỉ để lấp chỗ trống mà áp ban? Bệ hạ đối đãi với chấp chính sao mà bạc bẽo vậy!” Vua nói: “Trong hai chế, ai có thể thay Khuê?” Xương Triều nói: “Thần chức vị thấp kém, đâu dám bàn việc này. Theo thần thấy, Tư Mã Quang há chẳng hiền hơn Khuê sao?” Vua nói: “Ta không phải không biết Quang, nhưng Quang đối đãi với ta bạc bẽo, há chịu vì ta mà làm việc sao?” Xương Triều nói: “Bệ hạ vì sao nói thế?” Vua nói: “Cuối đời Nhân Tông, Kỳ, Bật nắm quyền, Quang lúc ấy ở ngôi gián tránh, thị tòng, chưa từng có điều gì né tránh. Ta dùng làm Xu phó mà không chịu nhận, há chẳng phải là bạc bẽo với ta sao?” Xương Triều nói: “Người ta ai chẳng muốn phú quý, nay những kẻ theo ý Vua để cầu lợi, mưu cầu danh vị đầy thiên hạ, chỉ có Quang khuyên Bệ hạ tôn nghĩa mà bỏ lợi, không chỉ nói mà còn khẩn thiết từ chối đại dụng, mong cảm ngộ thánh tâm. Mạnh Tử nói với Tề Vương về nhân nghĩa mà không nói đến lợi, người Tề không ai yêu Vua bằng Mạnh Tử. Thần cho rằng quần thần yêu Bệ hạ, chưa ai bằng Quang.”
Xét lời của Cảnh Ôn và Xương Triều, không rõ là lúc nào, nay tạm chú ở đây, cần tra cứu thêm.)
[39] 1. Thiểm Tây Hà Đông Tuyên phủ phán quan, Độ chi viên ngoại lang, Trực Xá nhân viện Lã Đại Phòng được bổ nhiệm làm Tri chế cáo.
[40] Tập hiền hiệu lý, Đồng tri Gián viện Đặng Oản thay Lý Thọ Bằng kiêm Trực Xá nhân viện. Thọ Bằng làm Trực Xá nhân viện chưa được bao lâu, vì văn chương không giỏi nên bị bãi chức.
[41] Ban cho thường dân Trần Tri Ngạn học vị Tiến sĩ xuất thân, thử chức Tri huyện, Vương Phụ cùng học vị Tiến sĩ xuất thân, thử chức Phán ty đại quận, Bạ uý đại huyện. Tri Ngạn được Xu mật phó sứ Ngô Sung, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Vương Khuê tiến cử về tài văn chương, còn Phụ được Thái Nguyên phủ đôn đốc đến kinh, cả hai đều thi đỗ trung đẳng ở Xá nhân viện. Sách 《Nhật lục》 ngày 8, 9 tháng 7 năm thứ 4 có ghi chép về việc của Tri Ngạn.
[42] Tuyên phủ ty tâu: “Sùng nghi phó sứ Phu châu Mạnh Đức Cơ tự trình bày, trước đây từng làm Tri Trấn Nhung quân, đã từng chiêu mộ người mạnh mẽ và muốn mở rộng khu vực phía bắc ngoài hào năm dặm đến thành cổ, những đề xuất này đều có thể áp dụng. Đã cử Đức Cơ tạm quyền Tri Trấn Nhung quân, thay Dương Văn Quảng; Văn Quảng tạm quyền Tri Phu châu. Xin ban cho Đức Cơ chức sứ cao hơn, chính thức bổ nhiệm Văn Quảng và Đức Cơ vào các chức vụ trên.” Triều đình đồng ý, và thăng Đức Cơ làm Cung bị khố sứ.
[43] Ngày Mậu Thìn, chiếu rằng các huyện bị thiên tai thuộc các châu quân trên địa bàn Đại Danh phủ lộ, những Nha tiền, Công nhân, dân thường nợ quan vật, nếu hộ đó được miễn thuế từ năm phần trở lên, thực sự nghèo khó, tạm ngừng thu hồi, đợi đến khi thuế hạ thu hoạch xong mới nộp.
[44] Tam ban viện tâu: “Điện trực Lôi Tuân xin thi mười câu nghĩa sách 《Lục Thao》, 《Tôn》, 《Ngô》 binh thư, đồng thời thi bắn cưỡi ngựa, đỗ. Chiếu miễn cho Tuân chức sứ[19], tạm làm Giám áp, Tuần kiểm biên trại, khi trở về, sẽ bổ nhiệm theo lệ Vũ cử nhân. Việc Tam ban sứ thần xin thi binh thư bắt đầu từ Tuân. 《Cựu kỷ》 chép việc lần đầu cho Tam ban sứ thần thi binh thư. 《Tân kỷ》 bỏ đi.”
[45] Đổi Nam Bắc tác phường thành Đông Tây tác phường, danh ngạch sứ phó cũng thay đổi theo.
[46] Quân đầu ty tâu: “Quân bị theo nguyên ngạch là 1.960 người, hiện thiếu 1.198 người.” Chiếu lệnh lấy 1.000 người làm ngạch, nếu thiếu bạch trực thì lấy thặng viên của Bộ quân ty thay thế.
[47] Ngày Kỷ Tỵ, Thị ngự sử tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn kiêm chức khảo hiệu các lộ Chuyển vận sứ, Đề điểm hình ngục về thành tích khóa.
[48] Đặt chức Chủ quản văn tự quan ở các ty Chuyển vận lộ Kinh Hồ Nam Bắc và Giang Nam Đông Tây, mỗi nơi một người.
[49] Biên tu Trung thư điều lệ sở tâu: “Các viên chức, lại dịch trong ngoài gặp đại lễ được gia ân, đều được thăng huân, giai, kiểm hiệu quan, hiến hàm; cùng các quân viên, chư ban, điện trực, điện thị, từ trước đến nay được gia ân, hoặc thăng công thần, thực ấp, đều là tập tục tệ pháp từ cuối đời Đường, làm rối loạn danh phận, xin đều bãi bỏ. Còn các tướng hiệu mang chức dao quận trở lên do Trung thư cấp sắc cáo, thì nhân việc thăng quan đổi chức mà được gia ân.” Theo đó. Lại ra chiếu rằng các tướng hiệu chưa được gia ân, gặp đại lễ sẽ được gia ân. Tháng 11, ngày Ất Mùi, điều lệ sở mới kiến nghị, nay thi hành.
[50] Chiếu lệnh các quan Đề điểm hình ngục và Đề cử thường bình lộ Kinh Đông phân đi các châu quận bị thiên tai để xem xét, trước đây việc kiểm tra miễn giảm thuế có chỗ chưa đầy đủ[20], khiến dân chúng khó khăn trong việc nộp thuế, nay căn cứ vào số còn thiếu, đều tạm hoãn.
[51] Ngày 13, Kỷ Tỵ, theo sách 《Ngự tập》, Tri phủ Thái Nguyên Lữ Công Bật[21] tâu rằng, Chủng Ngạc xin phát binh từ cơ quan Lân Phủ Quân Mã Ty[22] để cùng với Ngạc hội quân tại châu Ngân, châu Hạ, tiếp nhận các tộc người Thổ phục thuận, mong triều đình ban chỉ rõ ràng. Chiếu cho Công Bật tuân theo sự phân xử của Tuyên phủ ty. Xu mật sứ Văn Ngạn Bác và các quan lại tâu xin cho Công Bật làm theo yêu cầu của Ngạc, nhanh chóng sai tướng giỏi từ Lân Phủ Quân Mã Ty dẫn quân hội với Ngạc, đồng thời chiêu mộ nhiều người dẫn đường, bố trí trạm canh xa, không để mắc mưu giặc. Chiếu y theo đó và ban lệnh ước thúc.
