VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 233: NĂM HI NINH THỨ 5 (NHÂM TÝ, 1072)
Bắt đầu từ tháng 5 năm Hi Ninh thứ 5 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 5, ngày Canh Thìn, mùng một, Vua ngự điện Văn Đức thiết triều.
[2] Lệnh cho Phó sứ Cung bị khố là Trần Khuê quản lý xưởng chế tạo, đúc đao Trảm Mã. Ban đầu, Vua đưa mẫu đao trong hộp cho Thái Đĩnh xem. Lưỡi đao dài hơn 3 thước, chuôi dài hơn 1 thước, đầu có vòng lớn. Thái Đĩnh tâu: “Chế tác tinh xảo, tiện lợi cho việc sử dụng, thực sự là vũ khí lợi hại trên chiến trường.” Vua bèn sai nội thần đứng đầu, lập cục chế tạo, đúc hàng vạn chiếc, ban cho các quan biên giới. Cục đao Trảm Mã bắt đầu từ đây. Có thể tham khảo thêm ngày 28 tháng 4 và ngày 17 tháng 5 năm thứ 8.
[3] Triệu tập Đông tác phường sứ, An phủ Quảng Nam Tây lộ, Đô giám kiêm Tri châu Khâm là Thạch Giám về kinh, để bàn việc kinh lược Nam, Bắc Giang. Việc triệu tập Thạch Giám căn cứ theo 《Ngự tập》. Việc kinh lược Nam, Bắc Giang diễn ra vào tháng 7 nhuận năm này, ngày 21 tháng đó lấy Giám làm Kiềm hạt Hồ Bắc, nay ghi trước ở đây. Lại sợ rằng lúc đầu triệu tập Giám không phải vì việc Nam, Bắc Giang, gặp lúc Lưu Sách chết, bèn lệnh cho Giám thay Sách. Ngày 6 tháng 7 nhuận, 《Nhật lục》 chép: Thạch Giám[1], người châu Ung, hiểu rõ thứ tự các động đinh.
[4] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu lấy Cổ Vị trại làm Thông Viễn quân, giao cho Vương Thiều kiêm nhiệm chức Tri quân. Cổ Vị vốn là Vị châu thời Đường, từ niên hiệu Chí Đức bị Thổ Phồn chiếm, đến niên hiệu Hoàng Hựu mới thu hồi được đất ấy, bèn lập làm trại. Nhà Vua muốn khôi phục Hà Lũng, nên ra lệnh lập quân, làm bước đầu mở mang. Trước đó, nhà Vua từng nói Cổ Vị có thể lập quân, Vương An Thạch tâu: “Người Phiền chỉ cần thấy dòng dõi quý tộc là đã vui mừng, ngưỡng mộ, theo về. Nếu dùng uy linh của Trung Quốc mà vỗ về bằng đạo lý, lo gì họ không quy tụ? Gần đây, người Khương Di đều đến Cổ Vị để phân xử phải trái. Đã đến hết thì dễ tạo thế lâm quản, thế lâm quản hình thành thì biến thành đất nội địa cũng không khó.” Nhà Vua bèn sai Lưu Tông Kiệt đến bàn bạc với Vương Thiều và Cao Tuân Dụ rồi ban chiếu này. Nhà Vua nhân đó bàn về việc Quách Quỳ và Hàn Giáng bàn rằng không nên sáp nhập các tiểu thành trại, nói: “Ta tốn người, họ cũng tốn người, sáp nhập thì ta tiết kiệm người, lợi hại đối với ta là như nhau.” Vương An Thạch nói: “Tần cùng sáu nước cùng thời, Tần sáp nhập tiểu ấp thành đại thành, cuối cùng Tần mạnh lên, bởi vì như Hiếu Công có mưu lược, có thể giữ vững khí thế. Nếu có kẻ xâm phạm đất ta, dù họ thu được lợi nhỏ, ta có thể báo trả bằng hại lớn, nên dù không có tiểu thành trại, địch cũng không dám xâm phạm. Nếu không có mưu lược như Tần, thì không tránh khỏi phải đặt nhiều tiểu thành trại.” Việc Quách Quỳ và Hàn Giáng bàn bạc xem ngày 5 tháng 2, không liên quan đến Cổ Vị, 《Chu sử》 cố gắng ghép vào, nay không theo. Ngày 24 tháng này, Quý Mão, Vương Trung Chánh đến Tần Phượng Duyên Biên ty để xem xét kỹ hơn. Ngày 4 tháng 12 năm thứ 4, Lưu Tông Kiệt thay Lữ Đại Trung lập Phong Câu ở Tần Phượng.
