"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 221: NĂM HI NINH THỨ 4 (TÂN HỢI, 1071)

Bắt đầu từ tháng 3 năm Hi Ninh thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 3, ngày Bính Tuất (mùng một), Vua phê: “Nghe nói ở phủ Thái Nguyên có mấy nghìn phụ nữ nông thôn kêu gào vào cửa phủ, nộp nông cụ, chưa rõ thực hư. Việc điều động dân phu đắp đê hoang hãy nhanh chóng giải tán. Lệnh cho Ty An phủ vùng biên giới Hà Đông điều tra việc này.” Ty An phủ tâu rằng không có việc đó.

[2] Lại xuống chiếu cho Chuyển vận sứ Thiểm Tây tu sửa các thành trì như La Ngột thành, tạm ngừng việc mua sắm vật liệu hiện nay.

[3] Ngày Đinh Hợi (mồng 2), Hàn Kỳ, phán phủ Đại Danh tâu: “Châu Hoài bị thiên tai nặng nề nhất, từ mùa xuân, các hộ nghèo thiếu lương thực. Gần đây đã báo lên Ty Chuyển vận xin vay gạo thóc, đã xuống lệnh cho các huyện cấp phát, nhưng Ty Đề cử Thường bình thương lại chỉ thị ngừng cấp, chỉ lệnh cho Ty Chuyển vận dùng gạo trong kho tỉnh để cứu tế.” Vua phê: “Hiện nay ở Hà Bắc có nơi bị thiên tai nặng, kho tỉnh dự toán hàng năm có hạn, chắc chắn không thể cứu tế nhiều, gạo thóc trong kho Thường bình và Quảng huệ phải cùng cấp phát. Lệnh cho Ty Chuyển vận, Ty Đề điểm hình ngục và Ty Đề cử ở Hà Bắc giám sát, các châu huyện không được ngăn cản, cấp phát không hết cho dân khiến họ phải bỏ trốn.”

[4] Chuyển vận sứ Tôn Cấu và Trương Sâm của lộ Quỳ Châu tâu: “Đỗ An Hành và các tướng tâu đã dẹp yên giặc Di, mở rộng đất đai 700 dặm, thu được 300 bộ áo giáp và vũ khí, hơn 600 thạch lương thực, hiện đang an định dân Di để cày cấy, bắt đầu nộp tô thuế.” Vua xuống chiếu sai Trứ tác tá lang Chương Đôn đi ngựa trạm cùng Ty Chuyển vận xử lý việc này và báo cáo.

[5] Lại xuống chiếu: “Giặc Di Lương Thừa Tú và Lý Quang Cát tuy đã bị chém đầu, nhưng còn Vương Cổn chưa bắt được. Hãy lệnh cho Ty Chuyển vận nhanh chóng chọn người bắt giữ, và dụ hàng.” (Có thể tham khảo thêm lời phê của Vua cuối tháng 2 năm thứ 6).

[6] Trung thư muốn chi tiền lương hiện tại của Chương Đôn, thêm chi phí và cấp giấy phép dịch trạm. Vua phê: “Đôn đã xin thêm chi phí, lại xin giấy phép dịch trạm, e rằng trái với điều lệ, hãy kiểm tra các trường hợp từ năm Gia Hựu đến nay để trình bày.” Phùng Kinh nói: “Gần đây mới có trường hợp này.” Vương An Thạch nói: “Năm Gia Hựu, Trị Bình đã có trường hợp này, hơn nữa bệ hạ lo ngại nhân tài khó tìm, nay người vô năng hưởng bổng lộc mà an nhàn, người có năng lực lại được tuyển dụng, chạy vạy tốn kém, mà hưởng thụ ngang với người vô năng, thì ai còn chịu khuyên răn để trở nên có năng lực? Như Đôn vì tài năng được chọn, sai đi sứ vùng biên giới xa xôi, há lại tiếc một giấy phép dịch trạm? Dù có điều lệ, Trung thư như thần cũng nên lấy đạo lý để xử lý việc, giúp bệ hạ ban ơn và kiểm soát quần thần, không nên câu nệ pháp luật, huống chi có trường hợp gần đây.” Vua nói: “Có trường hợp thì phải chi, hơn nữa số tiền ông ấy nhận được chỉ vài trăm đồng, không nhiều.” Ngày 2 tháng 4, Đinh Hợi, bãi bỏ việc Đôn đi sứ.

[7] Trước đó, Lý Thừa Chi tiến cử Đôn với An Thạch, An Thạch nói: “Nghe nói Đôn rất vô đạo đức.” Thừa Chi nói: “Thần tiến cử là vì tài năng, chỉ xét tài năng của Đôn có thể dùng được, còn đạo đức trước đây có ảnh hưởng gì? Ngài thử nói chuyện với ông ấy, tự nhiên sẽ yêu mến.” An Thạch gặp Đôn, Đôn vốn giỏi biện luận, lại khéo léo chiều ý, An Thạch rất vui, tiếc vì gặp ông ta quá muộn. Việc này theo sách 《Thiệu Bá Ôn kiến văn lục》, hoặc chép vào ngày Đinh Hợi tháng 4.

[8] Miễn việc vận chuyển lương thảo từ Hà Đông vào địa giới phía tây; miễn thuế hai kỳ và việc di chuyển, đổi chác cho nghĩa dũng, cường tráng, tróc sinh hộ năm nay, và miễn một đợt thu mua lương thực. Nghĩa dũng tổng cộng một vạn năm nghìn người, trong đó hơn năm nghìn người bỏ trốn đều được tha tội, lệnh cho họ trở lại làm ăn, và tạm hoãn thu thuế còn lại của những người phục vụ trong quân đội, theo tấu của Chuyển vận sứ Hàn Đạc.

[9] Quyền phát khiển Diên Châu là Triệu Tiết tâu rằng, giặc Tây Hạ xâm phạm Phủ Ninh, tòa thành mới xây không giữ được, hơn nghìn tướng sĩ đều bị chết và bị bắt. Vua xem tấu chương, đau xót nói: “Gần đây sai người đến thành La Ngột để thăm dò, thấy tòa thành xây không kiên cố, chỉ là một bức tường đất bao quanh, vốn đã lo lắng, nay quả nhiên mất cả nghìn người. Việc động binh nơi biên ải, sau này cần phải hết sức thận trọng.”

[10] Trước đó, Triệu Tiết tâu: “Ngày Giáp Tuất tháng 2, giặc vây Phủ Ninh, Chiết Kế Thế, Cao Vĩnh Năng đem quân chủ lực đóng ở Tế Phù Đồ, cách Phủ Ninh rất gần, thế quân ở thành La Ngột vẫn còn nguyên. Chủng Ngạc ở thành Tuy Đức chỉ huy các quân, nếu sai Vĩnh Năng hợp binh với quân ở La Ngột, cùng ứng cứu Phủ Ninh, giặc tất phải tan chạy. Nghe nói Ngạc hoang mang không biết làm sao, định viết thư triệu Yến Đạt, nhưng run sợ không viết nổi, quay sang khóc lóc với chuyển vận phán quan là Lý Nam Công, rồi đòi quân của Chiết Kế Thế rút về, đang bàn kế đánh giữ thì giặc đã đắc chí rút lui. Trước đây, thần nhiều lần nói với Hàn Giáng rằng Ngạc và Kế Thế đều không đáng dùng, e rằng sẽ gây lo cho triều đình, nhưng Giáng không nghe.” Yến Đạt lúc đó làm Đô giám Phu Diên lộ. Cao Vĩnh Năng là cháu của Cao Văn Tì. Ban đầu, Chủng Ngạc giao 6.000 quân cho Vĩnh Năng, tiên phong tiến vào thành La Ngột ở Ngân Xuyên, đánh năm trận đều thắng. Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép ngày Bính Tuất, người Hạ chiếm thành Phủ Ninh.

[11] Ngày Mậu Tý, nhà Vua nghỉ lễ Thượng Tỵ, triệu tập hai phủ đến điện Tư Chính, đưa tờ tấu của Thiểm Tây chuyển vận sứ về việc quân loạn ở Khánh Châu cho mọi người xem, nhà Vua rất lo lắng về việc dùng binh. Văn Ngạn Bác nói: “Triều đình làm việc gì cũng phải hợp lòng dân, lấy sự yên tĩnh và thận trọng làm đầu. Mọi việc nên tham khảo ý kiến của nhiều người, không nên thiên lệch. Từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, ra sức tìm cách trị nước, nhưng lòng dân vẫn chưa yên, đó là do thay đổi quá nhiều. Pháp chế từ thời tổ tiên để lại, chưa hẳn đều không thể thi hành, chỉ có điều có chỗ bị bỏ phế không dùng đến mà thôi.” Nhà Vua nói: “Pháp chế của các bậc thánh vương thời Tam đại vốn cũng có chỗ tệ, nước nhà thái bình đã trăm năm, sao có thể không có chút thay đổi?” Vương An Thạch nói: “Triều đình chỉ cần bỏ đi những gì có hại cho dân, có gì không được? Mọi việc đều suy đồi như thời Tây Tấn, đó mới là loạn.” Ngô Sung nói: “Triều đình làm việc gì cũng muốn tiện lợi cho dân, nhưng quan lại các châu huyện thi hành phần nhiều không hiểu ý Bệ hạ, thành ra phiền nhiễu. Đến như việc cứu chữa tệ nạn, cũng nên làm từ từ.” Nhà Vua gật đầu.

[12] Ngạn Bác lại nói việc phát hành giấy giao tử là không tiện. Vua nói: “Phát hành giấy giao tử quả thật là việc bất đắc dĩ. Nếu từ trước đã có pháp chế, tài dụng đã đủ, thì tự nhiên không cần đến việc này. Nay chưa thể làm được như vậy, nên khi gặp việc khẩn cấp khó khăn không thể không có những việc bất đắc dĩ.” Phùng Kinh nói: “Ở phủ giới vừa làm ruộng bồi, lại sửa đổi chế độ sai dịch, thiết lập bảo giáp, dân chúng rất mệt mỏi.” Vua nói: “Ruộng bồi có gì gây khổ cho dân? Trước đây ta đã sai nội thần nhổ mạ xem thử, lấy đất ruộng bồi xem, thấy nó như bột mịn vậy. Thấy một nhà sư nói ruộng cũ không thể trồng trọt được, năm ngoái nhờ ruộng bồi nên mới thu hoạch được lúa mạch. Lại hỏi thăm dân chúng lân cận, họ đều vui mừng vì được miễn dịch. Tuy bắt họ nộp tiền, nhưng được miễn thân dịch, không lo bị truy bức, hình phạt, nên họ tự nguyện làm vậy.” Ngạn Bác nói: “Bảo giáp dùng năm nhà làm một bả thì còn được. Nay lại dùng năm trăm nhà làm một đại bả, thì sự phiền nhiễu có thể biết được.” Vua nói: “Dân chúng đâu biết được sự tình phức tạp, họ chỉ biết lo cho bản thân mình thôi. Nếu có hại thực sự thì họ oán, có lợi thực sự thì họ mừng. Dù năm trăm người làm một đại bả, nhưng có gì gây hại thực sự cho dân mà bảo là phiền nhiễu?” An Thạch nói: “Việc giấy giao tử quả thật như lời bệ hạ nói, làm là vì bất đắc dĩ. Nhưng bệ hạ nên suy nghĩ kỹ, tài dụng không đủ, nhân tài chưa có người đáng tin cậy, nên đối với việc biên cương tạm thời giữ yên ổn là được. Nếu giữ được yên ổn để đối phó với việc biên cương, thì rợ Di Địch chưa thể gây họa, lúc đó có thể sửa sang nội chính; nội chính đã thành, nhân tài đủ dùng, tài lực phú cường, thì làm gì cũng được.”

[13] Ngạn Bác lại nói: “Pháp chế của tổ tông đã đầy đủ, không cần thay đổi để mất lòng dân.” Vua nói: “Thay đổi pháp chế, đối với sĩ đại phu quả thật nhiều người không vui, nhưng đối với trăm họ thì có gì bất tiện?” Ngạn Bác nói: “Là vì cùng sĩ đại phu trị thiên hạ, chứ không phải cùng trăm họ trị thiên hạ.” Vua nói: “Sĩ đại phu há lấy việc thay đổi là sai, cũng tự có người cho rằng nên thay đổi.” An Thạch nói: “Pháp chế đã đầy đủ, thì tài dụng phải dồi dào, Trung Quốc phải mạnh. Nay đều không như vậy, không thể nói là pháp chế đã đầy đủ.” Ngạn Bác nói: “Cần phải có người thi hành.” An Thạch nói: “Nếu cần người thi hành, thì phải tìm người tài, và trừng trị những kẻ yếu đuối, lười biếng, không tuân theo pháp lệnh. Như vậy, lòng người há lại không vui? Như Triệu Tử Kỷ ở phủ giới, xét án Vương Khải có tham nhũng, mà các quan cận thần lại cho rằng Tử Kỷ xét án Khải là kẻ khắc bạc, không nên khen thưởng. Trên dưới cùng nhau làm bừa, không muốn tuân theo pháp luật, phần nhiều như thế, thì ai sẽ thi hành pháp chế? Một huyện Trần Lưu vì Tử Kỷ đến đó tu sửa bảo giáp, phát giác ra mười hai vụ cướp bóc không báo lên quan, ở một vùng đất chỉ vài chục dặm mà có nhiều vụ cướp bóc không báo lên quan như vậy, thì sự nhiễu loạn của dân có thể biết được. Việc tu sửa bảo giáp[1] là để trừ bỏ những việc này, mà người bàn luận lại cho là gây nhiễu, thần không hiểu được. Tuy nhiên, việc thay đổi quả thật là bất đắc dĩ, nhưng thay đổi mà trừ bỏ hại thì làm, thay đổi mà thêm hại thì không nên làm. Lại có việc quả thật nên làm, nhưng thời thế chưa cho phép. Như đánh dẹp rợ Di Địch, mở rộng biên cương, trong thời thế hiện nay là chưa thể làm được. Vả lại, 《Lễ ký》 cho rằng ‘Việc định trước thì không vấp’[2], nay việc thiên hạ cần phải định trước, không thể để lúc làm bị người bàn luận làm lung lay.”