[52] Ngày Canh Ngọ, Tuyên phủ ty tâu: “Các tiết cấp trở lên của nghĩa dũng ba châu Diên, Khánh, Hoàn, thuộc hộ đẳng thứ ba, có ruộng cằn cỗi, không đủ sức mua ngựa, xin đều được cấp một con ngựa. Nếu ngựa chết, thì bắt tự bồi thường.” Được chấp thuận.
[53] Quyền Chuyển vận sứ Thành Đô phủ lộ, Binh bộ viên ngoại lang, Trực Tập hiền viện Phạm Thuần Nhân được bổ làm Tuyên phủ phán quan Thiểm Tây, Hà Đông. Hàn Giáng dẫn Thuần Nhân giúp mình, Xu mật viện nhận chỉ, sai đến Trung thư, nhưng bị bỏ qua, vì Vương An Thạch ghét Thuần Nhân không theo phe mình.
[54] Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu: “Người Hạ đêm dẫn kỵ binh nhẹ vượt qua hào biên giới, cướp bóc trại Tam Xuyên, bảo Độc Trủng thuộc quân Trấn Nhung. Tuần kiểm Cung tiễn thủ Triệu Phổ phục binh ngoài hào, chặn đường về, đánh úp, bắt được 12 con ngựa rồi rút quân.” Vua phê: “Xem cách ứng phó, khá mưu lược, có thể thăng cho Phổ một bậc.” 《Cựu kỷ》: Người Hạ xâm phạm quân Trấn Nhung, Tuần kiểm Triệu Phổ đánh bại chúng. 《Tân kỷ》 không chép.
[55] Hữu gián nghị đại phu Tống Mẫn Cầu được bổ nhiệm làm Sử quán tu soạn. Tống Mẫn Cầu vừa bị miễn chức Tri chế cáo, lấy chức cũ phụng triều thỉnh, hơn bảy tháng sau mới có mệnh lệnh này. Ngày Nhâm Ngọ tháng tư (22 tháng 4), Tống Mẫn Cầu bị miễn chức Chế cáo, tháng 9 năm thứ 4 được thăng chức Tập học.
[56] Ghi chép về cháu của cựu tể tướng Lư Đa Tốn là Lư Giới, được bổ nhiệm làm Thí tướng tác giám chủ bạ.
[57] Ngày Nhâm Thân, Hữu gián nghị đại phu Tống Mẫn Cầu và các quan tâu rằng: “Theo chiếu chỉ năm Thuần Hóa thứ hai, vào ngày mùng một tháng giêng, khi hoàng đế ngự điện, thay y phục rồi ngồi lại, cầm khuê. Đợi Thái úy dâng rượu, sai quan nhận khuê, sau khi dâng chén thứ tư[23], lại dâng khuê. Sau đó, các cơ quan không tâu xin, khi ngồi lại dâng lễ thọ, nên không cầm khuê. Nay muốn theo nghi thức cũ, vào ngày chính và chí khi ngự điện, các quan triều từ Thái tử trung xá, Tẩy mã trở lên và các quan nhiếp Nam ban đều được dự tiệc, ban rượu. Chỉ có tông thất từ Đại tướng quân trở lên đến Phó suất phủ không được dự tiệc, cũng không có quy định rõ về việc đứng hầu. Khi ban rượu, họ đi lại dưới thềm, hàng ngũ không nghiêm. Vì ngày đó, tông thất từ chính nhiệm trở lên cũng đều dự tiệc, nay muốn lệnh từ Tướng quân trở lên được dự tiệc; từ Phó suất phủ trở lên[24], theo ban dâng lễ thọ xong, lui ra trước.” Đều được chấp thuận.
[58] Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu rằng: “Sứ giả Giao Chỉ là Lý Kế Nguyên xin dâng phương vật, nhưng binh lính của họ cướp bóc đất đai của ta, xin lệnh họ trả lại dân bị bắt trước, rồi mới cho phép dẫn đoàn tiến phụng đến kinh đô theo lệ.”
[59] Ngày hôm đó, Vua triệu tập Xu mật sứ Văn Ngạn Bác và các quan đến điện Tư chính để bàn việc. Ngạn Bác và các quan dâng lên số quân cấm vệ ở kinh thành, phủ Khai Phong và các lộ như Kinh Đông. Vua cũng đưa ra số quân từ thời Trị Bình để tham khảo, bàn bạc lâu, rồi hạ chiếu cho Điện tiền ty: “Ngoại trừ một chỉ huy thủy quân, Hổ Dực còn giữ lại 60 chỉ huy[25], mỗi chỉ huy 500 người, tổng cộng 30.400 người. Ở kinh thành tăng thêm 5 chỉ huy Quảng Dũng, tổng 2.000 người; phủ Khai Phong định 62.000 người; Kinh Đông 51.200 người; Lưỡng Chiết 4.000 người; Giang Đông 5.200 người; Giang Tây 6.800 người; Hồ Nam 8.300 người; Hồ Bắc 12.000 người; Phúc Kiến 4.500 người; Quảng Nam Đông và Tây mỗi nơi 1.200 người[26]; ba lộ Xuyên Hạp tổng cộng 4.400 người. Các chỉ huy còn lại ở kinh thành cùng các lộ Hà Đông, Thiểm Tây, Kinh Tây, Hoài Nam đã được điều chỉnh trước đó, riêng Hà Bắc vì số quân còn nhiều, sẽ bàn sau.” Các ngày 22 tháng 3 nhuận năm Trị Bình thứ 4, cuối tháng 10 năm Hi Ninh thứ nhất, 12 tháng 10 năm thứ hai, và 23 tháng 11 năm thứ ba đều cần tham khảo.
[60] Ngày Quý Dậu, hạ chiếu: “Nghe nói lộ Phúc Kiến bị thiên tai, không giảm thuế, giá cả tăng cao. Lệnh cho Phát vận sứ La Chửng lấy danh nghĩa tuần tra, đi ngựa trạm đến xem xét tình hình.”
[61] Ngày Bính Tý, Hàn Giáng tâu: “Đang giao cho Chủng Ngạc nhân cơ hội tiến quân, xin miễn cho ông ấy về kinh.” Vua đồng ý. Việc này căn cứ theo 《Ngự Tập》. Chủng Ngạc, ngày 6 tháng 10 được lệnh về kinh. Lúc này, Hàn Giáng đóng quân ở Diên Châu, sai Chủng Ngạc đến xây thành La Ngột, cho phép tùy nghi chiêu nạp và đánh dẹp, dẫn hai vạn quân ra khỏi Vô Định Xuyên[27], bốn lộ Kinh Lược Ty đều không được can thiệp, các tướng nghe theo sự điều động của Chủng Ngạc.
