"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 220: NĂM HI NINH THỨ 4 (TÂN HỢI, 1071)

Từ tháng 2 năm Hi Ninh thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng hai, ngày Đinh Tị, mùng một, Trung thư tâu rằng: “Xưa kia, việc tuyển chọn nhân tài đều bắt nguồn từ trường học, nên đạo đức thống nhất từ trên, phong tục hình thành từ dưới, nhân tài đều đủ khả năng làm nên sự nghiệp. Từ khi ân trạch của tiên vương cạn kiệt, phép giáo dục không còn căn cứ, kẻ sĩ dù có tài năng xuất chúng nhưng không có trường học, thầy bạn để rèn luyện, đó là điều đáng lo ngại. Nay muốn khôi phục lại chế độ cổ để cải cách tệ nạn, nhưng lo rằng không có bước đi dần dần. Nên trước hết bỏ lối văn chương câu nệ thanh bệnh, đối ngẫu, để học giả chuyên tâm vào kinh nghĩa, đợi triều đình xây dựng trường học, sau đó mới bàn bạc tìm hiểu phép giáo dục, tuyển chọn của ba đời, thi hành khắp thiên hạ, như vậy mới có thể khôi phục được cổ chế.

Các khoa Minh kinh và các khoa khác muốn bãi bỏ, lấy số người đỗ Minh kinh trước đây tăng thêm số người đỗ Tiến sĩ, và đợi thêm một khoa thi nữa, không cho phép người mới ứng thí các khoa khác, dần dần bắt họ chuyển sang học Tiến sĩ. Trước hết, ở năm lộ Kinh Đông, Thiểm Tây, Hà Đông, Hà Bắc, Kinh Tây đặt chức học quan để dạy dỗ. Số Tiến sĩ do Lễ bộ tăng thêm, chỉ lấy Tiến sĩ ở năm lộ này để bổ sung[1], mong rằng số người đỗ sẽ nhiều hơn, có thể khuyến khích người học các khoa khác hướng về Tiến sĩ.

Nay định chế độ thi cử mới, Tiến sĩ bỏ thi thơ phú, thiếp kinh, mặc nghĩa, mỗi người chọn một trong các kinh 《Thi》, 《Thư》, 《Dịch》, 《Chu Lễ》, 《Lễ Ký》, kiêm thêm 《Luận Ngữ》, 《Mạnh Tử》。 Mỗi kỳ thi bốn trường: đầu tiên là kinh chính, tiếp theo là kinh phụ và mười câu đại nghĩa, cốt yếu thông hiểu nghĩa lý, không cần dùng hết chú sớ. Tiếp theo là một bài luận, rồi ba bài sách vụ thời sự, năm bài sách của Lễ bộ. Năm bài sách của Lễ bộ, cần xem xét. Trung thư soạn mẫu đại nghĩa ban hành. Lấy số người đỗ các khoa tăng thêm số người đỗ Tiến sĩ, lấy số người đỗ Minh kinh năm Hi Ninh thứ hai làm chuẩn. Nếu số người ứng thí nhiều hơn năm Hi Ninh thứ hai, thì cứ mười người lại lấy thêm một người đỗ các khoa khác, nếu số người đỗ các khoa khác không đủ ba người thì vẫn theo lệ cũ. Ở những nơi không có người đỗ Minh kinh, cứ thêm hai mươi người thì theo cách mười người. Số người đỗ do Lễ bộ tâu lên, lấy ba phần mười số người đỗ các khoa khác để tăng thêm số người đỗ Tiến sĩ.

Tiến sĩ ở năm lộ Kinh Đông và những người từng ứng thí các khoa khác chuyển sang ứng thí Tiến sĩ ở các phủ, giám và các lộ để bổ sung’.[/footnote], mong rằng số người đỗ sẽ nhiều hơn, có thể khuyến khích người học các khoa khác hướng về Tiến sĩ. Nay định chế độ thi cử mới, Tiến sĩ bỏ thi thơ phú, thiếp kinh, mặc nghĩa, mỗi người chọn một trong các kinh 《Thi》, 《Thư》, 《Dịch》, 《Chu Lễ》, 《Lễ Ký》, kiêm thêm 《Luận Ngữ》, 《Mạnh Tử》.

Mỗi kỳ thi bốn trường: đầu tiên là kinh chính, tiếp theo là kinh phụ và mười câu đại nghĩa, cốt yếu thông hiểu nghĩa lý, không cần dùng hết chú sớ. Tiếp theo là một bài luận, rồi ba bài sách vụ thời sự, năm bài sách của Lễ bộ. Năm bài sách của Lễ bộ, cần xem xét. Trung thư soạn mẫu đại nghĩa ban hành. Lấy số người đỗ các khoa tăng thêm số người đỗ Tiến sĩ, lấy số người đỗ Minh kinh năm Hi Ninh thứ hai làm chuẩn. Nếu số người ứng thí nhiều hơn năm Hi Ninh thứ hai, thì cứ mười người lại lấy thêm một người đỗ các khoa khác, nếu số người đỗ các khoa khác không đủ ba người thì vẫn theo lệ cũ.

Ở những nơi không có người đỗ Minh kinh, cứ thêm hai mươi người thì theo cách mười người. Số người đỗ do Lễ bộ tâu lên, lấy ba phần mười số người đỗ các khoa khác để tăng thêm số người đỗ Tiến sĩ. Tiến sĩ ở năm lộ Kinh Đông, Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Kinh Tây, Khai Phong phủ, Quốc Tử Giám, các lộ từng ứng thí các khoa khác chuyển sang ứng thí Tiến sĩ, làm thành một hạng riêng để khảo thí. Số điểm đạt được trong các khoa khác đều tính vào số Tiến sĩ đỗ. Khoa thi sau, các khoa khác vẫn cho ứng thí như cũ, sau một khoa thi nữa, ngoài những người cũ, không cho phép ứng thí các khoa khác.

Ở năm lộ trước hết đặt học quan, Trung thư chọn mỗi lộ ba đến năm người, dù chưa làm quan, nhưng có học vấn và đạo đức, cũng cho tạm làm giáo thụ, cấp lương như Chủ bạ, Úy huyện nhỏ. Nếu muốn ứng thí cũng cho phép, sau ba năm, có năm người tiến cử, thì bổ làm Phán, Tư, Chủ bạ, Úy ở bản châu, vẫn kiêm chức giáo thụ. Nếu học vấn đạo đức xuất chúng, được sĩ phu kính phục, thì bổ làm quan, giữ chức giáo thụ. Các châu quân khác đều sai các quan Lưỡng chế, Lưỡng tỉnh, Quán các, Đài gián tiến cử những quan lại đương nhiệm ở kinh đô hoặc người được tuyển chọn có học hạnh đủ làm thầy, Trung thư xem xét, bổ làm quan các lộ, kiêm chức giáo thụ ở bản châu. Ở các châu có số Tiến sĩ không đủ hai trăm người, sai Chuyển vận ty hợp với hai ba châu lân cận tổ chức thi, vẫn dùng số người đỗ của bản châu. Ở điện thí làm một bài sách, hạn trong một nghìn chữ trở lên. Chia làm năm bậc: bậc nhất, nhì ban cho đỗ Tiến sĩ, bậc ba ban cho xuất thân, bậc tư ban cho đồng xuất thân, bậc năm ban cho đồng học cứu xuất thân.” Đều theo lời tâu.

Chu bản nói: Từ khi lấy thi phú để chọn người tài, học giả dần mất đi sự thông minh, đến khi trúng tuyển, áp dụng vào việc chính sự, lại không có chỗ dùng, tệ hại này đã có từ lâu, nhưng không ai có thể cải cách được. Từ khi hoàng thượng lên ngôi, noi theo các bậc tiên vương, tạo lập pháp độ, nhưng những người bàn luận không suy xét sâu xa ý nghĩa, đều nổi lên phản đối. Hoàng thượng cho rằng tất cả những điều này đều do sĩ tử không hiểu nghĩa lý. Vì vậy, bãi bỏ thanh luật, tu sửa và làm sáng tỏ giáo dục trong trường học, từ đó người ta chú trọng kinh thuật và hiểu nghĩa lý ngày càng nhiều.

Từ đây trở xuống 98 chữ, đều là những lời bàn luận thêm vào của Chu sử, không đúng, Tân lục đã bỏ đi, nay tạm lưu lại. Ban đầu thi bốn trường, sau chỉ thi ba trường. Ban đầu thi đại nghĩa, bản kinh và kiêm kinh mỗi loại mười đề, sau không lâu đổi lại thi bốn trường, thời vụ sách ba đề là trường thứ ba. Lại có Lễ bộ năm đề, chưa rõ. Bản văn này Lễ bộ ghi là Nam tỉnh, cần xem xét lại. Tân kỷ chép việc bãi bỏ thi phú và minh kinh, các khoa, lấy kinh nghĩa, luận, sách để thi tiến sĩ, đặt học quan ở các lộ Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây. Cựu kỷ chép chiếu thư nói về chí hướng vào tháng 2 năm thứ hai, là sai. Quyển thứ nhất của 《Tuyển cử chí》 nói: Thi phú phù phiếm, không bám vào đạo đức, áp dụng vào chính sự, không có chỗ dùng, từ đời Đường về sau, không ai có thể cải cách được.

Hoàng thượng noi theo các bậc tiên vương, tạo lập pháp độ, nhưng những người bàn luận không suy xét sâu xa ý nghĩa, đều nổi lên phản đối. Hoàng thượng cho rằng tất cả những điều này đều do sĩ tử không hiểu nghĩa lý, không quen với những gì họ thấy, nên bãi bỏ thanh luật, sai Vương An Thạch giải thích ý chỉ kinh sách, ban bố khắp thiên hạ. Sau khi đã hiểu kinh thuật, bèn ra chiếu theo kinh sách mà họ nghiên cứu, lấy theo tỷ lệ mười phần, chia đều. Trương Tảo nói: “Những người thi về lễ, so với thi, thư, dịch rất ít, nên khuyến khích thêm.” Bèn ra chiếu lấy gấp đôi. Sau đó đến khoảng năm Nguyên Phong, đại thể lấy theo tỷ lệ mười phần, nếu có thừa hoặc thiếu thì bù trừ, không quá ba phần. Ban đầu lấy bản kinh, 《Luận ngữ》, 《Mạnh tử》 nghĩa làm hai trường, luận và sách mỗi loại một trường, sau lấy 《Luận ngữ》, 《Mạnh tử》 phụ vào bản kinh, chỉ còn ba trường[2], thi xong, quan khảo thi trao đổi chấm một trường, mọi người quyết định, rồi mới loại bỏ hoặc giữ lại. Ở thi Điện thí, bài thi sơ khảo và phúc khảo có điểm số chênh lệch lớn, cho phép xem xét lại và lập thứ bậc khác, người trúng tuyển chia làm năm bậc: Bậc nhất, bậc nhì được ban cập đệ, bậc ba được ban tiến sĩ xuất thân, bậc tư đồng xuất thân, bậc năm đồng học cứu xuất thân. Chỉ có đồng học cứu xuất thân, chỉ thực hiện vào năm Hi Ninh thứ 6 và thứ 9. Sau đó, bậc năm đều được hoàng thượng đặc ân ban cho đồng tiến sĩ xuất thân.

[2] Thượng phê: “Gần đây các nơi dò xét thấy giặc phương Tây tập hợp quân mã của mười hai Giám quân ty và chiếm các địa danh, đều có căn cứ. Xét kỹ đây là một cuộc tiến công lớn, lo rằng các lộ không chuẩn bị kỹ, giặc đến sẽ không chống đỡ nổi. Có thể lệnh cho Tuyên phủ Thiểm Tây, Hà Đông và các Kinh lược ty của các lộ sớm thực hiện kế hoạch thanh dã, không được khinh suất giao chiến.”

[3] Ty Nông tự tâu: “Xem xét các điều khoản về sai dịch ở Kinh Tây, các loại như thuế rượu, các phường điếm, trường vụ, đợi khi hết hạn hiện tại sẽ thu lại làm của quan, nửa năm trước đó theo giá bán tư nhân trước đây, niêm yết ở nơi náo nhiệt, kêu gọi người mua, hạn trong hai tháng[3], đều lệnh dâng trạng kín, lập sổ quản lý. Hết hạn, căn cứ vào các trạng dâng lên mở ra xem xét, người trả giá cao nhất mới được mua, nếu giá bằng nhau, đều ưu tiên người dâng trạng trước, tiền đó cho phép chia làm ba kỳ, mỗi năm một kỳ nộp.” Theo đó. Điều này dùng từ sách biên lục[4]Ngày 13 tháng 2 năm thứ 5, Bộ Hình dâng tờ tâu ghi rõ ngày 11 tháng 2 năm thứ 4 Trung thư ra tờ chiếu thêm vào, việc mua bán kín có lẽ bắt đầu từ đây. Ngày 17 tháng 11, ngày 9 tháng 12 năm thứ 3, ngày 14 tháng 3 năm thứ 4 nên cùng tham khảo. Việc bán khắp các trường rượu trong thiên hạ thì vào ngày 22 tháng 2 năm thứ 5.

[4] Ngày Canh Thân, chiếu rằng: “Hà Đông phát dân phu vận lương ra biên giới, có thể cho dân tùy tiện đến các châu biên giới mua nộp. Lương thảo ở Hà Ngoại nếu đã có sẵn thì ngừng vận chuyển. Và những việc có thể giảm nhẹ sức dân, lệnh cho Chuyển vận ty tùy nghi thi hành.”

[5] Ngày Tân Dậu, Trứ tác tá lang, Quán các hiệu khám Lưu Chí được quyền kiểm chính công việc ở lại phòng. Vua ban đầu muốn dùng Chu Minh Chi, nhưng Vương An Thạch từ chối vì là người thân. Vua nói: “Chí chưa thể biết được.” Vương An Thạch đáp: “Thử xem có thể hay không, nếu không thì bãi bỏ cũng không sao, hơn nữa Chí vốn có nhiệm vụ ở Lễ viện.” Vì thế Vua ra lệnh cho Chí quyền.

[6] Ty thiên tấu rằng sao Lão nhân xuất hiện. Theo lệ cũ, việc này phải gửi đến Sử quán. Vua nói: “Việc này rất vô nghĩa, có thể bãi bỏ.” Vương An Thạch khen ngợi, và nói thêm: “Theo lệ cũ cho phép dâng biểu chúc mừng, cũng nên bãi bỏ.” Vua ra chiếu bãi bỏ.

[7] Chiếu cho Hà Bắc chuyển vận ty nộp 10 vạn quan tiền đến Thái Nguyên để chuẩn bị quân phí.