(Sách Cựu kỉ thư chép: Ngày Mậu Tý, quân Quảng Nhuệ ở Khánh Châu làm phản. Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho binh lính làm phản đầu thú được miễn tội, chỉ không tha kẻ cầm đầu. Ngày Tân Sửu, chiếu cho người bắt được binh lính làm phản đầu hàng được thưởng như chém đầu giặc. Sách mới chỉ chép: Quân Quảng Nhuệ ở Khánh Châu làm phản, ngày Ất Mùi dẹp yên.)

[14] Hôm đó, An Thạch lại bàn với Vua về việc Lã Đại Phòng không thể xử lý được chuyện ở Diên Châu. Vua nói: “Đại Phòng không bằng Triệu Tiết.” Lại nói: “Quách Quỳ có thể dùng được, nhưng Hàn Kỳ ghét Quỳ.” Lại bàn về Chủng Ngạc: “Người này là loại thành công thì được phong khanh, thất bại thì bị nấu. Bệ hạ tính toán lợi hại khác với Ngạc.” Ngạn Bác nhân đó chê bai Ngạc. An Thạch nói: “Nếu giao cho Ngạc hai ba nghìn quân, sai ra vào biên giới quấy nhiễu đánh phá các bộ lạc, thì có thể dùng được, nhưng không thể hoàn toàn dựa vào.” Vua nói: “Dùng Ngạc như Mã Long thì không sao.”

[15] Ngày Kỷ Sửu, sai nội thị Lý Thuấn Cử đi Hoàn Khánh lộ, chiếu cho Kinh lược ty rằng: “Hai doanh quân sĩ chắc không phải tất cả đều đồng mưu, cha anh con em khó lòng giám sát hết, nên chỉ xét xử gia thuộc của kẻ cầm đầu, còn lại cha con anh em không được giám sát, phải an ủi vỗ về họ. Những kẻ bị ép theo nếu có thể quay đầu đều được miễn tội, nếu có thể bắt giết được kẻ cầm đầu liên kết, sẽ bàn thưởng hậu. Những kẻ đã bị bắt, phải báo ngay người bắt được tặc, sẽ thưởng ngoài lệ.”

[16] Ngày Canh Dần, chiếu rằng: “Các lộ đặt học quan, mỗi châu cấp 10 khoảnh ruộng làm lương học, chỗ nào trước đã có ruộng học mà không đủ thì tăng thêm, nhiều thì cứ để như cũ. Lại đặt tiểu học giáo thụ, phàm người trong học có chức vụ, dùng lương học để định mức cấp phát.”

[17] Lại chiếu Trung thư, năm lộ có nhiều cử nhân nhất là Hà Nam phủ, Thanh Châu đã đặt học quan, các châu khác đều chọn đặt giáo thụ, dùng Thái Châu quan sát suy quan Lục Điền làm chức đó. Việc chọn Lục Điền vào ngày Tân Mão, nay viết chung.

[18] Điều lệ ty tâu: “Muốn lệnh các lộ chuyển vận ty xét các châu huyện phức tạp có hộ chủ trên hai vạn thì tăng thêm một viên thừa, dùng mạc chức huyện lệnh sung vào.” Theo lời tâu.

[19] Lộ Lân Phủ thừa thụ Tiêu Nhữ Hiền tâu: “Tuyên phủ phán quan Lã Đại Phòng xem xét việc giữ lại các trại mới xây, để lại ba nghìn người phòng thủ, có vài trăm quân sĩ kêu gào trước trướng của Đại Phòng, không thể ngăn cấm, chém một người rồi mới yên. Nay việc xây trại thực sự vô ích, mong sớm xử lý.” Chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông và Vương Khánh Dân theo chỉ huy của Tuyên phủ ty, chuyển lương thảo, lầu lâu của trại thứ nhất về trại Thần Đường, dời quân mã đến đóng gần bên trong.

[20] Trước đó, Hàn Giáng tấu rằng trại Hoang Đôi ngoài sông xây dựng lâu ngày không thể giữ được, đã lệnh phá bỏ và rút quân về, nhưng Đại Phòng một mực không chịu, Giáng bèn sai Đại Phòng tùy nghi đi xem xét, Đại Phòng lại trì hoãn ở châu Lân không đi ngay. Gặp mưa gió lớn, dân phu phơi bày ngoài trời, suốt đêm kêu gào, các quan ngoài sông đều lên tiếng. Vương An Thạch tâu với Vua rằng: “Triều đình giao quyền tùy nghi cho Hàn Giáng, sao lại chuyển giao cho Đại Phòng? Xin răn Đại Phòng, mọi việc phải báo lên Tuyên phủ ty, không được tự tiện hành động. Xin lệnh phá bỏ trại Hoang Đôi, theo chỉ huy của Tuyên phủ sứ.” Vua nghi ngờ Đại Phòng đang đi xem xét. An Thạch nói: “Nếu không phải là chắc chắn nên bỏ, Giáng há lại làm thế? Không cần đợi báo cáo của Đại Phòng!” Vua đã viết tay dụ Đại Phòng, rồi hạ chiếu này. Việc này căn cứ theo tờ chiếu ngày 4 tháng 3 trong gia tàng của Lã Đại Phòng và 《Nhật lục》 của Vương An Thạch mà sửa chép.

[21] Vua bảo An Thạch: “Đường thông Tuy – Lân về lý là có thể làm được, chỉ vì Chủng Ngạc vội vàng nên không thể hoàn thành việc đó.” An Thạch nói: “Tây Hạ chưa yên, không hại gì đến chính sự của bệ hạ, nhưng sức dân kiệt quệ thực đáng lo. Nay bệ hạ lên ngôi đã mấy năm, xem xét nghĩa lý trong thiên hạ ngày càng nhiều, lòng cầu trị ngày càng chuyên, lời tà thuyết che lấp lừa dối ngày càng tăng, sự soi xét như thế, lo gì không trị được? Triều đình đã trị, người xa tự đến quy phục, nếu chúng còn ngoan cố nơi sa mạc, chỉ cần tích trữ của cải, nuôi dưỡng sức lực, xét chọn nhân tài, một trận đánh phá tan, há chỉ thông đường Tuy – Lân mà thôi.” Việc thông đường Tuy – Lân vân vân, đều căn cứ theo 《Cựu lục》, bản Chu đã bỏ đi, chép sau việc bỏ thành La Ngột, nay vẫn giữ lại.

[22] Chiếu cho Viện Xu mật: Các tướng ở Phu Diên là Chủng Ngạc, Yến Đạt; ở Kinh Nguyên là Chu Vĩnh Thanh, Vương Ninh, Lưu Khánh, Chủng Hỗ; ở Hoàn Khánh là Chủng Chẩn, Nhậm Hoài Chính; ở Tần Phượng là Hướng Bảo, Lưu Thuấn Khanh; ở Lân Phủ là Văn Uất, Hứa Hàm Cát, Tào Yển, Trương Cư, tổng cộng 14 đầu mục binh mã, đều từng xuất quân gặp giặc, đều có chém giết và thu được chiến lợi phẩm. Các tướng hiệu có công, xét kỹ rồi nhanh chóng ban thưởng. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》, vào ngày 5 tháng 3, xét kỹ chức vụ và công lao của 14 người, tạm ghi chép lại.

[23] Ngày Tân Mão, Vua phê: “Đã ban chỉ dụ, theo lời tấu của Hàn Giáng, bãi bỏ việc xây dựng đồn Hoang Đôi và Tam Tuyền Trại ở ngoài sông, đồng thời triệu hồi quân đồn trú ở Ngô Bảo. Lại lệnh cho Ty Chuyển vận Hà Đông nhanh chóng chỉ huy các nơi đang sử dụng dân phu cường tráng và nghĩa dũng, đều cho giải tán. Từ nay nếu cần dùng dân phu, phải tấu xin chỉ dụ triều đình mới được điều động.” Sau đó ban chiếu cho các Ty Kinh lược và Ty Chuyển vận Thiểm Tây, Hà Đông, nếu việc quân cấp bách cần điều động dân phu, việc tấu trình không kịp, thì được phép căn cứ vào tình hình thực tế để điều động rồi tâu lên.

[24] Sai Đồn điền viên ngoại lang Chu Chi Thuần đi xem xét việc thu đinh mễ ở Quảng Nam Đông lộ, những châu huyện đi qua, nếu có nơi thi hành tân pháp không đúng chức trách, thì xem xét rồi tâu lên. Bằng Kinh nói: “Nhiều lần sai sứ đi không tiện, chi bằng ban ngay cho một chức Giám ty.” Vương An Thạch nói: “Nhiều lần sai sứ đi hoàn toàn không có hại, có thể thử thách nhân tài, nay chưa thử mà đã ban chức Giám ty thì thật đáng tiếc.” Vua cho là phải. Đến tháng 3, bèn lệnh cho Chu Chi Thuần quyền phát khiển làm Đề điểm hình ngục của lộ này. Chu Chi Thuần chưa rõ quê quán, việc thu đinh mễ dùng lời tấu của Tôn Mạc, 《Nhật lục》 có ghi việc này, cần xem xét kỹ việc Chu Chi Thuần xem xét rồi thi hành thế nào. Việc bổ nhiệm làm Đề hình vào ngày 14 tháng 6. Bành Nhữ Lệ chép trong 《Chí Kim Quân Khanh mộ》 rằng: “Đinh mễ không đều, tích tụ thành mối lo của dân Quảng. Các sứ giả bàn luận qua lại, thay đổi sáu bảy người vẫn chưa định được. Đến khi Kim Quân Khanh làm Chuyển vận sứ, tra xét những người ẩn lậu đinh, người ta mới không còn trốn tránh được. Chia làm ba hạng thượng, trung, hạ, người giàu thu nhiều mà không tàn bạo, người nghèo thu ít mà dễ đóng, người ta mới cho là công bằng.” Xét theo đó, thì Chu Chi Thuần ban đầu chưa từng giải quyết xong việc này.

[25] Ngày Nhâm Thìn, Tuyên huy Nam viện sứ, Hùng Vũ quân Lưu hậu Quách Quỳ được bổ nhiệm làm Phán Vĩnh Hưng quân. Ban đầu, triều đình cử Vương Quảng Uyên từ Khánh chuyển đến Vĩnh Hưng, nhưng khi binh lính Quảng Nhuệ nổi loạn, triều đình lo lắng nên bãi chức Quảng Uyên và thay bằng Quỳ. Lúc đó, binh lính nổi loạn tản mát gây rối ở Quan Trung, thành Trường An phải phòng thủ. Khi Quỳ đến, ông bãi bỏ cảnh giác và bỏ phòng bị, triệu hồi các đội tuần tra về, chỉ dùng phần thưởng lớn để chiêu mộ quan lại và binh lính vào núi bắt cướp, nhân tâm mới yên ổn.

[26] Thiên Chương các Đãi chế, quyền Tam ty sứ Lý Túc Chi được cử làm Đồng đề cử tại kinh các ty khố vụ, Giang Hoài Phát vận sứ, Thiên Chương các Đãi chế Tiết Hướng được bổ nhiệm làm Quyền phát khiển Tam ty sứ. Hướng chưa đến chức Học sĩ nhưng được ban thưởng đai vàng, thể hiện ân điển đặc biệt.

[27] Triều đình ban chiếu miễn tội cho quan lại Liêu Châu và ban sắc thư khen ngợi Tri châu, Tư Nông Thiếu khanh Lý Hoành. Nguyên nhân là do Phạm Dục, người điều tra Hà Đông lộ, tâu rằng: “Trước đây, bản lộ xuất binh ra ngoài biên giới, chỉ có Liêu Châu ước lượng sức dân mà cung cấp lương thảo đúng hạn, nhưng Chuyển vận sứ vẫn hặc tội quan lại vì không đủ số lượng, xin được khoan hồng.”

[28] Triều đình ban chiếu cho Kinh lược ty Thiểm Tây và Hà Đông lộ: “Khi chiêu nạp các bộ tộc phiên, phải tuyển chọn người khỏe mạnh, cho họ định cư làm ăn, bình thường không hao tổn lương thực biên giới, khi cấp bách có thể chống địch. Từ nay, ai được bảo lãnh không gian trá thì theo lệ ban thưởng bạc lụa để an ủi, không cần phải cử người đi sâu chiêu dụ.”

[29] Chu Địch, người phụ trách công vụ của Tuyên phủ ty Thiểm Tây và Hà Đông lộ, xin được yết kiến, triều đình ra lệnh cho Địch ngừng đi. Ngày Quý Tỵ, Địch được đổi làm Tri Thiểm Châu. Tháng 2, ngày Ất Sửu, không cử Lý Sùng Quý.

[30] Triều đình cử Long Thần vệ Tứ sương Đô chỉ huy sứ, Chiêu Châu Phòng ngự sứ, Kinh Nguyên Phó đô Tổng quản Trương Ngọc làm người chỉ huy bắt cướp ở Thiểm Tây, Nhập nội Phó đô tri, Tuyên chính sứ, Lăng Châu Đoàn luyện sứ Trương Nhược Thủy làm phó. Tất cả quan lại phụ trách bắt cướp đều nghe theo sự điều động. Khi Nhược Thủy đến Thiểm Tây, binh lính nổi loạn đã tan rã, Ngọc cũng trở về Kinh Nguyên. Giặc đã tan rã, Ngọc trở về bản lộ, sự việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.