Quyền Tuyên Phủ Phán Quan Triệu Tiết cực lực phản đối việc đại cử binh mã, nói: “Thành La Ngột cô lập, không có nước và cỏ, đường vận lương bị cắt đứt, nếu không sớm bỏ đi, chỉ làm lợi cho giặc thôi!” Hàn Giáng không nghe. Ban đầu, Hàn Giáng ra lệnh cho Hà Đông phát binh hội quân với Chủng Ngạc ở Ngân Châu, nếu không đúng hẹn, cho phép Chủng Ngạc chém tướng. Tuy nhiên, quân Hà Đông từ trại Thần Mộc, Lân Châu tiến vào vùng đất chưa khai phá, ước tính mất mười lăm ngày mới đến được Ngân Châu, nhưng Chủng Ngạc chỉ cho họ năm ngày, quân Hà Đông xôn xao bàn tán. Triệu Tiết chỉ vào bản đồ nói với Hàn Giáng: “Khoảng cách từ Lân Châu đến Ngân Châu, không thể đến trong năm ngày. Hơn nữa, nếu tiến sâu vào đất giặc, đột nhiên gặp địch, thì làm sao? Đây là mưu kế gian xảo của Chủng Ngạc, ông ta giả vờ nói rằng dân Hoành Sơn muốn quy thuận nhà Hán, đã chuẩn bị sẵn hai vạn chiếc khăn xanh và một số lượng tương đương vàng lụa để đón nhận người đầu hàng, nhưng thực chất là lừa dối, âm mưu dùng quân Hà Đông ép buộc các bộ tộc ở Thạch Châu, bên kia sông, đến đầu hàng, rồi gọi họ là dân Hoành Sơn.” Hàn Giáng lo lắng, muốn triệu hồi Chủng Ngạc[28], nhưng sợ ông ta không tuân lệnh.
Triệu Tiết nói với Hàn Giáng: “Nên ra lệnh cho Chủng Ngạc nhanh chóng dẫn quân từ Ngân Châu tiến vào con đường giữa để đón quân Hà Đông, đoán rằng Chủng Ngạc chắc chắn không dám tiến vào vùng đất chưa khai phá, như vậy là tự vi phạm quy tắc điều quân, ông ta còn dám chém người nữa sao!” Hàn Giáng nghe theo. Chủng Ngạc quả nhiên không tiến quân, và quân Hà Đông cuối cùng phải mất hơn nửa tháng mới hội quân ở Ngân Châu. Việc này căn cứ theo 《Chủng Ngạc Bản Truyện》 và bài văn bia mộ của Triệu Tiết do Phạm Bách Lộc soạn. Triệu Tiết làm Quyền Tuyên Phán, việc này căn cứ theo bài văn bia mộ của Phạm Bách Lộc và 《Triệu Tiết Bản Truyện》, đều nói là theo chiếu chỉ, nhưng 《Thực Lục》 và 《Ngự Tập》 đều không ghi chép việc này, nghi ngờ rằng Hàn Giáng muốn mời Phạm Thuần Nhân nhưng ông không nhận lời, triều đình tạm thời giao cho Triệu Tiết. Cần xem xét thêm.
[62] Long Đồ các Trực học sĩ Lữ Cư Giản[29] mất.
[63] Ngày Đinh Sửu, Thiên Chương các Đãi chế Lý Sư Trung được bổ làm Long Đồ các Trực học sĩ, tri Hà Nam phủ, thay thế Vương Đào; lấy Đào làm tri Nhữ châu.
[64] Chủ khách Viên ngoại lang, giám Tuyên châu diêm thuế Tưởng Chi Kì được quyền làm Phúc Kiến lộ Chuyển vận Phán quan. Chi Kì trước đây bị giáng làm Đạo châu, dâng biểu bày tỏ lòng biết ơn và xin lỗi. Vua xem biểu, biết ông có mẹ già nên thương xót, hạ chiếu cho dời đến nơi gần hơn, bèn đổi làm Tuyên châu, ở Đạo châu chỉ mới năm tháng. Sau đó được thăng làm việc ở Chuyển vận ty, có lẽ là để thực hiện pháp chế mới.
[65] Hạ chiếu cho Tuyên huy sứ Quách Quỳ đứng dưới Tham tri chính sự và Xu mật phó sứ. Quỳ được triệu về kinh, tự tâu rằng: “Theo lệ cũ, Tham tri chính sự, Xu mật phó sứ và Tuyên huy sứ xếp thứ tự theo thời gian nhậm chức, nay xin được đứng dưới họ.” Vua đồng ý.
[66] Thị ngự sử Tri tạp sự Tạ Cảnh Ôn tâu rằng tri Doanh châu, Long Đồ các Trực học sĩ Trương Đào không tu sửa quân chính, ăn uống vô độ. Vua hạ chiếu cho Giám ty điều tra rồi tâu lên. Đào sau đó vì tang mẹ nên xin nghỉ.
[67] Hạ chiếu tăng lương cho các quan nhiếp chức ở Quảng Nam từ 3.000 lên 5.000 tiền, và được chi trả bằng tiền thực. Trước đó, Trung thư xin rằng các quan nhiếp chức ở Quảng Nam do Chuyển vận ty cử hai năm một lần, chia làm năm kỳ, mỗi kỳ thi năm bài án, mỗi bài có năm đến bảy vụ án hình sự, chọn người đỗ để bổ nhiệm; người không đỗ được thi lại. Vì vậy tăng lương để khuyến khích họ. 《Tân kỷ》 chép việc tăng lương cho quan nhiếp chức ở Quảng Nam. 《Cựu kỷ》 chép dài dòng, nên theo 《Tân kỷ》.
[68] Lại hạ chiếu: “Các viện Thẩm quan Đông Tây, Tam ban viện, Lưu nội tuyển chủ bạ xem xét lại các điều lệ của bản ty, nếu có điều gì chưa tiện, thì định cách sửa đổi, bỏ bớt những điều rườm rà, sao cho rõ ràng, có thể áp dụng lâu dài. Các sổ sách nên thêm bớt thế nào, vẽ thành một điều lệ dâng lên[30].”
[69] Lại có chiếu rằng: “Gần đây chỉ huy Thiểm Tây, Hà Đông các lộ, nếu có bộ tộc người Hạ quốc đến đầu hàng, bất kể nhiều ít, đều cho tiếp nhận, đối đãi tử tế. Gần đây chỉ có Phu Diên, Hoàn Khánh nhiều lần tâu về người đến đầu hàng, còn các lộ khác đều không biết có hay không, có thể xem xét rồi tâu lên thực trạng.”
[70] Ty Đồn điền Hà Bắc tâu: “Bảo Châu đóng cửa Bắc Kỳ Thủy Khẩu, dân cư Trương Dụng, Trương Cát, Trương Trừng đánh trống tập hợp dân chúng ngăn cản, xin lưu đày.” Trung thư định đày Trương Dụng đến Vệ Châu, Trương Cát đến Hoài Châu, Trương Trừng đến Thiền Châu để quản thúc. Vua phê: “Đày qua sông đến Hoài Nam.” Bản Chu cho rằng việc này nhỏ, bỏ đi. Bản mới lại giữ lại.
[71] Ngày Mậu Dần, Ngu bộ Viên ngoại lang Tô Trừng, Giá bộ Viên ngoại lang Mã Đầm cùng làm Thông phán Hà Nam phủ. Lúc đó mới thi hành pháp miễn dịch, muốn giảm bớt các huyện ở Tây Kinh, nên đặc biệt chọn Tô Trừng để giao việc. Mã Đầm ngày 18 tháng 10 đến Tuyên ty[31], chuẩn bị làm Đề cử Nghĩa dũng.