[8] Xu mật viện tâu: “Tuyên phủ ty[5] từ huyện Định Hồ[6] xây đồn đến thành La Ngột, để thông đường lương thực vào vùng đất sinh, dài 170 dặm[7], cần phải dùng quân phòng hộ. Nếu giặc đột ngột kéo đến vây đánh, e rằng khó giữ vững. Hoặc nếu xuất quân vượt sông, mà giặc đã chiếm trước bờ tây, thì quân mã khó qua sông. Muốn lệnh cho Tuyên phủ ty xem xét lại địa hình sông núi, như châu Phủ và quân Bảo Đức, bến Hợp Hà và[8] đồn Thông Tân, tạm thời ở Định Hồ, Khắc Hồ[9] đối diện hai bên sông, bờ tây dựa vào nơi hiểm yếu xây đồn, mong sao dễ dàng và hoàn thành sớm, xuất quân vượt sông có chỗ dựa, giặc không dám đến gần sông để tấn công. Nếu vào cõi tây rồi rút quân, lỡ giặc kỵ binh đuổi theo, sẽ có chỗ để lui về giữ. Còn lại, về phía tây mở rộng xây đồn trại, dần dần dễ hoàn thành.” Đều theo lời tâu.

[9] Chủng Ngạc sau khi xây thành La Ngột, chia quân 1.500 người, để lại phó tướng Lý Tông Sư trấn giữ, còn mình thì rút quân về thành Tuy Đức. Việc này căn cứ theo 《Phạm Dục chí Chủng Ngạc thành La Ngột sự》, tổng cộng 29 ngày thì hoàn thành công việc, đi về mất 35 ngày, việc rút về Tuy Đức hẳn là vào ngày mồng 5 tháng 2, nhân đó ghi chép lại ở đây, ngày mồng 2 tháng giêng Mậu Tý có thể tra cứu. Kinh lược ty Hà Đông sau khi phát binh hội quân với Chủng Ngạc, lại nhận chiếu phát 2 vạn quân cung cấp lương thảo, đi theo con đường mới Hoang Đôi tiến đến thành La Ngột. Lữ Công Bật nói: “Quân ta tuy đã thông hành, nhưng nếu địch đặt phục binh đánh úp phía sau, thì quân ta sẽ không còn ai sống sót. Cửa quan Vĩnh Hòa tuy xa vòng và trễ hạn, nhưng có thể tránh được nạn bị tập kích.” Bèn sai quân đi theo cửa quan Vĩnh Hòa. Chẳng bao lâu, quân tiếp viện Thần Đường quả nhiên gặp phục binh không thể tiến lên được. Vua ban chiếu khen ngợi. Sau khi xây thành La Ngột, dựng ba trại, lại muốn tăng thêm các đồn bảo. Công Bật tâu rằng: “Ba trại phân tán rộng, khó giữ được. Nay quân ta giết và bắt được nhiều, giặc đang ôm lòng phẫn nộ, ngày đêm tập hợp quân, ắt sẽ gây họa biên giới. Xin bãi bỏ ba trại, chuyên tâm giữ vững, để tiêu trừ mưu đồ xâm phạm biên giới của chúng.” Vua không nghe theo.

[10] Đoan Minh điện học sĩ, Thượng thư tả thừa Vương Tố được bổ làm Công bộ thượng thư, Đoan Minh điện học sĩ trí sĩ, Vua lập tức đồng ý. Vương An Thạch nói: “Nên hạ chiếu không cho phép.” Vua nói: “Vương Tố hiện ở đây, ta biết rõ bệnh tình của ông ấy, cho phép ông ấy trí sĩ, có hại gì?” An Thạch nói: “Không có hại. Theo lệ cũ, người trí sĩ thường không được giữ chức vụ.” Vương An Thạch cho rằng người trí sĩ là trao lại công việc cho Vua, không có lý do bị cách chức. Vì vậy, từ Vương Tố trở đi, đều lấy chức vụ hiện tại mà trí sĩ. Việc này căn cứ theo 《Tư Mã Quang nhật ký》 thêm vào, việc giữ chức vụ khi trí sĩ đã thấy ở ngày Tân Tỵ tháng 12 năm thứ 3.

[11] Tri Vĩnh Hưng quân, Đoan Minh điện học sĩ kiêm Hàn Lâm thị độc học sĩ Tư Mã Quang nhậm chức Tri Hứa châu. Khi ở Vĩnh Hưng, Tuyên phủ ty xin tăng tu sửa thành lũy, dù là nội quận không giáp biên giới cũng tăng tu như biên quận. Quang tâu xin bãi bỏ việc này. Lại xin thêm quân mã đồn trú ở Trường An, Hà Trung, Bân châu. Quang nói: “Năm mất mùa, dân khó kiếm ăn, sợ không đủ cung ứng, xin bãi bỏ việc thêm quân đồn trú.” Không được chấp thuận. Tuyên phủ ty bắt dân làm lương khô [cỏ ít] cơm. Quang cho rằng trước đây thường làm, sau không dùng đến bị hỏng bỏ đi, sức dân đáng tiếc; lại tâu xin cho những nơi bị thiên tai được miễn nợ tiền thanh miêu, và gửi văn thư đến tám châu quân thuộc quyền, chưa được thi hành theo chỉ huy của Ty Nông tự. Chiếu chỉ cho Ty Đề cử thi hành theo chỉ huy của Ty Nông tự, không được thi hành văn thư của Quang. Tuyên phủ sứ ra lệnh, chia nghĩa dũng làm bốn phiên, muốn đổi phiên trấn thủ biên giới, tuyển chọn quân tinh nhuệ, chiêu mộ thanh niên hư hỏng trong làng làm kỳ binh. Bắt dân làm lương khô [cỏ ít] cơm. Dù là nội quận không giáp biên giới cũng tu sửa thành trì lầu gác như biên quận, lại điều quân đến Trường An, Hà Trung, Bân để nhận lương, ba phụ địa phương náo loạn. Quang dâng sớ nói rõ: “Hiện nay công tư đều khốn đốn, không thể khởi sự, mà Vĩnh Hưng một lộ, thành trì lầu gác đều không cần thiết. Lương khô [cỏ ít] cơm trước đây thường làm, sau không dùng đến bị hỏng bỏ đi. Lệnh của Tuyên phủ ty, thần đều không dám tuân theo. Nếu thiếu quân nhu, thần xin chịu tội.” Nhờ vậy một lộ được miễn.

Ít lâu sau, có chiếu chuyển Quang làm Tri Hứa châu, Quang không nhận[10], bèn xin làm Phán Tây Kinh Lưu thủ ty Ngự sử đài để về hưu, từ đó không bàn việc nữa. Đây là lời ghi trong hành trạng do Tô Thức soạn, bản truyện mới theo đó. Xét kỹ có lẽ trước sau có chỗ khác nhau, nay căn cứ vào tập tấu nghị của Quang để sửa lại.

[12] Quang biết lời mình không được dùng, bèn xin được làm quan ở Tây Kinh lưu ty Ngự sử đài, nhưng không được trả lời. Lại dâng chương nói: “Thần kém tài, thua xa các bậc quần thần. Sự nhìn xa trông rộng không bằng Lã Hối, sự công bằng ngay thẳng không bằng Phạm Thuần Nhân, Trình Hạo, sự dám nói không bằng Tô Thức, Khổng Văn Trọng, sự quyết đoán không bằng Phạm Trấn. Hối khi An Thạch mới bắt đầu nắm chính sự, đã nói An Thạch là gian tà, cho rằng y tất sẽ làm loạn thiên hạ. Thần cho rằng An Thạch chỉ là không hiểu việc và cố chấp mà thôi, chưa đến mức như Hối nói. Nay xem An Thạch dẫn dắt thân tín, chiếm giữ các chức vụ quan trọng, bài xích người khác ý, cố thủ quyền lực và ân sủng, thường lấy ý mình mà ngầm khuyên bệ hạ ban hành chiếu chỉ trong cung để quyết định việc triều đình, khiến uy quyền và phúc lộc trong thiên hạ đều về tay mình, mà mọi lời chê trách đều quy về bệ hạ. Thần mới biết rằng sự nhìn xa trông rộng của mình kém xa Hối! Thuần Nhân và Hạo đều vốn thân thiết với An Thạch, An Thạch đề bạt họ từ hàng ngũ thứ liêu, đưa lên các chức vụ thanh yếu. Thuần Nhân và Hạo thấy việc làm của An Thạch, không dám vì tình riêng mà bỏ nghĩa công, đã thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của y. Thần và An Thạch khác quê, đường lối khác nhau, thần vốn ít tiếp xúc với An Thạch, An Thạch cũng đối đãi thần rất hờ hững, chỉ vì từng cùng làm quan nên trong lòng vẫn lưu luyến, không nỡ dứt bỏ mà nói trước[11], cứ thế kéo dài đến nay, là thần không phụ An Thạch mà phụ bệ hạ rất nhiều. Điều này thua xa Thuần Nhân và Hạo!

Thần kém cỏi giữ chức lưỡng chế, phụng sự ba triều, với quốc gia vừa là nghĩa quân thần, vừa là ân tình cốt nhục, thấy An Thạch chuyên quyền ngang ngược, khiến dân chúng thiên hạ chịu khổ cực, tông miếu xã tắc lâm nguy như trứng chồng, thần nhút nhát tiếc thân, không sớm vạch rõ cho bệ hạ. Thức và Văn Trọng đều là tiểu thần xa lạ, lại dám không sợ uy lôi đình của bệ hạ, nộ khí hổ lang của An Thạch, dâng sách lược, chỉ ra sai lầm, bị cách chức trách phạt, không chút do dự. Điều này thua xa Thức và Văn Trọng! Tình người ai chẳng tham phú quý, ham bổng lộc. Trấn thấy An Thạch mê hoặc bệ hạ, lấy nịnh làm trung, lấy trung làm nịnh, lấy đúng làm sai, lấy sai làm đúng, không kìm được phẫn nộ, dâng sớ thẳng thắn, xin về hưu, cam chịu lời chê bai, đóng cửa ở nhà. Thần tiếc bổng lộc vì vợ con, nhẫn nhục chịu nhục, vẫn ở phương trấn. Điều này thua xa Trấn!”

[13] Thần nghe rằng: Người ở ngôi vị nào ắt phải lo việc của ngôi vị ấy, người hưởng bổng lộc nào ắt phải gánh vác mối lo của bổng lộc ấy. Nếu không như vậy, đó là hành vi trộm cắp. Thần tuy không có tài cán gì, nhưng từng được dạy dỗ bởi bậc quân tử, không nỡ lấy thân mình làm việc trộm cắp. Nay Bệ hạ chỉ tin lời của An Thạch, An Thạch cho là hiền thì là hiền, cho là ngu thì là ngu, cho là đúng thì là đúng, cho là sai thì là sai. Kẻ xu nịnh theo An Thạch thì được gọi là trung lương, kẻ công kích An Thạch thì bị gọi là sàm thắc. Tài năng và kiến thức của thần vốn bị An Thạch coi là ngu dốt, lời bàn luận của thần vốn bị An Thạch coi là sai trái. Những lời thần nói hôm nay, chính là điều mà Bệ hạ gọi là sàm thắc vậy[12]! Thần kính mong Bệ hạ rủ lòng thương xét xử tội của thần. Nếu tội của thần giống như Phạm Trấn, xin được theo lệ của Phạm Trấn mà về hưu. Nếu tội nặng hơn Trấn, hoặc bị đày hoặc bị giết, thần không dám trốn tránh.

[14] Chiếu cho Tư Mã Quang dời đến nhậm chức ở Hứa Châu, lệnh qua cửa khuyết vào chầu. Có người nói: “Bệ hạ không dùng lời của Quang, Quang ắt sẽ không đến.” Vua nói: “Chưa bàn đến việc dùng lời của ông ấy hay không[13], nhưng người như Quang thường ở bên cạnh, bậc quân chủ tự nhiên có thể không mắc lỗi lầm.” Quang từ chối đến Hứa Châu, cố xin ở lại Lưu Đài. Lâu sau, Vua mới theo lời thỉnh cầu. Từ đó, Quang hoàn toàn im lặng, không bàn đến Tân pháp nữa. Quang dâng sớ tự nhận mình không bằng Lã Hối, Vua lệnh qua cửa khuyết vào chầu, việc này căn cứ theo 《Thiệu Bá Ôn văn kiến lục》. Bá Ôn lại nói: Vua hỏi Ngự sử Trình Hạo: “Trẫm triệu Tư Mã Quang, khanh đoán xem Quang có đến không?” Hạo đáp: “Bệ hạ dùng lời của ông ấy, Quang ắt sẽ đến; không dùng lời của ông ấy, Quang ắt sẽ không đến.” Xét vào tháng 4 năm thứ 3, Hạo đã bị bãi chức Ngự sử, lúc này không còn ở triều đình, Bá Ôn nhầm lẫn. Nay ghi lại lời ấy, nhưng không nêu tên người đối đáp để tồn nghi, cần xem xét thêm. Việc ở lại Lưu Đài được chấp thuận vào ngày Quý Dậu (19) tháng 4, nay ghi chung vào đây. Lý Thanh Thần viết bia thần đạo của Hàn Giáng nói: Tư Mã Quang đang bất hòa với chấp chính, nhưng Giáng nói Quang có thể thay mình làm Xu mật phó sứ, đến khi làm Tể tướng lại tiến cử Quang. Thần Tông cũng đồng ý, nói: “Khanh đoán xem Quang có đến không? Trẫm sẽ lập tức triệu.” Thiệu Bá Ôn ghi chép câu “đoán xem Quang có đến không” là lời Thần Tông nói với Giáng, nhưng Bá Ôn nhầm thành Trình Hạo, cần xem xét kỹ hơn.

[15] Chiếu cho Giang, Hoài phát vận ty cử quan điều tra việc các quan lại thuộc huyện của Châu Bạc ngăn cản những hộ dân muốn xin tiền thanh miêu, và lệnh cho chuyển vận ty, đề hình ty xem xét tình hình các huyện không bị tố cáo về thiên tai để tâu lên. Những hộ bị thiên tai tuy không được xét miễn thuế, nhưng các khoản thuế chưa nộp tạm thời được hoãn lại. Quản câu Hoài Nam lộ thường bình đẳng sự, Trứ tác tá lang Triệu Tế tâu: “Phú Bật là đại thần mà bỏ qua phép mới, việc thi hành pháp luật phải bắt đầu từ những người quyền quý, nếu bỏ qua không xét hỏi thì không thể làm gương cho thiên hạ!” Vì thế có mệnh lệnh này. Tế là con của Tông Đạo.

[16] Biên tu trung thư điều lệ sở tâu: “Việc bổ nhiệm quan chức ở Xá nhân viện đều có quy định rõ ràng, việc bổ nhiệm quan chức không ngày nào là không có. Các quan chức ngoại chế đều kiêm nhiệm việc khác, khi ra lệnh vội vàng, việc khen chê nặng nhẹ có khi chưa được công bằng. Xin từ nay các văn thần lưỡng chế, vũ thần từ các chức Cáp môn sứ trở lên, cùng những người được triều đình thăng chức, đặc chỉ cải quan, và những người bị giáng chức, đặc tuyển cáo từ, ngoài ra các việc bổ nhiệm khác đều soạn sẵn để kiểm tra sử dụng.” Được chấp thuận. Sự việc này được ghi trong 《Thời chính ký》 vào ngày Nhâm Tuất mồng 6. Nay theo 《Thực lục》.