[31] Ngày Giáp Ngọ, Vua phê rằng: Xu mật viện tâu việc bảo giáp gây phiền nhiễu cho dân, lệnh cho Vương An Thạch xem xét thực hư. An Thạch cho rằng hỏi ra thì có một số việc, do bọn gian nhân xúi giục, vì sợ bị bắt đi lính nghĩa quân. Muốn lệnh cho người của đề điểm ty đi khắp nơi để vỗ về, Phùng Kinh nói: “Không cần lấy năm trăm người làm một bảo, Quản Trọng trong nội chính gửi quân lệnh cũng chỉ lấy năm người làm một bảo.” Vua muốn tạm bãi bỏ chức đô bảo chính, An Thạch nói: “Không cần bãi đô bảo chính, bảo chính không phải là nguyên nhân khiến dân bất an.” Vua nói: “Về lâu dài phải đến mức chia dân thành thập ngũ để sử dụng, lính mộ không thể dựa vào được.” An Thạch nói: “Muốn công tư tài dụng không thiếu hụt, vì kế lâu dài của tông miếu xã tắc, phép mộ binh thật nên thay đổi, không thể chỉ dựa vào một thứ.” Vua nói: “Xu mật viện cho rằng chắc chắn sẽ có biến loạn như thời Kiến Trung.” An Thạch nói: “Bệ hạ thân hành đức nghĩa, lo lắng chăm chỉ việc chính sự, trên dưới không bị che lấp, chắc chắn không có lý nào như vậy.” Vua hỏi nguyên nhân dẫn đến biến loạn thời Kiến Trung, An Thạch nói: “Đức Tông dùng bọn Lư Kỷ mà xa lánh Lục Chí, không mất nước là may rồi.” Theo 《Nhật lục》 ghi chép việc này vào ngày mồng 9 tháng 3, nên ghi chép kèm, đợi xem xét kỹ hơn. Ngày 13, 22, 24 tháng 3 và ngày mồng 9 tháng 5, nên tham khảo thêm.

Trần Quán bàn rằng: An Thạch nói không chia dân thành thập ngũ mà sử dụng thì không thể đạt được sự thịnh trị cường thịnh, vì An Thạch muốn thay đổi phép mộ binh túc vệ, nên mới nói như vậy. Lúc đó, Xu mật viện tâu rằng vì thiết lập bảo giáp mà có người chặt ngón tay, cổ tay. An Thạch ban đầu cho là đúng, nhưng sau mười ngày lại tâu với Vua rằng: “Thần triệu hỏi sai dịch, công nhân ở Khai Phong, họ đều nói bảo giáp là do người dân tự nguyện, không có gì bất tiện, thực tế không như lời Xu mật viện tâu. Lại có tờ tấu của Triệu Tử Kỷ: Xét ra có hai người chặt ngón tay, một người hỏi khắp nơi đều không có, một người là do chặt dâu bị thương, có ba người làm chứng. Người mà thần hỏi chính là người đầu tiên phát ngôn.” Việc này theo 《Nhật lục》 ghi ngày 19, nếu An Thạch không kiên trì giữ ý kiến, thì lúc đó bảo giáp chắc chắn đã bị bãi bỏ. Muốn thấy sự thực, nên ghi chép đầy đủ ở đây.

[32] Văn Ngạn Bác tâu rằng: “Trước đây nhân dịp vào chầu, được bệ hạ hỏi về lợi hại của việc xăm mặt quân lính và dân binh, thần cùng Ngô Sung liền tóm tắt đại ý tâu lên, nhưng dưới uy trời, trong khoảnh khắc, chắc chắn chưa thể trình bày đầy đủ. Thần lui về suy nghĩ lại, từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, lo lắng trăm việc, coi việc binh là đại sự, đặc biệt chú ý. Ba bốn năm trước, Xu mật viện tra cứu được từ năm Khai Bảo đầu tiên đến năm Trị Bình, số lượng binh mã trong ngoài rất chi tiết[3], bèn bàn định mức trung bình làm định mức vĩnh viễn, so với thời Chí Đạo thì nhiều hơn, so với thời Khánh Lịch thì giảm bớt. Trong thì củng cố gốc rễ, ngoài thì bảo vệ biên cương, bỏ bớt những thứ thừa, giữ lại tinh nhuệ, tiết kiệm chi phí, tuyển bổ và huấn luyện đều có quy củ. Lại thêm ba lộ giáp với Khương Hồ, có các hộ thuộc, quân phiên, dân cung tiễn, cho đến các châu quân biên giới thứ yếu đều đặt nghĩa dũng, khi cần thì điều động để ứng phó với việc phòng thủ và chinh chiến. Nếu tướng giữ biên giới xử lý đúng cách, lâu dài chắc chắn không có việc gì thiếu sót. Hơn nữa, trước đây các quận huyện ở các lộ, ngoài định mức còn tăng thêm dân cung tiễn, cũng là để phòng ngừa trộm cướp. Những quy củ như vậy, thần cho rằng rất phù hợp với tình hình hiện nay, rất hợp lý trong việc phòng bị. Nếu có chỗ chưa đạt, hoặc có chỗ bị bỏ phế, thì nên sửa chữa và khôi phục lại.

Kính nghĩ rằng Thái Tổ, Thái Tông định thiên hạ[4], chỉ dùng binh này. Chân Tông, Nhân Tông, Anh Tông giữ thiên hạ, cũng dùng binh này. Các bậc thánh nối tiếp nhau, không có đạo lý nào khác, trải qua nhiều năm, không có pháp chế nào khác, nên thần cho rằng phù hợp với tình hình hiện nay, hợp lý trong việc phòng bị, có chỗ chưa đạt và bị bỏ phế, thì nên sửa chữa và khôi phục lại. Nay bệ hạ với đức sáng suốt, kế thừa sự nghiệp hưng thịnh của tổ tông, người Trung Nguyên không biết đến binh đao đã gần trăm năm, vượt qua cả thời Tam Đại[5]. Cái gọi là dân không cần tụ tập lại, đất không cần khai phá thêm, thi hành nhân chính mà không làm phiền nhiễu, thì hiệu quả thái bình còn gì hơn nữa. Bệ hạ nhất định muốn bỏ điều này mà tìm đạo trị quốc khác để đạt đến thái bình, thay đổi chế độ binh lính để tăng uy vũ, chắc chắn không phải là điều thần ngu muội này có thể hiểu được.

Huống chi thần giữ chức ở Xu phủ, chủ quản việc binh, không thể đáp ứng ý chỉ của bệ hạ, bàn bạc kỹ lưỡng, trách nhiệm hưởng lộc không làm việc không thể trốn tránh. Kính mong bệ hạ xem xét các chương tấu thần đã dâng nhiều lần trước đây, cho phép thần từ bỏ trọng trách ở Xu mật viện, trả lại ấn tướng, để thần được giữ chức tản ở ngoại quận, theo phần biết dừng của kẻ ngu thần, giữ trọn lễ nghĩa của triều đình đối với người lui về, thần vô cùng may mắn. Tuy nhiên, thần lâu nay được ơn trời đất, đâu dám quên ơn chó ngựa. Thần nghĩ rằng binh dân như nước, nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền. Cấm bạo lực, ngăn chặn binh đao, là bảy đức của vũ, không ngăn chặn thì tự thiêu, từ xưa đã răn dạy. Phàm là phương pháp thay đổi chế độ, thần mong bệ hạ hết sức thận trọng. Lòng thành nhỏ bé, mong bổ ích được chút ít, mạo muội trình lên bệ hạ, vô cùng lo sợ.”

Đây căn cứ theo tấu nghị của Văn Ngạn Bác, tự chú là năm Hi Ninh thứ 4. Không rõ tháng ngày, nay phụ vào sau tháng 3 ngày Giáp Ngọ, khi Xu mật viện tâu về việc bảo chính làm phiền dân, cần tra cứu thêm.

[33] Ngày Ất Mùi, giáng chức Công bộ lang trung, Bảo Văn các đãi chế Vương Quảng Uyên xuống làm Độ chi viên ngoại lang, vẫn giữ chức Tri Khánh châu; Hữu ty gián, Trực Long đồ các Triệu Tiết lại được quyền phát khiển Diên châu. Vua đã bãi chức Quảng Uyên, dùng Quách Quỳ làm Phán Vĩnh Hưng, và Tuyên phủ ty cũng trước đó đã mệnh Thiểm Tây chuyển vận sứ Vô Hãng quyền lĩnh Diên châu, thúc giục Triệu Tiết đến Diên châu, lệnh cho Quảng Uyên phải đợi Tiết đến bàn giao xong, rồi đến Càn châu nghe chỉ. Khi Quảng Uyên tâu rằng binh phản loạn đã dẹp yên, Vua khen bản tấu của Quảng Uyên là hợp lý, liền hạ chiếu cho Quảng Uyên và Tiết chưa được theo chỉ huy của Tuyên phủ ty, lại muốn điều Quỳ đến Diên châu, chọn một đại thần khác trấn thủ Vĩnh Hưng. Vương An Thạch nói: “Xin giáng chức quan hoặc chức của Quảng Uyên, để ông ta ở lại trị Khánh châu, Tiết trị Diên châu, Quỳ trị Vĩnh Hưng, đều không cần điều động.” Và nói thêm: “Hiện nay hai châu đều có quan lại tạm quyền, trên dưới không tin tưởng nhau là không tiện, nên nhanh chóng quyết định, để trên dưới yên ổn, không có ý tạm bợ.” Vua nghe theo. Vì vậy Quảng Uyên chỉ bị cách hai chức vì để xảy ra loạn trong địa hạt, trên đường đến Phụng Thiên lại được trở về. Ban đầu, Vua mệnh Quỳ kiêm chức Tứ lộ an phủ sứ, An Thạch cho là không tiện, nên bãi bỏ. 《Thực lục》 chép: “Binh Khánh châu nổi loạn, điều Quảng Uyên đến Vĩnh Hưng, khi binh phản loạn đã dẹp yên, Quảng Uyên chỉ bị giáng chức, lại lĩnh Khánh châu.” Xét: Quảng Uyên được điều đến Vĩnh Hưng vào ngày 7 tháng 2, lúc đó binh Khánh châu chưa từng nổi loạn, 《Thực lục》 chép sai. 《Phụ truyền》 và 《Bản truyền》 của Quảng Uyên đều sai, nay căn cứ 《Ngự tập》 và 《Nhật lục》 sửa lại.

[34] Thiên Chương các đãi chế, Tri Vị châu Thái Đĩnh được thăng làm Long đồ các trực học sĩ, ban chiếu viết: “Binh Khánh châu phản loạn, không đến mức hoành hành, là nhờ sức của Kinh Nguyên vậy.”

[35] Thượng bàn luận về việc trong niên hiệu Khánh Lịch, tài chính chưa thiếu thốn, nhưng việc quân sự phương Tây không được phấn chấn. Vương An Thạch nói: “Tài chính đủ, sau đó mới có thể dùng binh. Tuy nhiên, tài chính chỉ là một phần trong việc dùng binh. Tôn Vũ bàn về việc dùng binh để thắng bại, nói rằng chủ nào có đạo, tướng nào có tài, thiên thời địa lợi nào thuận lợi, pháp lệnh nào được thi hành, chứ không đề cập đến việc tài chính có đủ hay không. Việc hiện nay, hãy tìm kiếm và đề cử nhân tài, quản lý tài chính, chú trọng làm giàu và yên ổn cho dân chúng, thì giặc thù không đáng bàn.” Thượng nói: “Dùng binh phải có danh nghĩa, thế nào[6]?” Mọi người đều cho rằng không có danh nghĩa thì không thể dùng binh. Thượng nói: “E rằng chỉ xem xét sức mạnh thế nào, không tính đến có danh nghĩa hay không.” An Thạch nói: “Nếu có thể dùng binh, không lo không có danh nghĩa. Binh không phải là kết hợp yếu đánh mạnh, mà là lấy loạn đánh tan. Muốn đánh nước yếu, loạn, tan, há lo không có danh nghĩa? Chỉ lo đức và lực không đủ thôi!” Có người cho rằng không nên coi trọng sức mạnh. An Thạch nói: “Vũ Vương nói rằng cùng lực thì xét đức, cùng đức thì xét nghĩa, lực ngang nhau rồi mới xét đức, đức ngang nhau rồi mới xét nghĩa. Nếu lực không đủ, dù có đức như Văn Vương cũng không tránh khỏi việc thờ phụng Khuyển Nhung. Nhưng người có đức, cuối cùng sẽ mạnh lên và thắng được Di Địch, Văn Vương là ví dụ. Tiên vương đối với Di Địch, lực không đủ thì thờ phụng, lực ngang nhau thì giao hảo, lực dư thừa thì chế ngự. Cùng lực cùng đức ta giao hảo, mà họ từ chối ta, thì ta có nghĩa mà họ không có nghĩa, thì ta thắng.”

Trần Quán bàn rằng: Người xưa có câu: “Binh như lửa, không kiềm chế sẽ tự thiêu.” Tai họa tự thiêu sinh ra từ việc dùng binh mà không có danh nghĩa. Thần khảo nói: “Dùng binh phải có danh nghĩa.” Có thể thấy tấm lòng của bậc thánh chúa. An Thạch nói: “Nếu có thể dùng binh, không lo không có danh nghĩa.” Lời nói của ông sao mà trái ngược vậy! Thực sự không nên dùng, lập danh mà dùng, há phải là binh của bậc vương giả sao? Ý muốn dùng binh, thì lập danh mà vui sát; ý muốn trừng phạt, thì lập danh mà giết oan. Phàm những ai học theo An Thạch mà có hành động, đều noi theo ý này.