[72] Thái tử Trung doãn Lý Định làm Sùng Chính điện Thuyết thư. Lý Định cố từ chối, sau đó đổi làm Tập Hiền Hiệu lý, Kiểm chính Trung thư Lại phòng công sự. Lý Định cố từ chối việc đổi chức, theo 《Hội yếu》, ghi chép vào ngày 22 tháng này, cần xem xét. Ngày 21 tháng 4 năm sau, mới dùng chức Tập Hiền Hiệu lý Kiểm lại.
[73] Ban chiếu và y phục[32], ngựa cho Tây Phiên Đổng Chiên. Trước đó, Lộ Tần Phượng tâu: “Trước đây người Hạ tập trung quân đánh Hoàn Khánh, tin tức do thám báo rằng Tây Phiên Đổng Chiên đã thừa cơ đánh sâu vào lãnh thổ của họ, bắt được rất nhiều.” Triều đình giao việc này, lệnh Hàn Chẩn xem xét. Sau đó Vua phê: “Tấu chương của Thái Đĩnh về việc Đổng Chiên, cùng với tin tức do thám của Hàn Chẩn khá giống nhau, có thể ban chiếu khen ngợi, lại cử sứ thần mang đến ban tặng.” Vì thế có chiếu này.
[74] Ngày Kỷ Mão, Tam ty tâu: “Ty Nghi Loan thiếu 3.000 tấm thảm, xin hạ lệnh cho Hà Đông chế tạo.” Vua phê: “Ngày trước Ty Đề Cử tâu rằng, kho vật liệu và ty Ngưu Dương chứa lông thảm, trước đây dùng để cấp cho việc cưới gả của tông thất, gần đây đều đổi thành tiền, nay đã tích trữ đến mấy vạn cân, đều như phân đất. Tam ty không dùng vật liệu hiện có mà lại bắt dân Hà Đông vất vả, có thể lệnh cho dùng lông cừu trắng hiện có và từ nay thu thập để chế tạo. Còn các loại nệm xương thì cho phép dùng lông đen thay thế.”
[75] Ngày Canh Thìn, sai Vương An Thạch làm Đề Cử biên soạn lệnh thức của Tam ty cùng sắc lệnh và các điều lệ về kế hoạch hàng năm của các ty khố vụ. Hàn lâm học sĩ Nguyên Giáng, Quyền Tam ty sứ Lý Túc Chi, Quyền Phát Khiển Diêm Thiết phó sứ Phó Nghiêu Dũ, Quyền Hộ bộ phó sứ Trương Cảnh Hiến, Độ chi phó sứ Vương Tĩnh, Đồng tu Khởi cư chú Lý Thọ Bằng, Tập hiền hiệu lý Trần Dịch, cùng tham gia xét định. Thái tử Hữu Tán Thiện đại phu Lữ Gia Vấn, Quang lộc tự thừa Dương Bàn, Sùng Văn viện hiệu thư Đường Quynh, Quyền Hứa châu Quan sát suy quan Vương Địch, Tam ty Suy khám công sự Kiều Chấp Trung, Kiểm pháp quan Lý Thâm, Câu đương công sự Trương Đoan, Trứ tác tá lang Triệu Uẩn, Chu Trực Nhụ, Quân châu Quân sự phán quan Tôn Thiện, cùng làm San định quan. Vương Địch là người Tần châu. Tôn Thiện, Chu Trực Nhụ, Triệu Uẩn, Trương Đoan đã từng xuất hiện. Lý Thâm, Kiều Chấp Trung đã từng xuất hiện. Vương Địch là người Tần châu. Đường Quynh đã từng xuất hiện. Lữ Gia Vấn đã từng xuất hiện. Lý Thọ Bằng đã từng xuất hiện. Phó Nghiêu Dũ đã từng xuất hiện. Vương Tĩnh là cháu của Vương Đán, đã từng xuất hiện. Trương Cảnh Hiến là con của Trương Sư Đức, đã từng xuất hiện.
[76] Xu mật đô thừa chỉ Lý Bình và các quan dâng lên pháp lệnh về việc thu nạp, bổ nhiệm, khảo thí, thưởng phạt của viện lại, chiếu theo quy định.
[77] Vua phê: “Việc tu sửa thành trại dọc biên giới Thiểm Tây, sử dụng nhiều quân Sương. Quân Sương ở địa phương này những năm gần đây đào ngũ khá nhiều, không đủ người để sai phái, lại thêm việc vận chuyển lương thảo nặng nhọc, rất mệt mỏi. Có thể xem xét các công việc sông ngòi, nếu phải điều động quân ở Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Đông thì tạm ngừng, để tập trung hoàn thành việc phòng bị biên giới.”
[78] Chiếu rằng: “Các quan triều đình ở kinh thành được bổ nhiệm vào các vùng Xuyên, Quảng, Phúc Kiến, nếu ông bà cha mẹ bị bệnh nặng mà không có người chăm sóc, dù tuổi chưa đến bảy mươi, cho phép triệu bảo quan để được bổ nhiệm thuận tiện gần nhà.”
[79] Ngày Tân Tỵ, Biên tu Trung thư điều lệ sở tâu rằng:
[80] Bề tôi không phạm tội ác mà xin nghỉ hưu, Vua đối đãi họ như khi còn tại chức, đó là lễ. Gần đây, những người nghỉ hưu đều được thăng chức, vì phần lớn kẻ sĩ ham lợi mà ít người biết lui, nên muốn ban ơn để khuyến khích. Việc này đã thực hiện lâu, và nên theo lệ mà thi hành.
Còn theo lệ cũ, các quan chức từ chánh ngôn trở lên ở hai tỉnh, sứ thần tam ban, đại sứ thần, hoành hành, chính nhiệm đều không được bổ làm quan nghỉ hưu, và những người nghỉ hưu giữ chức đều phải bỏ chức, nhưng lại được thăng chức ưu đãi, xét kỹ thì không có lý gì, chỉ khiến ơn huệ không đều. Ví dụ, gián nghị đại phu không thể đổi thành cấp sự trung, và thăng làm thị lang công bộ, tức là vượt hai bậc. Lại như thượng thư Lại bộ, Công bộ đều được bổ làm thái tử thiếu bảo, tức là vượt sáu bậc. Đến chức tri chế cáo, đãi chế, quan nhỏ được bổ làm khanh giám, vì tri chế cáo, đãi chế được đãi ngộ, không thể so với khanh giám, nay các quan khác nghỉ hưu đều được thăng chức, chỉ riêng họ vì nghỉ hưu lại bị hạ thấp.
