"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 223: NĂM HI NINH THỨ 4 (TÂN HỢI, 1071)

Bắt đầu từ tháng 5 năm Hi Ninh thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 5, ngày Ất Dậu mùng một, lần đầu tiên nhà Vua ngự ở điện Văn Đức để thiết triều. Vua phê: “Quân đóng ở các nơi như châu Bân đã sai ba tướng chuyên trách huấn luyện. Đã muốn làm quân tinh nhuệ để phá giặc, thì phải đốc thúc các tướng được sai, nghiêm khắc dạy bảo, ban thưởng vàng lụa để khích lệ quân sĩ.” Lại sai Tăng Công Lượng chuyên trách việc đề cử ba tướng huấn luyện, nếu có việc biên giới cần tăng quân ứng phó, thì xem xét tình thế, sai tướng đem quân đi, việc xong thì rút về. Đoạn này tham khảo thêm sách ngày 7 tháng 4.

[2] Ngày Bính Tuất, Tư huân lang trung, quyền Hộ bộ phó sứ Trương Cảnh Hiến được làm Tập hiền điện tu soạn, Hà Đông đô chuyển vận sứ[1]. Vua bảo Cảnh Hiến: “Hà Đông suy tàn, khanh nên ra nhận việc sứ.” Vì thế có mệnh này.

[3] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Vương Quảng Uyên tâu: “Giám quân ty châu Vi của nước Hạ gửi thư cho châu Hoàn, muốn theo lệ cũ thông hòa, châu Hoàn đã trả lời.” Triệu Tiết ở Phu Diên cũng tâu người Tây Hạ đến thành Tuy Đức, gặp Tri thành Chiết Khắc Tuyển, nói quốc chủ muốn lấy lại châu Tuy như cũ. Xu mật viện tâu: “Người Tây Hạ đến biên giới bày tỏ ý, trước đây chỉ ở trại Thuận Ninh châu Diên, nay nếu các nơi thành trại đều nói chuyện với họ, e rằng trả lời sai lầm, làm mất cơ hội. Vả lại, họ cho rằng triều đình vội muốn thu nhận, khiến họ kiêu ngạo. Xin lệnh cho Triệu Tiết ủy thác Chiết Khắc Tuyển, đợi họ đến lại thì nói, nếu nhất định muốn thông ý, phải đến trại Thuận Ninh theo lệ cũ bàn với Tuần kiểm quân Bắc, chuyển báo lên trên, sẽ có xử lý.” Vua nghe theo.

[4] Hữu Gián nghị đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Lã Hối xin nghỉ hưu. Hối tâu: “Thần vốn không có bệnh cũ, chỉ vì gặp thầy thuốc dùng phương pháp sai lầm. Không biết rằng bệnh tình có hư thực, âm dương có nghịch thuận, chẩn đoán có tiêu bản, chữa trị có trước sau. Vội vàng cho uống thuốc, tùy tiện theo ý mình, sai lầm trong chẩn đoán, họa lan đến tứ chi, dần thành bệnh phong tê, khiến việc đi lại khó khăn. Không chỉ chịu đựng nỗi đau chân tay, mà còn lo sợ biến chứng nội tạng. Tình thế đã đến mức này, biết làm sao đây! Dù thân mình nhỏ bé, chưa đáng lo, nhưng gánh nặng chín tộc, thực sự là nỗi lo lớn. Vì vậy, nghĩ đến việc từ bỏ bổng lộc để sống sót, không đợi tuổi già mà xin trả lại chính sự.” Ý nói dùng bệnh tật của mình để ví von với tình hình triều chính. Khi Hối bệnh nặng, đã viết thư nhờ Tư Mã Quang soạn văn bia mộ. Quang đến thăm, khi đến thì mắt Hối đã nhắm nghiền, Quang gọi: “Còn có điều gì dặn dò không?” Hối mở mắt gắng nhìn và nói: “Việc thiên hạ vẫn còn làm được, Quân thực hãy cố gắng!” Rồi qua đời. Hối mất vào ngày Giáp Ngọ mùng một0, nay ghi chung lại.

[5] Ngày Đinh Hợi, Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lý, Trực Xá nhân viện, Biên tu Trung thư điều lệ, Kiểm chính Ngũ phòng công sự Tăng Bố kiêm chức Tường định Biên sắc. Ngày mồng 8 tháng 4, đảm nhiệm chức Đô Kiểm chính.

[6] Ngày Mậu Tý, bãi bỏ chức Đề cử Nghĩa dũng quan ở các lộ Thiểm Tây, giao lại cho các châu huyện thuộc quyền theo quy định cũ phân phiên huấn luyện, khi đến ngày khởi giáo thì Giám ty Đề cử. Trước đây, Tuyên phủ ty Thiểm Tây tâu xin bổ nhiệm 8 viên quan, chia nhau phụ trách các lộ Nghĩa dũng, mọi người cho rằng gây phiền nhiễu mà không có ích. Tăng Công Lượng ra trấn thủ Vĩnh Hưng, khi vào chầu, đã đầu tiên nói về việc này, nên bãi bỏ. Ngày 18 tháng 10 năm thứ 3, sai 8 người Đề cử.

[7] Tha tội cho Yến Đạt, Đô giám lộ Phu Diên. Ban đầu, triều đình bàn rằng việc Chủng Ngạc xây thành La Ngột cách thành Tuy Đức hơn trăm dặm, đường hiểm trở hẹp, khó khăn trong việc vận chuyển lương thực, trong thành lại không có giếng nước, nên sai Lý Bình, Trương Cảnh Hiến[2] đến xem xét. Chưa đến nơi thì Phủ Ninh đã thất thủ, thành La Ngột bị cô lập, xét thấy cuối cùng không thể giữ được, nên lệnh cho Triệu Tiết nhanh chóng bỏ thành. Triệu Tiết sai Yến Đạt đem quân đến thành La Ngột đón lấy quân lính và quân nhu rồi rút về. Giặc chặn đánh quân quan, vừa đánh vừa rút, tổn thất nhiều. Vua cho rằng quân ông đơn độc tiến sâu, những gì bảo toàn được cũng không ít, nên tha tội.

[8] Ngô An Trì, cùng quản lý kho Kiểm hiệu thuộc ty Lục ty phủ Khai Phong, tâu rằng: “Kho này quản lý tài sản của trẻ mồ côi, hàng tháng cấp tiền, hàng năm cấp áo, đến khi trưởng thành thì có khi đã hết sạch, không đủ để thể hiện ý tốt của triều đình yêu dân. Xin lấy số vàng bạc, tiền mặt hiện có, theo phép Thường bình thương cho vay, bắt người vay phải thế chấp để sinh lãi, dùng để cấp cho trẻ mồ côi.” Chiếu cho phép thi hành như lời tâu đối với số tiền dưới một ngàn quan. Ngô An Trì đã được nhắc đến vào tháng 7 năm thứ 3.

[9] Ngày Kỷ Sửu, Vương Đào, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Hữu Gián nghị đại phu, Tri châu Nhữ, được bổ làm Phán quan ty Ngự sử lưu tại Nam Kinh. Ban đầu, Vương Đào xin nghỉ hưu, Vua không cho, sai trung sứ đến hỏi thăm. Ông cố xin vì bệnh được ở lại ty, Vua đồng ý.

[10] Trình Nghĩa Lộ, người thảo dã, được bổ làm Chủ bạ huyện An Cát, cùng tham gia đo đạc, kiểm kế các sông ngòi thuộc phủ Khai Phong. Trình Nghĩa Lộ đã được nhắc đến trước đây, lại được nhắc đến vào ngày 27 tháng 8.

[11] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Vương Quảng Uyên tâu: “Người Tây Hạ xin được ban chiếu thư vấn tội, mới dám dâng biểu tạ tội.” Vua phê: “Người Tây Hạ đã đến trại Thuận Ninh xin hòa, nên lệnh cho Hoàn Châu, Khánh Châu không cần phải sai người đi hỏi. Gần đây lại nghe nói họ thường tự ý cho phép mở chợ hòa thị. Các bộ lạc phiên đến đầu hàng, thường ở biên giới gọi người Tây Hạ đến giao dịch, hoặc đuổi về, hoặc giết chết. Việc thông hòa đột ngột như vậy, khiến giặc dễ dò xét, nên ban chiếu chỉ răn dạy.”

[12] Ngày Tân Mão, Thái tử Trung doãn, Hiệu thư Sùng Văn điện Phạm Dục được phục chức Quang lộc tự Thừa, nhận chức Tri huyện Hàn Thành. Dục trước đây từ chức Quang lộc tự Thừa được bổ làm Ngự sử, sau đó thăng chức Trung doãn, vì dâng lời can gián việc Lý Định bị bãi chức Ngự sử nên bị giáng làm Hiệu thư, sau lại xin cùng Lâm Đán, Tiết Xương Triều bị biếm chức. Trước đó, Dục tâu rằng: “Tâm thuật là gốc của việc trị nước. Nay không chú trọng điều này mà chỉ chuyên dùng hình phạt và ban thưởng để sai khiến dân, đó là lý do thiên hạ chưa được phục.” Vua nói với Vương An Thạch: “Nhà Vua không dùng tâm thuật, làm sao đạt được sự trị yên?” An Thạch đáp: “Làm việc gì cũng phải dựa vào tâm thuật, nhưng thuật có rộng hẹp, xa gần, công nghiệp lớn nhỏ cũng từ đó mà phân biệt.” Vua nói: “Dục hết lời ca ngợi Trương Tái, Trình Hạo anh em, cho là bậc quân tử có đạo, xin triệu họ về, việc này thế nào?” An Thạch đáp: “Dục trước đây từ chức Kiểm chính[3], bàn luận cao xa mà không khiêm tốn. Đến khi vào Trung thư, lại nói chưa nhận được trát tử nên chưa thể nhậm chức.” Phùng Kinh nói: “Dục sợ bị tội vì nộp sắc chỉ thôi.” An Thạch đáp: “Xem lời bàn của Dục, há phải sợ bị tội vì nộp sắc chỉ sao?” Vua bèn theo lời xin mà ban mệnh này.