[36] Ngày Bính Thân, Vua phê: “Nghe nói từ Bộc Châu ở Kinh Đông đến vùng biên giới Hà Bắc, ngày Tân Tỵ tháng hai, gió biến đổi dị thường, trăm họ kinh sợ bất an, chỉ nên giảm bớt việc, giữ yên tĩnh để ứng phó với thiên tai. Dân phu ở Hà Bắc, Kinh Đông có thể nhanh chóng giải tán. Việc kéo thuyền trên sông Chương thực sự cản trở nông sự, có thể nhanh chóng chỉ đạo, nếu sang năm dần dần khai thông sửa chữa cũng không muộn. Các châu quận gặp thiên tai, Giám ty đều không báo cáo, có thể lệnh cho họ phân tích.” Vua tuy có chiếu này, nhưng chấp chính khi tiến trình lại không thi hành. Việc không thi hành ắt có lý do, 《Nhật lục》 của Vương An Thạch riêng không ghi chép việc này, cần xem xét. Ngày Ất Mùi 11 tháng 5, Vua phê và Lưu Chí nói gì đó, có thể tham khảo.

[37] Chiếu cho Ty Chuyển vận và Ty Đề điểm hình ngục Hà Bắc, Kinh Đông xem xét các chức Tri châu, Thông phán, Đô giám, Giám áp, Tuần kiểm, Tri huyện, Huyện lệnh trong bộ phận mình không làm tròn chức trách thì tâu lên.

[38] Vua phê: Châu Lân đã bỏ trại thứ nhất đã tu sửa, các quân mã phòng thủ có thể đều giải tán, binh lính phơi nắng dãi mưa đã lâu, mỗi người ban cấp tiền đặc chi theo thứ bậc.

[39] Ngày Đinh Dậu, giáng Điện tiền đô ngu hậu, Ung Châu quan sát sứ, Bân Ninh Hoàn Khánh phó đô tổng quản Đậu Thuấn Khanh làm Khang Châu phòng ngự sứ. Do binh Quảng Nhuệ làm phản, Thuấn Khanh không phát hiện kịp thời.

[40] Tri phủ Thái Nguyên Lữ Công Bật tâu: “Xin khôi phục chức quan cho Vương Khánh Dân, trước đây vì tội không hoàn thành việc xây thành mà bị cách chức.” Vua xem tấu, nói: “Khánh Dân là người đầu tiên nói rằng việc xây dựng các thành trì ở Hoang Đôi, Hà Ngoại là không tiện, quả nhiên làm khổ dân mà không có kết quả. Những người trước đây từng nói rằng thành La Ngột, Hoang Đôi không thể xây dựng, xây dựng thì không có lợi, nên liệt kê tên họ tâu lên. Triều đình thường lo các quan biên giới không trung tín, nếu có người như Khánh Dân dám nói trước sự việc, cũng đáng khen ngợi.” Vương An Thạch nói: “Hán Cao Tổ chỉ vì một lời của Ngạc Thiên Thu mà minh oan cho công lao của Tiêu Hà, liền phong làm Quan Nội Hầu; khi từ Bình Thành trở về, chém những kẻ dám nói đánh Hung Nô. Thưởng phạt rõ ràng như vậy, nên mới không tốn sức mà thu được mưu kế của mọi người.” Vua nói: “Lý Thanh Thần đáng bị trách phạt.” An Thạch nói: “Trương Cảnh Hiến nói Đỗ Hủ bảo đảm rằng đường đến thành La Ngột rộng rãi, cũng không thể không trách phạt.” Vua cho là phải. Hủ trước đây từ chức Điện trung thừa, được cải nhậm làm Tiết độ suy quan Trung Vũ, viết các văn thư cơ mật của Tuyên phủ ty, theo lời thỉnh cầu của Hàn Giáng. Theo《Nhật lục》, lời của Vương An Thạch nói vào ngày 19 tháng 4, theo bản Chu chép phụ vào đây, cần xem xét cách thưởng cho Khánh Dân. Tập của Tăng Bố có lời trách phạt Lý Thanh Thần. Ngày 14 tháng 9 năm thứ 3, đổi Đỗ Hủ từ chức Điện trung thừa về hưu làm Tiết độ suy quan Trung Vũ, viết các văn thư cơ mật của Tuyên phủ ty, theo lời thỉnh cầu của Hàn Giáng, cùng ngày với Lý Thanh Thần.

[41] Ngày Mậu Tuất, Lữ Công Bật tâu: “Hàn Giáng tấu rằng việc xử trí của thần ở bản lộ phần nhiều rối loạn, bề ngoài lấy danh nghĩa ứng phó, kỳ thực muốn phá hoại việc biên phòng. Hơn nữa, từ khi các lộ xuất binh khống chế, giặc kia không có quân cứu ứng, bị vây khốn đến cực điểm. Thần nghĩ rằng mùa xuân năm nay chúng không thể tập hợp quân, nếu sau này tu sửa các trại này, có gì không được? Bản lộ của thần trước đây vội vàng xuất binh ứng tiếp, so với các lộ khác là tiến sâu nhất, may mắn không bị thất bại, đến nỗi tu sửa trại thứ nhất, quân giặc kéo đến tranh đoạt, bị đánh lui đến mấy vạn người, nghĩa dũng, cường tráng vận lương tu trại đều bình an trở về, tức là không có chuyện ‘bề ngoài lấy danh nghĩa ứng phó, kỳ thực muốn phá hoại việc biên phòng’. Nay ở địa giới Diên Châu, quân giặc hơn mười vạn người đánh phá thành Phủ Ninh, từ đó biết rằng lời tấu của Giáng nói rằng quân Tây Hạ không thể tập hợp là không đúng sự thật. Nếu bản lộ của thần có thất bại như Phủ Ninh, thì lời của Giáng sẽ được chấp nhận, thần cũng lấy gì để đối phó với trách nhiệm của triều đình. Thần đã nhiều lần dâng biểu xin từ chức, mong bệ hạ cho phép.” Chiếu không chấp thuận. Vương An Thạch nói: “Công Bật không có tội, nhưng thường xuyên bị chất vấn, đã giao phó một lộ, mà khiến lòng ông ấy luôn nghi ngờ, sợ hãi không dám hết sức, đối với kế hoạch biên phòng không tiện. Nay việc biên phòng đều như lời Công Bật nói, nên ban chiếu thư an ủi, nhân đó cho phép ông ấy tâu bày mọi việc.” Vua cho là phải.

[42] Vua phê: “Huyện Trần Lưu hiện đang thực hiện chế độ bảo giáp, cứ mười người thì lập một tiểu bảo, trong đó ba hoặc năm người phải có cung tên, lại dịch trong huyện đốc thúc, ai không có thì bị phạt. Dân chúng mua một cây cung giá đến một nghìn năm trăm, mười mũi tên giá sáu bảy trăm. Lúc này đang là thời kỳ giáp hạt, những người nghèo khó làm thuê làm mướn, làm sao có thể lo liệu được? Hơn nữa, mỗi tiểu bảo lại bắt dân đắp đài bắn, lại bắt tự lo tiền lương, dựng hai ba gian nhà, mỗi bảo đặt một cái trống, gặp giặc thì đánh lên báo động. Người dân thôn quê ở cách xa nhau không đều, giả như nhà Giáp bị giặc, mà trống lại ở nhà Ất, thì không thể đánh lên được. Như vậy, phải mỗi người đặt một cái trống, lại tốn kém không ít tiền. Những việc kể trên đều do những người được cử làm bảo đầu nói ra, không phải là hư vọng, và cũng không phải là ý của triều đình khiến họ gây phiền nhiễu như vậy. Có thể nhanh chóng ra lệnh cho họ dừng lại như nghị định ban đầu, chỉ tổ chức bảo giáp để phát hiện trộm cướp, còn lại không được tùy tiện thi hành. Dân làng vốn lo không có tiền mua cung tên, lại thêm lời đồn đại khiến họ sợ bị đi đày biên ải, nên mới có cảnh cha con ôm nhau khóc lóc, không phải là không có thật.” Vương An Thạch dâng lên nhưng không được thi hành.

Ngày 13 tháng 3 năm thứ 4, Vua phê: Việc bảo giáp ở Trần Lưu gây phiền nhiễu, các quan chấp chính dâng lên nhưng không được thi hành. Điều này được ghi trong bản mực, giống với tờ tay trong 《Ngự tập》, nhưng trong 《Nhật lục》 lại hoàn toàn không có việc này. Bản Chu đã tùy tiện sửa đổi tờ tay, lại lấy ngày 14 tháng 10 nhuận năm thứ 5 trong 《Nhật lục》 khi bàn về việc bảo giáp ở Hà Đông, nói đến việc Khai Phong làm áo giáp và chuẩn bị cung tên, cùng lời đối đáp của Vương An Thạch rằng “Bệ hạ nên làm những gì thiên tử cần làm” v.v., ghép vào sự việc ngày 13 tháng 3 năm thứ 4 về việc Chu Kết gây phiền nhiễu ở Trần Lưu, thực là sai lầm. Việc ba đinh hay hai đinh, mỗi việc đều có chỗ khó khăn, là do Vương An Thạch muốn biên chế bảo giáp ở Hà Đông, nên mới có lời nói đó, chứ không liên quan gì đến việc ở Trần Lưu. Lại nói tháng 6 lại bắt người đi tập luyện, cũng không đúng. Những điều đáng nói trong tháng 3 năm thứ 4, xét đi xét lại, rõ ràng bản Chu đã sai lầm. Nay vẫn theo 《Nhật lục》, ghép đoạn lời này vào ngày 14 tháng 7 nhuận năm thứ 5, bỏ đi phần ghi ngày 13 tháng 3 năm thứ 4 trong bản Chu, nhưng không rõ vì sao 《Nhật lục》 lại không ghi lại lời phê của Vua ngày 13 tháng 3 năm thứ 4 về việc bảo giáp ở Trần Lưu gây phiền nhiễu và lý do không được thi hành, cần phải xem xét thêm.

[43] Chiếu cho Thành Đô phủ lộ chuyển vận ty chi 10 vạn quan tiền giao tử làm vốn mua thóc thường bình của Tử Châu lộ.

[44] Ngày Kỷ Hợi, quyền Thiểm Tây chuyển vận phó sứ, Độ chi lang trung Bì Công Bật được quyền phát khiển làm Giang, Hoài đẳng lộ phát vận phó sứ; Khai Phong phủ phán quan, Từ bộ lang trung Triệu Chiêm được quyền làm Thiểm Tây lộ chuyển vận phó sứ. Vua cho rằng Triệu Chiêm là người Thiểm Tây, ắt hiểu rõ tình hình dân tình trong lộ, nên sai thay thế Bì Công Bật. Thực ra là do các quan chấp chính ghét Chiêm không theo phe mình, nên đẩy ông đi. Triệu Chiêm vốn được bổ làm Tri Đặng Châu nhưng không nhận, lại làm Khai Phong phủ phán quan mới được vài tháng. Lại muốn dùng Lý Thọ Minh thay Trầm Khởi, nhưng sau đó không thực hiện.

[45] Bì Công Bật ở Thiểm Tây từng tâu rằng: “Thiểm Tây hiện đang lưu hành đồng tiền đáng giá 2 văn. Những năm trước, khi biên giới phía Tây có chiến sự, bắt đầu đúc tiền đáng giá 10 văn. Sau khi chiến sự kết thúc, nhiều kẻ đúc tiền giả, nên giảm giá trị xuống còn 3 văn. Nhưng vẫn còn tư đúc, nên lại giảm xuống còn 2 văn. Đến nay, chi phí đồng tương đương, dân không còn trục lợi, việc đúc tiền giả giảm dần. Xin dùng đồng và chì cũ để đúc hết thành tiền đáng giá 2 văn.” Vua đồng ý. Sau đó, tiền đáng giá 2 văn được lưu hành khắp thiên hạ. Việc này theo bản chí năm thứ 3, nhân việc Bì Công Bật đổi làm phát vận nên ghi chép thêm, không rõ ngày tháng, cần khảo cứu thêm. Các ngày 23 tháng 10 năm thứ 6, 18 tháng 3, 18 tháng 7, 27 tháng 9, 17 tháng 12 năm thứ 7 cũng cần tham khảo.

[46] Chiếu cho Vĩnh Hưng quân tiếp tục mua diêm sao, bãi bỏ việc lưu hành giao tử. Việc ngày 14, theo 《Vương Khuê hội yếu》 ghi chép, ngày 24 tháng 5, cần khảo cứu thêm.

[47] Tư nông tự tâu: “Kinh Đông thường bình thương ty tấu xin quy định về việc bán trường rượu, xin ban xuống cho bản lộ theo điều lệ của phủ Khai Phong mà thi hành.” Vua đồng ý. Việc này dùng sách biên lục[7], ngày 14 tháng 3 năm thứ 4, theo chỉ huy của trung thư tráp tử tu nhập, điều lệ của phủ Khai Phong có vào ngày 9 tháng 12 năm thứ 3, việc bán khắp các phường trường thì vào ngày 22 tháng 2 năm thứ 5.

[48] Quách Quỳ, tân nhậm chức Phán quân Vĩnh Hưng, xin được tùy nghi hành sự, nhưng không được chấp thuận.