[17] Trước đó, Vua nói rằng Trần Dịch soạn chế từ không hay, muốn dùng Tăng Bố, nhưng lại nghi ngờ Bố đảm nhiệm quá nhiều việc. Vương An Thạch nói: “Bố kiêm nhiệm cũng không mệt.” Vua bèn cho Bố làm Trực Xá nhân viện. An Thạch nhân đó tâu: “Chế từ quá rườm rà, như việc thăng chuyển các quan thường tham, đâu cần phải soạn cáo từ khen ngợi họ, như thế không phải là thể chế của vương ngôn, lại khiến các quan phải tốn thời gian vào việc soạn văn hoa.” Vua nói: “Các quan thường tham phần nhiều không xứng chức, mỗi lần thăng chuyển lại khen ngợi tài đức, đều không đúng sự thật, thật là vô nghĩa.” An Thạch tâu: “Thần nghĩ chỉ cần soạn định cáo từ rằng: ‘Trẫm ghi nhận công lao của ngươi, thăng lên chức vị này, hãy đến nhận chức, tuân theo mệnh lệnh của Trẫm, hãy kính cẩn!’ Các việc khác cũng soạn định như thế, sẽ rất tiết kiệm tâm lực của từ thần, lại khiến họ chuyên tâm vào việc thực tế, cũng hợp với thể chế vương ngôn.” Phùng Kinh cho rằng không nên. Vua cuối cùng nghe theo lời An Thạch. Vua lại muốn dùng Trương Hổ làm Trực Xá nhân viện, Kinh lại tiến cử Lưu Ban, Tăng Củng, Tô Thức, Vua không trả lời. Ban lúc đó làm Thông phán Thái Châu, Củng làm Thông phán Việt Châu, Thức bị bãi chức Khai Phong phủ Thôi quan, được bổ làm Thông phán Hàng Châu nhưng chưa nhận chức. Việc này theo《Vương An Thạch Nhật Lục》.

[18] Xu mật viện tâu: “Các phòng khi sai quan tuyên quyển, có chức vụ giống nhau nhưng quy định khác nhau, chi tiết không hợp lý, trước sau mâu thuẫn, xin giao cho Thừa chỉ ty, tập hợp các Phó thừa chỉ của các phòng cùng tham khảo điều mục, sửa đổi, soạn thành bản thống nhất dâng lên, khi sai quan thì ban hành để tuân theo. Khi sai quan tuyên mệnh, chỉ cần nêu rõ chức vụ được sai, bỏ bớt văn hoa, để giữ thể chế của chế chiếu.” Vua đồng ý.

[19] Thưởng công dẹp loạn giặc Di ở huyện Ba, châu Du, phong Binh mã sứ Đỗ An Hành làm Hữu thị cấm, Vương Thái làm Tam ban phụng chức, những người khác đều được ban ơn theo thứ bậc. Nhà sư Cư Nhất được ban áo tía, cho hai đồng tử đi tu. Ngày mồng 5, ngày Tân Dậu, Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự Tăng Bố tâu: “Gần đây có người nói về tên gọi và nghĩa lý trong 《Hình thống》 có nhiều điều chưa hợp lý, xin được tu chỉnh thêm”. Theo chỉ dụ triều đình, bảo thần xem xét kỹ, nay từng điều một phân tích rõ. 《Hình thống》 sơ lược nghĩa lý dài dòng thô tục, cùng với những điều khoản hiện nay không còn áp dụng có thể bỏ đi, những điều nghịch lý sai lầm bác bỏ tổng cộng hơn trăm việc, sửa thành ba quyển dâng lên. Chiếu cho Tăng Bố xem xét kỹ hơn, trong 《Hình thống》 nếu có điều gì chưa tiện, tiếp tục trình bày từng điều để tâu lên. 《Thực lục》 có chép việc này, 《Trung thư thời chính ký》 cũng có. 《Thực lục》 là dựa theo 《Trung thư thời chính ký》. Đã ghi kèm vào ngày 21 tháng 8 năm thứ 3, ngày Mậu Dần, nay ghi chú thêm ở đây, cần phải bỏ phần này.

[20] Ngày Nhâm Tuất, Hàn Giáng xin dùng Hàn Đạc, Đề điểm hình ngục lộ Thiểm Tây, tạm quyền Chuyển vận sứ Hà Đông. Vua nói: “Đạc tàn bạo khắc nghiệt, sợ rằng Hà Đông vừa trải qua cảnh tang thương, chưa thể dùng được.” Văn Ngạn Bác nói: “Hàn Giáng cần Đạc để giải quyết việc biên cương, nay không dùng Đạc mà dùng người khác, sợ sẽ hỏng việc.” Phùng Kinh nói: “Đạc thích xu nịnh thời thế.” Vương An Thạch cũng nói Đạc là người phản phúc.

Vua nói: “Nếu biết xu nịnh thời thế, dù có lỗi nhỏ gây phiền nhiễu, vẫn còn hơn Trần Nhữ Hi, Trương Vấn cố ý phá hoại.” An Thạch nói: “Cố ý phá hoại và xu nịnh gây phiền nhiễu, đều không thể được.” Nhân đó nói: “Đạc ban đầu giúp thi hành phép thường bình, sau nghe thần sắp bãi chính sự, liền tìm cách phá hoại, người như vậy sợ khó giao việc biên cương.” Vua nói: “Nên xem xét lại.” An Thạch nói: “Sợ rằng khi xem xét xong thì việc đã hỏng rồi.” Vua nói: “Hiện chưa có người khác, Trương Vấn chắc chắn khó ở lại chức vụ, tạm dùng Đạc, thế nào?” An Thạch nói: “Được.” Bèn theo lời xin của Giáng.

(Việc này căn cứ theo 《Nhật lục》. Tháng 9 năm thứ 3, Trương Vấn làm Tào vận Hà Đông. Ngày 21 tháng 3 năm thứ 4, Vấn bị khiển trách, giáng làm Tri quang hóa. Ngày 21 tháng 4, Tôn Thản từ chức Khai phong phán quan được bổ làm Tào vận Hà Đông.)

[21] Thượng lại bàn với An Thạch về việc các thành trại ở Hà Đông không phải không thể tu sửa, nhưng Ty Chuyển vận không nên cố ý ngăn trở việc tu sửa mà chỉ muốn bãi bỏ. An Thạch nói: “Thần khi ở Hàn Lâm, Bệ hạ hỏi về Bùi Độ, thần lúc ấy tâu rằng, nếu không phải Bùi Độ đánh Thái Châu, thì cho rằng chưa thể trị được triều đình, mà dùng binh ở phương trấn, tuy may mắn có công, nhưng không đáng khen. Sau đó, Bệ hạ hỏi về việc Tuyên Vương lên ngôi sao có thể đánh đuổi được rợ Di, thần lúc ấy tâu rằng, Tuyên Vương trong thì tu chính sự, sau đó mới đánh đuổi rợ Di, Bệ hạ rất tán thành lời thần. Bệ hạ đã đề bạt thần vào chức vụ này, nếu có một người thất sở, thần xin chịu trách nhiệm. Từ khi nghe tin Hà Đông bị nhiễu loạn, thần ăn ngủ không yên, đâu dám không hết lòng với Bệ hạ. Ty Kinh lược và Ty Chuyển vận ở Hà Đông đã được lệnh phân tích và thể lượng, cần trị tội ngăn trở, phải đợi họ nhận tội mới có thể thi hành hình phạt.”

Thượng nói: “Chỉ cần so sánh các văn bản trước sau của Ty Tuyên phủ và Ty Kinh lược Chuyển vận, sẽ thấy rõ sự thật.” An Thạch nói: “Chưa thể thấy ngay, nhưng nên để họ tự trình bày phân tích, nếu thực sự vô lý, thì không thể để họ nói bừa được. Bệ hạ không phải không hiểu văn bản quan lại, việc này không khó để thấy đúng sai.” Thượng nói: “Cần phải dùng ý mà xét kỹ.” An Thạch nói: “Chỉ nên để họ nói hết ý kiến, thì đúng sai tự nhiên sẽ rõ. Nếu có ý kiến thì có chỗ đúng chỗ sai, nhưng vẫn nên hết lòng trình bày, sợ rằng người khác sẽ dò xét ý Bệ hạ, từ đó mất đi sự thật.” Bằng Kinh nói: “Phạm Dục trở về tự thấy.” Phạm Dục thể lượng việc Hà Đông vào ngày 13 tháng giêng. An Thạch nói: “Phạm Dục trở về e rằng cũng chưa nắm được sự thật.”

Thượng nói: “Phạm Dục thực sự chưa đáng tin, cần phải sai người khác thể lượng. Nếu như Trương Vấn và những người khác thực sự có ý ngăn trở, thì không thể dung thứ.” An Thạch nói: “Có ý ngăn trở, tất nhiên không thể dung thứ, nhưng nếu chỉ là sai lầm, mà gây hại lớn, cũng không thể áp dụng hình phạt nhẹ. Nay đã có ba người bị kết án tử hình oan, đã bị cách chức và quản thúc. Hiện nay, dân chúng một lộ khốn khổ, chỉ riêng số người tự tử đã không dưới ba người, sao có thể tha thứ được? Nhưng lời khai của họ chưa đầy đủ, chưa thể dễ dàng áp dụng hình phạt, cần phải điều tra đến cùng, khiến họ không còn lời gì để nói, thì pháp luật mới được thi hành và người ta mới phục.” Khi Phạm Dục tâu về việc Ty Chuyển vận gây phiền nhiễu, An Thạch xin theo lời tâu của Dục. Thượng bèn lệnh cho Dục trình bày chi tiết về những việc làm sai trái của Ty Chuyển vận, và lệnh cho Ty Chuyển vận phân tích. Thượng vẫn nghi ngờ rằng họ có ý đồ phá hoại. An Thạch nói: “Không cần hỏi có ý hay không có ý, đều có thể trị tội. Hoặc là họ tự lo quá mức, sợ phạm tội thiếu quân nhu, nên mới sai lầm đến thế!” Thượng cho là phải.

Dục lại tấu: “Thần từ khi đến Hà Đông, mọi lời nói về tình trạng hao phí, không gì không quy về Chuyển vận sứ, vì sự phiền toái của việc điều phát, sự tàn bạo của việc thúc ép, sự nghiêm khắc của văn thư ước thúc, đều do Chuyển vận ty đưa ra, mà Tuyên phủ sứ lại ra bảng cáo dụ rằng không phải do ý mình. Khi thần lấy được văn thư bẩm báo của Chuyển vận sứ và thứ tự tuân hành, cùng với sự việc Kinh lược ty xuất binh, mới biết đều bắt nguồn từ việc Tuyên phủ ty vọng động dấy binh nặng, quân nhu gấp gáp, mà thành ra do Chuyển vận ty vội vàng ứng mệnh, kế hoạch không tinh tế, khiến cho dân chúng một vốn siêng năng tiết kiệm, tan nát sinh nghiệp, lâm vào cảnh chết chóc. Trên khiến thiên tử lo lắng, dưới gây nên sự phẫn nộ khắp nơi, tội đã có chỗ xử. Thần trước đây từ Hoàn Khánh lộ trở về, đến Tuyên phủ ty, muốn lệnh cho các đạo tiến công, nghĩ rằng đủ để làm khốn đốn giặc, vẫn mong triều đình trong ngoài hợp mưu để thành tựu đại kế. Mà thần cũng không dám nêu lên luận điệu cao xa, để ngăn trở kế hoạch đã định, phẫn nộ loạn lạc, lo lắng thực sự cùng với quốc gia.

Nay Tuyên phủ ty Hàn Giáng dẫn một vạn quân Lân, Phủ, chín ngày sau đến La Ngột thành, không có gì để quyết thắng. Mà ba mươi vạn dân chuyển lương trên đường, chi phí lên đến năm sáu trăm vạn, lại sẽ tập trung binh lính xây dựng bốn trại, điều phối thuế má trăm đường, kế hoạch quốc gia và tài sản dân chúng, bị hủy hoại chưa dừng. Về phía giặc, lo rằng không tổn hại gì, khiến chúng thu hồi uy lực, lẩn tránh xa xôi, tích tụ khí thế, từ từ tính kế sau. Mà Giáng không hiểu lý này, muốn làm khốn đốn giặc phương Tây, há phải là người lo đại sự, hiểu sâu về binh pháp sao! Thần đã hỏi khắp về lợi hại của việc tu sửa trại, người bàn luận cho rằng tám trại cùng dựng lên, đồn lũy bố trí khắp nơi, sau đó mới có thế phòng thủ, tính toán tài lực quan tư, quyết không thể thành; dù có thành đi nữa, đối với biên phòng có chút lợi, đối với quốc kế có hại lớn.

Lợi nhỏ là khiến cho đường Tuy, Lân, Phủ thông suốt, trong giảm bớt việc phòng thủ dọc sông, ngoài thu hồi được trà sơn, thiết dã, trúc tiễn là nơi cung cấp tài nguyên của giặc phương Tây. Hại lớn là trước đây xây thành Hoang Đôi Tam Tuyền, sức dân đã kiệt quệ, nay lại tiếp tục dựng ba trại các đồn, tính cảnh càng xa, chi phí gấp mười lần trước, lấy gì để cung ứng? Dù có dùng hình phạt nghiêm khắc để ép buộc, sức yếu không kham nổi, sẽ thấy dân chúng bỏ trốn mất việc, kêu gào tụ tập thành giặc cướp, thì họa không chỉ ở biên cương, mà còn ở trung châu nữa! Thêm nữa, mấy năm gần đây Hà Đông đã dốc hết sức hai mươi châu để cung cấp cho ba châu Lân, Phủ, Phong, người làm việc mệt mỏi vì chuyển vận, hộ nấu rượu khốn đốn vì thuế nộp, người đóng thuế cùng cực vì việc mua lương. Nay lại thêm bốn trại, thần e rằng dân không chịu nổi mệnh lệnh, sẽ là mối hại muôn đời của Hà Đông. Cộng thêm việc giặc mất chỗ dựa, tất sẽ dốc sức chết để tranh giành, họa lớn ở biên cương, tất sẽ bắt đầu từ đây. Kính mong bệ hạ suy xét kỹ, lại ban cho lời bàn sâu, xem xét hại lớn bỏ lợi nhỏ, để định ra kế sách an nguy tối thượng.”

[22] Đồng tri Đại Tông chính thừa Lý Đức Sô tâu: “Xin từ nay về sau, hoàng thân có việc điếu viếng, thăm hỏi trong ngoài thân tộc, cùng các việc ra vào liên quan, đều biên thành quy chế, không cần phải tâu báo từng việc và ngày nào cũng phải báo lên bản ty, chỉ cần lệnh cho quan chức phụ trách ghi chép vào sổ, rồi đưa lên Đại Tông chính ty ký duyệt, tờ tâu mỗi tháng tập hợp lại tâu lên.” Vua theo lời tâu.