(Sách 《Dương thị biên niên》 chép: Hôm đó, Tư nông tự ban bố pháp sai dịch ra toàn quốc. Tra cứu 《Ngự tập》, ngày 22 tháng 6, Trung thư, Môn hạ tấu Tư nông tự tấu xin thi hành pháp xuất tiền miễn dịch. Vua phê: “Trừ việc dùng hộc (đấu) để chiết khấu tiền thuê không được, còn lại đều cho phép.” Như vậy, ngày 7 tháng 5 chắc chắn chưa ban hành, sách 《Biên niên》 chép sai. Số tiền thuế khoán ở Lưỡng Chiết dùng theo 《Nhật lục》, đã ghi rõ từ ngày 27 tháng 4, cần xem xét kỹ hơn. 《Bản kỷ》 chép vào ngày Nhâm Tý tháng 10.)

[13] Vương An Thạch lại tâu: “Vương Quảng Uyên sau khi xảy ra binh biến, sợ rằng sẽ nuông chiều, nên ban sắc chỉ để răn dạy, cần phải an ủi những kẻ bất mãn, trừng trị những kẻ kiêu ngạo, coi thường pháp lệnh.” Vua nói: “Như thế cũng tốt, nhưng Quảng Uyên trí lực không đủ, răn dạy có ích gì?” An Thạch đáp: “Quảng Uyên cũng không đến nỗi hoàn toàn không hiểu chuyện, nếu bệ hạ ân cần răn dạy, có lẽ hắn còn có thể suy nghĩ.” Nhân đó bàn về binh pháp: “Yêu mà không thể sai khiến, giống như đứa con kiêu ngạo không thể dùng được.” Vua nói: “Trị quốc cũng như vậy.”

[14] Ngày Quý Tỵ, Vua cùng Vương An Thạch bàn về phép tô dung điều, khen ngợi. An Thạch nói: “Phép này gần giống với chế độ tỉnh điền, đời sau lập ra việc này tuy thô sơ nhưng cũng nắm được ý của tiên vương, nên không gì là không tốt. Nay cũng không phải là không thể làm, chỉ là khó mà thành công nhanh chóng được.” Vua hỏi nguyên do, An Thạch đáp: “Nay dân chúng chiếm ruộng đất, có người chiếm cả nghìn mẫu, không thể cướp đoạt của họ, khiến họ theo phép tô dung điều, cấp ruộng có hạn. Nhưng nếu bậc quân chủ thực sự hiểu được lợi hại trong thiên hạ, dùng cái gọi là hại để chế định pháp luật, áp dụng lên những kẻ kiêm tính, thì người ta tự nhiên không dám giữ ruộng vượt quá hạn mức; dùng cái gọi là lợi để chế định pháp luật, áp dụng lên những người chăm chỉ làm ruộng, thì người ta tự khuyên nhau cày cấy, mà nhận ruộng không dám vượt quá hạn mức. Nhưng việc này cần phải từ từ mới có thể thành pháp. Nếu bậc quân chủ thực sự hiểu được quyền lợi hại, nhân đó mà dùng sự yêu ghét để áp dụng, thì điều mình yêu thích lo gì người ta không theo, điều mình ghét lo gì người ta không tránh? Nhưng tình hình lợi hại khó nhận biết, không có học vấn thì không thể hiểu hết được. Người đời thường ít học, nên phần nhiều không hiểu tình hình lợi hại, mà đối với ý định lập pháp của bậc quân tử lại không suy nghĩ, thích bàn luận khác biệt. Nếu bậc quân chủ không có đạo để cân nhắc, thì ắt sẽ bị nhiều ý kiến khác nhau lấn át, dù có pháp tốt, làm sao mà thiết lập được?” Đoạn trên chưa thấy ghi trong《Nhật lục》, nay nhân Vương An Thạch bàn về ba điều không vui,《Nhật lục》ghi vào ngày Quý Tỵ tháng 5, phụ lục ở đây.

[15] Vua nói: “Phép phủ binh và phép tô dung điều phải dựa vào nhau.” An Thạch đáp: “Nay nghĩa dũng, thổ quân thay phiên đi làm việc, đã có cấp lương, thì dù giàu nghèo đều có thể vào làm vệ binh, đi thú, tuy chưa có phép tô dung điều, cũng có thể làm được. Nhưng nghĩa dũng lấy dân lương làm, nên lấy lễ nghĩa mà khuyến khích, nuôi dưỡng. Nay đều làm ngược lại, xăm lên mu bàn tay, người ta không thích, đó là điều thứ nhất; tập luyện tốn kém, người ta không thích, đó là điều thứ hai; lại bắt chở lương, người ta không thích, đó là điều thứ ba. Gần đây lại đuổi họ ra trận, bị giết hại oan uổng, càng khiến người ta sợ làm.”

[16] Phùng Kinh nói: “Gần đây, nghĩa dũng cũng có người nhờ kéo cung mạnh mà được thử nghiệm ban ơn.” An Thạch nói: “Kéo cung mạnh dựa vào sức lực có giới hạn, nếu sức không đủ thì tự nhiên không thể tiến thủ. Đó là do triều đình ban ơn quá lạm, chứ không phải là khuyến khích, khen thưởng để người ta hướng đến việc võ. Nay sắp xếp nghĩa dũng, đều nên làm như vậy[4], khiến cái hại nằm ở việc không làm nghĩa dũng, mà cái lợi nằm ở việc làm nghĩa dũng, người ta coi việc được ghi tên vào nghĩa dũng là may mắn. Đến như việc ban ơn dựa trên võ nghệ, tùy theo tài năng cao thấp, khiến ai cũng có tâm mong được may mắn, thì phong tục có thể thay đổi và các kỹ năng có thể thành tựu.

Thần mong chọn những hào kiệt trong làng làm tướng hiệu, hơi khen thưởng, thì người ta tự nhiên vui phục. Huống chi nay tuyển binh làm túc vệ, có người tích lũy quan chức đến chức Thứ sử trở lên. Chuyển việc này sang việc kia, vốn không có gì không thể, huống chi việc này không đến mức tốn kém quan lộc như vậy, đã đủ khiến người ta vui vẻ làm. Bệ hạ thực sự có thể cẩn thận chọn những cận thần có tài năng chính sự, sau này có thể sai họ chia nhau chỉ huy các quân này. Nay tuyển binh từ những kẻ vô lại, còn có thể làm chủ quân sương, thì cận thần trở lên há không đủ với những người này[5]? Đây là phép tắc của tiên vương, kế sách lâu dài của xã tắc vậy.”

Vua rất cho là phải.

(Đoạn này căn cứ vào 《Binh chí》 quyển thứ hai, cho là việc bảo giáp, nhưng từ “nay đều đảo ngược” trở xuống đến “các kỹ năng có thể thành tựu”, 《Nhật lục》 chép vào ngày 9 tháng 5 năm thứ 4. Lại có đoạn “Vua nói: Phủ binh với tô dung điều” cho đến “nên dùng lễ nghĩa khen thưởng”, đã phụ vào ngày 19 tháng 11 nhuận năm thứ 3. Lại có đoạn “Thần mong chọn những hào kiệt trong làng” cho đến “Vua cho là phải”[6], cũng đã phụ vào ngày 19 tháng 11 nhuận; chỉ có đoạn “Vua từng bàn về phép tô dung điều” cho đến “do đâu mà lập được”, chưa có chỗ phụ, nay tạm phụ vào ngày 9 tháng 5 năm này, còn lại đều giữ cả hai, vì An Thạch muốn thay đổi phép túc vệ, lời nói của ông không chỉ một lần.)

[17] Ngày Ất Mùi, quyền Diêm thiết phó sứ Phan Túc được cử làm quyền Hộ bộ phó sứ. Ngự sử trung thừa Dương Hội tâu rằng Túc không có tài năng, nên dùng Binh bộ lang trung Giả Xương Hoành thay thế, còn quyền Hộ bộ phó sứ Lý Thọ Bằng được cử làm quyền Diêm thiết phó sứ. Xương Hoành trước đây làm Chuyển vận sứ lộ Lưỡng Chiết, triều đình đang thay đổi pháp độ, xét lại việc trị quan, mà Xương Hoành nhiều lần tâu trình những điều lợi hại. Vua nhân dịp trung sứ đến Chiết dụ Xương Hoành rằng: “Những lời tâu trình trước sau, đều thấy rõ lòng trung ích.” Do đó triệu dụng ông. Ngự sử Lưu Chí tâu: “Xương Hoành ở Lưỡng Chiết, trước đây vì tội không xét cử các thủ thần Hàng Châu, Minh Châu, bị giáng từ Chuyển vận sứ xuống làm Phó sứ, lại nhờ Phát vận ty tâu xin lưu lại Xương Hoành để lo việc quân thâu, nay chưa đầy một năm, đã vội triệu dụng, trong ngoài đều nghi ngờ lạ lùng, xin hãy ngừng lại.” Vua không nghe theo.

[18] Ngự sử trung thừa Dương Hội tâu rằng: “Không phải không biết phép trợ dịch là do bệ hạ thương xót việc sai dịch không đều, muốn san bằng để dân được ở trong cảnh đại đồng, hoặc có dư thừa thì dùng để phòng năm hạn hán, tránh việc thu thêm của dân. Tuy tấm lòng này của bệ hạ dù Nghiêu, Thuấn cũng khó sánh kịp. Nhưng nghe nói những người đảm nhiệm việc này chỉ lo thu nhiều và thi hành gấp gáp, khiến thiên hạ không hiểu hết ý triều đình, tưởng rằng thu phần dư để quan lấy, việc này không thể không nói. Đề điểm hình ngục hai Chiết là Vương Đình Lão, đề cử thường bình thương là Trương Tịnh, thu thuế dịch tiền một lộ hai Chiết đến bảy mươi vạn, có hộ phải nộp đến ba trăm quan, dân đều nói ngoài việc cung cấp tiền dịch một năm, số dư gần một nửa. Tuy Ty Nông tự chưa theo ngay, nhưng dân gian đều cho rằng Vương Đình Lão sẽ được thưởng bằng chức Giám ty bản lộ hoặc lân lộ, Trương Tịnh sẽ được thưởng bằng chức Quán chức hoặc Kiểm chính, ắt là do thu nhiều mà sinh ra lời bàn tán. Xin bệ hạ xem xét lại số thuế, nếu quả như dân gian nói, xin giảm bớt để yên lòng dân.” Theo phân tích của Dương Hội, tờ tấu này được dâng vào cuối tháng tư. Ngày 11 tháng 7 năm đó, ngoài việc bổ nhiệm Quyền đồng hai Chiết đề hình kiêm thường bình sự Vương Đình Lão làm Quyền phát hai Chiết vận phó[7], vẫn kiêm lĩnh thường bình.