[49] Trang trạch phó sứ, Phiên bộ đô tuần kiểm Triệu Dư Khánh được làm Tây Kinh tả tàng khố sứ, Hữu kỳ kỵ phó sứ, Phiên bộ đô tuần kiểm Triệu Dư Đức được làm Văn tư sứ, mỗi người được ban thưởng đai vàng, áo gấm; Tam ban tá chức, Đô tổng quản ty chỉ huy Đái Tự Lương, Tam ban sai sứ, Điện thị, Áp đội Khang Chiêm đều được thăng ba bậc, lại được ban thưởng bạc lụa, do Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu công lao của Dư Khánh và những người khác đã chiến đấu dũng cảm, chém bắt được quân nổi loạn ở Khánh Châu. Sau đó, Vương An Thạch nói rằng cuộc biến loạn của quân Khánh, nếu không có Dư Đức và Dư Khánh dẹp yên Nhu Viễn, thì người hưởng ứng chắc chắn sẽ rất đông, công lao của họ nên được ban thưởng hậu hĩnh để khuyến khích người sau. Vua cũng cho rằng phần thưởng trước đó là quá ít, muốn đợi khi sứ giả trở về sẽ ban thưởng hậu hĩnh. Văn Ngạn Bác và Phùng Kinh đều cho rằng không nên ban thưởng quá hậu cho quan lại người Phiên. An Thạch nói: “Đường Thái Tông dùng những người như Hắc Xỉ Thường Chi, đều là tướng người Phiên. Lập người hiền tài không phân biệt nơi chốn, nếu có công với triều đình, e rằng không nên phân biệt Phiên Hán, hơn nữa Khánh Châu nhờ hai người này làm lá chắn, ban thưởng hậu hĩnh tiền của, khiến họ đủ sức sai khiến tướng lại, do thám tình hình địch, không chỉ là thưởng công mà thôi.” Vua cho là phải.

[50] Ngày Tân Sửu, Binh bộ viên ngoại lang, Trực chiêu văn quán, Quyền phát khiển Diêm thiết phó sứ Phó Nghiêu Dũ được làm Hà Bắc chuyển vận sứ. Nghiêu Dũ tự nói rằng khi làm Ngự sử, từng đàn hặc Tiết Hướng, nay khó có thể cùng làm việc. Sau đó được đổi làm Tri phủ Giang Ninh. Việc Tri phủ Giang Ninh vào ngày 24 tháng này, nay ghi chung lại.

[51] Chiếu cho Quách Quỳ, quan phán quân Vĩnh Hưng, các châu quận trong lộ này nơi nào có nạn đói đều dùng kho lương của quan để cứu tế, đồng thời xem xét miễn thuế; dân chúng bỏ trốn, phải tìm cách chiêu dụ họ trở về làm ăn và báo cáo lên.

[52] Lý Nguyên Khải, quan Tẩu mã thừa thụ lộ Hoàn Khánh tâu rằng, bọn giặc quân bỏ trốn là Giải Cát cùng hơn 600 người vẫn còn ở khu vực giữa hai châu Càn và Diệu. Chiếu cho lộ Kinh Nguyên và Hoàn Khánh phái tướng quan đi chiêu dụ và bắt giữ, không được tham công giết hại; mỗi người chiêu dụ đầu hàng sẽ được thưởng như chém được một cấp, đồng thời lệnh cho lộ Kinh Nguyên nhanh chóng xem xét giảm bớt tướng quan không cần thiết và triệu hồi.

[53] Lại có chiếu rằng: “Thân thuộc của binh lính làm phản ở Khánh Châu bị liên lụy, lệnh cho Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh kiểm tra xác định quan hệ thân thuộc và tuổi tác. Những kẻ chủ mưu phản loạn và tự tay giết Đô giám, Huyện úy, nếu bị bắt giết, thân thuộc của chúng đáng bị xử giảo thì xử theo pháp luật; những người bị tịch thu làm nô tỳ, nếu là người già, tật bệnh, trẻ nhỏ và phụ nữ thì đưa đi phân phối ở Kinh Đông, Kinh Tây, cho phép người khác xin làm nô tỳ, còn lại đưa đi phân phối ở Giang Nam, Lưỡng Chiết, Phúc Kiến làm nô; những người bị lưu đày thì đưa đi giam ở lao thành lộ Kinh Hồ. Những người không phải chủ mưu nhưng từng giao chiến với quân triều đình, nếu bị bắt giết, cha con đều bị thích chữ và đưa đi giam ở lao thành Kinh Đông, Kinh Tây; người già, tật bệnh thì đưa đi làm nô ở bản lộ. Những người bị làm nô tỳ, đàn ông thích chữ vào tay trái, đàn bà thích chữ vào tay phải; còn thân thuộc khác đều được tha.” Gia thuộc của binh lính làm phản bị xử tử tổng cộng chín chỉ huy. Lý Thanh Thần nói với Hàn Giáng: “Binh lính mưu phản, ban đầu không hề báo cho vợ con biết, nên theo lệ cũ ở Ân Châu, đưa đi làm nô tỳ.” Giáng tâu xin theo lời ấy, nên mới có chiếu này. Việc này căn cứ theo truyện phụ trong chiếu chỉ của Thanh Thần.

[54] Đô quan viên ngoại lang Thi Mạc bị cách chức, vì tội thông dâm với vợ của Cao Doãn Nguyên, nguyên là Tả tàng khố phó sứ, là Lâm thị, qua thư từ hẹn hôn[8], mà tang phục của Lâm thị chưa hết, bị em chồng là Cao Doãn Hoài tố cáo. Lại có Ngự sử Lâm Đán tâu rằng hắn vốn có hành vi không đứng đắn, tuy theo luật giáng chức không đến mức cách chức, nhưng đặc cách thi hành.

[55] Tri châu Trần Châu là Trương Phương Bình tâu: “Trung Vũ quân nhận được công văn từ Tây Kinh lưu thủ, báo rằng ở Bân Châu có khoảng một nghìn tên giặc cướp, đi qua huyện Tam Thủy, qua trấn Long Tuyền, đã gửi công văn khắp nơi cho các Tuần kiểm và các huyện chuẩn bị binh lính đuổi bắt. Thần nghĩ rằng giặc ở Thiểm Tây, mà các lộ gửi văn thư báo cáo, chẳng mấy chốc sẽ lan khắp thiên hạ, các nơi đều phái Tuần kiểm, Huyện úy hội hợp binh lính gấp rút như giặc đã đến, không chỉ gây rối loạn nông thôn, mà còn khiến lòng người hoang mang, hoặc có kẻ gian manh nhân cơ hội gây rối, làm kinh động bốn phương, vì thế công văn của Trung Vũ quân chưa dám chuyển báo cho các châu lân cận.” Chiếu theo lời tâu của Phương Bình. Nhân đó nói với các quan chấp chính: “Quan lại địa phương không nên làm như vậy sao? Gặp việc mới thấy rõ con người.”

[56] Thượng phê cho Thiểm Tây chuyển vận ty, các châu kiểm tra số tiền chi phí công sứ, nghe nói việc truy bắt người không ít, nên tạm ngừng, cùng các văn bản liên quan đến sổ sách[9], tạm dừng trong một năm. Sau đó, Ty Nông tự được gia hạn thêm hai tháng. Thượng bàn về việc tài chính cạn kiệt, cho rằng đều do đặt quá nhiều chức quan. Vương An Thạch nói: “Theo thần thấy, dường như không phải do quan nhiều.” Thượng nói: “Đặt hơn 50 vạn quân sương, đều để đón tiễn và phục vụ quan lại.” An Thạch nói: “Quân sương không chỉ để phục vụ quan lại. Quan lại là để trị dân, đã trị dân thì cần người phục vụ.” Thượng lo việc chiếm dụng người quá nhiều, cho rằng Lữ Công Bật nói thời tiên triều, chức Đãi chế chỉ được cấp hai người thặng viên. An Thạch nói: “Đãi chế là chức quan gần triều đình, chức vụ đã cao, vào triều thì bàn luận chính sự, ra ngoài thì trấn giữ một vùng, chỉ cấp hai người thặng viên phục vụ, e rằng không phải là chính sách tốt của tiên triều. Hơn nữa, hiện nay sĩ đại phu đã có người không tự trọng, triều đình lại coi thường họ, thì họ càng tự tiện, e rằng không phải là quốc thể. Thần nghĩ rằng bệ hạ chỉ nên lo Đãi chế không đúng người, không đủ sức đảm đương nhiệm vụ của bệ hạ, làm hỏng việc triều đình, chứ không nên lo Đãi chế có nhiều người phục vụ. Nếu không thể đảm đương, làm hỏng việc triều đình, thì dù chỉ hai người cũng không nên cấp. Nếu có thể đảm đương, thì bệ hạ không lo thiếu người, lo gì không đủ chi tiêu? Nếu có thể giúp bệ hạ đủ chi tiêu, thì dù so với hiện nay cấp thêm nhiều người phục vụ, cũng không phải là quá đáng.”

[57] Ngày Nhâm Dần, ban chiếu rằng do binh biến ở Khánh Châu giết chóc quá nhiều, mạng người là quý, đau lòng thương xót, tạm ngừng yến tiệc mùa xuân. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.

[58] Ngày Quý Mão, ban đức âm giáng xuống Thiểm Tây, Hà Đông, tha tội chết cho tù nhân, tội lưu đày trở xuống đều được tha. Quân cấm vệ hai lộ và quân sương, quân cấp tốc, quân trạm dịch vì việc quân sự đều được cấp đặc chi. Những người từng vào địa giới giặc đánh dẹp, giao chiến, hoặc từng bắt giết binh lính phản loạn ở Khánh Châu, dù đã được Tuyên phủ ty ban thưởng, vẫn được cấp đặc chi. Dân hai lộ vì việc quân sự bị bắt làm lao dịch, xét mức độ nặng nhẹ mà miễn giảm thuế khóa và phú dịch trong tương lai. Những khoản thuế còn thiếu trước đây đều được xóa bỏ. Các việc công không gấp ở châu huyện và việc nộp văn bản khảo xét sổ sách, nếu không tránh khỏi gây phiền nhiễu, tạm ngưng, đợi khi biên sự yên ổn sẽ thi hành như cũ. Các hộ dân biên giới và dân bắn cung nỏ hiện còn nợ lương thực đều được miễn, những người thiếu ăn do An phủ sứ xét cấp cứu tế. Đức âm viết: “Trẫm đức không sáng, nghe dùng sai lầm, bên ngoài hao tổn quân lữ, bên trong hao tổn dân chúng. Vùng đất Tần, Tấn đều chịu khổ sở. Để dân đến nỗi này, lỗi tại Trẫm. Hãy ban ơn thương xót kẻ khốn cùng, để tỏ rõ ý nghĩa ăn năn sửa lỗi.” Lại viết: “Làm khổ dân gây họa, không phải là mưu kế của triều đình, hãy tự kiềm chế mà thi hành, mong phương xa được yên ổn phần nào.” Nên tra cứu tên người soạn thảo chiếu thư để thêm vào. Lúc đó, Nguyên Giáng, Dương Hội[10], Hàn Duy đều là Học sĩ. Bản Chu chép: Khi mới dâng bản đức âm, Vua phê rằng quân sĩ đánh trận nên được đối xử khác với quân vận lương, cùng với việc sửa đổi một số việc đều rất hợp lý, các quan chấp chính đều cho là không thể làm được. 《Tân lục》 đều bỏ đi, nay theo 《Tân lục》.

[59] Chiếu rằng thành La Ngột nên sai Triệu Tiết xem xét, nếu không thể giữ được thì lệnh bỏ hủy rồi tâu lên. Việc quân thủy của giặc phương Tây ở Hà Đông dò xét, e rằng sẽ vượt sông ở Thạch Châu, nên lệnh cho Lữ Công Bật chuẩn bị khắp nơi. Những người bị thất lạc ở Phủ Ninh, lệnh cho Kinh lược ty báo cáo đầy đủ số lượng. Thành La Ngột và bảo Tân Thảo, lệnh cho Chuyển vận ty không được vận chuyển lương thảo đến nữa.

Trước đó, Vua hỏi các quan chấp chính về việc giữ hay bỏ thành La Ngột, Vương An Thạch cho rằng nên đợi Lý Bình và những người khác xem xét rồi mới bàn. Vua nói: “Nếu Lý Bình và những người khác cho rằng có thể giữ, thì sao?” An Thạch đáp: “Nếu không cần xây bảo và vận chuyển lương thảo, thì giữ lại cũng không sao.” Vua nói: “Nếu muốn giữ, tất nhiên phải xây bảo.” An Thạch nói: “Xây bảo sẽ dẫn đến giặc cướp. Hiện nay, sau khi Phủ Ninh vừa thất thủ, tinh thần quân sĩ đang suy sụp, lại xây bảo trong đất giặc, tất sẽ dẫn đến giặc cướp. Dùng quân sĩ đang suy sụp đối phó với giặc cướp đang tranh giành quyết liệt, ắt sẽ sinh biến. Huống chi, nhân lực ở Thiểm Tây đang mệt mỏi, khó khăn trong việc cung ứng lương thảo!

Vua nói: “Như vậy, không nên tiếc những tài lực đã bỏ ra, chỉ cần bỏ đi thôi. Nhưng với ba nghìn quân hiện có ở đó, cùng lượng lương thảo tích trữ nhiều, thật đáng tiếc.” An Thạch nói: “Nay Lý Bình và những người khác đang xem xét, sẽ báo cáo gấp, đợi báo cáo đến rồi bỏ cũng chưa muộn.

Vua nói: “Thành La Ngột không phải không thể xây dựng, chỉ là việc làm quá vội vàng là không đúng.