[5] Vua phê bảo Trung thư: “Gần đây không đi[2]Theo bản tấu của Hùng Châu, biên giới phía bắc có Trác Châu gửi công văn bàn việc tu sửa quán xá và tăng thêm binh giáp ở Bạch Câu[3], chưa rõ sự thực thế nào, nên lệnh cho cơ quan An phủ ty biên giới, viên chức phụ trách công vụ là Lý Thuấn Cử và viên Đề điểm hình ngục là Khổng Tự Tông điều tra kỹ lưỡng, xác minh sự việc, tâu lên nhanh chóng, đồng thời gửi công văn niêm phong riêng.” Việc này theo sách 《Ngự tập》. Thuấn Cử thay thế Lý Hiến phụ trách công vụ, xem sách 《Ngự tập》 ngày 1 tháng 4 năm thứ 5.
[6] Xu mật viện tâu lên phương pháp huấn luyện các huyện thuộc phủ Khai Phong, lệnh rằng nơi nào có năm chỉ huy thì mỗi ngày luân phiên một chỉ huy đến trường huấn luyện chung, đô giám và giám áp đến giám sát. Nếu không có trường huấn luyện chung thì huấn luyện tại doanh trại mỗi ngày một lần, người kém kỹ năng thì huấn luyện hai lần. Những người phải tham gia huấn luyện, nếu đang làm nhiệm vụ canh giữ áo giáp, tuần tra kho tàng, thì cũng phải cử người thay thế. Mục tiêu bắn có kích thước một trượng vuông, bia bắn hai thước năm tấc, cách xa năm mươi bước. Cung chia làm ba loại: chín đấu, tám đấu, bảy đấu; nỏ chia làm ba loại: hai thạch bảy đấu, hai thạch bốn đấu, hai thạch một đấu; người cầm giáo và đao cũng chia làm ba loại theo trình độ kỹ năng. Khi nghỉ tuần, ngày lễ, ngày nhận lương thảo hoặc khi trời mưa tuyết ướt át, đều được tạm ngừng huấn luyện. Còn lại chia làm bốn ngày: đầu tiên bắn cung nỏ theo cấp bậc, sau đó bắn trúng mục tiêu, rồi diễn tập trận pháp, rồi bắn lại, xoay vòng như vậy. Khi quan đề cử đến huyện, nhân ngày huấn luyện đều dùng rượu thịt khao quân như lễ duyệt binh mùa xuân thu, những người bắn cung nỏ trúng mục tiêu và pháo thủ súng máy đều được cấp bạc. Huấn luyện ở kinh đô và các vùng Kinh Đông, Kinh Tây cũng theo quy định này. Vua chuẩn y. Phủ Khai Phong vẫn cử quan đề cử. Ngày 24 tháng 9 năm thứ 4, bắt đầu huấn luyện; ngày 7 tháng 5 năm nay, bàn việc luân phiên.
[7] Vua ra chiếu chỉ sửa cầu ở Kim Minh Trì chỉ dùng gỗ thường. Trước đó, Phát vận ty điều động gỗ làm cầu, lấy hết gỗ tốt gần nghìn cây, nhưng Vua cho rằng việc vui chơi không cần gấp, sợ làm khổ dân xa nên thôi.
[8] Chiếu rằng: “Tông thất không phải là người thân thích gần (đản miễn) mà được phép ứng cử, thì thi ba đề sách, một đề luận, hoặc mười đề nghị về đại kinh[4]. Lần thi đầu loại bỏ những người văn lý không thành, còn lại cho thi lại. Số lấy đỗ lấy năm phần làm hạn, dù số người nhiều cũng không quá năm mươi người. Nếu nhiều lần thi lại không đỗ, người lớn tuổi thì nên bàn lượng tài mà bổ dụng.” 《Tân kỷ》 chép rằng phép ứng cử của tông thất không phải thân thích gần, 《Cựu kỷ》 không có điều này.
[9] Ngày Quý Mùi, Nội tàng khố phó sứ, Tri Nghi châu Quách Cố cùng biên tu 《Kinh vũ yếu lược》.
