"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 222: NĂM HI NINH THỨ 4 (TÂN HỢI, 1071)

Bắt đầu từ tháng 4 năm Hi Ninh thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Bính Thìn (mùng một), ban chiếu xét giảm hình phạt.

[2] Ngày Đinh Tỵ (mồng 2), Thái thường thừa Hứa Tướng được bổ làm Tập hiền hiệu lý. Tướng dâng sách vở của mình lên, được triệu vào thi ở Học sĩ viện, đỗ trung đẳng.

[3] Bãi chức của Chương Đôn về việc khảo sát chế độ sai dịch ở lộ Quỳ Châu. Vì Đôn tâu rằng việc kinh lý đất đai của giặc Di ở Châu Du khó đi khắp các châu, muốn chỉ lấy việc sai dịch ở Châu Du lập thành điều ước, thi hành khắp một lộ. Vua phê rằng việc sai dịch ở các châu khác nhau, khó chỉ dùng một pháp, nên bãi đi. Vua trách Đôn tránh việc, Vương An Thạch giải thích cho Đôn, và nói rằng tài năng của Đôn rất cao, chỉ bị người tầm thường phá hoại thôi. Vua nói: “Chắc không bằng Lữ Huệ Khanh.” An Thạch nói: “Đúng thế. Nhưng như Đôn cũng tự biết mình kém, chỉ hơi ngông cuồng thôi.” Ngày Đinh Hợi (mồng 2) tháng 3, sai Đôn kinh lý việc giặc Di ở Châu Du.

[4] Ty Nông tự tâu: “Dân các huyện thuộc phủ Khai Phong hàng năm nộp tiền sai dịch, từ hạng tư trở xuống ở thôn quê đều được miễn, nếu không phải là đinh đơn, thì cùng với hạng năm thay nhau làm tráng đinh.” Vua nghe theo. Một hôm, Vua bảo Vương An Thạch: “Tiền trợ dịch của hạng tư đáng tiếc nên tha luôn, chi bằng bắt họ trồng dâu, mà được miễn tiền sai dịch.” An Thạch nói: “Dâu thì sẽ bắt mọi người trồng, nếu phải miễn tiền sai dịch của hạng tư rồi mới trồng, thì người trồng có hạn. Chỉ nên bảo bảo trưởng và bảo chính đốc thúc họ trồng, không trồng thì bảo trưởng và bảo chính xử phạt tiền, người bị tố cáo mà bị quan ty xử phạt, thì cả bảo chính cũng phải nộp phạt. Như thế thì mọi người đều trồng dâu đủ số, không cần miễn tiền sai dịch. Việc tiền sai dịch có thể khuyến khích dân bảo giáp tập võ nghệ.” Ngày 16 tháng 5, ngày mùng một tháng 10, ngày 13 tháng giêng năm thứ 7.

[5] Chiếu rằng: “Nghe nói bỏ thành trì La Ngột, tướng quan là Yến Đạt cùng quân lính trở về gặp giặc, nhiều người bị chết, hãy lệnh cho Thiểm Tây đô chuyển vận ty điều tra số thực tế rồi tâu lên.” Sau đó lại thấy số liệu do sứ giả tẩu mã thừa thụ tâu lên khác với trước, nên chiếu cho Phu Diên kinh lược ty[1]và Yến Đạt mỗi người phải trình bày số người chết thực tế. Việc ngày 12, Yến Đạt dẫn quân trở về gặp giặc, trong bản truyện không có ghi chép.

[6] Viên Nội thị tỉnh nhập nội điện đầu là Vương Hóa Cơ không được phép trực tiếp phê thánh chỉ lấy lại nhân viên ở nội tửu phường. Xu mật viện có tờ tráp tử, phụng chỉ lệnh cho bản tỉnh xử lý theo lý. Vua cho rằng các cơ quan lấy lại nhân viên, không phải đợi chấp chính bẩm chỉ, nên chiếu rằng từ nay phải gửi văn bản lên triều đình, không được trực tiếp phê thánh chỉ và theo tấu, còn lại theo lệ cũ. Vua dụ Xu mật viện rằng: “Nội thần làm việc trong cung phải xưng thánh chỉ, nếu mọi việc đều phải thông qua Trung thư, Xu mật viện, thì sẽ rườm rà hoặc chậm trễ không kịp việc, hãy lệnh cho bản tỉnh trình bày các lệ cũ rồi tâu lên.” Sau đó trình lên 37 việc theo lệ, đều là những việc cần gấp, không phải là mệnh lệnh, đều được thi hành theo lệ.

[7] Ngày Mậu Ngọ, quan Kinh Tây đề cử thường bình đẳng sự là Trần Tri Kiệm xin trước hết bãi bỏ việc để nha tiền ở Hứa Châu quản lý công sứ khố, thay bằng quân viên, mỗi tháng cấp 3.000 tiền ăn, Vua đồng ý. Trước đây, các châu sai nha tiền quản lý công sứ, thường phải bồi thường nhiều, có người đến nỗi phá sản, đến lúc này mới đổi dùng quân viên thay thế. Sau đó áp dụng rộng rãi khắp các lộ, mọi người đều thấy tiện lợi.

[8] Ngày Canh Thân, Vua phê: “Trước đây Tuyên phủ ty lệnh các lộ tuyển chọn người Phiên bắt sống, lại lấy từ những hộ Phiên đã đăng ký, không chỉ làm giảm sức mạnh của các bộ tộc Phiên, mà còn tốn kém lương thực mà không tăng thêm số lượng cũ.” Nên chiếu rằng từ nay chọn những người Phiên mới chiêu hàng, trẻ tráng dũng cảm, không quá 3.000 người, còn những hộ Phiên đã đăng ký thì không tuyển chọn nữa.

[9] Hàn Giáng tâu: “Thần vừa đến Vị châu, cùng với Kinh lược sứ bản lộ là Thái Đĩnh bàn về kế sách biên phòng, đại để nói rằng hai lộ Tần, Khánh binh lực yếu kém, nên mỗi lộ tăng thêm ba đến năm nghìn quân, điều thêm hai vạn quân từ phía đông đến Đồng Diệu châu, Hà Trung, Phượng Tường phủ, dựa vào nguồn lương thảo để phân bố đồn trú. Đĩnh nguyện tự mình chỉ huy quân ở Bân châu, Ninh châu làm nơi đóng quân cho bốn lộ hành dinh, không kiêm nhiệm công việc của các lộ nữa, chỉ kiêm chức Đề cử lo việc phòng thủ thành trì, và chỉ huy quân mã xuất chiến chuyên làm nhiệm vụ ứng viện. Khi biết giặc tập trung binh lực và xâm phạm một lộ nào đó, sẽ dẫn hai vạn quân hoặc huy động thêm quân từ các lộ lân cận đến đó, cùng với quân Hán, Phiên của bản lộ xuất chiến hợp binh, chia nhau giữ các nơi hiểm yếu, lệnh cho các thành trại thực hiện kế sách thanh dã kiên bích, đợi khi giặc mệt mỏi thì tiến đánh. Như vậy so với việc tăng quân ở Thiểm Tây trước niên hiệu Khánh Lịch, số quân tăng thêm ít hơn nhiều, chi phí cũng dễ giải quyết. Thần xét thấy Đĩnh thực sự có tài mưu lược, xử lý công việc biên phòng một lộ, huấn luyện và khống chế, ân uy song hành, xem kế hoạch của ông ta, rõ ràng là hết lòng trung thành, mong được triệu Đĩnh về kinh.” Vương An Thạch cho rằng nếu giao hết cho Đĩnh, thì Đĩnh sẽ quá thiên về kế hoạch của bản lộ, e rằng bất tiện cho các lộ khác, nên tâu xin không báo lại. Bản Chu đã bỏ đoạn này, nay theo bản mới.