Đến như cung phụng quan, thị cấm vốn là bát phẩm, được bổ làm phó suất phủ, tương đương lục phẩm. Các chức phó sứ, thừa chế, sùng ban là thất phẩm, được bổ làm tướng quân, tức tam phẩm. Đến như tiết độ sứ được bổ làm thượng tướng quân, phòng ngự sứ, đoàn luyện sứ, thứ sử đều được bổ làm đại tướng quân, vì danh hiệu các vệ không thống nhất, có khi thứ sử được bổ chức cao hơn phòng ngự sứ. Nay nếu cho phép các quan văn võ giữ chức khi nghỉ hưu vẫn được giữ nguyên chức, chỉ thăng một bậc, và các quan văn chính hàm[33], võ quan tá chức trở lên, đều được bổ làm quan nghỉ hưu, thì sẽ không còn tình trạng nặng nhẹ không đều. Đến như tuyển nhân lệnh lục trở lên đều được bổ làm triều quan, qua ơn huệ đều được phong tặng, ơn huệ truyền nhiều đời, chi phái được chuộc tội, miễn dịch. Lại như kinh quan nghỉ hưu, cũng chỉ thăng một bậc, nếu thừa Quang lộc tự nghỉ hưu, người có xuất thân được bổ làm trứ tác tá lang Bí thư tỉnh, người không xuất thân được bổ làm thừa Đại Lý tự, còn lệnh lục, chức quan lại được bổ làm trung doãn hoặc trung xá thái tử, thật không hợp lý. Đến như người xuất thân tiến nạp theo lệ được bổ làm kinh quan, có người qua ơn huệ được thăng lên triều quan, phần nhiều là nhà giàu có thế lực[34], đều được miễn sắc dịch châu huyện và phong tặng cha mẹ. Như kinh quan thất phẩm, ngoài nha tiền, cũng được miễn các sắc dịch khác, thật là may mắn quá đáng. Điều lệ rườm rà, không biết theo đâu. Như lục sự tham quân, có người được bổ làm thừa Vệ úy tự, có người được bổ làm bình sự Đại Lý tự, có người được bổ làm phụng lễ lang, ơn huệ khác nhau, có thể sinh ra tệ nạn.
[81] Nay quy định: Phàm các quan văn từ chức kinh triều trở lên, mỗi người được thăng một chức, giữ nguyên chức vụ cũ, không được thăng chức để xin ân trạch cho thân thuộc, theo quy định cũ[35]. Các quan tuyển dụng theo thứ bậc hiện tại được thăng vào chức kinh triều, những người tiến nạp và người ngoài lưu làm chức phán, ty, bạ, uý, được thăng làm biệt giá[36]. Các quan lưu lại tại kinh đô, theo chức chủ bạ, uý. Những người thân, hiền, có công lao, cũ được đặc cách ban ân, phải xin chỉ dụ. Những người từng có tội tham nhũng, không được xin ân trạch cho thân thuộc, và không được thăng chức. Các quan đã về hưu, trừ Trung thư, Xu mật viện, đều được xếp trên các quan đương nhiệm. Những người về hưu trên ba năm, nguyên không phải do phạm lỗi, tuổi chưa đến bảy mươi, chưa từng được phong tước và xin ân trạch cho thân thuộc, lại muốn làm quan[37], đều được phép dâng sớ trình bày; và có người tiến cử, đều được thụ chức theo thứ bậc cũ. Những người có tài năng được mọi người biết đến, triều đình đặc cách bổ nhiệm, không bị ràng buộc bởi quy định này. Đồng ý theo đó. Từ đây, từ tể tướng trở xuống đều giữ chức vụ khi về hưu, người bàn luận cho là không đúng. “Từ đây, từ tể tướng trở xuống đều giữ chức vụ khi về hưu, người bàn luận cho là không đúng.” Là luận của sử quan thời Nguyên Hựu. Bản Thiệu Thánh đã xóa đi, bản mới lại giữ lại, nay theo bản mới. Sử quan thời Nguyên Hựu cho là không đúng, cần xem xét. Kỷ mới ghi cho phép quan về hưu vẫn giữ chức vụ, kỷ cũ không ghi.
[82] Chiếu lệnh Đô thủy giám, mỗi năm trực tiếp gửi văn thư cho Tam ban, Thẩm quan viện sai sứ thần giám sát việc nạo vét các kênh rạch công tư, không cần hàng năm ban chiếu.
[83] Ngày Nhâm Ngọ, Vua Liêu sai Tần Châu quan sát sứ Tiêu Tuân Đạo, Thái thường thiếu khanh trực Can Văn các Dương Quy Huấn, mẹ Vua sai Phụng quốc quân tiết độ sứ Gia Luật Ninh, Khởi cư lang tri chế cáo Thành Nghiêu Tích sang chúc mừng năm mới.
[84] Ngày Quý Mùi, Tuyên phủ sứ Hàn Giáng tâu: “Lúc Thiểm Tây dùng binh, cần chuẩn bị lương thảo ở vùng biên giới, nhưng ty Diêm Mã lại vi phạm quy định, khiến phép dùng tiền giấy càng thêm suy yếu. Thần thấy Tiết Hướng thông thạo việc dùng tiền và muối ở Quan Thiểm, xin bổ nhiệm thêm làm Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, đợi khi việc yên ổn, lại cho quản lý việc tài lợi đông tây.” Vua xuống chiếu cho Hướng làm Thiểm Tây, Hà Đông lộ Tuyên phủ phó sứ. Trung thư tâu: “Tri chế cáo Lã Đại Phòng hiện làm Phán quan, chức vụ cao hơn Đãi chế, e cũng nên đổi làm Phó sứ.” Vua phê: “Tể tướng làm sứ, từ trước đến nay chỉ hạ một bậc so với Tham tri chính sự, Xu mật phó sứ và Tuyên huy sứ. Nay Đại Phòng và Hướng chỉ là Tri chế cáo, Đãi chế, có thể cùng làm Phán quan, Hướng vẫn lĩnh chức Phát vận như cũ.” Chưa đến kinh sư, lại có chiếu cho giữ chức cũ.
[85] Kinh Tây chuyển vận ty tâu: “Các huyện Trưởng Xã thuộc Hứa Châu có hơn 400 khoảnh đất cỏ nuôi ngựa, trước đây vì không thể nuôi ngựa nên tạm cho người thuê cày cấy. Nay xét thấy có thể thu về quan[38], đào sông Hình Sơn, Dị Hà, Thạch Hạn để tưới ruộng trồng lúa.” Vua đồng ý.
[86] Lấy đất mà Bành Sư Yến ở Hạ Khê Châu trả lại từ chỗ Sĩ Hi xâm chiếm làm trại Trấn Khê. Lại ban sắc thư khen ngợi Trương Tông Nghĩa, Tri Thần Châu, Văn Tư phó sứ, cùng 50 lạng bạc và 50 tấm lụa, vì Tông Nghĩa có công chiêu nạp Sư Yến và xây dựng trại Trấn Khê; sau đó lại thăng làm Tả tạng khố phó sứ. Việc Tông Nghĩa thăng chức vào ngày 28 tháng giêng năm sau, nay ghi chung vào đây. Ngày Ất Mão tháng giêng năm thứ 9, Sư Yến đầu hàng.
[87] Chiếu rằng: “Từ nay, ba năm mua ba vạn ngựa ở Vị châu và Đức Thuận quân. Quan mua ngựa lấy mười phần làm mức, mua được sáu phần bảy ly thì thăng một bậc, còn lại ba phần ba ly chia làm ba bậc, mỗi tăng một bậc thì giảm một năm khảo khóa. Hằng năm cấp cho Tam ty cùng Thành Đô phủ, Tử, Lợi châu ba lộ tổng cộng mười vạn tấm lụa, cùng với tiền bán muối ở Thiểm Tây để bù vào giá ngựa.” Ban đầu, ba châu quân mua ngựa, ba năm tổng cộng được một vạn bảy nghìn một trăm con. Quần mục phán quan Vương Hối tâu: “Trước năm Gia Hựu thứ sáu, Tần châu dâng ngựa khoán lên kinh, mỗi năm không dưới một vạn bốn, năm nghìn con. Năm Gia Hựu thứ bảy, đặt ty mua ngựa ở Vị châu và Đức Thuận quân, đều chọn ngựa tốt bán với giá cao, do đó phép khoán ngựa bị hỏng, phần nhiều chết hao, uổng phí tiền lụa. Xin lệnh cho Vị châu và Đức Thuận quân tăng mua mỗi năm tổng cộng một vạn con, sứ thần được ban thưởng hậu hĩ, cùng xuất tiền lụa để bù giá ngựa.” Vì thế có chiếu này.