[19] Ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần trộm thấy nội thần Trình Phưởng và Đại Lý tự thừa Lý Nghi Chi ở Hà Bắc khai đào sông Chương, công sức rất lớn, tổng cộng đến chín vạn phu. Vật liệu sử dụng vốn không chuẩn bị trước, đòi hỏi gấp gáp, xuất phát không đúng thời điểm, quan và dân phải ứng phó khẩn cấp, hao tổn gấp trăm lần. Ngoài việc Chuyển vận ty cung cấp rơm rạ và cọc gỗ, lại tự sai quan đi chặt cây du, liễu ở đê sông Chương và cây liễu trong đất của Giám mục ty, tổng cộng hơn mười vạn cây, đều là những cây do các châu tự quản ở bờ sông. Hà Bắc khó kiếm củi, dân làng chỉ dùng rơm lúa mạch để đốt và trát vách vào mùa đông, nhưng Phưởng lại dối tâu rằng dân không dùng, đã bắt hơn một vạn công, sai binh sĩ của ty mình đến các châu huyện tự ý thu hoạch trên ruộng dân. Những người phu bị bắt đi làm việc, không ai không bị ngược đãi, thường bị ép làm việc ban đêm, giẫm đạp lên ruộng lúa, đào bới mồ mả, phá hoại cây dâu, cây chạ, không biết bao nhiêu mà kể. Tiếng kêu than vang khắp đường xá, truyền đến kinh thành, nhưng Phưởng lại dối tâu rằng dân chúng vui vẻ làm việc, không ai không hân hoan. Dân phu đã giải tán, nhưng binh lính làm việc vẫn còn đông, quân Sương ở bản lộ đã bị điều động hết, các nơi đều thiếu người làm việc, nhưng Phưởng vẫn không ngừng tâu báo, đi lại các châu huyện, khinh nhờn quan lại, lại xin điều động phu khẩn cấp ở Châu Minh, lại muốn bắt binh lính làm việc không phân phiên thứ. Sự gấp gáp và rối loạn đã đến mức như vậy! Giám ty bản lộ sợ thế lực của Phưởng, không dám nói đến sai trái của hắn, chỉ biết nhìn nhau.

Thần không biết việc làm của Phưởng có lợi ích gì, hoặc nghe nói muốn tiêu nước đọng ở các nơi như Hình, Minh, Đại Danh. Nay nếu để nước này chảy theo ý của Phưởng, nhưng phía hạ lưu phía bắc nông và hẹp, không có chỗ chứa, không khỏi tràn lan, tức là dời chỗ này đến chỗ kia, đổi đất mà gây họa. Nay triều đình đã lệnh tạm ngừng, thì lợi hại tạm gác lại. Nghe nói Phưởng thấy việc bị đình chỉ, tức giận ngang ngược, xin nghỉ việc, triều đình lại lệnh cho hắn quản lý việc ứ điền. Phưởng quản lý ứ điền, cần xem xét ngày tháng. Phưởng tạm ngừng khai sông Chương, ngày 11 tháng 3 Bính Thân, có chỉ dụ và ngày 11 tháng này Ất Mùi, Vương An Thạch bàn về Trần Tiến, có thể tham khảo. Thần xét Trình Phưởng, Lý Nghi Chi nhận mệnh khởi sự, ban đầu không báo cáo thực tình việc có thể làm hay không lên triều đình, tham công cầu tiến, quấy nhiễu dân chúng, tàn phá vật chất. Các báo cáo trước sau đều là dối trá, mà Phưởng lại dám đòi hỏi Vua, ngạo mạn, theo phép nước đáng tội chết không tha. Nếu còn để Phưởng làm Đô thủy thừa quản lý việc sông, e rằng sẽ sinh sự gây họa, không có hồi kết. Xin công bố rõ tội trạng của Phưởng, trừng phạt nặng, để an ủi dân chúng khốn khổ một phương, khiến thiên hạ biết rằng việc này có hại không phải do ý triều đình, và để trừng trị những kẻ may mắn cầu thưởng, lừa dối trên, hại dân.”

Ngự sử trung thừa Dương Hội cũng hai lần tâu xin bãi bỏ việc này, Vương An Thạch biện hộ cho Phưởng rất hăng, nhưng đều bị bỏ qua không trả lời. Ngự sử Lưu Chí tâu rằng Trình Phưởng khai đào sông Chương không rõ lợi hại, quấy nhiễu dân chúng, hao tốn tiền của và lừa dối Vua, xin bãi chức. Sử sách ghi chép như vậy vào ngày 12, nhưng sử đỏ lại bỏ đi. Nay ghi đầy đủ lời tâu của Chí. Theo nhật lục, ngày 11 trình lên tấu chương của Chí, tấu chương chắc chắn phải viết trước ngày 11, nay phụ chép vào ngày 11. Sử đen lại ghi vào ngày 12, e là nhầm. Trung thừa Dương Hội cũng có hai chương tấu, nhật lục không ghi, nay phụ chép ở đây.

Ngày 21 tháng 2 Đinh Sửu, tăng thêm binh lính khai đào sông Chương.

[20] An Thạch lại tâu với Vua: “Trước đây, Xu mật viện nói rằng binh lính làm việc đắp ruộng bỏ trốn và chết nhiều, đến nỗi một chỉ huy chỉ còn năm quân viên trở về doanh trại. Lại nói rằng phụ nữ trong doanh trại thuộc phủ giới đã kêu lên với đề điểm hình ngục, xin tha cho binh lính làm ruộng đắp. Xu mật viện bèn cấp trát cho đề điểm ty điều tra kỹ lưỡng. Thần lấy sổ sách tra xét, thấy số binh lính làm ruộng đắp bỏ trốn và chết nhiều nhất cũng không quá ba phần trăm, theo pháp lệnh thì bỏ trốn và chết đến tám phần trăm mới được thưởng hạng nhất. Lại hỏi Xu mật viện vì sao nói ‘chỉ còn năm quân viên trở về doanh trại’, thì được biết là do Tăng Hiếu Khoan nói, Hiếu Khoan lại nghe từ Lý Tông. Do đó, Triệu Tử Kỷ dùng công văn hỏi Lý Tông, bảo ông ta trình bày rõ đơn vị quân đội và nơi làm việc. Tông dâng tờ tâu, nói rằng: ‘Từng nói với Hiếu Khoan rằng trước khi làm ruộng đắp một năm, binh lính làm việc ở đập Đẩu Môn tại Huỳnh Trạch hai nơi, mỗi nơi đều có người bỏ trốn trước sau, mỗi lần bỏ trốn khoảng hơn ba mươi người.’ Lại nghe nói có hai người phụ nữ trong doanh trại đã kêu lên với đề điểm ty, tố cáo rằng Đô thủy giám vẫn đang bắt họ làm việc xây dựng chưa tha, xin được tha về theo lệ như những người làm ruộng đắp. Lý do họ kêu lên là vì những người làm ruộng đắp được tha sớm hơn.”

Vua nói: “Tăng Hiếu Khoan vì sao lại như vậy?” An Thạch đáp: “Hiếu Khoan và Tông đều không rõ, hoặc chỉ là nghe nhầm, cũng không thể biết được.” Bằng Kinh nói: “Người ta nói những gì họ nghe được thì có hại gì?”

Vua nói: “Kẻ tiểu nhân thích làm như vậy, chỉ sợ những người ra sức sẽ nản lòng. Trước đây Xu mật viện nói ruộng đắp mỏng như bánh, Trẫm đã lệnh lấy một mẫu đất, thấy dày hơn một thước, hỏi ra thì có chỗ rất sâu.” Kinh nói: “Vốn có chỗ mỏng.” Vua nói: “Nhưng không phải đều mỏng như bánh.” An Thạch nói: “Chỗ mỏng nếu nước có thể đến, thì nên để năm sau đắp thêm, có hại gì đâu?”

Vua nói: “Trần Tiến hôm trước lên điện, nói mừng vì triều đình đã phát hiện, bãi bỏ việc đắp ruộng. Hỏi Tiến ý gì, Tiến nói người ta kêu ca cho là bất tiện.” An Thạch nói: “Bệ hạ dùng những người như Trần Tiến làm tay chân tai mắt. Làm tay chân thì phải che chở cho thân thể, làm tai mắt thì phải nghe xa trông rộng. Nay Tiến tạm quyền phát khiển Khai Phong phủ, việc bãi bỏ hay không bãi bỏ ruộng đắp trong phủ giới và lợi hại thế nào, ông ta hoàn toàn không biết, không biết Bệ hạ trông cậy vào tai mắt gì! Chu Công dặn Thành Vương: ‘Phải biết những gì không được hưởng, chỉ vì không chuyên tâm vào việc hưởng thụ, nên mọi việc đều sai lầm và bị khinh nhờn. Nay các ngươi, ban bố cho ta còn không kịp.’ Nay bề tôi ai cũng ôm lòng lợi hại yêu ghét, dám lừa dối nhà Vua, không kiêng sợ gì, việc không được hưởng thụ đã quá lắm rồi. Bệ hạ vốn có chỗ chưa xét đến, dù có xét thấy, cũng không trừng phạt, thì cũng như không xét thấy vậy. Như thế thì sự thật sao khỏi sai lầm? Kẻ tiểu nhân sao khỏi khinh nhờn? Dù lấy Chu Công làm tể tướng, e rằng chỉ thêm rối ren không kịp, không thể đạt được sự bình trị.”

Tông là người Giang Ninh, lúc đó làm tri huyện Dương Vũ.

(《Chu sử》 chép đoạn này vào ngày 15 tháng 9 năm thứ 6, sau khi ban ruộng đắp cho Hầu Thúc Hiến. Xét: Vương An Thạch nói Trần Tiến tạm quyền Khai Phong phủ, việc Tiến tạm quyền phủ là vào tháng 4 năm thứ 4, nếu chép vào tháng 9 năm thứ 6 thì sai sự thật. Nay theo 《Nhật lục》 chép vào ngày này. Tông được thăng chức thông phán Lộ Lợi vào ngày 15 tháng 8.)