[10] Ngày Tân Dậu, Vua Liêu sai Lợi châu Quan sát sứ Tiêu Quảng, Thái thường Thiếu khanh Trương Tuân Độ; mẹ Vua sai Hoài Hóa Tiết độ sứ Gia Luật Huy, Khởi cư lang Tri chế cáo Trương Thiếu Vi đến chúc mừng lễ Đồng Thiên tiết.

[11] Ngày Nhâm Tuất, Thái tử Trung doãn, Hiệu thư Viện Sùng Văn là Phạm Dục được bổ nhiệm làm Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự. Dục tâu: “Pháp độ chính lệnh của Trung thư, sửa sai quá mức, tùy tiện mất chính đạo, căn bản không thống nhất, nên ba năm nay công việc càng rối ren.” Dục cố từ chối chức mới, được chấp thuận. Việc cho miễn chức Kiểm chính diễn ra vào ngày 18, nay gộp lại viết.

[12] Đô kiềm hạt Hoàn Khánh lộ là Cơ Uân, kiềm hạt Tần Phượng lộ là Lưu Thuấn Khanh, kiềm hạt Vĩnh Hưng quân lộ là Lưu Bân chuyên trách huấn luyện quân mã Thiểm Tây quyền trú bạc. Uân đóng quân ở Bân châu, phó sứ Cung bị khố là Quách Nhu làm phó; Thuấn Khanh đóng quân ở Kinh châu, phó sứ Tây Kinh Tả tàng khố là Bạch Ngọc làm phó; Bân đóng quân ở Hà Trung, Nội điện thừa chế là Hác Mân làm phó. Lúc này, Hoàn Khánh vừa trải qua binh biến, và Tây Hạ chưa quy phục, nên sai Uân và các tướng huấn luyện một vạn năm nghìn quân, chia nhau đóng giữ các quận trọng yếu. Đoạn này tham khảo thêm sách viết ngày mùng một tháng năm. Vua ra lệnh: Đặc biệt ban cho Uân và các tướng công sứ để khao thưởng, và cấp phát bạc nén để luyện tập. Vương An Thạch cho rằng việc khao thưởng thì có thể để các châu tự lo, nhưng việc cấp phát bạc nén thì cần phải thống nhất cho tất cả các châu. Nay đặc biệt cấp phát cho một vạn năm nghìn người, chưa đủ để thu phục lòng họ, mà các quân khác không được cấp sẽ sinh lòng oán hận, không cần đến mức gây biến loạn, nhưng khi ra trận họ sẽ không chịu liều chết, như vậy sẽ gây hại lớn. Trong hai ngày, ông cùng Xu mật viện bàn luận đi bàn luận lại, cuối cùng Vua nghe theo lời An Thạch.

[13] Một hôm khác, đoạn này, nhật lục ghi ngày mồng chín tháng năm. An Thạch lại cho rằng nên cấp tiền cho các quân để làm bạc nén hoặc vật tương tự để khuyến khích luyện tập, nhưng cần lập điều lệ, để các lộ thống nhất, nếu không, các lộ sẽ tranh nhau ban thưởng hậu hĩnh, mà không có giới hạn. Văn Ngạn Bác nói: “Giao công sứ cho châu quận, nên để họ tự quyết. Trước đây, từng ra lệnh cho công sứ lập sổ ghi lệ, đến ngày Đoan Ngọ, tri châu tặng bao nhiêu cát tử, cũng ghi vào sổ lệ, người ta cười chê vì sự keo kiệt đó.” An Thạch nói: “Chu Công chế định lễ nghi, số lượng biên đậu quý tiện đều có quy định. Đồ trong biên đậu, như dưa muối, thịt muối, trái cây, rau củ, đều có vật thường dùng. Chu Công sống vào thời thái bình, của cải dồi dào, há lại chế định lễ nghi một cách keo kiệt đáng cười sao? Bởi vì mức độ tiêu pha nhiều ít, lòng người khó thống nhất, nên cần bậc vương giả đặt ra quy chế, thì của cải mới được sử dụng hợp lý, và mức hậu bạc sẽ phù hợp với lòng người.”

[14] Thị lang Lại bộ, tân tri Đặng châu là Hàn Giáng xin được nộp tấu trạng qua Ty Thông tiến, Vua đồng ý.

[15] Ngày Quý Hợi, Trứ tác tá lang, Quán các hiệu khám Bồ Tông Mạnh được bổ nhiệm làm Kiểm chính Trung thư Khổng mục phòng công sự, Biên tu Trung thư điều lệ Đặng Nhuận Phủ làm Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự, cả hai đều được thăng chức Thái tử Trung doãn.

[16] Quảng Nam Tây lộ Kiềm hạt Trần Châm tâu: “Dân đánh cá ở các châu ven biển như Khâm, Liêm nếu tự đóng thuyền ra biển mò ngọc trai, thì nên cho phép họ làm theo ý muốn. Những người nghèo khó cho phép dân địa phương nuôi dưỡng, không truy cứu tội, để dân biển không bị đói khổ, lưu lạc.” Triều đình nghe theo.

[17] Chiếu bãi bỏ phép dùng giấy giao tử đang thi hành ở Thiểm Tây. Trước đây, khi quân sự Thiểm Tây khởi phát, Chuyển vận ty lo tiền không đủ, Trầm Khởi xin hạn trong nửa năm bắt dân nộp hết tiền đồng, tiền sắt cho quan, đổi lấy giấy giao tử, đợi ba đến năm năm sau khi biên sự yên ổn, sẽ trả lại tiền cho dân. Tuyên phủ ty tâu xin thi hành. Tri châu Bân Châu là Trương Tĩnh nhiều lần nói việc này bất tiện. Gặp lúc Lý Bình, Trương Cảnh Hiến đi sứ Diên Châu, nhân đó sai đi xem xét lợi hại, Bình và Cảnh Hiến tâu như lời Tĩnh. Cảnh Hiến cho rằng phép giao tử có thể thi hành ở Thục, không thể thi hành ở Thiểm Tây, sẽ khiến dân nghèo lưu lạc, thất nghiệp, không có kế sinh nhai, nên bãi bỏ. (Xem ngày Canh Tuất tháng giêng, Mậu Tý tháng ba).

[18] Vua phê: “Trước đây tuyển các quân phối ở các lộ làm cường mãnh chỉ huy ở Thiểm Tây, nghe nói các quân châu Thiểm Tây không theo chỉ dụ trước để tuyển bổ, không cấp áo lương, mà bắt làm việc như quân sương, đẩy xe làm việc, khiến họ không thể tự nuôi sống, rất bất tiện. Vậy chiếu cho cường mãnh làm quân cấm, lương thực cấp cao hơn quân tráng dũng, lệnh cho Bộ quân ty thống hạt, các lộ đô tổng quản ty sai phái.”

[19] Thượng phê: Vương Văn Lượng tuy đã lệnh cho Thiểm Tây chuyển vận ty hặc tấu, nhưng việc của Văn Lượng phần nhiều lừa dối, làm nhục uy danh biên cương, khơi mối nhục nhã với quân địch, e rằng cần phải triều đình xét xử và cho phép những người đi theo ra quân trước sau được tố cáo tội trạng đã thấy, để các tướng hiệu biên cương không dám dối trá để mong được công thưởng. Bèn hạ chiếu cho Thiểm Tây chọn quan xét xử ở Bân Châu, lại lệnh Vương Quảng Uyên khám xét, trừ những việc liên quan đến vụ án của Ngô Quỳ[2], nếu có thêm tội trạng rõ ràng khác, đều gửi đến chế khám viện thi hành.