[88] Tư Mã Quang dâng sớ tâu rằng:
“Thần vốn kém cỏi, được triều đình tin dùng, giữ chức ở Trường An, kiêm quản binh dân mười châu trong một lộ. Ngày từ biệt, được bệ hạ dặn dò rằng phàm việc cơ mật biên phòng cùng được mất của triều đình, có điều gì nghe thấy, đều phải tâu lên. Thần nhận mệnh đến nay, vừa hổ thẹn vừa lo sợ: hổ thẹn vì ơn Vua sâu nặng, trách nhiệm quá lớn; lo sợ vì kiến thức nông cạn, không đáng đảm đương. Ngày đêm lo lắng, không dám yên lòng.
Thần từ khi vào cảnh đến nay, thấy dân chúng lưu lạc, đi đường nhìn nhau, hỏi thăm làng xóm, đều nói rằng mùa hè năm nay hạn hán lớn, lúa mạ khô héo, phía bắc sông Vị, hoàn toàn không thu hoạch được gì, chỉ dưới chân núi Nam Sơn còn sót lại một ít. Vào thu mưa dầm, cả tháng không tạnh, lúa tuy có bông nhưng thường không có hạt, dù có hạt cũng thường không có gạo, dù có gạo thì đều nhỏ và đen[39]. Một đấu thóc, sau khi xay giã, chỉ được ba bốn thăng gạo. Giá lúa tăng cao, dân gian nhiều năm khốn khổ vì thuế khoá, vốn không có tích trữ, không thể tự nuôi nhau, vì thế phải chia nhà giảm khẩu, đi ăn nhờ ở các châu Tây Kinh, Tương, Đặng, Thương, Quắc, hoặc đi làm thuê[40], hoặc đốt than hái củi, hoặc ăn xin trộm cắp để sống qua ngày. Lúc này, quốc gia chỉ nên lấy tĩnh mà trấn an, giảm bớt mọi việc, tiết kiệm chi tiêu, thì thuế má tự nhiên nhẹ, lao dịch tự nhiên ít, nợ nần tự nhiên giảm, thuế khoá tự nhiên ngừng. Bốn mối lo đã trừ, sức dân tự đủ, của cải dân tự dồi dào, làng xóm tự yên ổn, kẻ lưu vong tự trở về, không cần bệ hạ lo lắng trong cung, tể tướng vất vả ngoài triều, rồi mọi người mới được yên ổn. Nếu không như vậy, quốc gia dù muốn giảm thuế, khoan nợ, thì tiền của chi tiêu lấy đâu ra? Dù muốn giảm lao dịch, ngừng thuế khoá, thì công việc cần làm lấy đâu mà thành? Bốn mối lo không trừ, dù ngày ngày ban chiếu ân huệ, dân vẫn không tránh khỏi lưu lạc chết chóc. Muốn dập lửa sôi thì phải dứt củi, muốn yên dân thì phải giảm việc, đó là điều hiển nhiên trước mắt, không khó hiểu.
Thần từ khi nhậm chức đến nay, thấy triều đình và các ty Tuyên phủ chỉ huy, chia nghĩa dũng làm bốn phiên, muốn lần lượt cho họ trấn thủ vùng biên giới, tuyển chọn các quân tinh nhuệ và chiêu mộ những kẻ ác thiếu trong dân gian làm kỳ binh; chế tạo lương khô, [cỏ khô] cơm, túi vải, xe kéo[41] để chuẩn bị vận chuyển lương thực, lại lấy hết những vật phẩm hàng năm ban cho Bỉnh Thường phân phát cho các lộ biên giới, còn vét cạn kho tàng[42] trong nội địa về giáp binh, tài vật để hỗ trợ. Chỉ riêng lộ Vĩnh Hưng mà nói, đã phát đi người ngựa, tám nghìn bộ giáp, chín vạn quan tiền, hai vạn ba nghìn lạng bạc, sáu nghìn chiếc bát bạc, còn những vật dụng nhỏ nhặt khác thì không kể xiết. Mọi việc đều gấp rút theo kỳ hạn quân sự, trên dưới thúc giục, gấp như lửa cháy. Quan lại lúng túng, dân chúng hoang mang nghi ngờ, đều nói rằng nhà nước sẽ vào mùa xuân tới đại cử sáu quân, tiến sâu vào đất địch để trừng trị tội của Bỉnh Thường.
Thần là kẻ hèn mọn, không được dự nghe nghị luận nơi miếu đường, không biết việc này là thực hay hư. Trước đây thân tiếp nhận đức ân, cho rằng kế sách biên giới hiện nay chỉ nên nghiêm ngặt phòng thủ. Đợi khi địch xâm phạm, thì củng cố thành lũy, dọn sạch đồng ruộng, khiến chúng đến mà không thu được gì, quân mệt lương cạn, có thể ngồi yên mà thu lợi. Thần lui về suy nghĩ, thấy mưu lược của bậc thánh thật cao xa, thấu hiểu đạo trị nhung địch của bậc vương giả, thực là phúc của thiên hạ. Đến khi về Quan Trung, mới thấy mọi sự sắp đặt đều là để chuẩn bị xuất chinh. Thần không biết các cơ quan ở ngoài không hiểu ý thánh, dẫn đến sự hoang mang này, hay là bệ hạ âm thầm vận dụng mưu lược thần kỳ, không cho kẻ hèn mọn như thần được biết sự thực? Thần vô cùng lo lắng, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, lòng lạnh run sợ, thầm lo cho bệ hạ.
Binh khí là vật hung hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến. Từ xưa đến nay, quốc gia giàu mạnh, tướng giỏi quân tinh nhuệ, nhưng vì nhà Vua thích đánh nhau không ngừng, dẫn đến nguy loạn rất nhiều. Huống chi hiện nay công tư đều kiệt quệ, tướng ngu quân nhát, lại muốn đuổi họ ra ngoài biên ải để bắt giặc hung hãn, ắt sẽ không có công trạng gì. Không chỉ không có công, mà còn để lại hậu hoạ rất nhiều, không thể kể hết. Nếu triều đình ban đầu không có ý xuất chinh, thì sao lại ngồi tiêu tán của cải trong kho, làm hao tổn sức dân, mà cuối cùng chẳng được việc gì? Nếu sau này giặc kỵ binh xâm phạm, kho tàng đã cạn, sức dân đã kiệt, thì lấy gì để chống đỡ?
Khi thần còn làm Ngự sử trung thừa, triều đình định khởi binh đánh Tuy Châu, thần từng tâu rằng: Quốc gia trước hết phải cử trăm chức, sửa chính sự, yên dân chúng, đầy kho lẫm, chọn tướng soái, đặt quân pháp, luyện quân sĩ, tinh khí giới, tám việc này đều chuẩn bị đầy đủ, sau đó mới có thể chinh phạt tứ di. Nay tám việc này chưa có việc nào hơn trước, huống chi Quan Trung đói kém, mười nhà chín nhà trống rỗng, kẻ trộm cướp đã nhiều, kho tàng của quan huyện còn lại chẳng được bao nhiêu, lại muốn khinh động đại chúng, ngang nhiên khiêu chiến với kẻ địch mạnh, đó là điều thần rất lo sợ. Hoặc có người nói, quốc gia chưa đánh Bỉnh Thường, trước hết muốn thử binh lực, diệt một bộ tộc nhỏ. Nếu quả như vậy, càng không thể. Tại sao? Nay đã dốc hết tài lực của Quan Trung, huy động đại quân, lại bỏ kẻ địch mạnh có tội, diệt một bộ tộc nhỏ vô tội, thắng cũng không vẻ vang, thua thì thành trò cười, sẽ không còn uy tín để hiệu lệnh với rợ Địch nữa. Hai kế sách này đều không thể thực hiện.