[23] Ngày Quý Hợi, Tuyên phủ phán quan Thiểm Tây Hà Đông, Độ chi viên ngoại lang, Tri chế cáo Lã Đại Phòng được bổ làm Tri Diên châu; Quyền phát khiển Diên châu, Hữu ty gián, Trực Long đồ các Triệu Tiết được quyền phát khiển Khánh châu; Tri Khánh châu, Công bộ lang trung, Bảo văn các đãi chế Vương Quảng Uyên được bổ làm Tri Vĩnh Hưng quân. Lã Đại Phòng vì công việc sứ mệnh chưa xong, nên không nhận chiếu, tâu lên Tuyên phủ ty; Triệu Tiết và Vương Quảng Uyên hơn một tháng sau đều được khôi phục chức vụ cũ. Việc khôi phục chức vụ cũ vào ngày 10 tháng 3, nay ghi trước ở đây.

[24] Triệu Tiết mới nhậm chức, quân lính Hán và người Thổ đều do Chủng Ngạc chỉ huy, thanh niên và phụ nữ phải gánh vác lương thực, chỉ còn người già và trẻ nhỏ ở lại. Chủng Ngạc ỷ quyền tự ý hành động, không còn kỷ luật, việc cung cấp lương thực đều dùng pháp lệnh quân sự để thúc ép, phá hủy các công sự biên giới để xây dựng thành mới, phủ soái không hề hay biết. Triệu Tiết tùy nghi sửa chữa để phòng bị bất trắc, liền tâu lên tất cả, và nói: “Chủng Ngạc tiến quân thiếu kế sách, thành La Ngột xa xôi cô lập, cuối cùng khó giữ được. Nay không lo Tây Hạ xâm lược, mà lo kỷ luật không nghiêm; không lo thành trì khó giữ, mà lo quyền lực bị lạm dụng, biến cố xảy ra trong chốc lát, mất cơ hội hành động. Mong chọn lại tướng tài, để giảm bớt lo lắng phía Tây.” Việc này căn cứ theo mộ chí, ghi kèm ngày 18 tháng 3, khi Phủ Ninh bảo thất thủ, cần tham khảo thêm.

[25] Ty Nông tự tâu: “Dân huyện Lăng châu xin vay tiền Thanh Miêu, nhưng kho Thường Bình không có tiền mặt, bản châu dùng muối và thuế muối[14] để chi trả. Chuyển vận ty liền hặc tội tự ý chi tiền. Xin tha cho quan lại, và hặc tội Chuyển vận ty để tâu lên.” Vua theo lời tâu.

[26] Ngày Giáp Tý, Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lí, Trực Xá nhân viện, Kiểm chính Trung thư Hộ phòng Công sự Tăng Bố được cử làm Kiểm chính Ngũ phòng Công sự. Tăng Bố mỗi khi có việc đều báo cáo Vương An Thạch rồi thi hành ngay. Có người bảo Tăng Bố nên báo cáo cả hai vị Tham chính, tức chỉ Phùng Kinh và Vương Khuê. Tăng Bố nói: “Thừa tướng đã bàn định rồi, cần gì hỏi họ nữa! Chỉ đợi chiếu chỉ ban ra rồi ký tên thôi!” Tăng Bố vào ngày 15 tháng 9 năm thứ 3 được cử làm Kiểm chính Hộ phòng, ngày 3 tháng 5 tham gia tường định biên soạn sắc lệnh, còn việc ông nhậm chức Trực Xá nhân viện là vào ngày mùng 5 tháng này.

[27] Ngự sử trung thừa Dương Hội tâu: “Gần đây, Tiến tấu viện ban bố điều lệnh xuống các nơi và Lưu nội tuyển treo bảng thông báo điều quy định, phần đầu chỉ ghi là căn cứ theo bản tường trình của quan kiểm chính ở một phòng nào đó, phần cuối lại ghi là đã trình lên và được phụng thánh chỉ theo quyết định của quan kiểm chính, cả đầu và cuối đều dùng danh nghĩa quan kiểm chính. Nếu việc này chưa từng qua Trung thư, Môn hạ, thì thật là mất thể thống hiệu lệnh của triều đình.”

Lại tâu: “Thần thường bàn rằng thể thống hiệu lệnh của triều đình không nên chỉ dùng danh nghĩa quan kiểm chính ở đầu và cuối, nghe nói trước đây đã sửa đổi, chỉ ghi là các phòng. Thần e rằng như vậy vẫn chưa hợp lý. Những gì được ban bố theo thánh chỉ chỉ huy, tức là chính lệnh của triều đình, còn các phòng chỉ là tên gọi của bộ phận lại viên, nay dùng danh nghĩa quan kiểm chính đã là mất thể thống, huống chi chỉ ghi là tên một phòng nào đó, thì thiên hạ há chẳng ngạc nhiên về nguồn gốc của nó sao! Huống chi đã qua Trung thư, Môn hạ tham định, thì có thể chỉ ghi là Trung thư, Môn hạ, cần gì phải ghi là phòng nào đó! Thần lại nghe rằng các quan kiểm chính ở các phòng mỗi khi quyết định văn bản, chưa trình lên, đều chỉ đến một mình tể thần Vương An Thạch để thương lượng bẩm báo, rồi liền làm văn bản trình lên, còn Phùng Kinh và những người khác chỉ là ký tên thi hành theo văn bản đã làm xong.

Thần cho rằng quốc gia đặt ra các chức phụ tá, không chỉ là muốn mọi việc được bàn bạc kỹ lưỡng để xử lý đúng đắn, mà còn là để phòng ngừa quyền lực tập trung vào một nơi. Nay các quan kiểm chính đều là người được triều đình tuyển dụng, mà không hiểu thể thống như vậy[15], khiến bên ngoài xôn xao bàn tán, đều nói rằng ngay cả việc sửa chữa cũng chỉ do tể thần Vương An Thạch và đô kiểm chính Tăng Bố bàn bạc, còn tham tri chính sự Phùng Kinh, Vương Khuê có khi không được biết trước. Thần cũng cho rằng lời đồn này không đúng, nhưng làm sao có thể đến từng nhà để giải thích?

Kính xin bệ hạ đặc biệt răn dạy các quan kiểm chính, mỗi khi quyết định văn bản, phải bẩm báo đầy đủ; và chỉ huy Phùng Kinh, Vương Khuê và những người khác, bảo họ mỗi người phải làm tròn chức trách, không được qua loa.”

[28] Chiếu mượn 60 vạn quan tiền từ kho Nội tàng làm vốn mua thóc thường bình ở Hoài Nam, Giang Đông, lệnh cho Ty Phát vận Giang, Hoài dùng số tiền chiết hộc của Hà Đông, Thiểm Tây để hoàn trả.

[29] Ngày Ất Sửu, Xu mật viện tâu: “Công sự Câu đương của Ty Tuyên phủ là Tống Địch xin cử sứ thần áp tải Lý Sùng Quý đến doanh trại quân đội.” Vua phê: “Tuyên phủ sứ sắp trở về, Lý Sùng Quý không cần phái đi nữa.” Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》, có thể thấy Thần Tông đã có ý bãi binh, nên đặc biệt ghi lại. Tháng 2, ngày Canh Thìn, Tống Địch được điều làm Tri châu Thiểm Châu.

[30] Ngày Đinh Mão, Trứ tác tá lang, Hiệu thư Sùng Văn viện là Chu Minh Chi được bổ làm Thái tử trung doãn, Hiệu lý Tập Hiền viện, Thuyết thư Sùng Chính điện kiêm quản Quốc tử giám. Minh Chi cố từ chối, nên được giữ nguyên chức cũ. Việc Minh Chi từ chối chức mới, giữ chức cũ là ngày 22 tháng 2, nay ghi chung lại. Lâm Hi nói thêm, chú thích vào ngày Kỷ Mão tháng 8 khi Vương Bàng làm Thuyết thư[16].

[31] Hiệu khám Quán các, Đồng phán Đăng văn cổ là Bồ Tông Mạnh được quyền Kiểm chính Trung thư Khổng mục phòng công sự, Biên tu Trung thư điều lệ là Đặng Nhuận Phủ được quyền Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự.

[32] Chiếu lệnh các đạo Tiến tấu viện do quan Tri Ngân đài ty đề cử, các chức Câu đương Tiến tấu viện, bãi bỏ chức Tam ban sứ thần, lệnh Xu mật viện tuyển chọn 2 viên quan Kinh triều[17], nhà các thần liêu không được xin cho con em làm Câu đương. 《Ngự tập》 ngày 11 Đinh Mão có việc Kinh lược Hà Đông tấu sự.

[33] Ngày Mậu Thìn, ban tặng Phòng ngự sứ châu Ân là Tông Thịnh một khu nhà ở vườn Phương Lâm, cấp nhà theo số nhân khẩu. 《Ngự tập》 ngày 13 tháng 12 năm thứ 2, có ban tặng thủ trát cho Tông Dũ, có thể tham khảo.

[34] Ban tặng 10 vạn quan tiền Giao tử làm vốn mua thóc thường bình ở lộ Tử Châu.

[35] Chiếu lệnh Ty Chuyển vận Thiểm Tây xét việc quan lại quân Vĩnh Hưng tự ý ngăn cản việc tu sửa đê sông Bá, Ngạn ở huyện Vạn Niên để tưới ruộng, tâu rõ nguyên do. Cần xem xét sau này thế nào.

[36] Lại có chiếu cho các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ở Hà Bắc, xem xét các châu huyện thiếu mưa tuyết, nơi nào dân thiếu ăn thì chẩn cấp, thuế còn lại tạm thời cho hoãn thu.

[37] Tri phủ Thái Nguyên Lữ Công Bật tâu: “Đô tuần kiểm Lam, Thạch, Thấp châu là Khang Tòng dẫn quân vào địa giới phía tây, bị giặc Tây chặn đánh chết nhiều, chỉ nói là không kịp theo đội ngũ, xin đặc cách chiếu theo lệ tử trận mà cấp tiền tuất.” Vua theo lời tâu; các quân viên phải kê khai rõ con cháu để tâu lên; Khang Tòng vẫn bị cách chức, lệnh cho ty Chuyển vận xét tội. Lại tâu: “Giặc Tây xông đột, nơi đang tu sửa trại khó thi công, xin tạm ngừng việc, nghiêm răn các lại biên giới, chuyên tâm thực hiện kế sách kiên bích thanh dã.” Vua bèn hạ chiếu cho ty Tuyên phủ khẩn trương tu sửa trại thứ nhất, giặc đến thì cố thủ, đợi khi giặc giải tán quân lớn, từ từ tính kế tiến lên, sau đó tu sửa trung bảo. Trại thứ hai dần chuẩn bị tu sửa, đợi khi trại thứ nhất xong, tâu xin chỉ thị. Việc cố thủ trại thứ nhất, trong《Ngự tập》ghi ngày 17 tháng 2, nay theo《Thực lục》. Lữ Công Bật tâu giặc Tây gây hấn ở nơi tu sửa trại tại Lân Phủ, trong《Ngự tập》ghi ngày 11 tháng 2, nay theo《Thực lục》, là ngày 12.

[38] Chiếu: Từ nay các quan ty tại kinh đều tiến cử quan viên[18], trước hết phải thông báo cho cơ quan phụ trách, xét hồ sơ lý lịch, nếu không vi phạm điều lệ, mới cho phép tâu tiến cử.

[39] Hôm đó, Vua bàn với các đại thần về những tệ nạn trong chính sách trà trước đây. Văn Ngạn Bác nói: “Không phải chính sách trà có vấn đề, mà là do những năm trước đây dùng binh ở phía tây bắc, điều động lương thực cấp bách cho biên giới, dùng trà để trả, số lượng quá nhiều, trà không bán được nên tích trữ khắp nơi, do đó tiền ảo nhiều mà phá hoại pháp chế.”

Vương An Thạch nói: “Việc độc quyền trà thu được lợi nhuận không nhiều.” Ngô Sung nói: “Vào thời chính sách trà cực kỳ hủ bại dưới triều Nhân Tông, mỗi năm vẫn thu được hơn chín mươi vạn quan, cũng không phải là ít. Chính sách trà bị hủy hoại do việc dùng binh, lời của Ngạn Bác là đúng. Tuy nhiên, khi ban đầu lập pháp, cho phép thương nhân đưa cỏ khô và lương thực đến các quận biên giới, cầm giấy tờ giao dịch đến kinh đô, hoặc dùng tiền, bạc, lụa, lĩnh, hoặc hương liệu, ngà voi tùy ý, thương nhân thấy thuận tiện nên pháp chế được thực hiện rộng rãi. Đến đầu niên hiệu Tường Phù, hạn chế bằng pháp chế ba loại thuế, quy định số lượng, không cho phép tùy tiện, khách buôn bị ràng buộc; lại thêm quan trà mua nhiều loại trà kém chất lượng, chỉ cần đủ hạn ngạch, thương nhân mua được, thường bị lỗ; lại thêm pháp chế thay đổi nhiều lần, dân không tin tưởng, đó là lý do khiến nó hủy hoại nghiêm trọng. Nếu biên giới không có việc gì, pháp lệnh không vì lợi nhỏ mà thay đổi nhẹ, tự nhiên sẽ không có pháp chế nào không thực hiện được.” Vương An Thạch nói: “Chính sách trà vốn cũng không tốt, phải kèm theo tiền mặt, hương liệu, v.v. mới bán được, vì tiền mặt, hương liệu, v.v. đã đủ để mua lương thực biên giới, còn trà lại trở thành gánh nặng cho thương nhân, do đó thương nhân nhỏ không thể tham gia, chỉ có thương nhân lớn mới làm được; chỉ có thương nhân lớn mới làm được, thì quyền mua lương thực biên giới nằm trong tay thương nhân lớn, đó là lý do giá mua lương thực luôn cao, mà quan phí lại nặng.”

[40] Ngày Canh Ngọ, nước Vu Điền cống nạp sản vật địa phương.

[41] Vua phê: “Ngoài việc điều động quân Điện tiền và Mã bộ quân, số quân còn lại không nhiều, kinh đô là nơi trọng yếu, về lý là không thuận tiện. Những người được điều động vào năm Trị Bình thứ tư và năm Hi Ninh thứ nhất, có thể xem xét rút về.”

[42] Lại có chiếu chỉ giao cho Xu mật viện rằng: “Trước đây Lý Phục Khuê tự ý thay đổi chiếu mệnh, xuất quân xâm phạm địch, dẫn đến việc biên giới phía Tây phải dùng binh. Các quan giữ chức ở Quảng Nam cũng dùng sức mạnh để chiêu nạp, dẫn đến việc man tộc nổi loạn. Dân tộc thiểu số ở Quỳ, Hạp vốn chỉ được kiềm chế lỏng lẻo, gần đây lại dùng quân đàn áp, nhưng thủ lĩnh của chúng vẫn chưa bị bắt. Mấy ngày trước lại nhận được tấu của quan biên giới Hà Đông rằng quân Bắc địch đang tập trung binh lực, tuy chưa rõ hư thực, nhưng e rằng có quan biên giới nào đó đã khiêu khích. Huống chi hiện nay chính sự triều đình đang có nhiều tệ nạn, đang bàn việc sửa đổi, tài chính quốc gia và sức dân đều kiệt quệ. Lúc bình thường không có việc gì còn lo thiên tai xảy ra không có cách đối phó, nếu bốn phương có biến, lấy gì để chống đỡ? E rằng các quan biên giới chưa hiểu rõ kế sách của triều đình, nên bí mật răn dạy họ.”