[20] Chiếu giao cho Triệu Tiết: Nghe nói các quân ở Phu Diên lộ nhiều lần xuất quân, đến nỗi phải bán áo quần để tự cấp, có thể bí mật xem xét, nếu hợp lý thì giúp đỡ, chỉ làm theo lệnh của tướng soái, cho mượn quần áo một mùa, dần dần khấu trừ lại, lại thường xuyên quan tâm, cốt sao cho quân sĩ được nghỉ ngơi đều đặn, không để họ lâm vào cảnh khốn cùng.

[21] Trước đó, Vương An Thạch tâu với Vua rằng: “Hiện nay binh lính rất khốn khổ, có người nói rằng có người mặc giấy mà khoác áo giáp, đây là mối lo lớn nhất hiện nay. Từ trước đến nay, các tướng lĩnh không dám nói đến việc cứu tế binh lính, vì nếu cứu tế binh lính thì mọi người sẽ cho rằng đó là sự nuông chiều khiến binh lính trở nên kiêu ngạo. Thần nghĩ rằng thương yêu binh lính như con thì mới có thể cùng họ sống chết, nhưng nếu chỉ yêu mà không nghiêm khắc thì cũng giống như đứa con kiêu ngạo không thể dùng được, binh lính kiêu ngạo là do yêu thương quá mức. Trước đây thần nghe bệ hạ nói về việc của Quách Tiến, thần tra cứu truyện của Tiến, thấy nói rằng Tiến biết được nỗi khổ của người dân, đi đến đâu cũng được người ta lập bia ghi công đức, chỉ có binh lính nếu vi phạm mệnh lệnh dù nhỏ cũng bị giết. Lại nữa, Thái Tổ đem hết số thuế thu được giao cho Tiến để mua rượu thịt khao thưởng binh lính. Những người Tiến giết chắc chắn đều là những kẻ vi phạm mệnh lệnh, còn việc khao thưởng binh lính, biết được nỗi khổ của họ, ắt đã làm hết tình người. Chỉ vì ông ấy làm được như vậy nên mới có thể giết những kẻ vi phạm mệnh lệnh mà không khiến họ oán hận. Nếu không thì làm sao Tiến có thể khiến binh lính của mình mỗi lần ra trận đều thắng? Hiện nay các tướng lĩnh trong việc đối đãi với binh lính, chưa từng dám lạm dụng một đồng tiền nào, thấy binh lính khốn khổ như vậy nhưng không có lời nào tâu lên, đó là do thói quen thấy gần đây. Thần e rằng nếu binh lính khốn khổ thì khó sử dụng, và có thể lại xảy ra biến loạn như ở Khánh Châu. Thần cho rằng nên nới lỏng một chút các quy định ràng buộc tướng lĩnh, để họ có thể tùy nghi sử dụng tiền trong kho để cứu tế binh lính, như vậy mới có thể yêu cầu tướng lĩnh khiến binh lính dốc hết sức.”

Lại nói: “Các tướng lĩnh đã được lựa chọn, tuy chưa đủ để dựa vào mà làm việc, nhưng cũng đều hiểu biết sơ lược về thời cơ. Nếu triều đình chỉ huy từ xa, không bằng ra lệnh cho họ tùy nghi xử lý tại chỗ.” Vua sai Vương An Thạch soạn văn thư chỉ huy các lộ, nhưng sau đó Xu mật viện chần chừ không quyết định, Vương An Thạch bèn nhân lúc rảnh tâu lên Vua, Vua nói: “Đã có chiếu chỉ giao cho Triệu Tiết rồi.” Nhưng các lộ vẫn chưa nhận được.

[22] Ngày Bính Dần, Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Vương Quảng Uyên tâu: “Trước đây, binh sĩ Khánh Châu làm loạn, thần đã tạm thời ra bảng cáo để dụ dỗ, những người thân thuộc bị liên đới đều được đặc miễn tội. Nay theo chỉ dụ triều đình, liệt kê số người, quân phần, tên họ, thần lo rằng sẽ có cách xử trí khác, mong được ban cho thần một chút quyền hành ngoài biên ải.” Chiếu rằng: “Những binh sĩ làm loạn ở trại Nhu Viễn và người thân bị liên đới, theo như lời tâu của Quảng Uyên. Còn những kẻ phản loạn ở Khánh Châu đã bị xử tử, người thân cùng ở chung bị sung làm nô tì, và những người trên 20 tuổi bị thích chữ và đày đi Kinh Tây, hãy xét lại, nếu có người theo pháp luật không đáng bị liên đới thì tha ngay, những người sung quân cấp giấy công, những người đã nhập ngũ và bị đày đi Hồ Bắc thì không thay đổi nơi đày nữa.”

[23] Ngày Đinh Mão, Thị ngự sử tri tạp sự là Đặng Oản tâu: “Tri châu Bạc là Phú Bật trách cứ quan lại Mông Thành vì đã phân phát tiền và thóc từ kho thường bình, sai bắt các lại viên huyện và đánh đòn nặng; lại sai người mang thư nhỏ xuống các huyện, bảo họ chưa được thi hành theo công văn của Ty đề cử. Thiêm phán và Quản câu quan của châu là Từ Công Cổn đã viết thư cho các huyện, bảo họ không tuân theo chiếu lệnh. Xin xét xử tận gốc.” Chiếu giao cho Ty suy khám viện của châu Bạc xử lý, còn Phú Bật chỉ yêu cầu thu thập tài liệu sau vụ án để tâu lên. Oản lại tâu: “Xin hạ lệnh cho các Ty đề cử ở các lộ, mọi văn thư liên quan đến thanh miêu chỉ được dùng tên là trợ giúp lương giống, tiền và thóc.” Không được chấp thuận. Sử nhà Chu cho rằng không thi hành nên đã xóa bỏ, bản mới nói rằng Oản xin đổi văn thư thanh miêu, là tự biết pháp này là sai, nên giữ lại, nay theo bản mới.

[24] Phú Bật tâu:

[25] Thần đã ba lần tâu xin chỉ mình thần chịu trách nhiệm nặng, đặc biệt ban ơn tha thứ cho các quan lại khác, kiêm lần tâu thứ ba xin về việc thanh miêu, chỉ cần vi phạm dù nhẹ hay nặng, thần cũng xin một mình nhận tội. Gần đây lại nghe viện khám xét đang truy cứu chức quan, hiện đang trao đổi văn thư qua lại nhiều lần. Thần thấy triều đình ra sức thực hiện việc chi tán tiền thanh miêu, chắc chắn cho rằng có lợi cho thiên hạ. Nhưng theo thần nghe được, bốn phương bàn tán việc này hại nhiều lợi ít, nên thần ngu ý không muốn chi tán. Lại vì thần đảm nhận chức trưởng lại, không muốn công khai bãi bỏ phép mới, đến khi hợp tán hạ liệu[3], liền chỉ huy châu ty theo lệ thi hành, lại sợ các huyện lập tức chi tán, bèn khám hội được quan quản câu tiền hộc là Từ Công Cổn, quyền quan sát chi sứ là Thạch Di Canh đều từng đi các huyện điểm quý, quen biết khắp các tri huyện, huyện lệnh, thần bèn sai bí mật gửi thư, không được chi tán, lại sai dặn dò kỹ, nếu trước đó tùy tiện chi tán rộng rãi, sau này dân chúng bỏ trốn, mang theo tiền hộc của quan, các công nhân trong huyện ty ắt phải bồi thường. Lại Từ Công Cổn, Thạch Di Canh đều từng chấp phúc, nếu như vậy e rằng sẽ gây bất tiện, thần lập tức quở trách đuổi đi, hai người đã không dám trái lệnh thần, đều từng nhân thư truyền ý thần đến các huyện, nên cũng không dám chi tán.