Kính mong bệ hạ thấu hiểu sâu sắc cơ hội an nguy, dập tắt mầm mống nguy hiểm từ khi chưa manh nha, cứu vãn tình thế từ khi chưa hình thành, nhanh chóng ban chiếu chỉ rõ ràng để vỗ về dân chúng Quan Trung, rằng triều đình không có kế hoạch xuất quân chinh phạt; đối với nghĩa dũng, không chia phiên đi canh giữ biên giới, cũng không tuyển mộ quân kỳ binh; tất cả các việc điều động nhân lực, vật lực để vận chuyển lương thực đều phải dừng lại; trân trọng dự trữ trong kho tàng nội địa[43], để chuẩn bị cứu tế những người đói nghèo vào cuối xuân. Làm như vậy, không chỉ là may mắn cho dân chúng, mà còn là phúc lành cho xã tắc. Thần vô cùng lo lắng, thẳng thắn bày tỏ lòng thành, mong bệ hạ xem xét.”
(Tờ tấu này không rõ thời điểm cụ thể. Quang vào ngày 19 tháng 10 đã vào triều tạ ơn ở điện Sùng Chính, lại có biểu tạ ơn khi nhậm chức ở Vĩnh Hưng nói rằng: ngày 14 tháng này đến nhậm chức. Biểu tấu ghi “tháng này”, chắc chắn là tháng 11. Tờ tấu nói “mùa hạ năm nay đại hạn”, tức là mùa hạ năm thứ 3. Lại nói “mùa xuân năm nay đại cử”, thì hẳn là mùa xuân năm thứ 4. Đã trước đó nói “mùa hạ năm nay”, thì không nên lại nói “mùa xuân năm nay”, nghi ngờ chữ “mùa xuân năm nay” nên sửa thành “mùa xuân năm sau”, tờ tấu này có thể được dâng lên vào cuối tháng 11 hoặc tháng 12. Tạm thời ghi vào cuối tháng 12, cần xem xét kỹ hơn.)
[89] Phú Bật nói: (Những điều Bật nói đều căn cứ vào tờ tráp, tập hợp lại ở đây.) “Thần biết rằng ở Thiểm Tây dùng binh, các lộ tiến đánh, đến nay đã mấy tháng, việc điều động và thu thuế không khỏi hao tổn. Bệ hạ thân chăm lo muôn việc, siêng năng hỏi han. Thần chỉ hận chưa thể một lần hiến dâng sức lực để phần nào giảm bớt nỗi lo của bệ hạ về phương Tây.
Vả lại, nghĩ đến mấy châu Linh, Hạ, từ khi Thái Tông ban cho, đã gần trăm năm, những gì còn lại chỉ là những thành trì trống rỗng mà thôi. Nay những thành trì chiếm được, e rằng chưa đủ bù đắp chi phí, đã hạ được rồi lại phải phòng thủ, từ đó hao tổn không bao giờ dứt. Thần lại có điều lo nghĩ, vì Tây Hạ và phương Bắc, xem triều đình thường ở thế gọng kìm. Bởi phương Bắc có mười tám châu ở trước và sau núi, luôn sợ triều đình có ý định lấy lại. Đầu niên hiệu Khánh Lịch, vì Nguyên Hạo làm phản, Nhân Tông không thể không đánh dẹp, nên phương Bắc đã có thư khiêu khích và đòi cắt đất. Đại ý bức thư ấy nói rằng họ và Tây Hạ là nước cậu cháu, triều đình phương Nam không nên đem quân đánh. Thần không nhớ hết lời lẽ, chỉ nhớ một câu rằng ‘hoàn toàn không có ý gì đáng ngại’, điều này cho thấy rõ ý của họ. Lúc đó thần hai lần đi sứ phương Bắc, mỗi lần thấy Nguyên Hạo sai người đến đó, đều bí mật hỏi thăm, nói rằng ‘đến để mượn quân’. Đây đều là những việc thần tận mắt chứng kiến, không phải nghe đồn. So sánh xưa với nay, thần không dám chắc rằng chuyện này chắc chắn không xảy ra.
Nay phương Bắc cũng sẽ nghi ngờ triều đình sau khi bình định Tây Hạ sẽ chuyển quân đánh phương Bắc, ắt có mưu đồ nhờ cậy Tây Hạ, không thể không lo xa đến điều này. Hơn nữa, nếu hai kẻ địch liên kết với nhau, cùng nổi dậy, thì quốc dụng và nhân lực làm sao đối phó được, tình hình quân đội và lòng dân cần phải luôn đề phòng, không thể để đến mức cực đoan. Huống chi nay uy trời đã rung động, quân vương đã thắng lợi, hoặc hãy tạm lệnh lui về tu sửa biên phòng, bàn kế sách phòng thủ, đợi khi trong ngoài hoàn chỉnh[44], rồi tính kế sau, để có kế sách vạn toàn, cũng chưa muộn. Kính mong bệ hạ đặc biệt xem xét và quyết định cẩn thận.”
Ngày 5 tháng 2 năm thứ 4, Bật đã bị Triệu Tế hặc tội, ngày 21 tháng 6, bãi chức Sứ tướng. Tờ tráp này mở đầu nói: Thần từ tháng 11 mùa đông năm ngoái xin bãi chức Sứ tướng, ba lần chiếu chỉ đều không cho. “Mùa đông năm ngoái” chỉ năm thứ 2, vậy tờ tráp này hẳn là việc năm thứ 3. Nhưng chỗ nói “quân vương thắng lợi”, không rõ là ở đâu. Nay ước đoán phụ vào sau tờ sớ của Tư Mã Quang. Hàn Giáng đã xuất quân, lúc đầu hẳn cũng nhiều lần báo tin thắng trận, nhưng thực lục không ghi rõ.
[90] Năm này, con cháu hoàng tộc được ban tên và bổ nhiệm làm quan tổng cộng 45 người, xử án tử hình 3.523 người. Cả sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép: Năm đó, Hà Bắc, Thiểm Tây bị hạn hán và đói kém, triều đình ban chiếu cứu tế. Giao Chỉ đến triều cống, người Man ở Quảng Nguyên, Hạ Khê châu quy phụ. Việc Hạ Khê châu xem ngày 27 tháng 12, các việc khác xem ngày tháng tương ứng, ở đây không chép riêng.