[10] Chiếu rằng Mật châu Quan sát sứ Hướng Truyền Phạm[5] chiếm dụng 28 binh sĩ ở Thiểm phủ có thể bãi bỏ và cho về, thay bằng 80 người dư. Trước đây, Vua lo ngại cận thần và thân thích chiếm dụng nhiều lại sĩ, sai Ti đề cử ty Câu đương công sự Tiền Xương Vũ xét giảm bớt, nhưng Truyền Phạm dâng sớ xin giữ lại, Vua nói: “Triều đình lập pháp, nên bắt đầu từ thân thích gần, sao lại để Truyền Phạm làm trái pháp ta?” Vì thế có chiếu này.
[11] Lại chiếu rằng đắp đê ngăn sông vỡ, binh lính đào ngũ được phép đầu thú và miễn tội, người chết thì mỗi người cấp cho gia đình 3000 quan. Phu dịch ở Kinh Đông và bản lộ tiếp tục phát động gấp gáp, đúng lúc cản trở mùa vụ, cùng với phu dịch Kinh Đông vì đường xa, đều miễn thuế chi dịch và chiết biến một năm. Quan bộ phu vì công liệu không đủ bị hặc tội, án tâu lên xin chỉ. Quan bộ phu Kinh Đông hết nhiệm kỳ thì bổ làm quan ở quê nhà. Đó là do có lời phê của Vua rằng: “Việc lớn đắp đê sông Hoàng Hà, nay đã xong, nên có ân điển khoan hồng và khen thưởng người siêng năng.”
[12] Lại có chiếu tăng lương cho các viên chức ở Trung thư thẩm quan đông, tây, tam ban viện, Lại bộ lưu nội thuyên, Nam tào, Khai Phong phủ. Những người nhận hối lộ sẽ bị xử theo luật Thương pháp. Vua nói: “Lương của các viên chức Trung thư đã cao, e rằng các quan đường hậu không nhận hối lộ nữa.” Vương An Thạch nói: “Các viên chức hạ đẳng ở Trung thư phần nhiều là con em của các viên chức cấp cao, e rằng vẫn không tránh khỏi nhận hối lộ. Nay muốn thanh lọc các cơ quan, nên bắt đầu từ Trung thư. Số tiền tăng thêm, ngoài việc dùng tiền thuế phường trường, còn phải chi từ Tam ty hai vạn sáu nghìn quan. Tuy nhiên, tiền phường trường đang tăng chưa dừng, e rằng số tiền chi ra không đủ số này của Tam ty. Nếu thi hành pháp luật này, từ Trung thư đến các cơ quan đều không nhận hối lộ, cũng đủ để cho thiên hạ thấy được chính sách tốt đẹp của thánh chính. Người xưa khen Khổng Tử trị nước, cũng lấy việc khách đến không cần nhờ cậy quan lại làm điều tốt.” Vua nói: “Đúng vậy.” Sử quan đời Chu dời đoạn này phụ vào ngày Quý Mùi tháng 8 năm thứ ba, như vậy là sai thứ tự trước sau, nay dời lại. 《Nhật lục》 vẫn ghi chép vào ngày này.
[13] Vua hỏi Vương An Thạch: “Khanh đã xem việc phân tích về Mộc Chinh của nha tiền Tần châu chưa?” An Thạch đáp: “Đã xem rồi. Ban đầu, Tần châu sai người đến chỗ Đổng Chiên, Mộc Chinh ngồi dưới sân. Lại thêm dọc đường thường cướp bóc tài vật, nhưng qua Thao, Hà Đông thì y như trong địa giới nhà Hán, không dám cướp bóc hay ngăn trở nữa, đó là hiệu quả của việc Vương Thiều chiêu nạp.” Vua nói: “Muốn chiêu nạp, phải dùng uy mới thành công được.” An Thạch nói: “Như Mộc Chinh rất dễ lấy, chỉ cần sai tướng biên giới trước hết âm thầm chiêu dụ kết thân với các thủ lĩnh dưới quyền Mộc Chinh, khiến họ quy phụ, lại khéo léo chiêu dụ những kẻ mới quy phụ, khiến các thủ lĩnh kia thấy mà ngưỡng mộ, thì Mộc Chinh sẽ cô lập, nếu bắt thì chỉ như bắt một người thường, có gì khó? Mộc Chinh đã bị bắt, thì Đổng Chiên, Hạ quốc đều biết sợ, như Đổng Chiên cũng không khó bắt.” Vua nói: “Tướng biên giới ai có thể làm được việc này, Vương Thiều có thể không?” An Thạch đáp: “Việc này ngoài Vương Thiều và Cao Tuân Dụ ra thì không ai làm được.” Ngày Đinh Hợi tháng 8 có thể tham khảo.