Trước đây không chi tán tiền thanh miêu, tội lỗi quyết không phải ở người khác, mà thần chuyên trách việc này, tình hình rất rõ ràng, nên thần nhiều lần tâu xin, chỉ mình thần chịu trách nhiệm nặng chính vì thế. Nay thần nhận tội, cùng các lần tâu trước, đều xin ban xuống viện khám xét, để chiếu hội tra xét. Thần nghĩ bản ý của mình, chỉ muốn giữ gìn đại thể, nếu công khai chỉ huy châu huyện không được chi tán, tức là công khai bãi bỏ phép mới của triều đình, nếu cứ theo phép mà chi tán hết, e rằng sau này thúc đẩy không được, ắt khiến dân nghèo bỏ trốn, lại khiến các công nhân trong huyện ty bị bồi thường oan uổng, phá hoại gia nghiệp, cả hai đều bất tiện. Nên thần đến kỳ thi hành điều pháp, mong tránh tiếng bãi bỏ, lại bí mật dặn các quan huyện không được chi tán, là không muốn dân nghèo bỏ trốn, và không để các công nhân trong huyện ty phải bồi thường gia nghiệp, dường như cả hai đều thuận tiện. Nay triều đình tận lý truy xét, thần cũng phải tận lý trình bày, vì việc không thể không làm vậy.

[26] Thần nay xin nói về việc Thanh Miêu, người trong thiên hạ dù hiền hay không đều biết rằng tác hại càng lâu càng sâu, chỉ có triều đình không biết, điều này cũng không thể làm gì được. Huống hồ từ khi pháp lệnh mới ban hành, các quan lớn nhỏ trong ngoài cùng những người bị đuổi khỏi chức vụ đài gián đều bàn luận không thống nhất, chỉ ra hết các tệ nạn. Lại nghe nói sau này tệ nạn càng nhiều, thần vì già yếu, đầu óc mụ mị, không thể trình bày từng điều một, chỉ xin bệ hạ xem xét tập hợp các văn bản của các quan trước sau bàn về việc Thanh Miêu, triệu tập trăm quan để định nghị, sẽ thấy rõ lợi hại. Thần chỉ tóm tắt trình bày như vậy, vì triều đình đang điều tra, nên khó lòng im lặng, chứ không phải cố tình biện minh để tránh tội. Việc hiện nay bản châu không dám phân phát tiền và thóc Thanh Miêu, đều là do thần tự quyết định, sẵn lòng chịu trách nhiệm nặng nề, dù chết cũng không hối hận. Còn các quan lại châu huyện từ Từ Công Cổn trở xuống, chỉ vì không hợp theo mệnh lệnh của thần mà phạm lỗi, mong bệ hạ xét tình hình, không có gì nghiêm trọng, xin đặc biệt tha thứ. Chương này nên bỏ đi, Uông Ứng Thần nói chương này nên giữ lại, nay xin chép đầy đủ.

[27] Ngày Tân Mùi, Đoan Minh Điện học sĩ kiêm Hàn Lâm Thị độc học sĩ, Thượng thư Hữu thừa Tiền Minh Dật mất.

[28] Ngày Quý Dậu, Hàn Lâm học sĩ, Câu đương Tam ban viện Dương Hội được cử làm Quyền Ngự sử Trung thừa, Hàn Lâm học sĩ Hàn Duy kiêm Hàn Lâm Thị độc học sĩ. Từ khi Phùng Kinh bị bãi chức, Ngự sử đài thiếu Trung thừa, Trần Tiến, Tôn Cố đều tạm quản việc đài, bấy giờ Vua muốn dùng Hàn Duy. Vương An Thạch nói: “Hàn Duy ắt sẽ theo thói tục, không phải là điều bệ hạ muốn thiết lập, lại khiến các ý kiến khác càng thêm sôi nổi, không bằng dùng Dương Hội.” Vua nghe theo.

[29] Hà Đông Đô chuyển vận sứ, Thiên Chương các Đãi chế Lưu Tường được cử làm Quyền Tri Khai Phong phủ, thay cho Hàn Duy.

[30] Chiếu: Các chức vụ Lưỡng Chiết lộ đề cử thường bình đẳng sự, Chức phương viên ngoại lang Lâm Anh, Thái thường bác sĩ Trương Tuân, Quản câu thường bình đẳng sự, Trứ tác tá lang Vương Thuần đều bị thay thế. Trước đó, Trung thư cho rằng việc thủy lợi và sai dịch ở Lưỡng Chiết lộ đều không được thực hiện, đã cử Điện trung thừa Trương Tịnh thay thế Vương Thuần, lại sai Đề điểm hình ngục Vương Đình Lão điều tra. Đình Lão tâu rằng từ khi Lâm Anh và các ông được bổ nhiệm, chưa từng đi tuần tra, chỉ có Trương Tuân từng đến Minh, Việt hai châu mà thôi, nên cả ba người đều bị khiển trách. 《Hội yếu》 ghi rằng Lâm Anh và các ông tại nhiệm không thi hành tân pháp. Lúc đó, Trương Tuân đang để tang, sau khi mãn tang sẽ theo lệ người bị thay thế, được bổ nhiệm làm Tri châu Bích. Lâm Anh vào tháng 11 năm thứ 2 được cử đến Phủ giới, tháng nhuận đổi sang Lưỡng Chiết. Thái thường bác sĩ, Tri huyện Ngân Trương Tuân vào tháng 11 năm thứ 2 được cử đến Lưỡng Chiết. Tiền Tuyên châu Tư lý Vương Thuần vào tháng 11 năm thứ 2 được cử đến Lưỡng Chiết, đến tháng 12 năm thứ 3, Thẩm quan cử Trương Tịnh đến thay thế.

[31] Chiếu: Quân khí trong thiên hạ, trừ ba lộ biên giới đã cử quan kiểm tra, các lộ khác lệnh cho Chuyển vận ty ở mỗi châu quân chọn cử quan kiểm tra, chia làm ba loại, Chuyển vận sứ, phó sứ và phán quan phân công đến các châu quân đốc thúc, việc xong thì tâu lên. Ngày 22 tháng 12 năm thứ nhất, ngày 9 tháng 3 năm thứ 2.

[32] Kiểm hiệu Thủy bộ viên ngoại lang, Nhữ châu Đoàn luyện sứ, đang an trí ở Đàm châu là Chủng Ngạc bị giáng làm Hạ châu Biệt giá. Ban đầu, Vương An Thạch cho rằng Chủng Ngạc cần bị trách phạt nặng để an ủi lòng dân Quan Phụ, xin đày ông ta đến Quảng Nam. Vua nói: “Phải để Chủng Ngạc rời khỏi Thiểm Tây.” Do đó, ông ta bị giáng chức lần nữa.

[33] Ngày Giáp Tuất, thử bổ nhiệm Thường Trật, chức Tướng tác giám Chủ bạ, làm Hữu chánh ngôn, Trực tập hiền viện, Quản câu Quốc tử giám. Trước đây, Trật không chịu ra làm quan, mọi người đều cho rằng ông ắt sẽ lui về ẩn dật. Đến khi Vương An Thạch thay đổi pháp lệnh, các sĩ đại phu đều xôn xao, cho là bất tiện. Riêng Trật ở nơi thôn dã, xem chiếu thư ban xuống, lại cho là đúng. Khi được triệu, ông liền ra làm quan. Khi vào chầu ở điện Thùy Củng, Vua hỏi Trật: “Tiên triều nhiều lần bổ nhiệm, sao khanh không ra?” Trật đáp: “Tiên đế cho phép thần từ chối, nên thần được an nhàn nơi thôn dã. Nay bệ hạ bắt buộc thần, không cho trái ý chiếu chỉ, vì thế thần không dám không đến, chứ không phải dám từ chối hay lựa chọn đi ở.” Vua khen ngợi, rồi từ từ hỏi làm thế nào để dân khỏi đói rét.