[21] Ngày Bính Thân, Vua dụ bảo Văn Ngạn Bác rằng: “Quân Vũ Vệ ở Kinh Đông vốn nổi tiếng tinh nhuệ dũng mãnh, không kém gì quân Thiểm Tây.” Ngạn Bác đáp: “Người Kinh Đông vốn có tính cách trầm tĩnh, tinh nhuệ và dũng cảm.” Vua nói tiếp: “Các nho sĩ đất Tề, Lỗ thường nói quá lời so với việc làm, như Lý Huy chẳng hạn, thường hay khoác lác.” Ngô Sung nói: “Sử cũ chép rằng người Tề nhiều mưu mẹo, quả không sai.” Ngạn Bác nói: “Các nho sinh đất Tề, Lỗ thường lấy việc đọc kinh làm nghề, gần đây nghe triều đình cải cách khoa cử, e rằng họ chưa thể thay đổi ngay được, ắt sẽ lo lắng về việc mất chức.” Vua nói: “Hãy cho họ thêm một khoa thi nữa, rồi mới áp dụng chế độ mới.” Ngô Sung nói: “Học trò đất Tề, Lỗ chỉ chuyên về kinh điển, ngoài việc đọc sách ra không biết gì khác, sau khi đỗ đạt, đến việc làm quan, xử lý chính sự đều không thông thạo, tệ này cần phải thay đổi.” Vua nói tiếp: “Gần đây các sĩ đại phu phần nhiều không học luật pháp.” Ngô Sung nói: “Nho sĩ đời Hán là Trần Sủng từng giảng dạy luật pháp, học trò thường đến hàng trăm người. Đời Đường có môn luật học là một trong sáu môn học, nhưng về sau các quan lại thường coi thường môn này, khoa minh pháp chỉ biết đọc văn bản mà thôi, ít người thông hiểu ý nghĩa của luật. Gần đây, những người được bổ làm quan tư pháp đều được tập trung lại để khảo hạch kỹ lưỡng, chọn những người tinh thông nhất để bổ dụng, điều này cho thấy triều đình rất coi trọng việc xét xử.” Tháng 12 năm ngoái, ngày mồng 8, Lý Huy được cử làm Đề cử Hồng Khánh.

[22] Ngày Đinh Dậu, Vua ban chiếu rằng: “Gần đây đã lệnh cho các lộ xét lại công trạng của quân đội trong lần xuất quân trước, nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Việc ban thưởng chậm trễ sẽ khiến người ta không còn hăng hái xông pha nơi chiến trường, hãy đốc thúc việc này. Các tướng lĩnh có công ở Phu Diên gần đây cũng lệnh cho Kinh lược ty báo cáo nhanh chóng.” Trước đó, Lữ Công Bật ở Thái Nguyên và Triệu Tiết[8] ở Phu Diên đều tâu rằng Tuyên phủ ty ban thưởng công trạng quá nhiều và không đúng, Vua bèn lệnh cho Công Bật và những người khác xét lại, nhưng lâu nay vẫn chưa có kết quả, nên mới có chiếu này.

[23] Ngày Mậu Tuất, Thiên Chương các đãi chế, Tri Dương Châu Mã Trọng Phủ được bổ nhiệm làm Phán Đô thủy giám, Tri chế cáo, Tri Giang Ninh phủ Tiền Công Phụ được bổ nhiệm làm Tri Dương Châu. Trước đó, Trầm Khởi bị cách chức Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, được triệu về làm Độ chi phó sứ vào ngày 25 tháng 3. Sau đó, ông được đổi làm Diêm thiết phó sứ vào ngày 7 tháng 4. Tiếp theo, ông được lệnh làm Tri Giang Ninh phủ vào ngày 2 tháng 5, thay thế Tiền Công Phụ, và lệnh cho Công Phụ trở về triều. Vương An Thạch muốn giữ Trầm Khởi lại làm Tri thẩm quan Tây viện, nhưng Vua nói: “Trẫm vừa muốn bàn luận rằng Trầm Khởi ở Thiểm Tây cũng không có tội gì.” Ngô Sung nói: “Việc thay đổi nhiều lần là không tiện.” Vua nói: “Nên chờ đợi thêm một chút.” Vương An Thạch nói: “Tiền Công Phụ chuyên giúp đỡ tiểu nhân để tạo ra những ý kiến khác biệt, nếu để ông ta ở trong triều chắc chắn sẽ không có lợi cho chính sách thánh thiện.” Do đó, ông đề nghị thay thế Mã Trọng Phủ, nói: “Để Mã Trọng Phủ ở trong triều sẽ không có hại gì.” Vua đồng ý. Trầm Khởi chỉ ở Giang Ninh được ba tháng, cuối cùng được triệu về làm Đề cử tại kinh chư ty khố vụ. Ngày 24 tháng 9, Trầm Khởi từ Giang Ninh về kinh làm Đề cử bách ty, nay ghi chép lại. Ngày 18 tháng 11 năm thứ 5, nhật lục có thể tra cứu.

[24] Cùng ngày, ngày Mậu Tuất 14. Dân huyện Đông Minh vì việc huyện thu tiền trợ dịch không hợp lý, đã cùng nhau kéo đến chặn đường tể tướng để trình bày, tổng cộng vài trăm nhà. Vương An Thạch sau khi thuyết phục họ lui về, liền tâu với Vua rằng: “Tri huyện Đông Minh là Giả Phiền, con rể của Phạm Trọng Yêm, thích a dua theo thói tục, không phải là người mà bệ hạ đã xây dựng. Gần đây, Xu mật viện đã chọn ông ta làm Câu đương tiến tấu viện. Năm ngoái, tiến tấu viện đã báo cáo sai lệch việc triều đình cho các nơi, khiến các nơi nghi ngờ và lơ là trong việc thi hành pháp lệnh. Nay để ông ta làm Câu đương, nên chọn người bình thực, như Giả Phiền thì không thể dùng được.” Vua cho là phải, liền lệnh điều tra việc ở Đông Minh. Giả Phiền là người Quản Thành, chắt của Diễm.

[25] Ngày Kỷ Hợi, chiếu cấp cho Giác hóa vụ phong trang 127.000 lạng bạc và 17.000 tấm lụa, giao cho Thiểm Tây chuyển vận ty để mua lương thực dự trữ quân sự.

[26] Ngày Canh Tý, Ty Nông tự và Khai Phong phủ giới Đề cử Thường bình ty tâu: “Có dân trong kinh thành chưa hiểu rõ ý nghĩa của pháp lệnh mới, thấy các hộ lớn trong làng nói rằng việc đóng tiền trợ dịch theo hạng mục nhiều, nên họ muốn được tiếp tục làm dịch như trước.” Triều đình ra chiếu cho Ty Nông tự lệnh các huyện giải thích rõ ràng, nếu có người không muốn nộp tiền, thì trừ những năm tháng trước đây không phải làm dịch, cho họ theo quy định nhận dịch vụ theo hạng mục của mình, đợi đến năm tháng quy định thì đến quan làm dịch, không bắt nộp tiền dịch nữa. Lại tâu: “Xin sai quan Đề điểm ty của phủ giới đến các huyện, cùng lập sổ năm hạng, điều chỉnh tăng giảm hộ dân. Nếu dám đưa hộ hạng tư trở xuống lên hạng ba, khiến người ta kêu ca, thì quan lại đương chức đều bị xử theo tội vi chế[9], không được miễn giảm dù có ân xá.” Triều đình đồng ý. Ngày mùng 2 tháng 4, miễn dịch cho hộ hạng tư. Lại ngày 25 tháng 8 năm thứ 5, và ngày 13 tháng giêng năm thứ 7.

[27] Trước đó, Vương An Thạch đã kiến nghị, lo sợ có người xúi giục dân chúng cho rằng số tiền thuế dịch còn dư, chỉ cần kêu nài xin miễn thì chắc chắn sẽ được giảm; nếu quả thực xin miễn, thì sẽ bắt buộc phải tiếp tục làm dịch như cũ, như Ty Nông tự và các Ty đề cử đã tâu. Vua đã biết việc ở Đông Minh, liên tiếp mấy ngày lại dùng chiếu chỉ hỏi Vương An Thạch: một là, theo đề nghị ban đầu của An Thạch mà ban chiếu này; một là, hỏi về việc ở Toan Tảo có hộ dưới được nâng lên hộ trên, nếu vậy thì chỉ có cái danh miễn thuế dịch cho hạng tư mà không có thực chất. An Thạch tâu với Vua: “Xem xét sổ sách mới và cũ của hai huyện Khai Phong và Tường Phù, thấy số hộ bị giảm hạng rất nhiều, còn số hộ được nâng hạng rất ít, bởi vì các huyện lập sổ hộ tịch phân hạng khác nhau, đều do quan lại làm nhanh hay chậm. Như ở Khai Phong, có đến bảy trăm hộ hạng nhất, điều này không thể không giảm. Ở Toan Tảo và Đông Minh, mỗi nơi có vài trăm hộ từ hạng ba trở lên, còn lại đều là hạng tư trở xuống, thậm chí có nơi hạng ba trở lên thiếu người làm dịch, lại lấy hết từ hạng tư trở lên, điều này là do trong hạng tư vốn có người đáng lẽ thuộc hạng ba trở lên, nhưng khi lập sổ không chính xác, vì lại nhận hối lộ mà xếp vào hạng dưới, đến khi hạng trên không có người thì lại không tránh khỏi phải điều tra lấy thêm, lúc điều tra lại có thể nhận hối lộ, nếu không thăng giáng cho phù hợp thực tế, thì chỉ khiến lại nhân thêm thói gian, dân chúng thêm may rủi. Lại có những người bị thiệt thòi, đó không phải là việc chính sự. Hơn nữa, tài sản của từng hạng đều có sổ ghi chép, xét tài sản của hạng tư trở xuống mà thấy ngang với hạng ba, thì sao không thể nâng lên? Nâng lên thì dân chúng cũng tự nhiên không oán hận. Xin theo như Ty Nông tự đã tâu mà thi hành.” Vua nghe theo.