- chỉ trao đổi văn thư qua lại, 'chỉ' nguyên bản là 'thượng', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 chức quan 41-19 mà sửa ↵
- Bản các bản ghi là 'quân sĩ Hoài Nam, Hà Bắc', nghi ngờ là 'quân sĩ được điều từ Kinh Đông' ↵
- Bản các bản ghi là 'quân sĩ Hoài Nam, Hà Bắc', nghi ngờ là 'quân sĩ được điều từ Kinh Đông' ↵
- Chữ 'gian khổ' nguyên bản là 'tiện', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 196 《Binh chí》 sửa lại. ↵
- Chữ 'cung' nguyên là 'cộng', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- chữ 'thực' nguyên là 'thực', theo bản trong các kho mà sửa ↵
- Nguyên văn 'Lợi hại cụ', theo các bản và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 7-22 sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'Thi' thay bằng 'Cai', 'Sát' thay bằng 'Dịch', theo các bản và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 7-22 sửa lại. Trên chữ 'Hộ' thiếu chữ 'Nhân', cũng theo 《Tống hội yếu》 bổ sung. ↵
- Tháng 5 nguyên bản là 'tháng 3', căn cứ vào các bản và quyển 223 năm Hi Ninh thứ 4 tháng 5 ngày Bính Thân sửa lại. ↵
- Nhưng từ hai đinh trở lên đều được sung, theo 《Tống hội yếu》 binh 2-5. 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 71 về bảo giáp ghi là 'từ 15 tuổi trở lên đều được sung'. Tống Mẫn Cầu trong 《Xuân minh thoái triều lục》 thượng nói rằng trong luật lệnh, 'đinh suy' nên là 'đinh trĩ'. Ở đây chữ 'suy' có lẽ là sai, nên là chữ 'trĩ'. ↵
- Trong khu vực của bảo đi tuần tra, 'phân nội' nguyên văn đảo ngược, căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 binh 2-6 sửa lại ↵
- Luật Ngũ bảo: 'Ngũ' nguyên văn là 'Ngũ', trong 《Tống sử》 quyển 192, phần Binh chí có câu 'theo luật Ngũ bảo pháp', trong 《Tống hội yếu》 phần Binh 2/6 viết 'đều theo luật Ngũ bảo pháp để định tội', nên sửa lại. ↵
- 'phụ bảo' nguyên là 'vô bảo', theo 《Tống hội yếu》 binh 2 chi 6 sửa lại. ↵
- Quân mộ lại không đủ để ứng phó kẻ địch, chữ 'dĩ' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 71 về bảo giáp, 《Quần thư khảo sách》 quyển 41 bổ sung. ↵
- Quân xăm mình, chữ 'kình' nguyên bản viết 'kiềm', căn cứ vào hai sách trên sửa lại. ↵
- Ngày 22 nguyên bản ghi là 'ngày 21', căn cứ vào quyển 220 và 230 của sách này sửa lại. ↵
- Ngày 22 nguyên bản ghi là 'ngày 12'. Quyển 219 năm Hi Ninh thứ 4, tháng giêng, ngày Mậu Thân có chú thích 'miễn cho 830 người nha tiền về làm ruộng', Mậu Thân là ngày 22. Các bản khác cũng ghi là 'ngày 22', căn cứ sửa lại. ↵
- 'Vật thế sơ chung dã' các bản, bản hoạt tự đều giống nhau. Nghi ngờ chữ 'chung' là chữ 'trung' viết nhầm. ↵
- Chiếu miễn Tuân sứ, 《Tống hội yếu》 quyển 17 chương 12 chép là 'Chiếu miễn đoản sứ'. ↵
- 'Tạc' nguyên là 'phi', dưới chữ 'kiểm' nguyên thừa chữ 'hiệu', căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 70.169 sửa bỏ. ↵
- Chữ 'Công' trong 'Lữ Công Bật' vốn bị thiếu, căn cứ vào phần sau và 《Tống sử》 quyển 311, truyện Lữ Công Bật, bổ sung. ↵
- 'Lân' trong 'Lân Phủ Quân Mã Ty' vốn viết là 'Phu'. Theo 《Tống sử》 quyển 86, phần Địa lý chí, 'Lân Phủ' thuộc lộ Hà Đông, phần sau cũng có 'Lân Phủ Quân Mã Ty', nên sửa lại. ↵
- Sau khi dâng chén thứ tư, sách 《Tống hội yếu》 chương Lễ 56-8 có chữ 'khước'. ↵
- Từ Phó suất phủ trở lên, sách trên ghi là 'trở xuống'. ↵
- '60' nguyên bản là '6000', theo 《Thông khảo》 quyển 153, 《Ngọc hải》 quyển 135 và 《Tống sử》 quyển 187 sửa lại. ↵
- 《Thông khảo》 quyển 153 và 《Tống sử》 quyển 187 đều không có chữ 'mỗi'. ↵
- Vô Định Xuyên, 'Xuyên' nguyên bản là 'Châu', căn cứ theo các bản khác và 《Tống Sử》 quyển 335, 《Chủng Ngạc Truyện》 sửa lại. ↵
- Muốn triệu hồi Chủng Ngạc, 'triệu' nguyên bản là 'bách', căn cứ theo các bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'cư' trong tên Lữ Cư Giản vốn bị thiếu, nay căn cứ vào các bản khác và 《Tống sử》 quyển 265, truyện Lữ Mông Chính để bổ sung. ↵
- Chữ 'cụ' trong câu 'cụ hoạ nhất điều thượng' vốn viết là 'kì', nay căn cứ vào các bản khác để sửa lại. ↵
- Tuyên ty nguyên bản là 'Quan ty', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại ↵
- Y phục theo các bản và 《Tống hội yếu》 phiên di 6-7 đều là 'y đai'. ↵
- văn thần chính hàm: 《Tống hội yếu》 chức quan 77-46, 《Tống sử》 quyển 170 chức quan chí đều chép là 'văn thần chánh ngôn'. ↵
- phần nhiều là nhà giàu có thế lực: 'Kiêm tính' hai chữ nguyên bản đảo, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 77-46, 《Tống sử》 quyển 170 chức quan chí đã sửa lại. 'Pha', hai sách đều chép là 'Loại'. ↵
- Theo quy định cũ, chữ 'y' nguyên là chữ 'điều', căn cứ vào bản các và 《Tống hội yếu》 chức quan 77-47, 《Tống sử》 quyển 170, chí chức quan sửa lại ↵
- Những người tiến nạp và người ngoài lưu làm chức phán, ty, bạ, uý được thăng làm biệt giá, hai sách trên đều ghi là 'những người tiến nạp và người ngoài lưu làm chức phán, ty, bạ, uý được thăng làm tư mã, lệnh lục được thăng làm biệt giá', nghi ngờ ở đây có thiếu sót ↵
- Sĩ quan nghi là 'sĩ hoạn' ↵
- 'Thu' nguyên bản là 'Mục', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 thực hóa 77-22 sửa lại. ↵
- dù có gạo thì đều nhỏ và đen 'dù có gạo' ba chữ nguyên thiếu, theo sách 《Tư Mã Quang ôn quốc văn chính tư mã công văn tập》 quyển 43, bài 《Gián tây chinh sớ》 bổ sung. ↵
- hoặc đi làm thuê 'làm thuê' nguyên viết 'nợ', theo sách trên sửa. ↵
- Xe kéo 'kéo' nguyên là 'dao', căn cứ theo sách trên và 《Tống sử》 quyển 191, chí binh sửa lại. ↵
- Kho tàng 'kho' nguyên là 'quân', căn cứ theo sách trên sửa lại. ↵
- Trân trọng dự trữ trong kho tàng nội địa, chữ 'Ái' nguyên bản là 'Ưu', căn cứ vào các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 43, 《Tống Sử》 quyển 191, 《Binh Chí》 sửa lại. ↵
- Hoàn chỉnh, chữ 'hoàn' nguyên là 'định', theo các bản và bản in chữ rời sửa lại. ↵