[14] Trước đó, Ty chuyển vận Hà Đông tâu rằng chắc chắn không thể chuẩn bị đủ cỏ và cành cây, nhưng sau đó Trình Phưởng tự lo liệu được. Vua ra lệnh điều tra Trương Vấn và những người khác, đồng thời thăng một chức cho Phưởng. Đến lúc này, khi tâu lại, Vua hạ lệnh cho Ty đề điểm hình ngục xem xét lại số cỏ và cành cây mà Phưởng đã mua, bảo đảm rõ ràng rồi tâu lên, đồng thời yêu cầu Vấn và những người khác giải trình.
[15] Ngày Ất Dậu, ban cho Mộc Trinh 100 tấm vải mịn và một bộ áo dài thêu hoa văn cẩm thạch, vì ông ta đã dâng thuốc.
[16] Ngày Bính Tuất, Phó sứ Cung bị khố, Tri châu Phong Châu là Cao Tuân Dụ được thăng năm bậc, lệnh cho tiếp tục tại chức, đồng thời ban thưởng đặc biệt, vì Kinh lược sứ Hà Đông Lưu Tường tâu rằng: “Tuân Dụ tu sửa thành lũy, sửa chữa vũ khí, răn dạy quan lại biên giới, không dám tranh công sinh sự.”
[17] Chiếu cho các huyện thuộc phủ Khai Phong, những người trong bảo giáp có nguyện nuôi ngựa thì cho phép, lại lệnh cho Ty Đề điểm chọn những ngựa từ cấp Kiêu kỵ trở lên trong số ngựa mua ở Thiểm Tây, trừ ngựa tốt, cấp cho họ, mỗi năm không quá ba nghìn con. Trước đó, Trung thư cùng Xu mật viện cùng trình việc bảo giáp nuôi ngựa, Văn Ngạn Bác nói: “Việc này cần phải qua Quần mục ty xem xét.” Vua nói: “Việc này liên quan gì đến Quần mục ty? Hàn Duy vừa mới đến, chỉ cần triều đình xem xét. Quan Quần mục ty kiến thức chắc chắn không thể xa rộng được.” Ngạn Bác lại nói: “Thời Tam đại có Khâu thừa xuất ngựa, lại có quốc mã, quốc mã không thể thiếu.”
Vương An Thạch nói: “Thời Tam đại dùng quốc mã phần nhiều vì dùng xe, lại có điền mã để dùng vào việc đồng áng. Nay đã không có việc đồng áng, tức là cũng không dùng điền mã.” Ngô Sung nói: “Pháp nay muốn cho ngựa chết thì dân phải bồi thường nguyên con ngựa, e là không tiện.” An Thạch nói: “Pháp nay nếu không muốn mua ngựa khác, thì chỉ cần trả tiền, gọi người khác mua.” Sung nói: “Cũng e rằng dân không có tiền.” An Thạch nói: “Pháp này đã lệnh cho các huyện giải thích rõ, dân chúng phần nhiều cho là tiện, có một nghìn năm trăm hộ nộp đơn.” Sung nói: “Đại để những người nói là tình nguyện đều là do quan lại ép buộc.” An Thạch nói: “Nếu quan lại ép buộc, tức là các huyện chia đều theo thứ bậc, nay chỉ có một nghìn năm trăm hộ nộp đơn, chắc chắn không phải do ép buộc.” Ngạn Bác nói: “Như việc thể lượng mua cỏ, Hà Đông mua cũng gọi là mua, đều không tránh khỏi ép buộc.”
Vua nói: “Đây tức là chia đều, chia đều tức là từ trước vẫn ép buộc, nếu không chia đều, thì không phải ép buộc là rõ.” Ngạn Bác nói: “Vì quan lại có người mong được thăng chức sai phái, nên trên dưới che đậy, lấy ép buộc làm tình nguyện, không thể không xem xét.”