[28] An Thạch lại nói: “Trị dân, nên biết tình trạng thật giả, lợi hại, không thể tỏ ra khoan dung. Nếu nuông chiều khiến họ ồn ào dâng thư lên Trung thư, Ngự sử đài, hoặc đánh trống chặn xe, ỷ vào đám đông để cầu may, thì cũng không phải là cách trị nước. Việc lớn trong thiên hạ đã định, những việc còn lại giao cho các cơ quan, việc không đúng thì trị tội các cơ quan ấy thôi. Nay mỗi việc nhỏ, bệ hạ đều nhiều lần ban sắc chỉ chất vấn, thần e rằng thể chế này sẽ bị rối loạn, khiến các bề tôi ỷ lại vào trên, không thể không sa sút. Vả lại, chức vụ của bậc vương công là bàn luận đạo lý mà thôi. Nếu đạo thuật không sáng suốt, dù có vất vả cũng chỉ tự làm khổ mình, không thể đạt được sự trị an; nếu đạo thuật sáng suốt, quân tử tiểu nhân đều ở đúng vị trí, thì không cần làm gì mà thiên hạ vẫn trị, không cần phải quá lao tâm khổ tứ.” Vua nói: “Nghe nói việc thu tiền dịch, thật là thuận lòng dân.” An Thạch nói: “Bệ hạ lấy đạo mà xét việc, thì không cần nhìn qua cửa sổ cũng thấy được thiên đạo, không cần ra khỏi cửa cũng biết được thiên hạ; nếu không thể lấy đạo mà xét việc, chỉ nghe lời người khác, thì những kẻ tầm thường làm sao đủ hiểu được đại kế của thiên hạ, lời nói của họ chỉ đủ làm rối loạn lòng người mà thôi.” Vua lại nói: “Có người cho rằng việc thu tiền dịch sẽ dẫn đến loạn lạc như thời Kiến Trung.” An Thạch nói: “Người ta nói như vậy là do bệ hạ lo sợ quá mức, nên kẻ gian dám lợi dụng tấm lòng của bệ hạ để lừa dối và đe dọa.”

[29] Ban đầu, Vua nghi ngờ rằng các quan hộ thu tiền trợ dịch quá ít, An Thạch nhân đó tâu với Vua rằng: “Quan hộ và phường quách thu tiền dịch thật không nhiều, nhưng xét thời thế, chỉ có thể như vậy, nên ít người phàn nàn. Nếu không, những người tại chức sẽ cố ý phá hoại pháp luật, tạo ra các luận điệu; các hộ phường quách sẽ tập hợp đông người, đánh trống, chặn xe, ngăn cản chính sách, e rằng bệ hạ sẽ không thể không động lòng. Nếu bệ hạ thực sự có thể suy xét kỹ lưỡng lợi hại, thấu hiểu tình hình thật giả, rõ ràng chỉ ra điều tốt xấu, thưởng phạt nghiêm minh, khiến mọi người biết sợ pháp luật, thì những lời lẽ gian trá, thuyết phù phiếm tự nhiên không dám nổi lên, những mưu đồ quỷ quyệt tự nhiên không dám thi hành, những kẻ hào cường, lại dân tự nhiên sẽ yên phận. Như vậy, dù có thu nhiều từ những kẻ kiêm tính hào cường để cứu tế kẻ nghèo yếu, thì cũng chẳng có gì tổn hại!”

Vua lại nói: “Các ty đều không được cấp lộc, lại trách họ nhận hối lộ, bỏ bê công việc, thật là vô lý.” An Thạch nói: “Vốn thu tiền trợ dịch có dư, sẽ dùng để cấp lộc cho họ.” Vua nói: “Nên sớm định ra pháp chế để họ biết. Hiện nay gây ra nhiều rối ren, phần lớn cũng do những kẻ này xúi giục.” An Thạch nói: “Sớm định ra pháp chế là đúng, nhưng sợ họ xúi giục thì không phải, nên khiến họ không dám xúi giục mà thôi. Nếu để họ không kiêng sợ, dám xúi giục, mà chỉ mong dùng lộc lợi để dẹp yên, e rằng không phải là cách trị quốc. Nhà Vua nếu không thể thống trị thiên hạ, thì không thể thắng được thiên hạ, ngược lại sẽ bị thiên hạ sai khiến, bị thiên hạ sai khiến thì sẽ loạn. Hán Cao Tổ vừa định thiên hạ, đã sai Lâu Kính cầm tiết, triệu tập các họ Điền ở Tề, các họ Chiêu, Khuất, Cảnh ở Sở, hàng vạn người đến ở Quan Trung. Những họ này, bình thường đều có thể khởi binh hợp tòng để chống lại Quan Trung. Như các họ Điền, thậm chí hai anh em thay nhau làm vương, dám đối địch với Hạng Vũ, một khi bắt họ bỏ mồ mả, ruộng vườn mà dời đi, mà không lo họ làm phản, là vì khí thế và mưu lược đã đủ để thắng họ.”

[30] Ngự sử trung thừa Dương Hội tâu: “Gần đây, dân ở các huyện gần kinh thành kêu ca về việc bất tiện của chính sách trợ dịch, bệ hạ đã ban chỉ dụ, lệnh cho hỏi ý dân xem họ có nguyện vọng hay không để thực hiện cả hai cách, Trung thư, Môn hạ đã soạn tờ trát, đợi thánh chỉ ban xuống, nhưng Ty Nông tự đã thu hồi, rồi theo lời thỉnh cầu của họ. Thần trộm nghĩ rằng nếu chính sách trợ dịch thực sự tiện lợi, thì những người hiện không muốn, trong một hai năm sẽ tự thấy người khác được tiện lợi, rồi sẽ thay đổi và tuân theo mệnh lệnh; nếu chính sách trợ dịch thực sự không tiện lợi, thì trong một hai năm sẽ tự thay đổi, vậy thì những người hiện không muốn, sao phải ép buộc họ? Giả sử có mười phần, mà một phần không muốn, thì một phần ít ỏi đó cũng không thể làm hại chín phần nhiều, và một phần không muốn đó cũng tự có dịch vụ để phân công, chắc chắn không có ai được miễn; chỉ có những hộ có thế lực, hộ quan, hộ nữ, đinh đơn vốn không có dịch vụ, thì lệnh cho họ xuất tiền dịch, đã thực hiện rồi. Ty Nông tự thu hồi tờ trát thánh chỉ, há có thể vô tội sao? Xin xét lại việc Xá nhân viện thu hồi từ đầu, vốn có tiền lệ, Lý Đại Lâm, Tô Tụng thu hồi không đúng, bị cách chức về quê. Nay Ty Nông tự không nghe nói có tiền lệ thu hồi tờ trát thánh chỉ, Đặng Oản, Tăng Bố thu hồi không đúng, ngăn cản thánh đoán, xin so sánh tình hình của Lý Đại Lâm, Tô Tụng, đặc biệt xử phạt giáng chức, và ban hành rộng rãi thánh chỉ này khắp thiên hạ. Thần đoán rằng người chủ trương chắc sẽ nói Lý Đại Lâm, Tô Tụng thu hồi không đúng, Đặng Oản, Tăng Bố thu hồi đúng, thì xin xét kỹ những điều thần trình bày về việc không đúng để thi hành, và xét lại[10] Tăng Bố là người thân của tể tướng Vương An Thạch, xin không cho ký tên.”

Không được trả lời. Việc này theo chương tấu của Dương Hội ở đài Hi Ninh, phụ lục ngày 16.

[31] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng từ nay các cơ quan triều đình và Đô Thủy giám, Ty Nông tự v.v., phàm ban hành các điều lệ, đều lệnh cho Tiến tấu viện in ấn, ban xuống các lộ, mỗi năm cấp một ngàn quan tiền làm chi phí khắc bản và giấy mực.

[32] Vương An Thạch vì việc dân Đông Minh tố cáo tiền dịch mà cáo bệnh nằm ở nhà. Hôm đó, Vua sai trung sứ đến thúc giục Vương An Thạch vào triều yết kiến. Việc này các sách khác đều không ghi chép, căn cứ theo 《Nhật lục》 của Vương An Thạch, ngày 18 Vua sai trung sứ đến thúc giục vào yết kiến, thì việc này Vương An Thạch từng cáo bệnh xin nghỉ, cần xem xét kỹ hơn.

[33] Ngày Quý Mão, Vương An Thạch vào yết kiến, tâu với Vua rằng: “Đông Minh nên nhận đơn kiện và giải thích rõ cho dân chúng, nhưng lại không nhận đơn, bảo họ vào kinh, các huyện khác thì không có việc này, ý đồ này có thể thấy rõ.” Vua bèn hỏi: “Giả Phiền với quan viện Mật thư ai thân thiết hơn?” Vương An Thạch đáp: “Thần không biết.” Rồi tâu với Vua: “Hiện nay các đại thần, cận thần ai là người giúp hoàn thành chính sách thánh thiện, các quan đài gián ai là người không a dua theo thói tục, bệ hạ lại ở chỗ phân biệt trung tà, chân ngụy, chưa từng phán quyết rõ ràng, dùng chính sách hình phạt để răn dạy, tiểu nhân còn sợ gì nữa? Tiểu nhân không còn sợ hãi, dám làm nhiều việc lộn xộn, mà bệ hạ dựa vào sự thông minh sáng suốt của mình muốn thắng được họ, thần e rằng bệ hạ dù có vất vả cuối cùng cũng không thể trị nổi.”

[34] Dương Hội tâu: “Dân chúng các huyện Đông Minh và các huyện khác, hàng trăm người đến phủ Khai Phong tố cáo việc bị tăng hạng đẳng cấp để đóng tiền trợ dịch, nhưng phủ không nhận đơn. Dân chúng không biết kêu ai, bèn đột nhập vào tư dinh của Vương An Thạch. An Thạch bảo rằng: ‘Việc này tướng phủ không biết, sẽ chỉ thị không cho tăng hạng.’ Rồi hỏi: ‘Các ngươi đến đây, tri huyện có biết không?’ Họ đều nói không biết. Sau đó họ đến Ngự sử đài, thần vì đài này không có lệ nhận đơn tố cáo, nên bảo họ giải tán.