[43] Trước đó, Tuyên phủ sứ tấu rằng người Hạ tập hợp quân mà không xuất binh, hoặc nói là đi đánh Tây Phiên. Vua hỏi: “Điều này có ý gì?” Vương An Thạch đáp: “Có lẽ họ muốn trước hết dồn sức đánh Tây Phiên, đàn áp xong rồi mới quay lại tranh chấp với Trung Quốc. Bởi nếu ngay lập tức tranh chấp với Trung Quốc, họ cũng chưa thấy có lợi.” Vua nói: “Nếu làm được như vậy thì quả là có mưu lược.” An Thạch nói: “Trước đây thấy Lương thị giao kế sách cho các thủ lĩnh, e rằng các thủ lĩnh đã tính toán đến việc này.”

[44] Phùng Kinh lại nói: “Có nghe nói rằng họ đã đến Khiết Đan mượn quân.” Vua nghi ngờ Khiết Đan không chịu[19]. An Thạch nói: “Nếu quả thật giặc Hạ mượn quân của Khiết Đan, thì đó không phải là kế sách hay, e rằng họ không đến mức như vậy.” Đến lúc này, tin báo rằng Khiết Đan bí mật điều động ba mươi vạn quân từ vùng trung tâm đến biên giới phía tây, không để Trung Quốc biết. Vua nói: “Quả thật có việc này không?” An Thạch nói: “Dù có cũng không lấy làm lạ. Bệ hạ lên ngôi, liền kinh doanh châu Tuy, lại chiếm châu Ngân, việc chiếm châu Ngân cần xem xét. Phá vỡ thế liên kết của họ. Họ cho rằng nếu Trung Quốc đã khuất phục được nước Hạ, sẽ nhòm ngó U Yên; nếu nhân lúc Trung Quốc có việc, có thể quấy nhiễu quyền lực của ta, thì lợi ích của họ rất lớn. Vua nước Hạ còn nhỏ, đàn bà nắm quyền, giận dữ mà không có mưu lược, hoặc xin quân của Khiết Đan, thì đối với Khiết Đan mà nói, dù đồng ý, có gì không được? Có thể quấy nhiễu Trung Quốc, mà không tổn hại gì đến mình, Khiết Đan làm được điều đó, chỉ e rằng họ không có mưu lược xa, không thể làm như vậy.” Vua nói: “Nếu quả thật đến mức đó, thì làm thế nào?” An Thạch nói: “Bệ hạ thật sự lấy sự bình tĩnh và thận trọng đối phó. Dù thêm một Khiết Đan, việc biên giới cũng không đến nỗi hỗn loạn. Nếu muốn tiến công, thì không phải là điều thần biết. Hơn nữa, ta củng cố thành lũy, dọn sạch đồng ruộng, tích trữ lương thảo để đối phó với địch, thì địch không thể gây họa lớn cho ta. Còn hai nước họ tập trung ở biên giới, lương thảo của họ làm sao duy trì lâu dài? Điều ta lo ngại, chỉ là lương thảo khó tiếp tục mà thôi! Tiết kiệm lương thảo, không làm tổn hại sức dân, mà lấy sự bình tĩnh và thận trọng đợi thời cơ của địch, thì ngoại hoạn không đáng lo ngại!”

Phùng Kinh nói: “E rằng họ sẽ như việc thời Khánh Lịch.” An Thạch nói: “Thời Khánh Lịch là do triều đình mất điều độ, dẫn đến sự khinh nhờn.” Kinh nói: “Đi báo cho họ, bảo họ nói với nước Hạ, họ liền nhận lời, cho rằng đó là việc rất nhỏ.” Vua nói: “Khiết Đan trước sau đều có cơ hội để lợi dụng, triều đình tự đánh mất. Như lúc cuối đời Chân Tông, muốn gửi gắm hậu duệ, triều đình lại nên nhận lời.” An Thạch nói: “Điều đó cũng có ích gì? Nếu hậu duệ của họ mạnh mẽ, há vì lý do đó mà chịu khuất phục; nếu yếu đuối, dù không có điều đó cũng dễ khuất phục. Hơn nữa, thắng được rợ Di, chỉ cần lúc nhàn rỗi sửa sang chính sự và hình pháp, khiến tướng lại xứng chức, của cải dồi dào, binh lực mạnh mẽ là được. Lời nói suông, việc giả dối, không đáng làm.” Cuối đời Chân Tông, muốn gửi gắm hậu duệ, việc này cần xem xét.

[45] Nhà Vua lo lắng về việc tài chính ở Thiểm Tây không đủ. Vương An Thạch nói: “Hiện nay việc chưa thể tiến hành là do tài chính không đủ, vì vậy thần cho rằng việc quản lý tài chính là ưu tiên hàng đầu hiện nay. Nếu chưa lo được tài chính mà đã tiến hành việc lớn thì việc khó thành. Thần từng nói việc thiên hạ giống như đánh cờ, thắng bại phụ thuộc vào việc đi quân trước sau có hợp lý hay không. Lại bàn về quản lý tài chính, thì việc nông nghiệp là cấp bách, nông nghiệp cần loại bỏ những khó khăn, ngăn chặn việc chiếm đoạt ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân là việc cấp thiết, đó là lý do thần hết sức quan tâm đến pháp chế về sai dịch.”

[46] Ngày Tân Mùi, ban chiếu rằng: Từ nay các chức Thừa lang, Cấp sự trung, Gián nghị đại phu khi về hưu, ân điển trong di biểu sẽ giảm một bậc so với khi tại chức, còn các võ quan thì giao cho Xu mật viện thi hành. Đường hậu quan Ngụy Mặc tâu: “Trước đây đã nhầm lẫn áp dụng chế độ như đương chức mà ban cho chức kinh quan, nên nay sửa lại.” Nhà Vua nói: “Mặc đáng được thưởng!” Vương An Thạch nói: “Hãy ghi vào sổ.” Nhà Vua nói: “Vốn đã hợp lệ ghi vào sổ, nên đặc biệt ban thưởng.” An Thạch nói: “Cho giảm hai năm khảo khóa.” Nhà Vua nói: “Tốt.” An Thạch nói: “Bệ hạ làm như vậy rất hay. Bậc quân chủ đối với mọi việc, sao có thể xem xét hết được, giao phó cho tai mắt tâm lực của mọi người, rồi dùng thưởng phạt để thúc đẩy, khiến mỗi người đều tận lực, như vậy sẽ không có kế sách nào bị bỏ sót, việc gì mà chẳng thành?”

[47] Nhà Vua nói với các quan phụ chính: “Hôm trước An phủ sứ lộ Định Châu bắt giữ một khách phương Bắc ở quân An Túc vì tội lấy vợ là người tạp hộ sinh con, rồi giam vào ngục, em trai người này đã cản đường sứ giả Lý Lập Chi để kêu oan, khiến hơn ba mươi người khách phương Bắc nổi loạn. Việc xử lý sự việc này vốn đã có lệ cũ, sao lại gây ra náo loạn như vậy? Đều là do các quan biên giới không thấu hiểu ý triều đình, cố tình gây chuyện. Tuy đã xử lý rồi, nhưng cần phải răn dạy thêm các tướng lĩnh các lộ.”

[48] Lại nói: “Hiện nay tài lực của quốc gia và sức dân đều khốn đốn, kỷ cương chính sự cần phải sửa sang, các khanh hãy cố gắng bàn bạc việc nên làm.” Vương An Thạch nói: “Xưa Ngụy Trưng có nói: ‘Trung Quốc đã yên, người xa tự phục.’ Đây thực là lý lẽ chí lý. Từ xưa chưa từng có việc chính sự được sửa sang mà tài dụng không đủ, người xa không phục.” Ngô Sung nói: “Trong 《Thi》 có câu: ‘Làm ơn cho Trung Quốc, để yên bốn phương.’ Đó là vì trị nội trước vậy.” Phùng Kinh nói: “Chiếu chỉ xử phân, rất hợp thời cơ, thiên hạ nghe được, ắt sẽ vui mừng vì đức lớn của bệ hạ.” An Thạch xin ban chiếu minh xử phân. Vua nói: “Chỉ muốn các quan biên cương biết ý này, nếu tuyên bố ra, có thể nhân đó mà sinh gian.” Bèn thôi.

[49] Ngày Nhâm Thân, Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái úy, Đồng bình chương sự, Cao Mật quận vương[20] Quần làm Bảo Tín, Bảo Tĩnh đẳng quân tiết độ sứ, tiến phong làm Gia Vương. Vẫn sai đại xá, ghi tên Văn Ngạn Bác lên trên. Vua ban đầu ngại Quần còn trẻ, chưa thể thêm hai trấn. Vương An Thạch nói: “Ân huệ cho hoàng đệ không thể giảm được.” Vua nghe theo. 《Thiệu thị văn kiến lục》 chép: Hai vương ra phủ, Phùng Hạo đối với vương hỏi Chương Tịch Quang vân vân, có thể nhân Hạo đợi ngày 2 tháng 3 sửa triều đình quan của vương phủ làm chư vương phủ quan, phụ chép. 《Tân kỷ》, 《Cựu kỷ》 đều chép việc tiến phong Cao Mật quận vương Quần làm Yến Vương. 《Tân kỷ》 không chép chức quan khi Quần mới được phong, đây là chép tước, không phải lệ thường.

[50] Sai phái Hộ bộ phó sứ, Tư huân lang trung Trương Cảnh Hiến, Xu mật đô thừa chỉ, Đông thượng các môn sứ Lý Bình đi xem xét thành La Ngột và thành Phủ Ninh. Triệu Tiết và Lý Hiến nhiều lần tâu rằng hai thành này không thể giữ được. Trước đó, Vương An Thạch xin dùng một hoạn quan thân tín cùng một vị đại thần triều đình cùng đi. Vua không đồng ý, nói: “Dùng tể tướng đi tuyên phủ, lại sai hoạn quan đi xét lại, như thế không tiện.” Định dùng Tăng Bố, nhưng mọi người đều do dự không trả lời. Vua nói: “Tăng Bố là thuộc quan của tể tướng, có thể được.” Ngô Sung xin dùng Tạ Cảnh Ôn, Vương An Thạch cho rằng Cảnh Ôn e rằng không thể nhận rõ lợi hại. Văn Ngạn Bác xin dùng Cảnh Hiến, Phùng Kinh nói: “Hàn Giáng từng tiến cử Cảnh Hiến, lại là người thân của Giáng.” Vua suy nghĩ lâu rồi nói: “Cũng không sao.” Lại muốn sai Lý Bình cùng đi, mọi người đều cho là phải. Lý Hiến trước đây từ chức Nhập nội Tây đầu cung phụng quan được thăng làm Vĩnh Hưng, Thái Nguyên Tẩu mã thừa thụ, nhiều lần bàn việc biên cương hợp ý Vua, là người Tường Phù. Cần xem Lý Hiến lúc này giữ chức gì, có lẽ là Thái Nguyên thừa thụ. Bản truyện không nói rõ.

Cảnh Hiến nhận mệnh, liền tâu rằng: “Hai thành không thể giữ được, thần vốn không cần đợi đến nơi mới biết.” Đi chưa được nửa đường, thành Phủ Ninh đã thất thủ. Đến Phu Diên, ông tâu rằng thành La Ngột cách Tuy Đức hơn trăm dặm, là một tòa thành cô lập, đào giếng không có nước, không có lý do gì để giữ. Ông còn điều trần những điều mắt thấy trên đường về cảnh dân chúng tiều tụy, quân lính than thở, xin bãi bỏ việc làm vô ích, phế bỏ những tòa thành vô dụng, nghiêm lệnh các tướng lo phòng bị là đủ. Chủng Ngạc là người đầu tiên làm hại nước, xin trị tội theo pháp luật. Ông lại nói: “Các quận biên giới dụ dỗ dân sinh sống, người nhỏ thì cho vàng lụa, người lớn thì ban chức tước, e rằng người Khương xảo quyệt nhiều mưu mẹo, khi có việc sẽ làm nội ứng, nên ngăn chặn ngay.” Lý Bình đi sứ trở về, cũng nói rằng vào địa giới Phu Diên hỏi thăm về lợi hại của thành La Ngột, không một người nào nói là tiện, xin phá bỏ ngay để giải quyết mối lo cho cả vùng. Thành Phủ Ninh thất thủ ngày Giáp Tuất (18). Sách 《Cửu triều thông lược》 của Hùng Khắc có chép về Cảnh Hiến, là con của Sư Đức.

[51] Chiếu cho các ty Kinh lược an phủ, Chuyển vận, Kiềm hạt ở các lộ Hà Đông, Thiểm Tây: “Trước đây, các tướng lại giữ biên giới, có kẻ tham công sinh sự, khởi xướng mâu thuẫn, gây ra xung đột biên giới. Tuy đã xem xét và cách chức, nhưng vẫn lo chưa thấu hiểu hết ý của triều đình trong việc trấn an tứ di, nên cần đặc biệt ban lệnh cảnh cáo. Trừ việc nước Hạ gây rối không được phép triều cống, nên lệnh cho các suý thần các lộ từ nay tuân thủ quy định, giữ yên ổn, theo dõi các tướng lại biên giới, không để họ gây sự. Nếu có vi phạm, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.”

[52] Ngày Quý Dậu, chiếu cho Viện Thẩm quan: “Khi định người nhậm chức Tri châu, Quân giám, đều phải đến Trung thư để xét duyệt. Nếu người đó đủ năng lực, sẽ được dẫn vào yết kiến để nhận chỉ dụ. Các thần liêu có tang phải giải chức, hoặc vì việc công không được để tang, theo quy định cũ đều ghi là ‘miễn để tang’ và ghi vào chức vụ. Bề tôi trong thời gian tang chế, vì mệnh Vua mà phải bỏ tang để làm việc, không phải là điều họ muốn, không nên gọi là ‘miễn’. Từ nay, nên ban chỉ dụ không cho để tang, và không ghi vào chức vụ.”

[53] Chiếu rằng từ nay, các văn thần thuộc Lưỡng tỉnh, vũ thần từ Hoành hành trở lên, khi được cử đi công tác tạm thời trong và ngoài nước, sẽ được cấp ấn Phụng sứ, còn lại đều cấp dấu đồng, với chữ “Phụng sứ Chu ký”. Vì Xu mật viện tâu rằng trước đây không phân biệt cao thấp, việc lớn nhỏ, đều cấp ấn, không có sự phân biệt, lại thêm số ấn không đủ.