Trật đáp: “Pháp chế không được thiết lập, dân chúng ăn cơm hầu, mặc áo hầu[4], đó là mối lo lớn hiện nay.” Lại nói: “Thần tài năng không hợp thời, mong được trở về.” Vua nói: “Khanh đến đây, sao không ở lại ít lâu! Đợi đến ngày nào không dùng được khanh, bấy giờ mới nên đi ở.” Lúc đầu bàn việc bổ nhiệm chức quan cho Trật, Vương Khuê nói: “Có thể làm Thái tử Trung doãn.” Vua nói: “Đối với người như thế này nên hợp với lý phận.” Bèn có lệnh này.

(Lâm Hi trong 《Dã sử》 chép: Thường Trật, người Dĩnh Châu. Năm Hoàng Hựu[5], Âu Dương Tu làm Tri châu, Lưu Xưởng, Vương Hồi ở quận, ngày ngày cùng ông đi lại, nghe nói Thường Trật ở thôn dã, có tiết hạnh, thỉnh thoảng cùng ông dự yến tiệc, từ đó nổi tiếng. Trật không giỏi văn chương, nên bỏ thi Tiến sĩ, không có tài năng gì khác. Hồi cùng ông trao đổi, học vấn dần tiến bộ. Tu đề cao Trật quá mức, hết lòng tiến cử lên triều đình, nhiều lần triệu mà không đến, vì thế thiên hạ ngưỡng mộ, cho là người kỳ lạ. Bèn thử bổ nhiệm làm Tướng tác bạ. Khi Anh Tông lên ngôi, triệu ông, ông lấy cớ bệnh từ chối. Nay Vua lên ngôi, Công Trước tiến cử ông với Vua, đến khi bổ nhiệm làm Ngự sử Trung thừa, lại tiến cử Trật thay mình. )

Năm Canh Tuất, Công Trước bị giáng làm Thủ Dĩnh, Tu cũng đi Thanh Châu, qua Dĩnh. Lúc đó Trật đã có ý ra làm quan, hai người cùng Trật bàn việc thời chính, đều cho là đúng, Tu liền bẻ lại, An Thạch bèn sai quận đưa thuyền đưa Trật về kinh. Tháng 5 năm Tân Hợi đến kinh sư, ở tại Thái học. Khi vào chầu, Vua hỏi Trật vì sao lâu nay không ra, Trật đáp: “Tiên đế triệu thần làm quan, nên thần không dám đến. Bệ hạ không lấy quan chức triệu thần, nên thần ra.” Vua rất vui. Lại hỏi về ưu khuyết của An Thạch, Tu, Công Trước và việc thời sự đúng sai. Trật đáp việc Thanh miêu đều hợp với nghĩa cổ, An Thạch hiểu kinh hiểu đạo, Công Trước không hiểu kinh không hiểu đạo, Tu chỉ giỏi văn chương phù hoa mà thôi. Hôm sau, bổ nhiệm làm Hữu chánh ngôn, Trực tập hiền viện, Phán Quốc tử giám, ban cho áo đỏ và cá. Sau lại bổ nhiệm làm Trực xá nhân viện, Thiên chương thị giảng, rồi làm Khởi cư chú, đảm nhiệm chức gián quan. Tháng nào cũng được bổ nhiệm, để làm vui lòng ông.

An Thạch đang đuổi hết các quan học chính, dùng người thân truyền dạy học thuyết của mình, mọi việc thay đổi chế độ học chính, Lý Định, Trương Hổ đều theo lệnh An Thạch, thuận theo, Trật không hề có ý kiến khác. Trật vốn thích học thuyết Tam truyền, An Thạch bãi bỏ 《Xuân Thu》, không lập học quan, Trật cũng không nói gì. Việc tuyển quan không hiểu văn thư, khi làm gián quan im lặng không nói gì, trong ngoài đều chê cười. Đặng Oản khi được bổ nhiệm làm Tạp đoan và Trung thừa, đều tiến cử Trật thay mình. Tu từ khi rời Dĩnh, mỗi khi làm thơ nhớ Dĩnh, không bài nào không nhắc đến Trật, cùng nhau đi lại, Công Trước tiến cử ông rất mạnh, một khi Trật bị An Thạch dụ dỗ, đột nhiên ra làm quan, bàn luận thời sự phụ họa, hai người rất thất vọng. Công Trước đang bị giáng ở Dĩnh, Tu cũng về hưu trở về, Trật vừa ra làm quan, nghe nói ông khen An Thạch mà chê mình, bèn không gặp nữa. Lại có Huệ Khanh, Đôn, Quát ba người trước kia hầu hạ Tu rất cẩn thận, đến khi Tu già mất thế, An Thạch chuyên quyền, ba người không còn đoái hoài đến Tu, khi về Dĩnh, lại mất Trật, cả đời tự trách, cho là sai lầm trong việc biết người. Học vấn của Trật vốn xuất phát từ Hồi, bình thường Tu đối đãi Hồi không bằng Trật, đến khi Hồi chết, Tu làm văn tế rằng: “Lợi hại không động lòng, tiến thoái không đổi chí, ở giữa đám đông mà không theo, đứng trước lợi lộc mà không tham, chỉ có ta biết ngươi từ đầu, người đời chỉ tin ta về sau.” Ý nói đến Trật. Hi lại nói Trật bị bệnh tim, cuối cùng tự vẫn chết.

[34] Thái thường bác sĩ, Thiêm thư Hà Đông tiết độ phán quan Lý Thực, Thái tử trung doãn, Quán các hiệu khám, Kiểm chính Trung thư lễ phòng công sự Lưu Chí, cùng được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử lí hành. Theo lệ cũ, ngự sử không kiêm nhiệm chức vụ ở Quán các, việc dùng người có chức vụ ở Quán các làm ngự sử bắt đầu từ Lưu Chí. Lý Thực là người Lạc Dương. Theo truyện Vương Đào: Tư Mã Quang từng tiến cử Lý Thực, cùng với Mạnh Tuấn, Triệu Ngạn Nhược, nhưng tấu chương bị lưu lại.

Lưu Chí chưa kịp vào chầu, đã dâng tấu nói: “Quan lại Bạc Châu trước đây vì chậm trễ trong việc phân phát tiền gốc thanh miêu, bị bản lộ Chuyển vận sứ sai quan điều tra, đến nay đã nhiều tháng mà vẫn chưa kết thúc. Nghe nói các quan chức và những người liên quan bị giam giữ rất nhiều, thành ra một vụ án lớn, khiến dư luận xôn xao. Thần cho rằng tội của quan lại bản châu chỉ là không tuân thủ thời hạn phân phát tiền thanh miêu, tội ấy có thể định đoạt bằng một lời, không phải là tình trạng mập mờ khó xét, nhưng việc khởi tố vẫn tiếp diễn, các cơ quan chưa đoán được ý chỉ của triều đình, nên đã phóng đại sự việc, bắt giam nhiều người làm chứng. Giữa tháng nóng nực này, thật đáng thương xót. Mong triều đình nhanh chóng ban chỉ, nghiêm khắc yêu cầu cơ quan điều tra phải kết thúc trong thời gian gần đây, những người làm chứng được thả dần trước[6], để tránh việc kéo dài trong mùa hè nóng nực.”