Sau khi lui về, thần điều tra thì biết rằng Tư Nông tự không theo hạng đẳng cũ của các huyện, mà căn cứ vào số hộ hiện có để định hạng đẳng và phân bổ tiền trợ dịch cho các huyện, bắt các huyện phải nhận, tăng giảm hạng đẳng, lập sổ sách mới, phải hoàn thành trước mùa vụ. Thần nghĩ rằng việc tăng giảm hạng đẳng phải căn cứ vào tài sản của từng nhà, phải dựa vào huyện, huyện phải dựa vào hộ trưởng, lý trưởng, hộ trưởng, lý trưởng phải dựa vào hàng xóm, từ dưới lên trên mới có được sự thật. Nay Tư Nông tự tự vạch ra con số, bắt huyện theo đó lập sổ, làm sao lòng dân cam phục được? Ví như đai là để thắt lưng, giày là để đi chân, đai dài ngắn phải tùy theo béo gầy của lưng, giày rộng hẹp phải vừa với chân. Nay nếu đai dài mà thừa thì tăng lưng cho đủ, giày hẹp mà thiếu thì cắt chân cho vừa, có được không? Tăng hạng đẳng để thu thêm tiền, khác gì thế? Kinh kỳ là gốc rễ của thiên hạ, không thể không để ý đến. Nếu dân chúng náo động, kêu ca không thôi, dù muốn dùng uy hiếp để ngăn chặn, thần e rằng như đê vỡ, tổn thất sẽ lớn.

Việc sắp xếp dân sự phải từ châu đến huyện, làm gì có chuyện văn thư xuống huyện mà châu phủ không biết. Đây là do Tư Nông tự tự biết việc làm của mình không hợp lý, nên không báo lên phủ, mà trực tiếp xuống các huyện, muốn họ sợ uy mà không dám phản đối; nếu báo lên phủ, có thể sẽ tranh chấp, nên không để ý đến thể thống như vậy. Lại nữa, nay đã là tháng nông vụ, làm sao hoàn thành trước mùa vụ, muốn thu thuế hạ cùng lúc sao?

Thần lại nghe nói Trung thư cử Tôn Địch, Trương Cảnh Ôn đi điều tra dân không muốn đóng tiền, thần e rằng những người không muốn đóng tiền sẽ bị bắt làm việc nặng, uy hiếp như vậy, ai dám không theo? Dân trong kinh kỳ vốn được nuôi dưỡng như con đỏ, nay pháp đoàn bảo thực hiện quá gấp, khiến họ hoang mang chưa dứt, nếu lại hà hiếp, e rằng lo lắng sẽ không nhỏ. Nay phán Tư Nông tự là Đặng Oản, Tăng Bố, một người là Tri tạp, một người là Đô kiểm chính, nếu không phải thần nói, ai dám nói!”

Vương An Thạch chỉ trích lời của Hội là không đúng. Vua đồng ý. Nhật lục của An Thạch chép: Ta giải thích rõ sự thật cho Vua, Vua đã thấu hiểu đầu đuôi.

[35] Lưu Chí tâu: “Thần trộm nghĩ rằng vùng kinh đô là nơi căn bản của thiên hạ, thường phải yên ổn và nuôi dưỡng sức dân, khiến họ có cuộc sống sung túc, nhàn hạ, như vậy mới có thể cùng làm việc thiện và không thể cùng làm điều phi nghĩa. Trước đây, việc tổ chức bảo giáp, lúc đó biên giới phía Tây có chiến sự, pháp lệnh ban ra, dân chúng hoang mang, đến nay vẫn lo lắng chưa yên. Nay lại đặt ra pháp lệnh, bắt dân đều phải nộp tiền, không đúng thời hạn mà thăng giáng hạng hộ[11], thời hạn gấp gáp, khiến lòng người hoảng sợ, không biết kêu ai, e rằng không phải là ý nghĩa của việc củng cố gốc rễ, coi trọng nội địa, yêu dân và giảm nhẹ lao dịch. Thực ra là do các quan chức chưa thể thực hiện đúng ý chỉ của bệ hạ về việc bình quân, để đặt ra pháp độ, nên mới gây ra sự hỗn loạn này. Thần mong trước hết hạ lệnh, báo cho các huyện biết rằng pháp lệnh mới chưa được thi hành, đợi chỉ dụ triều đình, để yên lòng dân, sau đó xin truy xét xem trước đây căn cứ vào điều lệ nào mà tự ý thăng giáng hạng hộ, và cách thức ra bảng yêu cầu thực hiện pháp lệnh lao dịch đã định. Thần ngu muốn bệ hạ thấu hiểu tình hình dân chúng, lắng nghe ý kiến trong ngoài, xem xét lại, sao cho không đến nỗi thu thuế nặng, động viên nhiều, mà có thể kéo dài lâu dài rồi mới thi hành. Việc này liên quan đến sự an nguy của dân chúng, là việc lớn nhất. Mong bệ hạ suy nghĩ cẩn thận và lựa chọn kỹ càng, thiên hạ may mắn biết bao!”

[36] Quang lộc khanh Sử Chiêu làm Tri châu Hình Châu. Vua nói với các quan chấp chính: “Chiêu ở Tương Châu, rất cố gắng trong việc thủy lợi, nên khen thưởng để khuyến khích mọi người.” Vương An Thạch nói: “Nay bổ nhiệm làm Tri châu Hình Châu cũng đủ để khuyến khích. Nhưng cần phải xem xét kỹ lưỡng, đầy đủ, mới có thể ban ân; nếu không e rằng sẽ lạm dụng, nếu có ý kiến khác thì không có bằng chứng để đối chất.”

[37] Ngày Giáp Thìn, Vua lo rằng các quan ở biên giới nhìn vào ý chỉ của triều đình để quyết định việc gấp hay chậm, không chịu hết lòng giải quyết công việc. Vương An Thạch nói: “Việc này là ở bệ hạ. Nếu bệ hạ thực sự có thể dùng đạo để cai quản quần thần, khiến họ đều hết sức lo việc, không dám lừa dối, thì bệ hạ không cần vất vả mà thiên hạ vẫn được trị yên; nếu không làm được như vậy, dù bệ hạ có dùng hết trí thông minh, ngày đêm lo lắng vất vả, còn thần thì hết lòng phụng sự bệ hạ, e rằng cuối cùng cũng không thể đạt được sự trị yên. Việc biên giới tạm không bàn, hãy thử bàn việc gần đây. Gần đây xảy ra binh biến ở Khánh châu, bệ hạ không thể không lo lắng đến mức bỏ bữa, các đại thần nên nhân lúc này cùng lo nghĩ cách giải quyết. Thế nhưng họ lại nhân lúc bệ hạ lo sợ, cùng đưa ra những ý kiến khác nhau. Đến như việc đắp đê, bảo giáp chẳng liên quan gì đến binh biến ở Khánh châu, điều này mọi người đều biết, không cần đợi đến khi sáng suốt mới nhận ra, thế mà mọi người đều nói như vậy, bệ hạ dù biết là sai, nhưng có thể khiến họ e dè không? Các đại thần ở trước mặt còn không e dè như thế, huống chi những người ở biên giới xa xôi, làm sao có thể ngăn họ không lừa dối? Thần e rằng dù thân này có hết lòng phụng sự bệ hạ, cũng không thể giúp được gì cho sự bình trị. Thần ngu nghĩ rằng nếu khiến mọi người đều sợ hãi, khiến kẻ không có thực tài không dám buông lời, còn người trung thành có sức mạnh không bị kẻ tiểu nhân ngăn trở, thì bệ hạ không cần lo lắng vất vả mà đạo trị nước tự nhiên thành.” Vua nói: “Đúng vậy.”

(Sử nhà Chu chép đoạn này vào ngày mồng 3 tháng 3 sau khi xảy ra binh biến ở Khánh châu, không biết rằng Vương An Thạch nói điều này là nhân việc dân Đông Minh tố cáo tiền dịch, mượn cớ để củng cố ý chí của Vua. Nay căn cứ theo 《Nhật lục》, đặc biệt chép vào ngày 20 tháng 5. 《Tôn Nghiêu tập》 của Trần Quán trong phần “Biên cơ môn” bàn về Vương An Thạch, cùng với ngày 27 tháng 6 năm thứ 5. Lại có ngày 20 tháng 5 năm thứ 4, ngày 26, ngày 12 tháng 6, ngày 27, ngày mồng 9 tháng giêng năm thứ 5, ngày 27 tháng 6, đều nên tham khảo.)

[38] Ngày Ất Tỵ, hoàng tử thứ hai của Vua ra đời, mẹ là Hiền phi họ Hác, ba ngày sau thì chết, chưa kịp đặt tên. Sau được ban tên là Cận, 《Tân kỷ》 chỉ chép việc Cận chết, không chép việc sinh ra, có lẽ là sơ sót.

[39] Ngày Bính Ngọ, Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý, Đồng tri gián viện, Trực xá nhân viện Tôn Chu được bổ nhiệm làm Tri châu Hải Châu, theo lời thỉnh cầu của ông. Xét thêm sách 《Lâm Hi dã sử》 chép việc Tôn Chu ra ngoài, ghi trong phần chú thích về việc kiểm tra tù nhân ngày 13 tháng 6, ngày Bính Dần. 《Tôn Chu cựu truyền》 chép: Vương An Thích vì bàn việc thanh miêu mà đuổi các quan gián và ngự sử, Tôn Chu uất ức không thể nói gì, xin được bổ nhiệm ra ngoài, nên được làm Tri châu Hải Châu. Ngự sử trung thừa Dương Hội sợ rằng Kiểm chính trung thư lại phòng công sự Lý Định sẽ được bổ vào chỗ khuyết của Tôn Chu, bèn tâu rằng Lý Định không thể dùng được, nên chỗ khuyết của Tôn Chu lâu không được bổ. Tháng 2 năm sau, mới bổ nhiệm Thường Trật.

[40] Châu Thông Châu tâu rằng sứ thần Cao Ly là Dân quan thị lang Kim Đễ đến cống nạp tại huyện Hải Môn. Chiếu cho Tập hiền hiệu lý Lục Kinh giả chức Tri chế cáo làm quan bạn, Tả tàng khố phó sứ Trương Thành Nhất làm phó.