[54] Vua nói: “Chiếu lệnh triều đình gần đây, các châu quận thi hành không cẩn thận. Như pháp giáo duyệt ở Hà Bắc, Xu mật viện trình lên ở điện Tư chính để định rồi mới thi hành, nhưng Định châu, Thuận An quân lại bỏ xó, không tuân theo. Các huyện thuộc Bạc châu không phát tiền Thanh miêu, quan đề cử hỏi, thì nói: ‘Tuy có chỉ dụ triều đình, nhưng tướng công không cho phát.’ Sao có thể như vậy!” Văn Ngạn Bác nói: “Đại thần nếu thấy pháp lệnh triều đình không hợp, nên tâu trình, sao có thể ngăn cản không thi hành?”

[55] Trước đó, Ngự sử Phạm Dục tâu: “Dân phu Hà Đông chở gỗ đến Lân Châu, bị lưu lại hơn một tháng mà không cho nộp.” Vua nói: “Hai Chuyển vận sứ Hà Đông e rằng cần phải sớm giáng chức, vì họ bố trí sai lầm, khiến cả một lộ bị lao đao, dân không chịu nổi, đến nỗi có nhiều người tự sát. Nếu xét theo pháp luật, cũng chỉ là tội không nên làm.” Vương An Thạch nói: “Việc này do Bệ hạ đặc biệt quyết định, đâu phải do quan tòa. Hơn nữa, từ trước đến nay, xử tội quan lại đều theo chỉ đặc biệt, không theo pháp luật, dù có ân xá cũng không được áp dụng. Bệ hạ trước đây từng nói, kết án oan một người chết là tội không nhẹ, nay việc này làm hại cả một lộ, lẽ nào lại có thể ân xá nhẹ.” Vua nói: “Theo lý, dù bắt họ đền mạng cũng được.” An Thạch nói: “Đã lệnh điều tra kỹ việc này, đợi khi thấy sự thật, tất sẽ trách phạt nặng. Triều đình đã muốn xử nghiêm, càng nên xem xét kỹ lưỡng.”

[56] Chiếu rằng từ nay các châu huyện nếu có đất hoang, ruộng bỏ hoang, chiêu mộ người đến khai khẩn hoặc trở về làm ruộng, nếu có người làm đơn xin nhận cả hộ ruộng đất, thì phải có người bảo lãnh. Nếu người nộp thuế bỏ trốn, thì người cùng bảo lãnh phải chịu nộp thay. Trước đây, Thái thường thiếu khanh, Tri Đường châu Triệu Bính tâu rằng: “Các châu huyện chiêu dụ dân đến cày ruộng hoang, khởi thuế hai khoản, trong đó có nhiều điều mờ ám, tuy có danh là khởi thuế nhưng thực tế không nộp thuế, những kẻ may mắn coi đó là công lao, xin răn đe.” Vì thế mới có chiếu này. Ngày Giáp Tuất, triệu Giám Đơn châu tửu thuế, Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý Triệu Ngạn Nhược về kinh, quản việc vẽ bản đồ các châu, phủ, quân, giám, huyện, trấn trong thiên hạ. Trước đó, Trung thư sai các họa sĩ trong viện vẽ bản đồ, Vua phê rằng: “E rằng cần phải cử một viên quan triều có kiến thức để kiểm tra tài liệu, may ra mới không sai lệch.” Vì thế mới cử Ngạn Nhược đảm nhiệm việc này. Ngạn Nhược trước đây làm Thông phán ở Truy châu, trong ngục có vụ cháy và làm giả con dấu, theo luật phải xử tử. Ngạn Nhược nói: “Theo luật, phạm tội tử hình mà cha mẹ trên 90 tuổi không có người phụng dưỡng, thì nên xin xét lại.” Bàn với Tri châu Giải Tân Vương nhưng ý kiến khác nhau, bèn một mình dâng sớ tâu, hai người đều được tha tội chết. Tân Vương oán giận, bèn kiện Ngạn Nhược không qua sảnh, vì thế bị giáng chức. Trương Thuấn Dân chép trong bài văn bia mộ Ngạn Nhược, nói rằng Tân Vương sau đó bị chỉ dụ cách chức.

[57] Chiếu cho Biên sắc sở rằng: “Nếu các quan soạn thảo có ý kiến khác nhau, thì mỗi người trình bày ý kiến của mình, giao cho quan tường định xem xét. Nếu vẫn chưa ổn, thì tâu lên Trung thư quyết định.” Các ngày 17 tháng 5 năm thứ 2, 21 tháng 7 năm thứ 3, 19 tháng 10 có thể tham khảo.

[58] Ban thưởng tiền đặc biệt cho các binh sĩ tham gia đánh giặc Di ở Du châu là Lương Thừa Tú, Lý Quang Cát, Vương Cổn, và sai sứ đến thăm hỏi.

[59] Tam ty sứ Lý Túc Chi tâu xin dệt thảm trải nền đàn viên đàn. Viện Lễ kiểm tra điển lễ và nghi thức Nam Giao đều không có quy định về thảm trải nền, nên chiếu bãi bỏ. Ngày 28 tháng 8 năm thứ nhất, Vương Tuân Long xin dệt thảm trải nền.

[60] Kiểm chính công sự sở tâu rằng: “Gần đây căn cứ theo tấu chương của Đại tông chính ty, vì Tông Đễ [21] và các người khác tâu xin, từ tháng 12 năm Gia Hựu thứ 5 đã qua khảo xét để chuyển quan, đến nay đã được 10 năm, theo chiếu chỉ thì được khảo xét để chuyển quan. Kiểm tra lại chiếu thư năm Chí Hòa thứ 2, không có chỉ thị nào về việc này, gần đây vào tháng giêng có ban thánh chỉ đặc biệt, nhưng đó không phải là quy định thường. Nay căn cứ theo tấu trạng của Tông Hậu và các người khác, viện dẫn thể lệ của Khắc Kế và trích dẫn đoạn văn trong sách xá năm Trị Bình thứ 4 tháng giêng: ‘Văn võ chức quan đều được chuyển quan, những người hợp lệ khảo xét thì không bị gián đoạn khảo xét.’

Xem xét kỹ đoạn văn trong sách xá trên, nói rằng những người hợp lệ khảo xét thì không bị gián đoạn khảo xét. Vì tông thất không có quy định rõ ràng về thời hạn khảo xét, theo chiếu chỉ trước đây, nói rằng cháu đời thứ của tổ tông khi khảo xét đến chức Quan sát sứ thì dừng lại. Từ khi có chỉ thị lấy 10 năm làm chuẩn, những người tông thất hợp lệ chuyển quan cũng phải qua khảo xét, xem xét lại thời gian nhận chức và có phạm lỗi hay không, nếu có phạm lỗi thì phải kéo dài thời gian [22], vì vậy cũng gọi là khảo xét, điều này khác với việc quy định thời hạn khảo xét đối với quan lại bên ngoài.

Việc Khắc Kế trước đây được chuyển quan, rõ ràng là do cơ quan có thẩm quyền xử lý nhầm. Vì Khắc Kế đã được chỉ thị giảm 5 năm thời hạn chuyển quan, nếu theo chỉ thị cũ, phải đợi thêm một năm nữa mới hợp lệ để thay đổi chức vụ. Nay việc này có nên thu hồi hay không, tùy thuộc vào chỉ thị của triều đình. Việc viện dẫn lệnh hoãn chuyển quan trong cáo từ nói rằng tông thất lấy 10 năm làm chuẩn, nhưng chiếu chỉ ban đầu không có chỉ thị về việc này, sao có thể viện dẫn cáo từ làm căn cứ?

Việc Tông Hậu và các người khác xin chuyển quan, xin ban chỉ thị cho Đại tông chính ty thông báo, theo chỉ thị trước đây để biết rõ [23].”

(Chiếu chỉ rằng Khắc Kế đã giảm thời hạn chuyển quan, chỉ còn thiếu một năm, không thu hồi, phần còn lại theo [24]. Ngày 23 tháng giêng, Lý Đức Sơ nói…, có thể tham khảo.)

[61] Ngày đó, giặc phương Tây tấn công Phủ Ninh bảo và chiếm được. Việc giặc tấn công Phủ Ninh bảo không được ghi trong thực lục, căn cứ theo bia thần đạo của Triệu Tiết. Trước ngày rằm tháng hai, Triệu Tiết nói: “La Ngột thành chắc chắn không thể giữ được.” Năm ngày sau, Phủ Ninh bị hãm, La Ngột thành cũng bị bỏ không giữ, nên ghi chép kèm theo. Ngày 18 hoặc ngày 18 bắt đầu tấn công, hai ngày sau thì hãm, nên đến ngày mùng 2 tháng ba triều đình mới biết việc này.

[62] Trước đó, Triệu Tiết tâu: “Chủng Ngạc lại muốn tu sửa Phối Cương và Nghĩa Hợp trấn. Ngạc tham lam xảo quyệt, mọi việc làm đều nghe theo kế của Chiết Kế Thế. Kế Thế là kẻ tầm thường, chỉ mưu lợi riêng khi quân đội động binh. Ngạc tàn bạo giết chóc, cốt để lập uy, đức hạnh xấu xa, e rằng sẽ gây lo lắng gần. La Ngột thành chắc chắn không giữ được, Tân Thảo, Phủ Ninh đều chưa có gì, vội vàng khởi công Phối Cương, coi biên giới như nội địa, vội bỏ bê phòng thủ, chỉ cầu công khó thành. Hàng rào đổ nát, dân chúng tiêu điều, còn hơn cả khi giặc đến. Binh tướng tinh nhuệ đều thuộc về tướng lĩnh cấp dưới, thần chỉ quản việc thành quách và kiện tụng mà thôi. Vừa tu sửa Nghĩa Hợp, lại định quy hoạch Phối Cương, xa cách nhau, đủ thấy sự lừa dối.” Lúc đó chưa đến ngày rằm tháng hai, năm ngày sau, Phủ Ninh bị hãm, La Ngột thành cũng bị bỏ không giữ. Điều này căn cứ theo mộ chí của Triệu Tiết, ghi chép kèm theo.

[63] Vua từng hỏi Tuyên Huy Nam Viện sứ Quách Quỳ: “Chủng Ngạc chiếm La Ngột thành và Phủ Ninh hai trại, nghe nói người Hạ lại muốn lấy lại, nên làm thế nào?” Quỳ đáp: “Xin nhanh chóng phòng bị Phủ Ninh, thì La Ngột thành sẽ không lo.” Vua hỏi: “Tại sao?” Quỳ nói: “Xưa người Hạ chiếm Linh Vũ, trước tiên đánh Thanh Viễn, sau đó Linh Châu thất thủ. Nay Phủ Ninh đất bằng phẳng mà thành nhỏ, quân đồn trú không nhiều, nếu dùng kế trước, ắt sẽ chiếm Phủ Ninh trước. Phủ Ninh thất thủ, La Ngột thành sẽ theo đó mà mất!” Vua rất cho là phải, nhưng chưa kịp phòng bị thì Phủ Ninh đã bị hãm, bèn bỏ La Ngột thành. Điều này căn cứ theo mộ chí của Quách Quỳ, việc bỏ La Ngột thành vào ngày 18 tháng ba, Quý Mão. Ngày mùng 7 tháng hai, Quý Hợi, Quỳ nói như vậy, cần xem xét thêm.

[64] Ngày Đinh Sửu, phân công các quan đại thần cầu mưa.

[65] Binh bộ Lang trung Trần Kinh làm Chuyển vận sứ phủ Lộ Thành Đô, người mới nhận chức Tri châu Quả, Độ chi Viên ngoại lang, Bí các Hiệu lý Ung Tử Phương làm Đề điểm Hình ngục phủ Lộ Thành Đô kiêm các việc Thường bình. Lại lệnh cho Kinh và những người khác bí mật điều tra việc các Giám ty Phạm Thuần Nhân, Tạ Cảnh Sơ, Lý Cảo Khanh, Tiết Liên yến ẩm vượt quy định để tâu lên. Trước đó, Quyền Phát khiển Đồng Đề điểm Hình ngục Lý Nguyên Du tâu rằng: “Thuần Nhân và những người khác thường tụ họp uống rượu, dùng kỹ nữ đến đêm khuya, thậm chí có người ném gạch đá, không dám điều tra kỹ, mà Cảnh Sơ, Cảo Khanh càng không giữ phép tắc, thường có việc vượt quy định.” Sách 《Bằng Sơn dữ Phạm Thuần Nhân thư》 có thể tham khảo.

[66] Chiếu cho Quyền Phát khiển Đề điểm Hình ngục Lộ Quỳ Châu, Đồn điền Viên ngoại lang Đoạn Dịch dời sang Lộ Kinh Tây, Chức phương Viên ngoại lang, Quyền Phát khiển Đồng Đề điểm Hình ngục Lộ Kinh Tây Lý Chu đưa đến Thẩm quan viện, sai làm Thông phán châu Giải. Dịch lấy cớ cha mẹ già từ chối mệnh lệnh đến Quỳ Châu, còn Chu ở Kinh Tây bất đồng ý kiến với người cùng phụng mệnh, có người cho rằng Chu không đủ năng lực, nên cho Dịch thay Chu. Chu là người Phùng Dực, được Tôn Cố tiến cử được triệu kiến, Vua muốn dùng làm Ngự sử, nhưng gặp lúc các quan chấp chính không bằng lòng, nên thôi.

[67] Lý Chu ở Thiểm Tây, có người xin đào sông Thoan làm sáu kênh để dẫn nước vào đầm Kiềm Lô, nói rằng có thể tưới ruộng, dự tính công trình tốn tám mươi vạn. Chu chất vấn người đề xuất rằng: “Sông Thoan vốn cao, chảy xuống thấp, nếu đắp đê ngăn chặn còn lo sợ vỡ đê, huống chi lại dẫn nước, ắt sẽ gây hại cho dân.” Người đề xuất sợ Chu ngăn cản, bèn xin giao việc này cho chuyển vận sứ và đề cử thường bình sứ đảm nhiệm. Chu nói: “Ta là sứ giả của bộ, lợi hại hiện tại đều ở một lộ, dù không liên quan đến ta, ta cũng không thể không nói.” Liền tâu rằng: “Nay mở cả sáu kênh, thành công chưa chắc, mà chi phí đã quá lớn. Xin đào một kênh thử trước, nếu có thể đủ dùng cho đầm Kiềm Lô, nên bỏ phần còn lại để giảm bớt sức dân. Nếu chưa đủ dùng, thì lần lượt đào sau cũng chưa muộn.” Triều đình nghe theo. Kênh đào cuối cùng không có hiệu quả. Sau đó, sông Thoan vỡ đê, nước tràn vào thành Đặng, không ngập quá vài tấm ván, người Đặng mới nhớ lại lời bàn trước đây của Chu. Đoạn Dịch đã nhắc đến. Việc Lý Chu đào kênh, căn cứ theo bài văn bia của Trương Thuấn Dân, có thể bỏ đi.