An Thạch nói: “Việc thời Tam Đại chưa cần bàn, nhưng ngay cả Lý Mục cũng không chịu tranh giành lợi nhỏ một cách vội vàng. Người giỏi dùng binh, hành động ngắn gọn, không cần huy động quân hai lần, không cần vận chuyển lương ba lần. Nếu thực sự làm như vậy, thì thành La Ngột chỉ là lợi nhỏ, không đáng xây dựng, không chỉ vì việc làm quá vội vàng. Kinh Dịch nói: ‘Quân tử giữ khí cụ trong người, đợi thời cơ mà hành động.’ Vì vậy, ‘hành động mà không bị trở ngại.’

Nay hành động không có kế hoạch rõ ràng, lại không đúng thời cơ, nên gặp trở ngại là đương nhiên. Bậc tiên vương biết thời cơ, nên Văn Vương phục vụ người Côn Di. Khi người Di Địch chưa thể chinh phục được, còn phải phục vụ họ, đó chính là điều làm nên Văn Vương, đâu có hại gì đến sự thánh thiện của ngài! Hiện nay, nhân tài chưa được rèn luyện, tài lực chưa đủ, phong tục chưa thay đổi, chính lệnh chưa được thi hành, ban một mệnh lệnh còn lo châu huyện không chịu tuân theo, thì việc chưa thể kiểm soát được người Nhung Địch là điều dễ hiểu. Tuyên Vương sống vào thời Chu suy, phong tục hủ bại, nhân tài ít ỏi. Kinh Thi nói: ‘Đức mỏng như lông, chỉ có Trọng Sơn Phủ nâng đỡ, yêu mà không giúp được.’ Lúc đó, chỉ có Trọng Sơn Phủ là người yêu thích đức hạnh, quần thần không ai giúp đỡ. Tuyên Vương cùng Trọng Sơn Phủ hợp sức, nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài trong thiên hạ, khi nhân tài đã đủ, mới tiến hành chinh phạt. Vì vậy, khi Tuyên Vương chinh phạt, đầu tiên nói: ‘Hái cỏ liên, ở ruộng mới, ở đất cày.’ Ý nói Tuyên Vương trước hết đào tạo nhân tài trong thiên hạ, rồi mới sử dụng, nên mới có thể chinh phạt được. Nay muốn đánh giữ, thì lo tướng súy không phải người tài, muốn vận chuyển lương thảo, vật liệu, thì lo Chuyển vận sứ không phải người tài. Hơn nữa, tài lực quốc gia và dân chúng đang khốn đốn như vậy, thì việc chinh phạt chưa thể bàn đến.

Vua lo lắng vì thiếu nhân tài, An Thạch nói: “Quan văn giỏi nhất cũng chỉ làm được thơ phú, khi đã làm quan, thì những gì học không dùng được, chính sự đều do lại dịch quyết định. Quan võ hoặc xuất thân từ hàng ngũ, hoặc là con em, chỉ cần chuẩn bị nhiều đồ ăn thức uống để tiếp đãi sứ khách, thì danh tiếng và chức tước sẽ theo đó mà đến. Phong tục này hiện nay chưa thể thay đổi hoàn toàn, nên việc thiếu nhân tài cũng không có gì lạ. Chỉ cần bệ hạ kiên trì thực hiện, tìm kiếm và đề cử người tài, yêu cầu họ làm việc thực chất, phong tục dần thay đổi, chính lệnh dần được thi hành, thì nhân tài cuối cùng sẽ không thiếu.” Vua vui lòng, và từ đó, bỏ thành La Ngột và ban chiếu này. Ngày Mậu Tý mùng 2 tháng giêng, bắt đầu xây thành La Ngột, Vua và An Thạch bàn luận, nhật lục ghi vào ngày mùng 4 tháng 3, bản Chu phụ vào đây, nay theo đó. Vua nói: “Văn Vương cuối cùng cũng thắng được.” An Thạch đáp rằng việc thắng người Di Địch có gì khó. Lời nói này giống với lời nói khi mệnh mở đường thông Tuy, Ngân vào ngày mùng 5 tháng 3, nay bỏ đi.

[60] Vua phê: “Đã cử Triệu Tiết làm quyền Kinh lược sứ Phu Diên lộ. Nghe nói từ khi có việc quân, Tuyên phủ ty thay đổi, quan binh không ổn định và chức danh không chính thức, làm mất uy nghi. Nay đã bỏ thành trại, một lộ quan binh giao cho Tiết xem xét, cho mọi người giữ nguyên như cũ. Nếu có người từ trước đến nay có năng lực mà Tuyên phủ ty đổi đi nơi khác hoặc bãi chức, thì liệt kê tên để báo cáo.”

[61] Ngày Giáp Thìn, Hàn Giáng tâu: “Trước đây, Chủng Ngạc dẫn quân vào địa giới phía tây đánh dẹp, xây dựng thành trại, sử dụng ít quan quân, lực lượng yếu, chỉ nhờ vào các quan người Di là Chiết Kế Thế, Triệu Hoài Thuận dẫn dắt người Khương thuộc hạ để lập công chiến đấu, cùng với hơn tám nghìn người đầu hàng, cũng phần nhiều do Kế Thế, Hoài Thuận chiêu dụ được. Người Di tính tình hung hãn, thường phải vỗ về. Xét thấy ý họ chắc chắn tự cho mình có công mở mang bờ cõi, nay thấy bỏ thành La Ngột, sợ rằng họ sẽ nghi ngờ, lo sợ, không yên, có thể dẫn đến sinh sự, như vụ án kết bè kết cánh của Mã Chí Thành ở Diên Châu trước đây. Việc Mã Chí Thành đã thấy vào tháng 12 năm thứ 3. Vua nhân Chủng Ngạc bị giam, Tuy Đức chưa được ban thưởng, Kế Thế có ý phản trắc, nhân lúc say rượu nói ra, khiến bọn tiểu nhân nhân cơ hội lập mưu. Bởi Chủng Ngạc rất được lòng người Khương thuộc hạ, lại có mưu lược, là kẻ mà giặc phương Tây sợ, nếu một mai bị làm nhục, e rằng không thể khiến họ dốc sức. Thần không dám bênh vực Ngạc, chỉ vì triều đình lo xa. Mong bí mật chỉ huy Triệu Tiết an ủi Chiết Kế Thế, Triệu Hoài Thuận, Chủng Ngạc, đừng để họ sinh nghi ngờ, lo sợ, và những người mới chiêu dụ cũng cần được vỗ về. Điều quý là trong lúc dùng binh không sinh sự, và khi cấp bách ứng phó với địch đều dựa vào những người này, cùng nhau như cánh tay.” Lại tâu: “Trước đây việc Tuy Đức, sự việc liên quan đến việc tự ý khởi binh, việc bàn bỏ hay giữ không quan trọng. Nay bỏ thành La Ngột, khác với trước, đột nhiên lệnh bãi bỏ, chắc chắn mọi người sẽ hoảng sợ, ai nấy đều có ý phản trắc, sợ rằng sẽ nhân đó sinh sự.” Vua xuống chiếu cho Triệu Tiết phải an ủi Chiết Kế Thế, Triệu Hoài Thuận, đừng để họ nghi ngờ, lo sợ, và thường xuyên theo dõi họ.

[62] Lúc đầu, tấu chương của Hàn Giáng đến, Vương An Thạch nói: “Đối đãi với người kế vị không quá mức, thì không có lý do gì để họ sinh lòng phản nghịch, chỉ sợ đối đãi quá mức lại khiến họ sinh kiêu ngạo và ngỗ ngược. Hiện nay cần phải bí mật theo dõi, xem xét những mầm mống gian trá của họ.” Vua cho là phải, nên có chiếu chỉ này.

[63] Vua lại bàn việc người Tây Hạ xin hòa, Vương An Thạch cho rằng nên tỏ rõ ý muốn hòa để làm nhụt chí của họ, rồi từ từ thương lượng để củng cố hiệp ước, đó là cách đánh vào lòng người của địch.

[64] Hôm đó, Vua bàn về việc Lý Tĩnh nói về phép dùng binh kỳ chính, cho rằng binh pháp nếu không thông hiểu đạo lý thì không thể vận dụng hết được. Vương An Thạch nói: “Không thông hiểu đạo lý thì không thể làm gì được; nếu thông hiểu đạo lý thì không có gì là không thể làm.”

[65] Chiếu bãi chức các quan Tam ty sứ, phó sứ và giám nghị về phép muối. Việc này được ghi thêm theo 《Hội yếu》 của Vương Khuê, là sự việc ngày 19 tháng 3, ngày 29 tháng 7 năm thứ 2, cần xem xét thêm.

[66] Ngày Ất Tỵ, Lễ bộ thượng thư Trương Tồn về hưu qua đời.

[67] Ngày Bính Ngọ, Độ chi viên ngoại lang, Tri chế cáo Lã Đại Phòng bị cách chức, tước hai quan, đi làm Tri Lâm Giang quân; 《Cựu kỷ》 chép: Hàn Giáng vì thất bại trong việc tuyên phủ nên bị giáng làm Tri Thái châu, Phán quan Lã Đại Phòng bị cách chức Tri chế cáo, đi làm Tri Lâm Giang quân. 《Tân kỷ》 chỉ chép việc Hàn Giáng bị bãi chức, không nói rõ nguyên nhân, cũng không nhắc đến Lã Đại Phòng. Lễ bộ lang trung, Tập hiền điện tu soạn Trương Vấn bị cách chức, đi làm Tri Quang Hóa quân; Hình bộ lang trung, Trực sử quán Trần Nhữ Hi bị cách chức, đi làm Tri Nam Khang quân; Hoàng thành phó sứ Chủng Ngạc bị giáng làm Nhữ châu đoàn luyện phó sứ[11], an trí ở Đàm châu. Lã Đại Phòng vì tham gia vào việc thất bại của Tuyên phủ ty, Trương Vấn và Trần Nhữ Hi vì làm Chuyển vận sứ Hà Đông điều động dân chúng quá sức, Chủng Ngạc vì để mất Phủ Ninh bảo.

[68] Ban đầu, Vua bàn về tội của Lữ Đại Phòng, Vương An Thạch nói: “Đại Phòng là người bề ngoài tỏ ra nhân nghĩa nhưng hành động trái ngược, chuyên làm những việc gian trá để hại việc nước. Như việc chém người ở Hoang Đôi, không xảy ra biến loạn chỉ là may mắn mà thôi!” Vua cũng nói Đại Phòng suýt nữa gây ra biến loạn, Vương Trung Chính phải lấy chăn bông bọc mình để tránh tiếng ồn ào của quân lính. An Thạch nói: “Đại Phòng há không biết trại không thể lập, ý hắn chỉ muốn để mọi người bỏ đi, sau đó nói rằng người bỏ đi không phải là ta, ta muốn giữ lại; giữ lại thì có lợi, để che đậy sai lầm trong kế hoạch ban đầu.”

Vua lại bàn về tội của Triệu Ngạc, cho rằng hắn cùng tội với Lý Phục Khuê. An Thạch nói: “Tội của Phục Khuê nhẹ, việc phương Tây nổi lên bắt đầu từ Tuy Đức, cũng là tội của Ngạc. Hơn nữa, Tuy Đức không vạch rõ biên giới, thì người phương Tây tự nhiên chưa chịu ngừng binh, huống chi đã nhiều lần tâu rằng sau khi người Hạ tập hợp quân, Khánh Châu mới bắt đầu trái chiếu chỉ xâm nhập đất của họ, thì việc gây hấn không phải do Phục Khuê.” Vua lại nói tội của Ngạc cũng là do người sai khiến quá đáng. Văn Ngạn Bác nói: “Ngạc không phải là người giỏi dùng binh, trận Hoài Ninh thắng cũng chỉ là may mắn.” Vua nói: “Ngạc có thể thắng người phương Tây, tự nhiên là giỏi chiến đấu, mọi người đều phục, không phải may mắn. Chỉ vì giao trách nhiệm quá mức nên mới đến nông nỗi này.” An Thạch nói: “Ngạc trước sau đều gian trá, khiến Hàn Giáng mắc sai lầm, việc làm hỏng hai lộ đều do Ngạc, Ngạc thực sự là kẻ đứng đầu tội lỗi, e rằng không thể chỉ nói là do người sai khiến quá đáng.” Ngạn Bác nói: “Người thích công danh ắt sẽ gây hại, ai mà không thích công danh, lại còn phải vì nước.” Vua nói: “Người thích công danh tự nhiên không thể được.” An Thạch nói: “Thích công danh, vốn là điều mà tiên vương không bỏ, nhưng tiên vương khuyến khích người ta lấy nghĩa làm chủ, nếu trái nghĩa mà thích danh thì ngược lại sẽ gây hại.” Vua nói: “Đúng như vậy.” Vương An Thạch và các quan dùng đức âm nhận tội, dâng biểu chờ tội, Vua xuống chiếu tha tội.

[69] Ngày Đinh Mùi, Lại bộ Thị lang, Bình chương sự, Chiêu Văn quán Đại học sĩ Hàn Giáng bị bãi chức tướng, giữ nguyên chức quan để nhận chức Tri châu Đặng Châu. Chiếu chỉ trách Hàn Giáng rằng: “Nghe dùng kẻ bất tài, trái với chiếu chỉ ban đầu. Thống chế không có kế sách, an ủi và lo lắng thiếu mưu lược. Bất ngờ khởi binh chinh phạt, xâm nhập vùng đất hoang vu. Quân lính hoảng loạn, chịu đựng thương vong trong các trận đánh, trai tráng phải vất vả vận chuyển lương thực. Tin tức biên giới dồn dập, triều đình nghe tin đều chấn động.” Lời chiếu do Hàn lâm học sĩ Nguyên Giáng soạn. Lời chiếu này được ghi trong 《Ngọc Đường Tập》.