[41] Giáng Long Thần Vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, Chiêu Châu phòng ngự sứ, Kinh Nguyên lộ phó đô tổng quản[12] Trương Ngọc làm Tổng quản, Lăng Châu đoàn luyện sứ, bị cách chức quân sự. Ngọc đem quân truy đuổi quân phản loạn ở Khánh Châu, nhưng Ngô Đạt[13] cùng những người khác thế cùng đầu hàng bộ tướng của Bân, Ninh là Nhậm Hoài Chính, Hoài Chính giao Ngọc, Ngọc giết hết họ ở Bân Châu, Triều Thiên dịch. Vua cho rằng Ngọc giết người bừa bãi làm mất lòng tin của triều đình, nên có lệnh này. Ban đầu, chỉ định giáng Ngọc một chức, Vương An Thạch nói: “Triều đình đã biết việc giết người bừa bãi, thì giáng một chức không phải là cách để tỏ rõ sự coi trọng mạng người và giữ chữ tín với thiên hạ.” Vua bèn hạ lệnh giáng hai chức, lại giáng làm Tổng quản, lại bàn việc cách chức quân sự. Văn Ngạn Bác cho rằng Thứ sử không thể làm Đô ngu hậu, An Thạch nói: “Đô ngu hậu phải do Phòng ngự sứ đảm nhiệm, chỉ là lệ cũ, ban đầu không có lý lẽ gì, thần từng tâu rằng, chỉ vì chức quan khuyết nên theo lệ thăng chức, hoặc không có công mà được thăng vượt cấp, đều không có lý lẽ, không đủ để khuyến khích.” Ngạn Bác cho rằng lệ cũ khó thay đổi, nên chỉ giáng một chức, cách chức quân sự. Vẫn chưa bổ nhiệm người thay thế.

Ngô Sung nói: “Đậu Thuấn Khanh không kịp nhận ra và kiểm soát, cũng chỉ giáng một chức, phạt Ngọc quá nặng.” An Thạch nói: “Biến loạn ở Khánh Châu không phải do Thuấn Khanh gây ra, Thuấn Khanh tuy biết tình hình nhân tâm bất ổn, nhưng muốn Thuấn Khanh xử lý thế nào?” Sung lại nói Ngọc đáng tiếc, An Thạch nói: “Tạm thời trách phạt, gặp ân xá sẽ được phục chức, tạm thời dùng pháp luật để giữ chữ tín và an lòng dân chúng, có hại gì cho Ngọc? Triều đình chỉ cần để Ngọc ở biên cương, tự nhiên sẽ có ích, há cần tính toán chức vụ và bổng lộc sao?”

[42] Hôm đó, Vương An Thạch trình bày văn bản về tiền dịch, Vua cho rằng dân đã chịu thuế má nặng nề, nên không cần giảm thuế cho dân phường quách và quan hộ, việc tăng bậc thuế hộ cũng có thể điều chỉnh giảm bớt mà không gây hại. An Thạch nói: “Hiện nay thu thuế từ dân vốn đã không quá nhiều, nếu giảm thêm nữa thì không hợp lý. Nếu có thể thu vào lúc thích hợp, đợi đến năm mất mùa thiếu ăn, xét thấy sức dân không đủ mà số tiền dịch thu được còn dư, thì đặc cách miễn một khoản[14]. Đây chính là lúc thóc gạo dư thừa thì thu nhiều, lúc thiếu ăn thì cứu giúp, phù hợp với chính sách nhân từ của các vị Vua xưa. Triều đình đặt ra pháp luật, nên tự quyết định theo đạo nghĩa, nhằm mục đích lâu dài là thuận tiện cho dân, đâu cần phải lo lắng quá mức về những ý kiến của người thiển cận? Bệ hạ cho rằng thuế má quá nặng, nhưng theo thần thấy, hiện nay thuế má không nặng, chỉ là do bọn cường hào chiếm đoạt mà thôi. Đây chính là điều Tuân Duyệt nói: ‘Nỗi lo của nhà nước, còn hơn cả ba đời; sự tàn bạo của cường hào, còn hơn cả Tần mất nước’.” Vua nói: “Đó là lý do nên trừ bỏ cường hào.”

An Thạch nói: “Trừ bỏ cường hào, chỉ có các vị Vua có tài năng lớn thời xưa mới làm được. Những kẻ cường hào đều là người có thế lực, lời nói của họ đủ để lay chuyển sĩ đại phu. Nay đặt ra pháp luật, chỉ dựa theo tình hình thuận tiện, chưa đủ để kiểm soát cường hào. Nhưng ý kiến bàn tán nhiều, Bệ hạ đã không thể không bị ảnh hưởng, nếu muốn kiểm soát cường hào, thì e rằng Bệ hạ chưa thể thắng được sự bàn tán của mọi người. Như việc trợ dịch ở Lưỡng Chiết, chưa thể làm khốn đốn cường hào, nhưng Bệ hạ đã không thể không nghi ngờ.” Vua nói: “Như phép Thường Bình, cũng là để kiểm soát cường hào.” An Thạch nói: “Điều này trong đạo trị nước chỉ là rất nhỏ, làm sao có thể ngay lập tức cân bằng của cải trong thiên hạ, khiến dân chúng không còn nghèo khó?”

[43] Ngày Kỷ Dậu, quyền Thiểm Tây đô chuyển vận sứ Tạ Cảnh Ôn tâu rằng: “Phu Diên là nơi xung yếu nhất trước giặc, việc phòng thủ phụ thuộc vào chủ tướng. Từ mùa xuân năm nay đến nay, gây oán kết họa, sĩ khí không chấn, lòng dân chưa yên. Bệ hạ đã bổ nhiệm Triệu Tiết làm Tri châu Diên Châu, Tiết thông minh rộng rãi, thực có tài hơn người, nhưng chưa từng thân chinh trận mạc, quen thuộc quân ngũ, các tướng tá, trại chủ đều là người ngang hàng cũ, một khi chịu sự chỉ huy của ông ta, chưa chắc đã tâm phục. Thần e rằng khi có việc, khó mà trông đợi thành công. Khánh Châu vừa trải qua loạn lạc, lòng người chưa yên. Vương Quảng Uyên vốn không có uy tín để trấn áp kẻ gian, sau khi bị thương, làm sao có thể rèn luyện kỷ luật? Binh lính kiêu ngạo hung hãn, khó lòng giữ được không xảy ra biến cố, dù triều đình mở đường cho họ tự đổi mới, nhưng lòng người vẫn lo sợ, thường lo lắng về điều bất trắc.

Nay trong một doanh trại, kẻ nghịch người thuận lẫn lộn, người thuận thì nghèo như xưa, kẻ nghịch thì ai cũng có của cải dư thừa, bán đồ cướp được ngoài chợ, chủ không dám nhận. Nếu có việc gấp, Quảng Uyên chắc chắn không thể kiểm soát được. Bệ hạ gần đây đã bổ nhiệm Quách Quỳ làm Tri châu Tần Châu, Tần tuy là nơi trọng yếu, nhưng tầm quan trọng không bằng Phu Diên. Quỳ từ nhỏ lớn lên ở biên cương, tài võ nghệ có thể đảm đương, nhiều lần tham gia chiến trận, được binh lính tin phục, nếu cho ông ta lại chỉ huy Phu Diên, giặc chắc chắn không dám khinh suất xâm phạm.

Thái Đĩnh trước đây làm tướng Khánh Châu, cai trị đúng cách, Kinh Nguyên quân mã chỉnh tề, uy danh đã vang dội, nếu cho Đĩnh ở Khánh Châu, để ông ta tùy cơ ứng biến, thi hành phương lược, trừng trị kẻ ngang ngược, an ủi kẻ phản trắc, thì triều đình có thể yên tâm không lo lắng. Từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, Tần Châu đã cách chức bốn tướng, dù quân chính không tu chỉnh, cai trị không đúng cách, cuối cùng cũng không đủ để gây họa lớn cho triều đình, không giống như Phu Diên, Hoàn Khánh. Thần cho rằng triều đình muốn chống giặc ngoài, không gì bằng trách nhiệm cho Quách Quỳ; muốn dẹp loạn quân, không gì bằng giao phó cho Thái Đĩnh. Vì vào lúc giao mùa thu đông, kỵ binh địch chắc chắn sẽ xuất hiện ở Phu Diên, Tiết tuy có tài giỏi, nhưng chắc chắn không bằng Quỳ lão luyện, hoặc điều ông ta đến nơi khác, cũng không sao. Thần mong thay đổi bốn tướng, để trừ mối họa chưa xảy ra.”

Vương An Thạch nói: “Quách Quỳ nên làm Tri châu Diên Châu, nhưng ông ta lấy cớ xấu hổ gặp lại quan dân nên cố từ chối. Quỳ lại được triều đình trọng dụng, trở lại chỗ cũ có gì đáng xấu hổ? Ông ta chỉ vì Diên Châu đã bị tàn phá khó trị, nên không muốn đến đó thôi. Bệ hạ không xét tình hình mà đồng ý, hơi mất cơ hội. Nay đã bổ nhiệm ông ta ở Tần Châu, lại muốn thay đổi, không tiện.”

Vua nói: “Thái Đĩnh điều đến Khánh Châu, e rằng sẽ thêm khoan dung.” An Thạch nói: “Binh lính Khánh Châu vẫn còn phản trắc, nếu đổi tướng ngay, hoặc chưa đến lúc nghi ngờ mà đã biến loạn, sao không yên tĩnh chờ đợi.” Tấu của Cảnh Ôn bị bỏ qua không thi hành. Bản Chu bỏ đi phần sớ của Cảnh Ôn, nay theo bản mới, lại giữ lại.

[44] Ngày Canh Tuất, Dương Hội tâu rằng: “Ty Đề điểm phủ Khai Phong vì việc dân các huyện trong kinh thành đến kinh đô kêu oán về việc phân loại phục dịch, trong đó dân huyện Đông Minh là nhiều nhất, nên muốn cử người điều tra và hặc tội Tri huyện Giả Phiền. Thần không quen biết Giả Phiền, không biết ông ta có tài hay không, nhưng thấy ông ta từng được hai phủ tuyển chọn, thì hẳn người đó không phải là kẻ bất tài. Dân các huyện trong kinh thành cách kinh đô không quá trăm dặm, nếu có oan ức, có thể đến tướng phủ kêu oán, thì bệ hạ nên suy nghĩ đến dân chúng ở các nơi xa xôi, dù có oan ức, làm sao họ đến được để kêu oán? Nên ra lệnh cho các Giám ty, để thông suốt tình hình dưới, không để họ lâm vào cảnh khốn cùng, thì chính sự ở xa gần đều được thích hợp. Nay nếu dân huyện Đông Minh đến kêu oán, lại trị tội Tri huyện, thần e rằng các quan lệnh, tá trong kinh thành sẽ răn đe việc này, trước hết dùng hình phạt nghiêm khắc để uy hiếp, dọa nạt bằng lợi hại, khiến dân không dám kêu oán nữa, bịt miệng dân, như thế có tiện lợi gì? Huống chi bệ hạ đã ban chiếu cho các huyện như Đông Minh không được nâng hạng và ép buộc dân, nếu không có dân đến kêu oán, thì lấy gì mà có chiếu này? Vậy mà lại bắt bẻ Tri huyện, là sao vậy[15]?”