[68] Tước một chức quan của Hàn Chí, Long Đồ các trực học sĩ, Hình bộ thị lang, Tri Từ châu, vì ba lần tiến cử quan lại đều không hợp lý.

[69] Chiếu rằng: Gần đây có chỉ dụ mượn sáu mươi vạn quan tiền từ kho nội tàng để sung vào quỹ chiết hộc của Hà Đông và Thiểm Tây, nên lệnh trích ba mươi vạn quan trong số đó gửi trước đến Hà Đông.

[70] Chiếu tăng thêm quân phu sửa chữa sông Chương lên đến hơn một vạn người, dồn sức hoàn thành trước tháng tư. Vua lo ngại tài chính không đủ. Văn Ngạn Bác nói: “Muốn làm giàu, yên dân, cần giảm việc. Như sông Chương nhiều năm không khơi thông thì có hại gì? Sông Chương không ở phía đông thì ở phía tây, lợi hại cũng như nhau. Nay huy động nhiều dân phu khơi sông, chỉ di chuyển được sông phía đông, lại đào phá ruộng dân phía tây, chỉ làm khổ dân, có lợi gì?” Vương An Thạch nói: “Nếu sông Chương không chảy trong lòng đất, thì hoặc đông hoặc tây, đều có hại như nhau. Nếu trị sửa cho chảy trong lòng đất, thì có lợi mà không có hại. Nếu hoặc đông hoặc tây, lợi hại như nhau, thì Vua Vũ cần gì phải nạo vét sông ngòi, ra sức đào kênh rạch? Lao dịch dân chúng thật không nên coi thường, nhưng dùng đạo nghỉ ngơi sai khiến dân, tuy có nhọc nhằn cũng không thể không cố gắng.” Vua cười. 《Nhật lục》 chép việc này vào ngày 21, nay phụ chép sau việc tăng quân khơi sông Chương. Ngày Giáp Tuất 17 tháng 8 năm thứ 3, bàn việc khơi sông Chương. 《Thực lục》 chép dưới sông Chương có hai chữ “Phong hà”, e là chữ thừa, nay bỏ đi. Ngày Ất Mùi tháng 5, Lưu Chí, Dương Hội nói…

[71] Thượng bàn về Vương Mãnh, Vương An Thạch nói: “Vương Mãnh xử lý chính sự công bằng, trục xuất những kẻ ăn hại, đề bạt người tài bị chôn vùi, làm rạng danh người hiền năng, không ai có tội mà không bị trừng phạt, không ai có tài mà không được trọng dụng, quân đội hùng mạnh, đất nước giàu có, gần đạt đến thái bình. Vương Mãnh tuy xuất thân thấp kém, nhưng nếu không làm như vậy thì cũng không thể đạt được công lao này.” Thượng nói: “Trục xuất những kẻ ăn hại quả là việc cấp bách trước tiên.” An Thạch nói: “Chỉ riêng việc trục xuất những kẻ ăn hại đã nên là việc cấp bách trước tiên, huống chi lại còn có những kẻ phá hoại thời cuộc, tất nhiên không thể dung thứ. Thần xem lời Vương Mãnh nói với Phù Kiên lúc lâm chung, càng thấy rõ Vương Mãnh có trí tuệ sâu sắc. Phù Kiên chí lớn nhưng không biết thời cơ, thích lập công nhưng không quyết đoán, trong nước có bọn Mộ Dung Thùy mà không giết, lại muốn đánh nước Tấn, đó là lý do khiến ông ta diệt vong. Vương Mãnh biết Phù Kiên không thể trừ khử bọn Mộ Dung Thùy, nên khuyên ông ta đừng đánh Tấn. Nếu không, với sức mạnh của nước Tần, muốn chiếm Tấn có gì là khó?” Thượng nói: “Biết trước cái hại, mới có thể nói đến cái lợi. Hiện nay trong nước khốn đốn về tài chính, thì không thể gây sự với Bắc Địch, cũng giống như trong nước có bọn Mộ Dung Thùy chưa diệt, thì không thể gây sự với Tấn vậy.” Phùng Kinh nói: “Thần thường nói việc thiên hạ không thể nóng vội.” An Thạch nói: “Có những việc làm trong một ngày mà thấy ngay hiệu quả, cũng không thể không gấp, như việc trục xuất những kẻ ăn hại chẳng hạn. Còn như dùng binh đánh kẻ địch mạnh, thì phải đợi thời cơ mà làm, không thể quá vội.” 《Nhật lục》 chép việc này vào ngày 21, nay theo đó.

[72] Ngày Mậu Dần, Hoài Nam tiết độ sứ, Thủ Tư đồ, kiêm Thị trung Hàn Kỳ được đổi làm Vĩnh Hưng quân tiết độ sứ, lại giữ chức Phán Đại Danh phủ. Trước đó, Vương An Thạch bàn việc Hàn Kỳ tái nhiệm nên ban thêm ân điển. Thượng nói: “E rằng Hàn Kỳ không chịu nhận.” An Thạch nói: “Đại Danh, theo chế độ gần đây không nên ban thêm ân điển, nhưng Hàn Kỳ là đại thần được hai triều ủy thác, nếu muốn giữ ông ta lại, tái nhiệm thì không thể không ban thêm ân điển.” Hàn Kỳ cuối cùng từ chối chức Vĩnh Hưng quân tiết độ sứ, không nhận.

[73] Chiếu cho Chuyển vận sứ thành đô phủ lộ là Trần Kinh, Đề điểm hình ngục Ung Tử Phương, Đề điểm hình ngục lợi châu lộ là Lý Du, điều tra việc các châu huyện thuộc thành đô phủ và lợi châu lộ cấp phát tiền thường bình không đúng pháp tâu lên.

[74] Tuyên phủ sứ Hàn Giáng tâu: “Bốn trại được tu sửa ở Hà Đông đều khó có được nguồn nước; lại thêm ruộng đất màu mỡ, là nơi tất tranh giành, về sau chắc chắn khó giữ vững. Đã triệu hồi đại quân, trước tiên xây dựng đồn lũy ở gần bên trong. Sai Lã Đại Phòng đến, chuyên lo việc cân nhắc lợi hại của việc bỏ giữ để tâu lên.” Vua phê: “Nay đã triệu hồi đại quân ở trại thứ nhất, chắc chắn khó phòng thủ, việc tu sửa đồn lũy cũng e rằng tốn công vô ích, hãy tạm ngừng việc thi công, đợi chỉ dụ khác, lại sai Đại Phòng sau khi đến bản lộ cùng cân nhắc tâu lên.” Phạm Dục vân vân, ghi chép vào cuối tháng hoặc chuyển vào sau đây.

[75] Triệu Tiết tâu: “Ở trại Thuận Ninh có giặc Tây sang cướp, Tri bảo an quân Cảnh Tư Lập không hỏi số lượng giặc nhiều hay ít, liền đi cứu viện, lúc đó các tướng đều thua, chỉ có Tư Lập may mắn toàn vẹn.” Vua phê: “Việc do thám ở biên thành sơ sài như vậy, Tư Lập không nghĩ đến việc quan trọng của quân thành, tự ý rời bỏ vị trí phòng thủ đi xa, không xin chỉ thị của Kinh lược ty, há chẳng lầm lỗi sao! Lệnh cho các tướng giữ các lộ từ nay về sau đều phải tuân theo sự điều động của Kinh lược ty.” Ban đầu, Hàn Giáng làm Tuyên phủ Thiểm Tây, Hà Đông, mọi việc quân sự đều do Giáng chỉ huy, Kinh lược ty không thể điều động các bộ thuộc, người bàn luận cho là không tiện, đến nay khôi phục lại như cũ. Trại Thuận Ninh, cách phía nam bản quân 40 dặm. Tư Lập là người An Nhạc, đã từng xuất hiện khi tu sửa trại Trị Bình.

[76] Chiếu cho các đồn điền vụ dọc biên giới Hà Bắc, ruộng đất cả trên cạn và dưới nước đều cho dân thuê, binh sĩ của các vụ này giao cho các châu quân thu nhận làm sương quân, các chức giám quan đều bãi bỏ. Theo lời thỉnh cầu của Ty đồn điền Hà Bắc. Trước đây, Ty đồn điền Hà Bắc mỗi năm thu hoạch được không đủ bù chi phí, nhiều lần tâu lên. Đến nay, mới chấp thuận. Ngày 23 tháng 6 năm Nguyên niên, Lý Nhược Ngu cùng chế trí.

[77] Chiếu cho Ty Thiên giám in và bán lịch, dân gian không được tự ý in, để lợi tức được chia đều cho các quan thuộc của Ty Thiên giám. Sau đó, từ chức Phán giám trở xuống, tổng cộng 68 viên đều được tăng tiền ăn, Phán giám mỗi tháng 7.500 đồng, quan Chính 3.000 đồng, các quan bán lịch ngoài việc được tăng tiền ăn, còn được cấp thêm 3.000 đồng tiền trà thang. Lúc này, vừa bãi bỏ chức Giám quan của Ty Thiên giám tại các kho và cỏ khô ở kinh thành, nên Trung thư nghị tăng bổng lộc cho họ, do đó có chiếu này. 《Tư Mã Quang nhật ký》 chép: Vương An Thạch làm chính sự, muốn quản lý tài chính làm giàu đất nước, người nào nói về lợi ích tài chính đều được ban thưởng. Theo chế độ cũ, Thái phủ tự chế tạo đấu thăng, dùng ấn lửa, ban bố cho các châu trong thiên hạ để bán. Cấm dân tự ý chế tạo đấu thăng, pháp lệnh rất nghiêm ngặt. Năm Hi Ninh thứ 4, chiếu rằng: Từ nay các quan ty chỉ bán bản in, cho phép dân tự chế tạo đấu thăng để tiết kiệm chi phí đinh diệp, từ đó phép đo lường bị hỏng. Lại có họ Hầu đời đời xin bản lịch từ Ty Thiên giám để in bán, dân gian có người in thêm lịch nhỏ, mỗi bán giá một hai đồng, đến nay cấm hẳn lịch nhỏ, quan ty tự in bán lịch lớn, mỗi bán giá vài trăm đồng, để thu lợi. Lại có Kinh Đông đề hình Vương Cư Khanh tâu rằng: Các ty rượu quan trong thiên hạ đều nên làm liên xấm để tiết kiệm củi, triều đình nghe theo, vẽ đồ ban bố khắp thiên hạ. Lại có ban hàng tâu rằng: Các trạm ngựa trong thiên hạ, mỗi con ngựa mỗi ngày thu một đồng tiền phân, cũng thi hành. Việc kinh doanh lợi nhuận như vậy. Còn việc xây thành Tuy Châu, đắp thành La Ngột, phát tiền thanh miêu, sử dụng tiền quan lên đến hàng chục trăm ức. Việc bán bản in đấu cân cần tra cứu ngày tháng. Vương Cư Khanh làm Kinh Đông đề hình vào ngày 11 tháng 2 năm thứ 4, không ghi vào 《Trường biên》.

[78] Ngày Canh Thìn, binh lính ở Khánh Châu làm loạn. Trước đây, Hàn Giáng làm Tuyên phủ Thiểm Tây, tâu lên Vua cử Văn Lượng làm Chỉ sử. Văn Lượng vốn là gia nô của Ngoa Bàng, một đại thần có thế lực ở nước Hạ, vì phạm tội nên tự đầu hàng về Diên Châu, dần thăng đến chức Hữu Thị cấm. Vương An Thạch tiến cử tài năng của ông ta, được thăng làm Cáp môn Kỳ hậu. Giáng trước tiên sai Văn Lượng chuyên trách tiết chế, đốc thúc tướng người Thổ là Triệu Dư Khánh cùng các tướng khác đi đánh phía tây. Văn Lượng hẹn với Dư Khánh hội quân ở Kim Thang Xuyên, kết minh với trang Tát, ai không đến sẽ bị chém. Đến hẹn, Văn Lượng đến trại cũ Kim Thang, cách trang Tát hơn hai mươi dặm, thấy quân địch liền rút về. Khi Dư Khánh dẫn quân đến, không thấy Văn Lượng, sai người đi thăm dò, biết Văn Lượng đã về, bèn quay lại. Văn Lượng sợ Dư Khánh tố cáo việc này, bèn vu cáo Dư Khánh trễ hẹn, Giáng bắt giam Dư Khánh vào ngục. Vua ban chiếu cho Giáng tha Dư Khánh, trách cứ để xem hiệu quả sau này. Giáng cố tâu mãi, cuối cùng mới theo chiếu tha Dư Khánh. Giáng lại sai Văn Lượng xuất biên giới, mỗi khi quân triều đình chém được thủ cấp, thường cướp về cho quân Thổ, thậm chí đào mộ chém xác để lấy thủ cấp. Ngô Quỳ, Đô ngu hậu quảng nhuệ Bân Ninh, từng tranh mua ngựa với Văn Lượng, Văn Lượng oán hận. Trong trận này, Quỳ dẫn quân chiến đấu dũng cảm, dùng liên già sắt giết thủ lĩnh giặc, Văn Lượng sai thuộc hạ cướp lấy, vu cáo rằng đêm đến Dã Nông, hẹn đánh giặc, gọi Quỳ không đến và xúi giục quân sĩ. Tuyên phủ ty bắt Quỳ, giam vào ngục Khánh Châu hơn bốn mươi ngày. Giáng đến Khánh Châu, định chém Quỳ, binh sĩ ồn ào, muốn giết Giáng. Tri Khánh Châu là Vương Quảng Uyên vào báo, bèn lại đưa vào ngục.

[79] Giáp rời Khánh Châu vài ngày, giặc đánh thành La Ngột rất gấp, Giáp lệnh cho Khánh Châu xuất quân kìm chế, quân lính vội vã xuất phát, người dân không chịu nổi, sắp phát áo giáp, quân sĩ hai chỉ huy Quảng Nhuệ mưu ủng hộ Quỳ làm loạn, hẹn nhau vỗ tay rồi phát động, gặp lúc trời mưa nên không phát áo giáp, bèn thôi. Đêm hôm đó bèn đốt phá thành Bắc, hò hét lớn cướp bóc, chém cổng mà ra, bọn chúng có hai nghìn người. Quỳ phản loạn là do Văn Lượng kích động. Vương Quảng Uyên vội triệu tập quân đồn trú năm doanh để chống giặc, Bắc lộ đô tuần kiểm Lâm Quảng giữ thành Nam, giặc chiếm thành Bắc, Quảng từ trên lầu nhìn thấy bọn chúng tiến thoái không nhất quán, Quảng nói: “Đây không phải là binh loạn.” Bèn đứng ra thả mình xuống thành ra phía sau, thuyết phục về nghịch thuận, nhiều người đầu hàng. Lúc đó Quỳ đã dẫn quân ra ngoài, còn lại ba trăm tên đảng còn ở dưới thành, Quảng dụ dỗ những người đầu hàng rằng: “Kẻ cầm đầu loạn đã bỏ đi rồi, các ngươi vốn không phải là đồng ác, hãy nghe ta, nghe ta không chỉ được sống mà còn có công.” Bèn tập hợp được hơn một trăm người, vào doanh trại, ngồi ở sảnh sự quân hiệu, khích lệ ràng buộc, trao cho vũ khí, lệnh phản công. Quân dưới thành bị bắt giết hết, thành Bắc bèn bình định.