[70] Hàn Giáng tâu rằng: “Thần trộm nghe lời đức âm, đều là những lời bệ hạ tự trách mình và hối lỗi. Vả lại, việc biên giới hiện nay, là do giặc phương Tây tháng tám năm ngoái đánh phá và vây hãm bảy trại ở Khánh Châu, đốt phá nhà cửa, giết hại và cướp bóc người già trẻ nhỏ, nên mới sai thần đến kinh lý. Thần nghĩ rằng chúng vẫn còn ngang ngược chưa chịu khuất phục, nếu không trừng phạt đủ mạnh, thì dù có được hòa ước cũng không thể bảo đảm, việc chiêu hàng và đánh dẹp thực sự là bất đắc dĩ, đâu phải cố ý muốn động binh mã! May mắn là hơn mười nơi xuất quân, giết chết và bắt sống cùng chiêu hàng được hàng ngàn hàng vạn tên, dù mất mấy đồn nhỏ ở Phủ Ninh, nhưng số giết chết và bắt sống cũng tương đương, quân ta chưa hề bị nhụt chí. Việc cung cấp quân nhu ở Hà Đông làm phiền nhiễu dân chúng, là do chuyển vận sứ xử trí sai lầm, an phủ ty lại không có biện pháp gì, Hà Đông vốn xa xôi, bản ty nghe tin muộn, liền lập tức ra lệnh miễn trừ, để dân yên ổn làm ăn, từ Thiểm Tây trở về tây, thì chưa từng bắt dân đóng góp sức lực. Nay lời đức âm giảm thuế hai năm, cũng là vì lo triều đình không biết bản ty vốn không có thuế má mà thôi. Huống chi bọn phản loạn ở Khánh Châu đã bị bắt giết, vùng Quan Thiểm mưa thuận, lúa mạch sắp được mùa, dân lưu tán dần trở về, bệ hạ chỉ cần sai người trung thực đáng tin đi xem xét khảo nghiệm, ắt không dám dối trá.

Nay lời đức âm nói rằng sứ giả đến đây, lỗi tại Trẫm, ắt là sợ các quan trong ngoài có người tâu trình quá đáng, làm kinh động thánh thính. Bệ hạ đang muốn uy phục phương Tây, sức nước nhà đâu có gì khó khăn, mà vội ra chiếu chỉ lao dân gây họa ban bố ở phía tây, nếu lọt đến tai giặc, thì chẳng khác nào tự lộ rõ hư thực mạnh yếu của trung nguyên, thần sợ rằng ý định kêu gào xin hòa của giặc phương Tây có thể bị gián đoạn, chúng lại biết triều đình sau này sẽ không xuất quân nữa, thì mùa thu này chúng tập trung binh lực đánh vào một lộ, xâm lấn cướp phá, lấy gì chống đỡ? Thần gần đây xin được tâu bày việc biên giới, muốn trình bày kế hoạch lớn về công thủ. Nay bệ hạ đã nói rằng nghe lời sai lầm, thì dù thần có nói nữa cũng chẳng được dùng, xin được dọc đường chờ tội, mong sớm được trách phạt. Thân thần một mình đi hay ở, chẳng đáng tiếc gì, chỉ tiếc việc lớn biên phòng, bệ hạ lại chủ trương như vậy. Thần hết lòng thành báo quốc, mà bị những lời bàn tán trong ngoài lung lay, đột nhiên bị ngăn trở bãi bỏ, không thể hoàn thành kế hoạch ban đầu, từ nay ai dám xông pha gánh vác để chống lại kẻ địch mạnh? Những kẻ chỉ biết an thân hưởng lộc, ắt sẽ ngồi nhìn bọn thần bị gièm pha nhục nhã, tiến thoái không lối, mà tự cho là được vậy.”

[71] Lại nói: “Các tướng đánh dẹp, chém giết, bắt sống, chiêu hàng không ít, huống chi đã bình định được chợ Hòa, đốt phá nhiều làng mạc. Nay giặc phía Tây chỉ dám đóng quân cách xa một hai trăm dặm, khiến chúng bỏ mất nhà cửa, già trẻ phải lưu lạc, đã bỏ lỡ việc cày cấy mùa xuân, không thể không khốn đốn. Chúng tuy thỉnh thoảng xuất binh mã, nhưng thế lực đã suy yếu, lại thua trận ở Hoang Đôi, Hoài Ninh, chỉ có Phủ Ninh bị hại, nếu xét toàn cục thì thắng bại đã rõ. Nay triều đình không lấy việc xuất quân làm công, khiến những người võ tướng, quân sĩ dũng cảm ra sức lập công đều nản lòng, làm sao khích lệ được sĩ khí, chỉ có kẻ lười biếng là được lợi mà thôi.” Tấu chương của Giáng đến nơi thì đã bị giáng chức.

[72] Ban đầu, triều đình sai Giáng đi tuyên phủ, trực tiếp giao cho hai kế sách công và thủ, nhưng Xu mật viện không biết, Văn Ngạn Bác cho rằng Giáng đã nhận mật chỉ của Vua, sợ không có công trạng, nên cùng chịu trách nhiệm, tâu xin vạch rõ một kế hoạch để giao cho Giáng, nhưng không có quy định về việc phát binh. Vương An Thạch cũng xin không dính líu đến việc biên cương, để mọi phương lược đánh dẹp phía Tây đều giao cho Giáng.

(Hàn Giáng nói rằng đã được nghe đức âm đến việc phương lược đánh dẹp phía Tây đều giao cho Giáng. Bản Chu có ghi chú rằng: Chương tấu của Giáng biện minh cho lỗi lầm, không được thi hành, đều bị xóa bỏ. Nay theo bản mới vẫn giữ lại.)

[73] Hàn Giáng nhận được các tờ cáo thân, sắc lệnh, áo gấm, đai bạc không có tên, để chiêu dụ và thu nhận những kẻ đầu hàng. Khi vào địa phận Thiểm Tây, ông phân phát tiền cho những người ăn xin, đến biên giới thì triệu tập các quan và bộ lạc người Phiên, ban thưởng hậu hĩnh để khao quân, khiến binh sĩ đều oán hận. Ông còn đoạt ngựa của kỵ binh, nói rằng: “Những người này không thể chiến đấu!”, rồi đem ngựa chia cho các bộ lạc người Phiên, có người ôm đầu ngựa mà khóc. Ông chỉ tin dùng Chủng Ngạc và Văn Lượng, điều động binh lính một cách vội vàng, khiến mọi người không chịu nổi. Giặc xuất binh tranh giành Phủ Ninh Bảo, chiếm được; rồi gấp rút tấn công La Ngột Thành, các lộ đều xuất quân để kiềm chế, quân Khánh Châu lại xuất binh, bèn nổi loạn. Triều đình lo lắng, bèn bãi binh, bỏ La Ngột Thành và Phủ Ninh. Viện Học sĩ soạn chiếu trách tội Hàn Giáng, ban đầu viết là “tự ý phát binh chinh phạt”, nhưng Vua cho là không đúng, nên đổi “tự ý” thành “bạo phát”, vì Hàn Giáng thực ra đã nhận được chỉ dụ xuất quân, nhưng cách bố trí sai lầm, nên bị giáng chức. Vương An Thạch nói rằng bệ hạ vốn chưa từng khen Hàn Giáng có trí lược, xem ngày 26 tháng 5. Lại nói rằng bệ hạ đối xử với thần và Hàn Giáng đều muốn lấy việc làm công lao của mình, xem ngày 24 tháng giêng năm thứ 5.

[74] Vua bàn với Vương An Thạch về việc bảo giáp, cho rằng quả có người chặt ngón tay để trốn tránh, các quan trong triều đi qua 13 huyện dò hỏi về mạch mùa đều nói như vậy, nhưng dân chúng phần nhiều cũng hiểu rõ. Tập bắn cung chín đấu, những người bắn xa hơn mức thường cũng khuyên nhau rằng nếu bắt được giặc, quan phủ tất sẽ có thưởng. Lại nói: “Được các hộ lớn làm đô phó bảo chính[12], tự nói rằng quản hạt những kẻ có tiền án, nếu bãi bỏ ngay, thì sẽ bị những kẻ có tiền án hãm hại. Đây là pháp lệnh rất tốt, cần phải thực hiện từ từ.”

Các quan lại ở các huyện phần nhiều không làm vừa lòng dân, Vua cho rằng nên làm dần dần, chỉ giao cho tri huyện đảm nhiệm. An Thạch cho rằng phần lớn tri huyện không phải là người thích hợp, không thể giao phó, Vua nói: “Như vậy thì có thể trị tội tri huyện.” An Thạch nói: “Lệnh cho người được tuyển chọn làm việc đó, còn không tránh khỏi vi phạm pháp lệnh gây xáo trộn. Nếu giao cho tri huyện làm, thì sự xáo trộn sẽ còn lớn hơn so với người được tuyển chọn. Đến khi xáo trộn đã quá lớn mới bắt đầu trị tội, e rằng đã không kịp. Hơn nữa, phụng hành pháp lệnh không làm vừa lòng dân mà lập tức trị tội, điều này ngay cả bệ hạ cũng chưa thể thực hiện được trong triều đình, sao có thể vội trách cứ Triệu Tử Kỷ và những người khác thực hiện ở châu huyện?”

An Thạch lại bàn với Vua về việc bảo giáp: “Có người chặt ngón tay, cũng chưa chắc. Giả sử có, cũng không đáng ngạc nhiên. Vì những sĩ đại phu được triều đình tuyển chọn rất ít, bệ hạ vừa làm việc gì, liền bị xôn xao kinh ngạc, huống chi trong 20 vạn hộ dân chắc chắn có những kẻ ngu muội bị người khác kích động, há có thể vì thế mà không dám làm gì sao? 《Thuyết mệnh》 nói: “Nếu thuốc không làm choáng váng, bệnh sẽ không khỏi.” Nếu muốn khỏi bệnh, há có thể tránh được sự choáng váng? Nay việc bảo giáp khiến người ta sợ hãi, chỉ là sợ bị sung làm nghĩa dũng, bảo tiệp mà thôi. Giả sử tất cả đều bị sung làm nghĩa dũng, bảo tiệp, thì Thiểm Tây, Hà Đông vốn đã từng như vậy.” Vua nói: “Như vậy thì e rằng không tiện, sẽ dẫn đến biến loạn.” An Thạch nói: “Thiểm Tây, Hà Đông chưa từng xảy ra biến loạn, thì có thể biết được tình hình dân chúng, há có lý nào sợ làm nghĩa dũng mà dẫn đến nổi loạn?”

Vua nói: “Dân chúng hợp lại mà nói thì thành thánh, cũng không thể không sợ[13]; từ trên đặt ra pháp lệnh để sai khiến họ, tuy trái với tình cảm của họ, nhưng cũng phải thuận tiện cho dân mới được.”

An Thạch nói: “Nay việc bảo giáp chắc chắn có người chặt ngón tay để trốn tránh. Nhưng thần triệu tập người ở tám hương hỏi về việc bảo giáp, đều cho là tiện lợi. Như vậy hợp ý kiến của mọi người lại mà bàn, chắc chắn biết được sự tiện lợi. Giả sử có người chặt ngón tay, cũng không phải là tình cảm chung của mọi người. Nay làm bảo giáp, đủ để trừ giặc, nhưng không chỉ để trừ giặc, mà còn có thể dần dần tập luyện thành quân đội. Đã mọi người đều biết bắn cung, lại dùng cờ trống thay đổi tai mắt họ, dần dần thỏa thuận miễn thuế, lên phiên thay quân lính dưới quyền tuần kiểm, lại lệnh cho đô phó bảo chính bắt được giặc thì thưởng, hoặc cho làm quan, thì người ta sẽ tranh nhau khuyên nhủ, sau đó cho họ tham gia cùng với quân mộ, thì có thể tiêu trừ tính kiêu ngạo của quân mộ, tiết kiệm chi phí nuôi quân, việc dần dần có thể khôi phục cổ chế. Đây là kế sách lâu dài của tông miếu, không phải là việc nhỏ. Chỉ cần quyết đoán rõ ràng, không bị những lời bàn phù phiếm làm lung lạc mà thôi. Triệu Tử Kỷ có thể nắm được tình hình dân chúng trong phủ giới, có thể giao phó lâu dài, giao việc này cho ông ấy tất sẽ thành công. Nay các hộ bảo giáp đã nguyện miễn thể lượng cỏ, việc nuôi ngựa vốn đã có đầu mối.”

Vua rất vui, nói: “Đây là việc rất tốt, nhưng cần làm từ từ và bí mật.” An Thạch nói: “Thời gian đáng tiếc.” Vua nói: “Nhưng cũng không thể vội, e rằng sẽ làm hỏng việc.” An Thạch nói: “Việc này tự nhiên không dám không giữ bí mật, hôm nay chỉ có Vương Khuê ở đây, chắc chắn không để lộ lời này, nên mới dám trình bày đầy đủ.”

(Đoạn này căn cứ vào 《Nhật lục》, chép đầy đủ, để thấy rằng việc bảo giáp không bãi bỏ, là do An Thạch nạp thuyết không thôi mà thôi. Ngày 9, 13, 22, 24 tháng 3, và ngày 9 tháng 5.)

[75] Ngày Kỷ Dậu, Lữ Công Bật tâu rằng việc ban thưởng của Tuyên phủ ty không đúng, các tướng quan và sứ thần được ban sắc chỉ nhưng chưa dám trao. Chiếu rằng các tướng hiệu và quan phiên theo chỉ huy của Tuyên phủ ty, còn các tướng quan và sứ thần thì nghe theo chỉ dụ của triều đình.