[45] Hôm đó, Vương An Thạch vào chầu, xin từ chức, Vua cố giữ lại, nói: “Phong tục đã hủ bại lâu ngày, không thể sửa ngay được, việc thì muôn vàn, khanh sao lại muốn đi? Hãy nghĩ đến ý Trẫm, không cần để ý đến những lời xôn xao của thế tục.” An Thạch tâu: “Thần tài mọn, sợ làm hỏng ý định của bệ hạ. Bệ hạ thử xem các bậc Vua sáng nghiệp đời trước, có ai cai trị mấy năm mà phong tục không đổi, kỷ cương không dựng như hiện nay không?”

Vua nói: “Đời trước hoặc vì loạn lạc mới nảy sinh, lòng người bức bách, nên giải quyết khó khăn dễ dàng. Nay phong tục suy đồi đã lâu, muôn việc thu xếp lại cho hợp phép tắc, tất nhiên là khó, sự xôn xao cũng là lẽ thường, nhưng cứ kiên trì làm thì tự khắc sẽ thay đổi. Như việc Phú Bật, trước kia đâu có ai tra xét, nay mới xử lý, những việc như thế đã làm nhiều, lòng người e rằng sẽ dần thay đổi.” An Thạch tâu: “Theo thần thấy, hình như bọn tiểu nhân vẫn chưa chịu thay đổi. Thần nghĩ rằng nếu bệ hạ thực sự thấu hiểu được sự thật giả của quần thần, nắm lấy lợi hại để điều khiển họ, thì ai dám làm điều tà vạy? Chỉ cần trong triều không ai dám làm điều tà vạy, thì phong tục sẽ thay đổi ngay, lo gì kỷ cương không dựng được? Như thời Đường Thái Tông, Bùi Củ còn dám can ngăn chính sự, huống chi những người vốn không làm điều tà vạy?”

Vua trách việc biên giới phía tây, cho rằng thời Đường Thái Tông không có chuyện như thế. An Thạch tâu: “Thần từ khi được hầu bệ hạ, bệ hạ chưa từng khen Hàn Giáng là người có mưu lược, bỗng nhiên giao phó việc một phương cho ông ta, thì việc biên giới tất nhiên phải như vậy.” Vua nói: “Triều đình đâu có bảo ông ta làm như thế. Giáng làm trái ý chỉ đều là do ngoài dự tính.” An Thạch tâu: “Bệ hạ cho phép ông ta tùy nghi điều động các lộ, thì việc ông ta làm như vậy cũng là lẽ thường. Việc biên giới đã qua, không thể làm gì được nữa. Thần nghĩ rằng bệ hạ lo lắng chăm chỉ trăm việc, thật là hết mực. Nhưng việc thì gồm cả đức, đức thì gồm cả đạo. Nếu bệ hạ thực sự hiểu rõ đạo lý để trị vì thiên hạ, thì không cần lo lắng vất vả mà việc vẫn tự nhiên ổn định; nếu không thể, thì dù có lo lắng vất vả cũng không thể khiến mọi việc đều ổn định được. Bệ hạ thực sự nên bàn luận về đạo trị nước của các bậc đế vương, ngồi yên mà không cần làm gì. Xem xét sự thật giả của quần thần, dùng đạo lý để xử lý, thì ai dám lừa dối? Không ai dám lừa dối thì thiên hạ đã yên rồi! Thần đâu dám không cố gắng làm việc[16]? Nếu chỉ như hiện nay, e rằng không giúp ích gì cho sự trị vì của bệ hạ.”

(Đoạn này theo《Nhật lục》chép lại, 《Chu sử》lại chép sau phần trách Hàn Giáng, lại bỏ đi câu “Thần đâu dám không cố gắng làm việc, nếu chỉ như hiện nay, e rằng không giúp ích gì cho sự trị vì của bệ hạ”, như thế là sai sự thực, nay sửa lại. 《Trần Quán Tôn Nghiêu tập》phần Biên cơ môn có bàn luận, xin xem thêm ngày 27 tháng 6 năm thứ 5. Lại xem ngày 20 tháng 5[17], lại ngày 26, lại ngày 12 tháng 6; lại ngày 9 tháng giêng năm thứ 5, lại ngày 27 tháng 6, đều nên tham khảo.)

[46] Ngày Tân Hợi, ban chiếu chọn ngày tốt trong tháng cuối mùa thu để cử hành lễ tại Minh Đường.

[47] Chiếu cho Đại Tông Chính Ty từ nay, các tông thất có chức Suất Phủ Suất[18] gặp tang cha mẹ hoặc cháu đích tôn phải chịu tang trọng, đều được giải chức để chịu tang; lại chiếu cho tông thất gặp ngày lễ tết, cho phép đưa các di (nữ giám) lên Tây Kinh và các phần mộ ở Nhữ Châu, cử người hầu trong cung đi theo. Đây là theo lời thỉnh cầu của Lý Đức Sô.

[48] Trước đó, Phán Bạc Châu Phú Bật bốn lần dâng sớ xin giải chức Sứ Tướng, nhưng không được chấp thuận, lại xin được nghỉ phép về Tây Kinh dưỡng bệnh, chưa được trả lời. Khi vụ án Thanh Miêu nổ ra, Phú Bật không dám nói gì, đến khi triều đình có chỉ thị xét án sau rồi mới thu xếp, Phú Bật biết mình được miễn bị hặc tội, bèn lại xin về Tây Kinh dưỡng bệnh. Hôm nay ban chiếu cho Phú Bật được nghỉ phép. Phú Bật bốn lần dâng sớ xin bãi chức Sứ Tướng, căn cứ theo tờ trát. Việc cho nghỉ phép về Tây Kinh dưỡng bệnh, trong 《Thực Lục》 ghi ngày 18 tháng 5 là sai, nay theo 《Hội Yếu》 và 《Vương An Thạch Nhật Lục》.

[49] Ngày Nhâm Tý, ban chiếu: Nghe nói các châu Ân, Ký, Mạc, Hùng, Thương, các quân Vĩnh Tĩnh, Tín An, Bảo Định, Can Ninh từ mùa hạ bị thiên tai, lệnh cho Chuyển Vận Phó Sứ Vương Quảng Liêm và Đề Điểm Hình Ngục Khổng Tự Tông đi khảo sát, những thuế thu chưa được kiểm phóng, đều giảm bớt theo mức độ, đồng thời phát lương từ kho Quảng Huệ để cứu tế dân đói.

[50] Tháng này, ban chiếu bãi bỏ kho Tân Y, các vật dụng trong kho chuyển về Nghi Loan Ty và các nơi khác.


  1. Hà Đông đô chuyển vận sứ nguyên bản là 'Hà Đông chuyển vận ty', theo 《Tống sử》 quyển 330, truyện Trương Cảnh Hiến sửa lại.
  2. Chữ 'cảnh' trong 'Trương Cảnh Hiến' nguyên bản viết là 'kinh', căn cứ theo các bản khác và 《Biên niên cương mục》 quyển 19, 《Tống sử》 quyển 330 truyện Trương Cảnh Hiến, quyển 486 truyện nước Hạ, 《Tây Hạ thư sự》 quyển 23 sửa lại.
  3. Chữ 'Dục tiền từ' trong nguyên văn bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 63, phần Vương An Thạch hủy bỏ chính thần mà bổ sung.
  4. Đều nên làm như vậy: Các bản gốc và bản in hoạt tự đều giống nhau. 《Tống sử》 quyển 192, chí về binh chế chép chữ 'cập' thành 'phản', có vẻ hợp lý hơn.
  5. Thì cận thần trở lên há không đủ với những người này: 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 66, Tam ty điều lệ ty, 《Trị tích thống loại》 quyển 30 và 《Tống sử》 quyển 192, chí về binh chế đều chép chữ 'túc' thành 'cập'.
  6. Lại có đoạn 'Thần mong chọn những hào kiệt trong làng' cho đến 'Vua cho là phải': Chữ 'lại' nguyên bản chép là 'văn', theo bản gốc sửa. Chữ 'đến' nguyên bản thiếu, căn cứ vào ý nghĩa và các ví dụ trên dưới, nên có một chữ 'đến', nên bổ sung.
  7. Quyền phát hai Chiết vận phó các bản, bản hoạt tự đều giống nhau. Dưới chữ 'Quyền phát' có lẽ thiếu chữ 'khiển'.
  8. Chữ 'Tiết' nguyên bản viết là 'Vũ', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại.
  9. đều bị xử theo tội vi chế, chữ 'luận' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 70 về Dịch pháp bổ sung.
  10. Xét lại 'lại' nguyên là 'tằng', theo các bản và bản in hoạt tự sửa.
  11. 'Hạng' nguyên là 'Đệ', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 177, 《Thực hóa chí》 sửa lại.
  12. Phó đô tổng quản, chữ 'Đô' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 65-36 và 《Tống sử》 quyển 290, truyện Trương Ngọc bổ sung.
  13. Ngô Đạt, bản các và bản hoạt tự đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 chức quan 65-36 chép là 'Vi Đạt'.
  14. 'Khoa' nguyên là 'Khoa', theo bản trong các sách sửa lại.
  15. Chữ 'Hà' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 65-6 bổ sung.
  16. Câu 'Thần đâu dám không cố gắng làm việc' trong văn nhỏ dẫn ở dưới không có chữ 'cố', đây có lẽ là thừa.
  17. Ngày 20 tháng 5: Theo văn trên và chú thích ở quyển 229, ngày Kỷ Sửu tháng giêng năm Hi Ninh thứ 5, trên chữ 'tháng 5' đều có hai chữ 'năm thứ 4'.
  18. chữ 'suất' dưới Suất Phủ Suất, trong 《Tống Hội Yếu》 đế hệ 4-25 viết là 'phó suất', 《Tống Sử》 quyển 15 Thần Tông kỷ và 《Tục Thông Giám》 quyển 68 đều viết là 'phó suất trở lên'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.