(Xét tấu nghị của Lưu Chí có ghi đầy đủ việc này. Bản truyện lại nói: “Vụ án tiếp diễn không dứt, tiểu thần có ý hãm hại cựu tướng Phú Bật để mưu cầu tiến thân. Nay Phú Bật đã bị khiển trách, mong triều đình khoan thứ cho tội của châu huyện.” Đây là lời nói trang trí, hơn nữa lúc này Phú Bật cũng chưa bị khiển trách, bản truyện có lẽ dựa vào lời tựa tập văn của Lưu Chí do Lưu An Thế viết.

《Nhật ký Tư Mã Quang》 chép: Lưu Chí làm Kiểm chính quan, Vương An Thạch muốn cách chức Phú Bật, Lưu Chí nhiều lần can ngăn, vì thế bị điều ra làm Ngự sử, Phú Bật cuối cùng bị tước chức Sứ tướng. Lưu Chí dâng tấu nói: “Bạc Châu bạ, uý, điển cấp đều bị tội vì không phân phát tiền thanh miêu mà bị hặc tấu, việc làm của cựu tướng, há phải những người này có thể ngăn cản được sao?” Vì thế, từ bạ, uý trở xuống được đặc xá. Lúc đó, Lưu Chí là người can đảm nói thẳng nhất trong đài gián, Chu Bá Dược nói. Ngày 21 tháng 6, Giáp Tuất, có thể tra cứu.)

[35] Quyền Khánh Châu Bắc lộ đô tuần kiểm Thôi Chiêu Dụng, Nhu Viễn trại chủ Tôn Tông Tín, đô giám Mộc Tín Chi đều bị giáng hai cấp quan, vì để bộ hạ người Phiên đánh cắp khí giáp, mở cổng thành định ứng phó quân phản loạn ở Khánh Châu, mà Chiêu Dụng và những người khác không thể ngăn cấm. Chiếu ban đức âm đặc biệt trách phạt họ.

[36] Chiếu rằng từ nay các nơi trong thiên hạ phải báo cáo tình hình mưa tuyết, Ty Nông tự mỗi tháng phải nộp lên. 《Tân kỷ》 chép việc này, 《Cựu kỷ》 không chép.

[37] Ngày ấy, Vương An Thạch tâu với Vua: “Phép mới về việc luyện tập võ nghệ của bảo giáp thế nào?” Vua nói: “Đợi đến mùa thu đông nhàn rỗi, khi việc sai dịch xong xuôi sẽ ban hành.” Lại bảo An Thạch: “Người không thể không có sai lầm, khanh thấy Trẫm có lỗi lầm, hãy thẳng thắn chỉ ra, đừng giữ ý tứ.” An Thạch tạ rằng: “Thần sẽ hết sức, không dám giữ ý tứ.” Vua lo việc khó thành, An Thạch nói: “Việc này ở nơi bệ hạ, không thể cầu ở nơi khác. Xem tình hình nhân tâm năm nay, nghe theo mệnh lệnh của bệ hạ, không dám khinh nhờn, so với năm ngoái thế nào?” Lại nói: “Thánh đức của bệ hạ ngày càng cao, phong tục sẽ thay đổi lớn, lo gì việc khó thành!” Việc này căn cứ theo 《Nhật lục》. Việc thi hành phép mới hay không, chính ở thời điểm này. Nhưng 《Thực lục》, bản Chu mặc và bản mới đều thiếu không chép, nay đặc biệt chép lại.

[38] Ngày Bính Tý, Quyền phát khiển đề điểm Hà Bắc hình ngục, Đô quan viên ngoại lang Vương Quảng Liêm được quyền phát khiển bản lộ chuyển vận phó sứ, kiêm Đô đại đề cử địch tiện lương thảo thôi khiển Hoàng Ngự hà cương vận. Vương An Thạch nói rằng ông ta có thể dùng được. Thông phán Đại Danh phủ, Chức phương lang trung Tiền Xương Vũ được đường trừ làm tri châu. Quảng Liêm nói Xương Vũ có công trong việc phát tiền thanh miêu.

[39] Sai Thái thường bác sĩ Trần Sung đi xem xét tình hình thiên tai ở các châu Túc, Bạc, đồng thời lệnh cho bản lộ tu sửa vũ bị. Trước đó, Vua phê: “Nghe nói dân châu Túc thiếu ăn, trộm cướp đầy rẫy, người dân không yên ổn, hiện đang giam gần năm trăm tội nhân tử hình, quân trộm chưa bắt được cũng không ít, mà nơi nào cũng không có vũ bị. Nếu không kịp thời cứu tế, ắt sẽ tụ tập thành giặc cướp.” Bản lộ đều không tâu, nên sai Sung đi.

[40] Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý, Đồng tri Lễ viện Hứa Tướng kiêm Kiểm chính Trung thư Lễ phòng công sự, Thái tử trung doãn, Sùng Chính điện thuyết thư Lý Định từ chức thuyết thư, được bổ nhiệm làm Tập hiền hiệu lý, Kiểm chính Trung thư Lại phòng công sự. Việc Lý Định từ chức thuyết thư đã được ghi chép vào tháng 12 năm trước, ngày Mậu Dần.

[41] Tây tác phường phó sứ, Tri Ninh châu Điền Nhân được thăng làm Hoàng thành phó sứ, vì Nhân từng có công đánh giặc phương Tây, lại chiêu an được nhiều quân nổi loạn ở Khánh châu.

[42] Đặt chức Thái y thừa, được cấp bổng lộc và đeo bài ngư, ngang hàng với Thượng dược phụng ngự của Điện trung tỉnh, xếp dưới trong ban bậc, để bổ nhiệm các quan y chuyên về sản khoa và tiểu nhi.

[43] Trung thư tấu: Kiểm chính Trung thư Lại phòng công sự Lý Thanh Thần kiêm Biên tu Trung thư điều lệ. Chiếu bãi chức. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》. Sau đó, từ Thái tử trung doãn, Thanh Thần được phục chức Hiệu thư lang, Thông phán Hải châu. Việc này căn cứ theo 《Tăng Bố chế tập》 và hành trạng của Triều Bổ. Sau khi Hàn Giáng bị khiển trách, Thanh Thần xin trở lại chức cũ và xin được bổ nhiệm ra ngoài.

[44] Ngày Mậu Dần, Tập hiền hiệu lý Triệu Ngạn Nhược kiêm Sùng Văn viện Kiểm thảo, Biên tu 《Hội yếu》.

[45] Ban cho Ngô An Độ, Hữu Tán thiện đại phu, xuất thân tiến sĩ. Trước đó, Tể tướng Phú Bật tâu: “An Độ được triệu đến thi ở Viện Xá nhân, nghe nói bài thi vào hạng ba, bài luận vào hạng tư, chỉ vì bài thơ ‘Lục trúc thanh thanh’ không theo chú giải mà viết về cỏ sô và trúc phiến, nên bị xếp vào hạng năm, đổi một chức quan, rồi bãi chức. Thần xét kỹ ý của An Độ, chắc là cho rằng cỏ sô và trúc phiến là loại cỏ mềm yếu thông thường, không đủ để ngợi ca Vệ Vũ công là người có đức, vì chú giải quanh co, không phải ý gốc của nhà thơ. Lại xét sách ‘Hà cừ’ trong 《Sử ký》 có câu ‘hạ kỳ viên chi trúc’, thì biết trúc ở Kỳ Úc chỉ là loại trúc tiễn. Lại căn cứ vào 《Thích văn》 của Lục Đức Minh, chữ ‘thanh’ chỉ đọc là ‘tinh’, nghĩa là tươi tốt[7], nên An Độ trực tiếp lấy ý ‘lục trúc tươi tốt’ làm đề tài, về lý rất thông suốt, không phải là không hiểu ý đề. Xin ban cho xét lại ba đề thi của An Độ, nếu đều vào hạng, tùy theo văn tài, đặc cách ban cho một khoa danh.” Xuống cho Viện Học sĩ xem xét, thấy các bài thi đều hợp cách, chỉ có bài thơ không hợp vì tự ý riêng, nhưng cũng không sai lầm, nên có lệnh này, lại truy phục chức quan trước đây.