[76] Quyền tri Khai Phong phủ Hàn Duy tâu rằng: “Các huyện tổ chức bảo giáp khiến dân làng hoảng loạn. Huyện Tường Phù và các huyện khác đã hoàn thành, còn các huyện khác xin đợi lúc nông nhàn mới sắp xếp.” Lúc đó, các huyện thuộc phủ Khai Phong mới thực hiện chính sách bảo giáp, dân làng có người tự làm tổn thương mình để tránh việc tập hợp. Vương An Thạch nhiều lần tranh luận với Vua rất khổ sở[14]. Đề điểm các huyện trấn thuộc phủ Khai Phong là Tăng Hiếu Khoan tâu rằng đã niêm yết ở huyện Khai Phong và 70 huyện khác, lập thưởng để kêu gọi tố giác những kẻ xúi giục dân chúng về việc bảo giáp. Tấu của Hàn Duy không được chấp thuận. 《Chu sử》 vào ngày 22 tháng 7 năm thứ 5 mới chép việc Tăng Hiếu Khoan và Thái Nhân có liên quan đến việc bảo giáp chặt ngón tay. Ngày 9 tháng 3, 《Nhật lục》 nhân việc Xu viện nói sơ lược về sự việc, ngày 19 thì nói rõ rằng không phải như vậy. 《Chu sử》 và 《Mặc sử》 đều không chép, 《Mặc sử》 chỉ vào ngày 24 nhân tấu của Hàn Duy mà ghi lại, 《Chu sử》 lại bỏ đi. 《Tân lục》 đã khôi phục lại. Nay tham khảo thêm 《Nhật lục》 để ghi chép đầy đủ đầu đuôi, mong rằng đời sau có thể tra cứu. Ngày 22 tháng 7 năm thứ 4, 《Chu sử》 mới nêu tên Thái Nhân, 《Tân lục》 theo đó, lại bỏ lời đối đáp của Vương An Thạch, không đúng. Nay cũng ghi lại đầy đủ. Ngày Đinh Mùi tháng giêng năm thứ 5, ngày Kỷ Hợi tháng 7, ngày Quý Dậu tháng 7 nhuận, đều nên tham khảo.

[77] Ngày Canh Tuất, Trứ tác tá lang, đồng quản câu Hoài Nam thường bình đẳng sự Triệu Tế được bổ làm Thái tử trung doãn, quyền phát khiển đồng đề điểm hình ngục. Trước đó, Triệu Tế đã hặc tấu các quan lại ở châu Bạc không thi hành tân pháp, đã được ban áo mũ màu đỏ, nay lại được thăng chức.

[78] Quyền Thiểm Tây chuyển vận sứ, Công bộ lang trung, Tập Hiền điện tu soạn Trầm Khởi được bổ làm Độ chi phó sứ, Công bộ lang trung, Trực sử quán Tạ Cảnh Ôn được cử làm Quyền Thiểm Tây đô chuyển vận sứ. Trầm Khởi sau đó được đổi làm Diêm thiết phó sứ, rồi lại đổi làm Tri Giang Ninh phủ. Tạ Cảnh Ôn, vào ngày 1 tháng 2 năm thứ 5, bị bãi chức Thiểm Tây chuyển vận sứ, ông ta nhậm chức Thiểm Tây chuyển vận sứ từ khi còn ở Đặng Châu, nhậm chức Tri Đặng Châu vào ngày 9 tháng 1.

[79] Thái thường bác sĩ Phạm Bách Lộc được bổ làm Đề điểm Giang Nam Đông lộ hình ngục. Đặng Oản tiến cử Phạm Bách Lộc làm Ngự sử, được triệu vào đối đáp, nhưng ông cố từ chối.

[80] Ngày Tân Hợi, đổi Hàn lâm y học Ôn Cảo làm Lưỡng sứ chức quan, Quảng Tây kinh lược ty câu đương công sự, do Tân Tri Quế Châu Tiêu Chú tiến cử Ôn Cảo từng vào đất Man giết giặc, có nhiều công lao. Lại ban chiếu cho Ôn Cảo, vì nhà nghèo, đặc cách cấp một con ngựa trạm để đi nhậm chức. Việc cấp ngựa trạm căn cứ theo 《Ngự tập》. Tên Ôn Cảo đã xuất hiện từ tháng 11 năm thứ 3, trong tấu chương của Vương An Thạch.

[81] Ghi chép về các cháu chắt nhà Đường họ Lý, Ôn Cảo được bổ làm Tam ban tá chức, Đức Thần và Dưỡng Niên làm Châu trưởng sử; các chi hệ của Cao Tổ, Cảnh và Nguyên hoàng đế được ban tiền lụa khác nhau. 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều ghi chép việc này.

[82] Ban chiếu cho Hàn Giáng, những văn thư chưa xử lý xong của Tuyên phủ ty đều giao cho Lý Thanh Thần mang về kinh đô. Chiếu chỉ này có thể tham khảo trong 《Thanh Thần truyền》.

[83] Bân Châu tâu: “Ở núi Thạch Môn, giáp giới Diệu Châu, vẫn còn ba bốn trăm tên giặc quân đang tụ tập. Bản châu đang nghiêm bị binh mã, đợi khi xác thực lại sẽ tiến hành tiêu diệt.” Chiếu rằng: “Trước sau đều thổi phồng thế giặc, không xét rõ hư thực, tất cả đều từ Bân Châu, khiến các châu quân gần đó hoảng sợ, dân chúng kéo nhau chạy loạn, làm hư hỏng binh mã, rất bất tiện. Nên lệnh cho Trương Tĩnh xét hỏi sự thực rồi thi hành. Dân chúng vừa yên ổn, từ nay không được khinh suất, gây thêm náo động.”

[84] Ngày Nhâm Tý, Vương An Thạch tâu với Vua rằng: “Bệ hạ trước đây ra lệnh cho Phát vận ty tiến cử quan lại, tất cả đều phải ứng phó, nhưng những người được tiến cử phần nhiều không xứng đáng.” Vua nói: “Đây chắc chắn là do Tiết Hướng làm, tính chất của Hướng không bằng La Chửng.” An Thạch nói: “Có lẽ là như vậy. Gần đây tiến cử một người như Chương Dũ làm Tri Liên Thủy quân, muốn dùng để đền đáp công lao ở Phát vận ty. Nay tiến cử Dũ thật là vô lý.” Vua nói: “Hãy bãi bỏ đi.” An Thạch nói: “Thần không dám nuôi dưỡng tình giao, nhưng hiện đang cần dựa vào Hướng để hợp tác với Tam ty, bảo họ thay đổi công việc. Nếu Bệ hạ trước đã hứa ứng phó tất cả, mà lại ngăn cản việc họ tấu trình, thì trong lòng họ sẽ có mối hiềm khích; nếu Bệ hạ đặc chỉ bãi bỏ, thì Hướng ắt sẽ sợ mà phục tùng, có thể răn đe được. Vì Bệ hạ đang cần dùng Tiết Hướng, nên phải giao cho việc tiến cử người, nếu không sớm nhắc nhở, e rằng sẽ gây hại.” Vua nói: “Trẫm không biết Chương Dũ.” An Thạch nói: “Dũ đã bảy mươi tuổi, trước nay không ai tiến cử cũng có thể biết. Thần cũng không biết Dũ, Bệ hạ hãy thử hỏi rộng thêm.” Vua nói: “Rất tốt.” Dũ là cha của Đôn.

[85] Chiếu cho các huyện trong phủ giới, từ nay về sau, Xu mật viện chọn người làm Binh mã đô giám.

[86] Ngày Quý Sửu, Vua bàn việc nông binh, muốn thi hành chính sách của Tống Đạo là chiêu mộ người dân miễn thuế để sung làm cung tiễn thủ. Văn Ngạn Bác cho rằng việc này quyết không thể thực hiện. Vương An Thạch nói: “Thần e rằng có thể thực hiện, nhưng cũng không cần phải như vậy. Nếu thật sự dùng lợi hại để thúc đẩy dân chúng luyện tập binh nghiệp, thì cần gì phải dùng chính sách của Tống Đạo. Thần nghĩ rằng nếu như pháp sai dịch được tu chỉnh từ bên trong, khi pháp thành thì có thể áp dụng khắp thiên hạ.” Vua nói: “Pháp sai dịch thì như vậy là được, nhưng việc binh sự e rằng cần phải có cách xử lý riêng. Ban đầu thì người dân không kinh sợ, mà việc cũng dễ thành.” An Thạch nói: “Thật sự có thể như vậy, nhưng e rằng các quan ở biên cương chưa thể thi hành chính sách này để đáp ứng ý chỉ của bệ hạ.” Nhân đó, ông tóm tắt trình bày với Vua rằng dân chúng có thể dùng lợi ích để thúc đẩy họ trở thành binh lính. Vua muốn chọn người phụ trách Binh bộ như Ty Nông, An Thạch nói: “Các cơ quan trong kinh thành vốn là nơi nắm giữ cương yếu của thiên hạ, không riêng gì Binh bộ.” Vua nói: “Bởi vì Binh bộ là cấp bách nhất.” An Thạch nói: “Đúng như vậy.” Lời của Tống Đạo nên xem xét thêm. Trần Quán bình luận rằng: An Thạch nói: “Dân chúng có thể dùng lợi ích để thúc đẩy họ trở thành binh lính.” Câu nói này của An Thạch cũng là vì muốn thay đổi pháp mộ binh túc vệ vậy.

[87] Tống Đạo, người Hà Nam, cháu của Tống Bí, anh của Tống Địch. Phạm Thuần Nhân viết văn bia mộ ông. Lúc đó ông giữ chức Đô quan Lang trung, cùng đề cử việc vận chuyển ở Tam Môn Bạch Ba, từng ứng chiếu dâng lên năm việc[15]: Một là cử sứ giả đi xem xét phong tục để đánh giá năng lực của thủ lệnh; Hai là khôi phục chức Vũ thần Đề điểm Hình ngục để quan sát nhân tài, đồng thời để họ tiến cử người cùng loại; Ba là khôi phục pháp chế về trà để tăng thêm ngân sách quốc gia; Bốn là yêu cầu quan lại phải quan tâm đến nỗi khổ của dân, để củng cố nền tảng đất nước; Năm là tăng thêm cung tiễn thủ ở vùng biên giới để giảm bớt quân đồn trú. Ông cũng từng nói: “Xin bắt chước pháp dân binh thời cổ, biên chế đinh tráng, miễn thuế cho họ, không tốn kém của quan huyện, mà lại quen thuộc với địa hình núi sông, có thể có được hai mươi vạn chiến sĩ.” Nhiều điều ông đề xuất đã được thi hành. Tống Đạo mất vào năm Nguyên Phong thứ sáu, quan chức chỉ đến Triều thỉnh Đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung, em trai là Tống Địch cũng được nhắc đến nhiều lần.


  1. Theo văn trên, chữ 'điều' có lẽ là chữ 'tu' viết nhầm.
  2. 《Lễ ký》 quyển 52 《Trung dung》: 'Nói định trước thì không vấp, việc định trước thì không khốn.' Có lẽ chữ 'cấp' là chữ 'khốn' viết nhầm.
  3. Số lượng binh mã trong ngoài rất chi tiết, các bản và bản hoạt tự đều giống nhau. Trong 《Văn Lộ Công Văn Tập》 quyển 20, chữ 'đại' viết thành 'phu', có lẽ đúng.
  4. Kính nghĩ rằng Thái Tổ, Thái Tông định thiên hạ, chữ 'Thái Tổ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên mà bổ sung.
  5. Vượt qua cả thời Tam Đại, theo sách trên, phía trước có câu: 'Xem xét các triều đại trước, chưa có thời kỳ nào thịnh trị lâu dài và yên ổn như vậy, nên dân số đông hơn cả thời Hán, bờ cõi rộng lớn'.
  6. Dùng binh phải có danh nghĩa, thế nào các bản khác ghi là 'Dùng binh phải có danh nghĩa mới được'.
  7. Sách biên lục, chữ 'lục' nguyên là 'lục'. Xét 'Biên lục sách' tức là sách 'Lộ Châu biên lục sách' viết tắt, trong sách này thường thấy, nên sửa lại.
  8. 'Thư từ' nguyên bản là 'Lễ', theo bản khác sửa lại
  9. Các văn bản liên quan đến sổ sách, 'sổ' nguyên là 'mỏng', theo bản trong các kho sửa lại.
  10. Dương Hội, chữ 'Hội' nguyên bản viết là 'Tăng', căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 322, truyện Dương Hội sửa lại.
  11. Chữ 'phó' trong 'Nhữ châu đoàn luyện phó sứ' vốn bị thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 65/35, 《Trị tích thống loại》 quyển 15 và 《Tống sử》 quyển 335 truyện Chủng Ngạc bổ sung.
  12. Được các hộ lớn làm đô phó bảo chính, chữ 'tác' nguyên là chữ 'bảo', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại.
  13. Dân chúng hợp lại mà nói thì thành thánh, cũng không thể không sợ, 《Tống sử toàn văn》 quyển 11 hạ, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 71 về việc bảo giáp đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 327 truyện Vương An Thạch viết: 'Dân chúng hợp lời mà nghe thì thắng, cũng không thể không sợ vậy.'
  14. Rất khổ sở, các bản và bản hoạt tự đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 192, chí binh viết 'rất mạnh mẽ'.
  15. Từng ứng chiếu dâng lên năm việc, 'từng' nguyên bản là 'thưởng', theo bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.