An Thạch nói: “Chắc chắn không có việc này. Việc gần đây chỉ cần có người phá hoại pháp lệnh triều đình, tức là được mọi người giúp đỡ, triều đình tỏ ra bao dung; còn như phụng hành pháp lệnh triều đình, tức là tự mình bị mọi người dò xét công kích, triều đình nghe được, cũng chưa từng tha thứ chút nào. Như Lưỡng Chiết Tây lộ, chỉ nghe nói ngăn chặn dân tố cáo thiên tai, thúc giục thu vật thường bình, chưa kịp xem xét hư thực, đã vội cử sứ đi tra xét. Lý Du, Chu Ước bàn việc trợ dịch, cũng chưa kịp tra hỏi, đã bãi chức. Lý Du bãi chức, vào ngày 9 tháng 10 năm thứ 4, Chu Ước lúc đó làm Hiến ty. Như thế thì chỉ có người ngồi xem, không dám giúp triều đình. Người thi hành pháp luật, không có lý do gì dám ép buộc dân để theo đuổi việc triều đình muốn làm, nếu ép buộc dân, thì dân sao không đến chỗ đợi lộ ra đầu, đánh trống dâng đơn? Đến chỗ đợi lộ ra đầu, tức là Bệ hạ không thể không biết; đánh trống dâng đơn, tức là Bệ hạ không thể không thấy. Bệ hạ đã biết thấy, lý không thể tha thứ. Quan lại không biết vì sao lại phải ép buộc dân, làm việc che đậy?”
Ngạn Bác nói: “Lý Du, Chu Ước sau đó được phục chức.” An Thạch nói: “Du, Ước tự mình xét thấy vô tội, tự nhiên không nên bị trách phạt.” Sung lại nói e rằng chọn bỏ ngựa tốt, binh sĩ oán hận. An Thạch cũng cho là không hại gì.
Vua nói: “Đây là lệnh cho bảo giáp nuôi ngựa, lại chọn ngựa tốt cho bảo giáp, binh sĩ có gì mà oán?” Một hôm, Vua phê giao Trung thư: “Những người trong bảo giáp không có nhà cửa, không được cho tập võ nghệ.” An Thạch nói: “Võ nghệ tuyệt luân lại nhiều lần làm việc ác, nếu không thu nhận, e sinh ra mối lo.” Vua nói: “Có thể thu nhận làm Long mãnh.” An Thạch nói: “Phải tùy tài năng mà thu nhận.”
Thượng lo ngại những kẻ lưu lạc học võ nghệ sẽ gây hại, vì pháp luật về bảo giáp không nghiêm ngặt như pháp luật về cấm quân. An Thạch nói: “Bảo giáp cần dần dần làm cho nghiêm ngặt, dù trong đó có những kẻ lưu lạc hung ác, nhưng không thể đông hơn dân lành, nên không thể gây hại. Thần gần đây đã tâu miệng, nhưng chưa trình lên điều lệ, muốn cho bảo giáp thay thế binh lính tuần kiểm lên phiên, mỗi ngày ngoài chi phí ăn uống, số tiền lương còn lại sẽ được phân chia theo thứ bậc võ nghệ.
Lại chia võ nghệ làm ba bậc, nếu thiên tai gây thiệt hại trên năm phần thì sẽ cứu trợ bằng thóc gạo, từ mười lăm thạch đến năm thạch. Nếu có người võ nghệ cao cường mà lo sợ họ gây họa, thì dù chỉ thiệt hại năm phần cũng được nhận mười lăm thạch thóc gạo, nếu so sánh số tiền lương còn lại, một năm lại có thể được năm bảy ngàn; mùa đông duyệt binh miễn trừ việc đo đạc cỏ và phu dịch, lại có thể được vài ngàn cỏ; nếu lại có trộm cướp truy bắt, thì lại được thưởng tiền rất hậu. Như vậy, những người có võ nghệ há lại bỏ lợi lớn này mà muốn làm điều sai trái? Như vậy thì đông không thắng được ít, không thể gây họa. Còn những người không có võ nghệ, chỉ nên lo lắng cho sự nghèo khó của họ, không lo họ có thể trở thành kẻ cường ngạnh. Nếu làm trộm cướp, thì chỉ là phương tiện để bảo vệ dân chúng và nhận thưởng mà thôi, không có gì đáng lo.”