Truyện Vương Quảng Uyên chép: Ngô Quỳ dẫn hai nghìn quân chém cổng mà ra. Truyện Lâm Quảng chép: Ba trăm quân loạn ra khỏi thành, Quảng tập hợp được hơn một trăm người nghe lệnh, đánh quân dưới thành, bắt giết gần hết. Thực lục chép: Chém giết được hai trăm, còn lại ủng hộ Ngô Quỳ ra cửa An Tây. Nay căn cứ vào các sách tham khảo, Ngô Quỳ dẫn quân ra cửa An Tây, truyện Quảng Uyên chép hai nghìn người là đúng. Truyện Lâm Quảng chép ba trăm quân loạn ra khỏi thành, ba trăm người này không phải là những người Quỳ dẫn ra cửa An Tây, chỉ là tàn đảng còn lại. Tuy không theo Quỳ đi, cũng không đầu hàng, nên vẫn còn ở dưới thành. Lâm Quảng trao vũ khí cho những người đầu hàng, đánh giết hết, tức là thực lục chép chém giết được hơn hai trăm người. Truyện Lâm Quảng nhầm lẫn những người bị bắt giết dưới thành là những người ủng hộ Ngô Quỳ bỏ đi, nên số quân nhiều ít khác nhau. Thực tế, Ngô Quỳ dẫn hai nghìn quân chém cổng mà ra; chiếm giữ thành Bắc còn hơn bốn trăm người, Lâm Quảng tập hợp được hơn một trăm người, bắt giết gần ba trăm người, thực lục chỉ chép hơn hai trăm người.

[80] Lính đồn trú ở Nhu Viễn, Tam Đô nghe tin có biến, muốn hưởng ứng giặc nhưng không thành. Quảng Uyên giả vờ khen ngợi họ, cho họ trở về nơi đồn trú cũ, nhưng bí mật dặn Triệu Dư Khánh đem tám nghìn quân phiên binh của mình đi đường tắt đánh úp, giết sạch họ. Bọn phản binh ban đầu định chiếm thành châu, Đô tuần kiểm Đông lộ là Diêu Tụy đem quân thân binh giữ cửa Tây, giặc không vào được, bèn tan chạy về giữ núi Thạch Môn ở Diệu. Tụy đuổi theo giặc, khuyên bảo bằng đại nghĩa, giặc cảm động khóc lóc, lạy tạ, thề không làm loạn nữa. Lâm Quảng gặp giặc, nói với họ: “Nếu mau hàng thì còn có thể được toàn mạng.” Giặc không nghe, Quảng nói: “Chúng sẽ chạy trốn ban đêm.” Bèn chia hai tướng chặn đường trước, tung quân đánh từ phía sau. Giặc bị dồn vào thế cùng, bèn đến hàng hai tướng. Quảng nói: “Không nghe lời ta, nay bị cùng khốn đến chết, không phải là hàng.” Đến trạm Triều Thiên, đều chém hết. Việc này căn cứ vào truyện của Diêu Tụy và Lâm Quảng mà chép thêm. Xét rằng Trương Ngọc vì giết người đã hàng mà bị cách chức, còn Lâm Quảng lại được khen, không rõ vì sao. Lại nữa, giặc mà Diêu Tụy đuổi theo, có lẽ cùng với Lâm Quảng đến núi Thạch Môn, Tụy nhận hàng giặc, còn Quảng lại giết họ, không hiểu vì sao. Thêm nữa, bọn lính đã hàng mà Trương Ngọc giết cũng ở trạm Triều Thiên, không rõ có cùng làm việc với Lâm Quảng hay không, đều chưa rõ.

[81] Xuống chiếu rằng: “Phàm con vì cha mẹ, người làm con thừa tự vì cha mẹ thừa tự mà để tang, gặp yến tiệc thì theo lệnh cho nghỉ; tang kỳ trở xuống, công thức giả chưa hết, gặp yến tiệc thì cho phép không tham dự, nếu người chức sự thị lập kỳ ứng bị khuyết, thì tạm sai người khác thay thế.” Theo lời thỉnh cầu của Biên tu Cáp môn nghi chế là Tống Mẫn Cầu và các người khác. Đoạn này có thể bỏ.

[82] Ngày Ất Dậu, bãi bỏ quân Quảng Tế, đổi thành huyện Định Đào, thuộc về Tào Châu. 《Tân ký》 không chép.

[83] Tháng đó, Phạm Dục tâu rằng: “Thần đến Hà Đông, nghe nói rằng trước đây Tuyên phủ ty điều động quân mã từ Lân Châu, Phủ Châu ra khỏi biên giới, mọi người đều đồn rằng họ đi qua Thiết Diệp Xuyên, cả ngày đi trong đường hẹp, nếu gặp vài trăm người phục kích, thì sẽ không còn một bánh xe nào quay về. May mắn là họ thừa lúc địch sơ hở tiến nhanh, giặc không kịp tính toán, nên mới có thể toàn quân trở về. Tuy nhiên, vạn quân vất vả chạy suốt, chín ngày mới đến thành La Ngột, nhưng không làm được gì, chỉ biết đứng chịu đói mệt, không biết việc này xuất phát từ kế sách gì? Nếu nói là để mở đường, thì sau khi đi qua, giặc đã phòng bị nghiêm ngặt, Hứa Hàm Cát và những người khác lại rút về Thiểm Tây, quay lại tấn công, nhưng chưa từng gặp giặc, khi về chỉ xây được một trại ở Tam Tuyền, mà quan phủ Hà Đông đã kiệt quệ tài lực. Hơn nữa, ban đầu bàn định xây bốn trại, tính toán chi phí xây một trại đã dùng hết tài sản cũ của các thành lũy ngoài sông ở Hiến Châu và hơn mười châu từ Tịnh Châu, Phần Châu về phía tây, mới có thể hoàn thành. Nếu xây cả bốn trại, lại thêm các thành lũy phụ trợ, và dựng nhiều đồn lũy đối diện Thạch Châu, tạo thành thế phòng thủ vững chắc, thì mới tạm ổn.

Nhưng có ba điều không thể thực hiện: Chi phí xây một trại đã quá lớn, nếu tăng thêm ba lần, thì sẽ ra sao? Đó là điều không thể thứ nhất; Tam Tuyền cách địch chỉ vài chục dặm, lúc xây dựng, giặc đã dùng vài vạn quân tranh giành, các tướng suýt thất bại, nay vào sâu trong địa giới, chưa biết địa hình, nếu bị phục kích, ắt sẽ mất quân, đó là điều không thể thứ hai; Nghe nói vùng phía bắc núi Gia Lô có nhiều tài nguyên trà và sắt, là nguồn lợi lớn của giặc, chúng ắt sẽ ra sức tranh giành, ta mệt mỏi, giặc hăng hái, tiến quân ắt không có kết quả, đó là điều không thể thứ ba. Dùng sức lực vốn đã kiệt quệ của Hà Đông, để đánh đổi ba điều không thể lớn, nhằm đạt được một chút lợi nhỏ, thì đúng sai đã rõ ràng.

Nay nghe nói triều đình đã dừng việc xây các trại, mọi người đều vui mừng. Việc dừng xây các trại là sự việc ngày 22. Những người bàn luận cho rằng ngay cả trại Tam Tuyền cũng không thể giữ được, vì thành này nằm sâu trong lãnh thổ giặc, quân nhiều thì khó cung cấp lương thảo, quân ít thì không đủ phòng thủ. Bình thường, ba châu Lân, Phủ, Phong đã tiêu tốn nhiều chi phí, là mối lo lớn của Hà Đông, nay thêm một trại nữa, mối lo càng sâu. Thần đã điều tra hơn một tháng, mọi người đều đồng ý với ý kiến này. Thần nghĩ rằng triều đình không thực hiện được chính sách chiêu dụ kẻ xa, cũng không đủ mưu lược để đánh dẹp kẻ phản loạn. Thần lo rằng họa biên giới sẽ không ngừng, dân chúng sẽ không yên, và tâm thánh thượng sẽ không thể an nhiên lo việc đế vương. Thần ngu muội, không kìm được nỗi lo lắng và phẫn nộ. Kính mong bệ hạ cùng các công khanh bàn bạc, sớm quyết định đại sự, ra lệnh cho Hàn Giáng trình bày kế sách lâu dài để giữ thành La Ngột và trại thứ nhất ở Hà Đông, giao cho hai lộ thực hiện. Nếu không thể giữ được, thì trình bày cách bỏ trại và phòng thủ biên giới, xin bệ hạ quyết đoán, để định kế an nguy.”

(Lời tâu của Phạm Dục được ghi trong tập của ông, không rõ thời gian, ghi chép vào cuối tháng 2[25]. Việc triều đình dừng xây các trại là sự việc ngày 22, có thể chuyển phần này ghi vào ngày 22.)


  1. Số Tiến sĩ do Lễ bộ tăng thêm, chỉ lấy Tiến sĩ ở năm lộ này để bổ sung, các bản và bản hoạt tự đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 chép: 'Số Tiến sĩ mới thêm ở Nam tỉnh, vẫn làm thành một hạng riêng, chỉ lấy những người ứng thí Tiến sĩ ở năm lộ Kinh Đông và những người từng ứng thí các khoa khác chuyển sang ứng thí Tiến sĩ ở các phủ, giám và các lộ để bổ sung'.
  2. Sau lấy 《Luận ngữ》, 《Mạnh tử》 phụ vào bản kinh, chỉ còn ba trường, 'chỉ' nguyên là 'chính', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại.
  3. Hai tháng, các bản đều giống nhau. Sách này quyển 218, ngày Ất Sửu chép lời Trung thư nói về việc Khai Phong phủ ưu đãi các trường vụ nhẹ kêu gọi người mua, có câu 'vẫn hạn trong hai tháng cho phép mọi người dâng trạng kín', chú thích cũng có 'ngày 1 tháng 2 và ngày 14 tháng 3 năm thứ tư, đều nên tham khảo', nghi ngờ chữ 'nhật' ở đây là lỗi của chữ 'nội'.
  4. Sách biên lục, chữ 'sách' nguyên là 'san', căn cứ vào chú thích trong quyển 217, ngày Giáp Ngọ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 3 và quyển 218, ngày Ất Sửu tháng 12 năm Hi Ninh thứ 3 của sách này mà sửa.
  5. Tuyên phủ ty, 《Tống hội yếu》 chép là 'Thiểm Tây an phủ ty', đoạn dưới 'Tuyên phủ ty' chép là 'bản ty'.
  6. Huyện Định Hồ, chữ 'Hồ' nguyên bản chép là 'Viễn', căn cứ theo sách trên và 《Tống sử》 quyển 86, chí Địa lý sửa lại.
  7. Dài 170 dặm, 《Tống hội yếu》 chép là 'dài 157 dặm'.
  8. Chữ 'dữ' nguyên bản chép là 'ư', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  9. Định Hồ, Khắc Hồ nguyên bản chép là 'Định Viễn, Khách Hộ', 《Tống hội yếu》 chép là 'Định Hồ, Khắc Hồ'. 《Cửu vực chí》 quyển 4, 《Tống sử》 quyển 86, chí Địa lý chép rằng, châu Thạch có huyện Định Hồ, huyện có trại Định Hồ; huyện Lâm Tuyền có trại Khắc Hồ. Nhân đó sửa lại.
  10. Chiếu chuyển làm Tri Hứa châu không nhận, các bản đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 336, truyện Tư Mã Quang chép 'dời làm Tri Hứa châu, thúc vào chầu, không đi'. Nghi là 'không đi' đúng.
  11. Không nỡ dứt bỏ mà nói trước, các bản, bản hoạt tự và 《Danh thần tấu nghị》 quyển 176 đều giống nhau. 《Thiệu thị văn kiến tiền lục》 quyển 11 chữ 'dự' viết là 'hiển'.
  12. Bệ hạ gọi là sàm thắc vậy, các bản trên đều giống nhau, sách trên cũng giống. 《Tục thông giám》 quyển 68 chữ 'Bệ hạ' viết là 'An Thạch', có lẽ đúng.
  13. Chưa bàn đến việc dùng lời của ông ấy hay không, các bản trên đều giống nhau và sách 《Trị tích thống loại》 quyển 14, chữ 'chưa bàn' đều viết là 'chưa nói', sách 《Thiệu thị văn kiến tiền lục》 quyển 11 viết là 'chưa dùng lời của ông ấy'. Nghi ngờ rằng viết 'chưa nói' là đúng.
  14. Chữ 'tịnh' trong 'diêm tịnh khoá' có lẽ là sai, nên là 'tỉnh'.
  15. không hiểu thể thống như vậy, chữ 'thức' nguyên là 'chức', theo các bản khác sửa lại.
  16. Vương Bàng nguyên bản viết là 'Vương Vu', căn cứ theo quyển 226, ngày Kỷ Mão tháng 8 năm Hi Ninh thứ 4 sửa lại.
  17. Lệnh Xu mật viện tuyển chọn 2 viên quan Kinh triều, 《Tống hội yếu》 chức quan 2.46 có thêm chữ 'Thay thế quan đương nhiệm hết hạn khuyết'.
  18. Từ nay các quan ty tại kinh đều tiến cử quan viên, chữ 'các' nguyên là 'lệnh', theo《Tống hội yếu》tuyển cử 28-8 sửa lại.
  19. Vua nghi ngờ Khiết Đan không chịu, chữ 'thượng' nguyên bản là 'sĩ', căn cứ vào bản các và bản hoạt tự mà sửa lại.
  20. Chữ 'Cao' nguyên là chữ 'Thương', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 đế hệ nhất chi 37, 《Tống sử》 quyển 15 Thần Tông kỷ sửa.
  21. Tống hội yếu Đế hệ 4/25 giống nhau, Chức quan 11/20 viết là 'Tông đệ', đoạn trên 'Tông Đễ' Chức quan 11/19 cũng viết là 'Tông đệ'.
  22. nếu có phạm lỗi thì phải kéo dài thời gian, Tống hội yếu Đế hệ 4/25, Chức quan 11/20 đều không có chữ 'có phạm lỗi'.
  23. xin ban chỉ thị cho Đại tông chính ty thông báo, theo chỉ thị trước đây, Tống hội yếu Chức quan 11/20 viết là 'xin ban chỉ thị cho Đại tông chính ty thông báo, theo chỉ thị trước đây'.
  24. phần còn lại theo, sách trên có thêm chữ 'sở định'.
  25. 'Cuối tháng 2' nguyên văn là 'Tống', căn cứ vào các bản khác và ghi chú ở trên về ngày Mậu Dần 'Phạm Dục nói... ghi vào cuối tháng' mà sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.