[46] Ngày Canh Thìn, sai Vương An Thạch làm Đề cử tu biên sắc, bãi chức Ngu bộ lang trung Diêm Thụ, cho Đô quan viên ngoại lang, Quyền phát khiển Diêm thiết phó sứ Mã Mặc thay thế, lại lệnh cho Kinh Đông chuyển vận, Đề điểm hình ngục trình bày rõ việc La Hi Cổ, người mới được bổ làm Tri Tế châu, nhu nhược, không thể đảm đương việc quận. Ngự sử tri tạp sự Đặng Oản tâu: “Hi Cổ chưa đến nhậm chức, Giám ty vốn không quen biết, mà lại vi phép tự tiện cử Thụ thay Hi Cổ, xin xét tội.” 《Nhật lục》 chép[8]: Thụ và Đề điểm hình ngục Khổng Tông Hàn từng làm việc cùng nhau, nên Tông Hàn từ chức Đề điểm đổi làm Tri Kỳ châu, đổi làm Tri Kỳ châu, nghi ngờ vì việc này, cần xét thêm.

[47] Vua lo ngại người phương Tây xâm nhập sâu, Vương An Thạch bàn rằng việc ấy chắc chắn không xảy ra, nói: “Dù Hàn Giáng quả quyết, Chủng Ngạc ngang ngược, nhưng quân đi trăm mười dặm, đã tự thấy cực kỳ nguy hiểm, họ sao có thể xâm nhập sâu mà không lo hậu họa? Dù họ dám làm thế, cũng không phải điều ta lo ngại.”

[48] Vua ra chiếu cho ba lăng Chu, Khánh, Ý, chỉ giữ lại bảy hộ trăm con, còn lại cho về làm ruộng.

[49] Ngày Tân Tỵ, Hà Dương Tam Thành Tiết độ sứ, Tư không kiêm Thị trung, Tập Hi Quan sứ Tăng Công Lượng làm phán quan Vĩnh Hưng quân, Tuyên Huy Nam Viện sứ, Hùng Vũ quân Lưu hậu, phán quan Vĩnh Hưng Quách Quỳ làm phán quan Tần châu. Trước đó, Lã Đại Phòng bị bãi chức ở Diên châu, Vua nói muốn cử Quách Quỳ đi[9], hỏi Vương An Thạch: “Vĩnh Hưng cần một người trọng yếu, khanh cho rằng ai có thể?” An Thạch nói: “Tăng Công Lượng tinh tường, giỏi trấn phủ, nên cử ông ấy đi.” Vua nghi ngờ Công Lượng ngại đi, An Thạch nói: “Nên bổ nhiệm con ông là Hiếu Khoan làm Thiểm Tây Chuyển vận Phó sứ để an ủi ông, ông ấy chắc chắn vui vẻ đi. Hơn nữa, Công Lượng đã già, có Hiếu Khoan ở đó giúp đỡ rất tiện.” Sau đó lại dùng Triệu Tiết, việc này bị dừng lại. Lúc này, việc Hàn Chẩn tàn ác được biết đến, mọi người đều muốn dời ông ta đi, nên dùng Quỳ thay Chẩn, còn Công Lượng trị Vĩnh Hưng như nghị định ban đầu.

[50] Binh sĩ Phiên Lạc ở Kinh châu được cấp lương, An Cát được làm Hữu Ban Điện trực, ban thưởng một trăm tấm lụa, một trăm ngàn tiền, và được sai khiển làm Giám đương ở Thiểm Tây. Cát tố cáo bọn Đảng Tiên trong doanh mưu phản, bị xử tử, nên được thưởng.

[51] Triệu Tiết nói: “Xưa Quách Tiến ở Tây Sơn, lợi nhuận từ việc quản lý thuế khoán đều được giao cho ông ấy, cho phép buôn bán tự do, nhờ đó mà giàu có, có thể nuôi dưỡng và chiêu mộ những người dám chết, nắm được tình hình của rợ Địch. Nay Diên châu mỗi năm dùng một vạn quan tiền, quan định mức hai ngàn, nay dù gấp đôi cũng không đủ. Xin cho vay một vạn quan để buôn bán lấy lãi, nuôi dưỡng binh sĩ Hán và Phiên, bắt họ dốc sức.” Vua ra chiếu cho Kinh lược ty mượn hai vạn quan tiền phong trang, làm vốn buôn bán công sứ ở bản châu.

[52] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng: Nghe nói ở Thiểm Tây có nhiều vụ cướp bóc chưa bắt được tội phạm, lệnh cho năm lộ Kinh lược An phủ ty thiết lập lại phần thưởng truy nã, nghiêm khắc trách nhiệm quan lại sớm dẹp yên hết, và lệnh cho Tri Thái nguyên phủ Lữ Công Bật xem xét việc các châu trong lộ này đã điều động nghĩa dũng giữ thành do biến loạn quân sự ở Khánh châu, rồi tâu lên. Sau đó, Lữ Công Bật tâu rằng đã hạ lệnh cho các châu không được tự ý điều động, nếu đã điều động thì đều lệnh giải tán.

[53] Trung thư tâu rằng: “Việc khảo xét và thăng thưởng, về hưu, thay đổi chức vụ của các quan viên tuyển chọn, các điều lệ trước sau không thống nhất. Xin từ nay, các chức Phán quan Tiết độ, Quan sát trải qua sáu kỳ khảo xét, nếu là Tiến sĩ thì thăng làm Thái thường thừa, còn lại thăng làm Thái tử trung xá[10]; nếu chưa đủ sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Thái tử trung doãn, còn lại thăng làm Trứ tác tá lang.

Chi sứ, Chưởng thư ký, Phán quan Phòng ngự, Đoàn luyện trải qua sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Thái tử trung doãn, còn lại thăng làm Trứ tác tá lang; nếu chưa đủ sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Trứ tác tá lang, còn lại thăng làm Đại Lý tự thừa. Suy quan, Huyện lệnh, Lục sự tham quân, Phán quan Quân sự trải qua sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Trứ tác tá lang, còn lại thăng làm Đại Lý tự thừa; nếu chưa đủ sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Đại Lý tự thừa, còn lại thăng làm Vệ úy tự thừa; nếu chưa đủ ba kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Quang lộc tự thừa, còn lại thăng làm Đại Lý bình sự.

Chức quan sơ đẳng như Tri huyện, Lục sự tham quân, Suy quan Quân sự Phòng ngự, Đoàn luyện, Phán quan Quân, Giám trải qua sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Đại Lý tự thừa, còn lại thăng làm Vệ úy tự thừa; nếu chưa đủ sáu kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Quang lộc tự thừa, còn lại thăng làm Đại Lý bình sự; nếu chưa đủ ba kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Đại Lý bình sự, còn lại thăng làm Phụng lễ lang. Phán quan, Ty quan, Chủ bạ, Huyện úy trải qua bảy kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Đại Lý tự thừa, còn lại thăng làm Vệ úy tự thừa; nếu chưa đủ bảy kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Quang lộc tự thừa, còn lại thăng làm Đại Lý bình sự; nếu chưa đủ năm kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Đại Lý bình sự, còn lại thăng làm Phụng lễ lang; nếu chưa đủ ba kỳ khảo xét, Tiến sĩ thăng làm Phụng lễ lang, còn lại thăng làm Tướng tác giám chủ bạ.”

Được chấp thuận.