Thượng lo ngại lâu ngày tiền lương không đủ, An Thạch nói: “Dưới quyền tuần kiểm có sáu ngàn người, mỗi ngàn người mỗi năm khoảng ba ngàn quan, như vậy một năm tốn mười tám vạn quan. Nay nếu bãi bỏ việc chiêu mộ sáu ngàn người này, mà dùng bảo giáp thay thế, tính số tiền lương dùng mười tám vạn quan còn dư mười vạn quan. Dùng hơn mười vạn người thay thế sáu ngàn người, lại dư mười vạn quan tiền mỗi năm, sao lại lo không đủ? Sau một hai năm huấn luyện, sẽ cho bảo chính chiêu mộ người đi chinh chiến, sáu ngàn người chắc chắn có thể có được, huống chi chỉ cần bảo vệ kinh sư mà thôi. Nếu năm nào cũng duyệt binh huấn luyện bảo đinh, lại phong trang số tiền dư mười vạn quan, thì không chỉ việc phòng thủ trong kinh thành ngày càng mạnh, mà còn có dư tiền của. Nỗi lo về tông miếu xã tắc, chính là ở chỗ binh lính chiêu mộ đều là những kẻ thất bại vô lại trong thiên hạ, mà còn có thể cùng họ giữ gìn xã tắc biên cương, huống chi dân lành no đủ, còn lo gì nữa? Nhưng việc này nếu không phải bệ hạ tự mình lo liệu chính sự, trên dưới thông suốt, thì cũng không thể thực hiện được.
Việc nuôi ngựa, trước đây dân gian coi ngựa quan là tai họa có đuôi, há dám xin ngựa quan? Nay dân gian tranh nhau nuôi ngựa, cũng đủ thấy chính sự triều đình đã được dân chúng tin tưởng, biết rằng sau này không có gì quấy nhiễu. Kinh Dịch nói: ‘Xem dân vậy[6].’ Chỉ cần xem dân như vậy, thì biết được cái mà ta sinh ra.”
(Tháng này ngày mồng 2, lại ngày 22, và ngày mồng 5 tháng 7 có thể tra cứu.)
[18] Ngày Đinh Hợi, Hữu Giám môn vệ Đại tướng quân Trọng Hề được lĩnh chức Giao Châu thứ sử, vì đã đỗ trung đẳng trong kỳ thi Đại nghĩa luận ở Học sĩ viện.
[19] Thượng xuất bản tấu từ biên giới phía tây, nói: “Con của Đổng Chiên kết hôn với em gái của Bỉnh Thường.” Vương An Thạch nói: “Vùng Đào, Hà đã quy phụ, Đổng Chiên không thể không lo sợ, việc kết hôn với Bỉnh Thường cũng có lý.” Thượng lo ngại về sự liên kết này, An Thạch cho rằng chỉ cần ở ta mà thôi, việc này không đáng lo. Thượng lại nói Mộc Chinh kiêu ngạo, An Thạch cho rằng có thể sai Vương Thiều dùng mưu kế bắt được hắn, nếu bắt được Mộc Chinh, thì vùng Đào, Hà đều sẽ vì triều đình mà liều chết, không gì là không thể. Vì người Khương chỉ sợ thế lực lớn, Mộc Chinh đã bị bắt, uy thế sẽ lan rộng khắp các bộ tộc Khương. Bằng Kinh cho rằng Mộc Chinh không xâm phạm Trung Quốc, sao phải làm thế.
Thượng nói: “Trung Quốc phái sứ thần đi, lại bắt ngồi dưới thềm, lại nói năng ngạo mạn, sao gọi là không xâm phạm?” Kinh nói: “Hán Văn Đế đối với Hung Nô, chỉ cần họ đến thì chống lại mà thôi, chưa từng tranh chấp.” Thượng nói: “Hán Văn Đế nói với Bằng Đường rằng ăn ngủ chưa từng quên Lý Mục, há chẳng phải là không muốn tranh chấp với Hung Nô? Muốn yên biên cương, cần uy đủ để chế ngự, mới có thể vô sự.” An Thạch nói: “Hán Văn Đế vốn không bằng Văn Vương ‘đánh dẹp, tiêu diệt, dứt tuyệt’, nên mới ‘bốn phương không dám trái’, sau đó dân mới quy phụ, mới có thể hưởng lạc đài ao. Tiên vương dùng 《Thiên Bảo》 trở lên trị nội, 《Thái Vi》 trở xuống trị ngoại, chưa từng không bắt đầu từ lo lắng chăm chỉ, sau đó mới kết thúc bằng an nhàn vui vẻ. Nay Mộc Chinh là Thứ sử Hà Châu, chỉ với một vạn người, dám khinh nhờn như thế, ta lấy thiên hạ lớn lao, tứ di không dám đánh, không dám khinh, không phải việc của Văn Vương. Vả lại ‘Nguyên hậu làm cha mẹ dân’,[7] để dân biên cương bị Di Địch khinh nhờn, há đành lòng? Nhưng việc này cần dùng mưu, không thể dùng sức, nên ở nơi vạn toàn để chế ngự mạng Di Địch mà thôi.”