(《Tuyển cử chí》 quyển thứ hai chép:

– Người được tuyển để khảo xét Tiết độ sứ, Phán quan Quan sát sứ qua sáu kỳ khảo hạch, nếu là tiến sĩ thì được bổ nhiệm làm Thái Thường thừa, nếu thuộc diện khác thì làm Thái tử Trung xá.

– Chi sử, Chưởng thư ký, Phán quan Phòng ngự sứ, Đoàn luyện sứ qua sáu kỳ khảo hạch, nếu là tiến sĩ thì được bổ nhiệm làm Thái tử Trung Doãn, nếu thuộc diện khác thì làm Trợ giảng của Trứ tác lang.

– Phán quan của Lưỡng sứ, Thôi quan, Huyện lệnh, Lục sự Tham quân, Phán quan Quân sự qua sáu kỳ khảo hạch, nếu là tiến sĩ thì được bổ nhiệm làm Trợ giảng của Trứ tác lang, nếu thuộc diện khác thì làm Tự thừa của Đại Lý Tự.

– Chức quan sơ đẳng như Tri huyện, Tri Lục sự Tham quân, Phán quan Quân sự của Phòng ngự sứ, Đoàn luyện sứ, Quân giám qua sáu kỳ khảo hạch, nếu là tiến sĩ thì được bổ nhiệm làm Tự thừa của Đại Lý Tự, nếu thuộc diện khác thì làm Tự thừa của Vệ Úy Tự.

– Phán quan, Chủ bộ, Huyện úy qua bảy kỳ khảo hạch, nếu là tiến sĩ thì được bổ nhiệm làm Tự thừa của Đại Lý Tự, nếu thuộc diện khác thì làm Tự thừa của Vệ Úy Tự.

Từ cấp Tiết độ sứ, Quan sát sứ Phán quan đến Bộ lại, Huyện úy, nếu không đạt tiêu chuẩn khảo hạch thì bị giáng cấp.

– Người thuộc nhóm “Lưu ngoại” (không chính thức thuộc quan chế), nếu ba nhiệm kỳ, bảy kỳ khảo hạch có người đề cử thì sáu người sẽ được điều động. Nếu có người thuộc diện “Ban hành đề cử” thì ba người được khảo xét.

– Người tiến nạp (được bổ nhiệm bằng tiến cử hoặc tài trợ), nếu sáu kỳ khảo hạch, có chức quan hoặc huyện lệnh đề cử thì bốn người được điều động; nếu bốn nhiệm kỳ, mười kỳ khảo hạch, có người đề cử để cải chức thì năm người sẽ được khảo xét.

Những điều ghi trong bản chí này có một số điểm khác với 《Thực lục》, nay bổ sung chú thích tại đây.)

[54] Giáng chức Hà Đông chuyển vận phó sứ, Đồn điền lang trung Hàn Đạc một bậc, điều chuyển về Giang Nam Đông lộ. Trước đây, ở ngoài sông xây dựng các đồn trại, vì Phủ Ninh không giữ được, thành La Ngột không có viện binh, chiếu chỉ rằng các đồn trại đang xây dựng hoặc đã xây dựng chưa xong, chưa được tiếp tục xây dựng, quân mã đều trở về bản lộ. Hàn Đạc tấu: “Các trại mới xây đã bỏ, chỉ còn xây đồn ở bờ đối diện sông Định Hà[11]. Lại vì phía tây là vùng đất mới, không có viện binh tiếp ứng, chỉ có đồn lẻ loi bên kia sông, khó mà giữ vững. Nay theo chiếu chỉ triều đình, chưa được tiếp tục xây dựng, thực là có tầm nhìn xa.” Sau đó lại tấu rằng đồn Ngô Bảo ngoài sông là nơi hiểm yếu nhất, thông với thành Tuy Đức, tương lai mở rộng biên giới, dựa vào đây có thể tăng cường viện binh. Triều đình xét thấy trước sau ông có nhiều mâu thuẫn, nên có lệnh trách phạt.

[55] Hôm đó, Vương An Thạch ở lại triều đình bàn việc trợ dịch. Trước đây, Đề điểm hình ngục lộ Lưỡng Chiết là Vương Đình Lão và Đề cử thường bình là Trương Tịnh thu tiền trợ dịch của dân lên đến 70 vạn. Tiết Hướng tâu lên Vua, Vua cũng nghi ngờ, nên hạ chiếu hỏi Vương An Thạch. Vương An Thạch đã trả lời, hôm sau lại hỏi, Vương An Thạch nói: “Các quan Đề cử căn cứ vào số tiền phải nộp để định mức, triều đình dùng ân huệ giảm bớt, như vậy là hợp lý.” Số 70 vạn, theo 《Chí của Phạm Tổ Vũ viết về mộ Dương Hội》, nói rằng Dương Hội cũng vì bàn việc này mà liên tiếp trái ý các quan chấp chính.

[56] Chiếu: Quyền phát khiển phát vận sứ Bì Công Bật theo lệ của Tiết Hướng khi tại nhiệm được cử quan.

[57] Tháng đó, bãi bỏ huyện Ngọc Thành, châu Quắc, đổi thành trấn. Sách 《Cựu Kỷ》 ghi vào ngày mùng một, Bính Thìn.


  1. Phu Diên kinh lược ty, chữ 'Phu' nguyên là 'Tuy', theo bản trong các sách sửa lại.
  2. Ngô Quỳ, chữ 'Quỳ' nguyên bản là 'Đạt', căn cứ theo 《Biên niên cương mục》 quyển 19 và sách này quyển 220 sửa lại.
  3. 'liệu' nguyên là 'khoa', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 69 thanh miêu pháp hạ sửa.
  4. Chữ 'hầu' trong 'ăn cơm hầu, mặc áo hầu' nguyên bản đều viết là 'hậu', theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 65 về việc bổ nhiệm Thường Trật mà sửa lại.
  5. Chữ 'hữu' trong 'Hoàng Hựu' nguyên bản viết là 'hữu', theo các bản khác và bản in hoạt tự mà sửa lại.
  6. Các bản đều giống nhau. Trong 《Lưu Chí Trung Túc tập》 quyển 3, 'viên kết' viết là 'hoàn kết', 'chiếu chứng nhân' viết là 'chứng tá nhân'.
  7. Chữ 'thanh' chỉ đọc là 'tinh', nghĩa là tươi tốt, trong 《Kinh điển thích văn》 quyển 5 của Lục Đức Minh: 'Thanh thanh, nghĩa là tươi tốt, bản khác viết là 'tinh', âm đọc giống nhau.'
  8. 《Nhật lục》 chép: chữ 'nhật' nguyên là 'mục', theo bản các đời sửa.
  9. Theo ý nghĩa văn trên dưới, nghi ngờ chữ 'viết' là thừa.
  10. Thái tử trung xá: Các bản đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 158 《Tuyển cử chí》, quyển 169 《Chức quan chí》 đều chép là 'Thái tử trung doãn', chú thích nhỏ ở dưới cũng giống.
  11. Sông Định Hà: Các bản và bản in hoạt tự đều giống nhau. Sách 《Hoàn Vũ Ký》 quyển 38, châu Ngân, huyện Phủ Ninh có ghi: 'Sông Vô Định ở phía bắc huyện 20 dặm.' Châu Tuy, huyện Long Tuyền đã bãi bỏ có ghi: 'Sông Vô Định còn gọi là sông Xa Diên, từ phía bắc châu Ngân, huyện Phủ Ninh chảy vào địa phận.' Sách 《Nhất Thống Chí》 quyển 250, châu Tuy Đức trực lệ có ghi về sông Xa Diên (tức sông Vô Định), chi tiết hơn. Ở đây nghi là sai sót về 'sông Vô Định'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.