(Ngày mùng 4 Quý Mùi có thể tham khảo.)
[20] Ngày Mậu Tý, Chu Minh Chi, viên chức kiểm tường văn tự binh phòng của Xu mật viện, tâu rằng: “Từ chức Nội điện thừa chế trở xuống, những người muốn đổi sang chức văn, xin không cần phải có ba đời và thân thuộc từng giữ chức văn.” Vua đồng ý.
[21] Ngày Canh Dần, Vua hạ chiếu cho Phạm Tử Nghi, thông phán Diên châu, làm quan định lập giới hạn ở lộ Phu Diên, thay cho Trương Mục Chi. Trước đó, Mục Chi vâng chiếu cùng người Hạ bàn việc ở biên giới, nhưng tự ý cho Trương Tảo, Bắc tuần kiểm quân Bảo An, mời người Hạ đến quân mình họp bàn. Kinh lược sứ Triệu Tiết tâu lên, Văn Ngạn Bác và các quan cho rằng Mục Chi sinh sự để cầu công, trái với chỉ dụ ban đầu. Vua nói: “Chỉ cần giao cho Triệu Tiết là được, cần gì đến Mục Chi?” Vương An Thạch tâu: “Thần trước chỉ muốn giao cho các kinh lược sứ các lộ, nhưng bệ hạ nhất định muốn cử quan, tuy nhiên việc cử quan cũng không làm tổn hại đến việc giao quyền cho tướng súy. Quan được cử trước đây chỉ để bàn bạc với lộ mình mà thôi, hơn nữa tướng súy thực sự có kẻ lừa dối không đáng tin, nếu có quan triều đình đến thì họ không dám dối trá trong tấu báo.” Vua nói: “Như vậy thì không tổn hại. Mục Chi lại không chịu bàn bạc với lộ mình mà tự ý hành động.” An Thạch nói: “Đây là do Mục Chi trái với chỉ dụ ban đầu, không phải do chỉ dụ không thích đáng.” Vì thế Vua cho Tử Nghi thay Mục Chi. Mục Chi lập câu phong ở Hoàn Khánh vào ngày 4 tháng 12 năm ngoái, không rõ đổi sang Phu Diên từ lúc nào.
[22] Thủ lĩnh lớn của Thanh Đường là Du Long Kha được phong làm Tây đầu cung phụng quan. Ban đầu, bàn về việc ban thưởng chức tước cho Du Long Kha, Vua muốn phong cho chức Nội điện sùng ban và ban thưởng hậu hĩnh, nói: “Nhất định phải đủ để khích lệ những người Khương khác.”
An Thạch nói: “Việc này nên giao cho Vương Thiều và Cao Tuân Dụ cân nhắc, tâu lên triều đình để ứng phó. Nếu triều đình trực tiếp phong chức Nội điện sùng ban, thì Du Long Kha sẽ tự cho rằng mình được triều đình khen thưởng, không phải do An phủ ty ở biên giới, sẽ kiêu ngạo không chịu nghe lời, khiến An phủ ty không còn cách nào để khuyên dụ, đó là điều bất tiện thứ nhất. Lại sợ các thủ lĩnh khác so sánh với nhau, đòi hỏi ân thưởng, nếu không được sẽ sinh ra oán hận, đó là điều bất tiện thứ hai. Thế thiên hạ giống như tâm điều khiển thân, thân điều khiển tay, tay điều khiển ngón tay, mới được yên ổn. Nay triều đình tự mình muốn khuyên dụ Du Long Kha, giống như dùng tâm điều khiển ngón tay mà không qua tay, việc này không tiện. Chi bằng giao việc cho Vương Thiều, tùy theo việc lớn nhỏ mà ban thưởng chức tước, như vậy sẽ không bỏ lỡ thời cơ, lại có thể khiến Du Long Kha thực sự phục vụ.”
Vua vui vẻ nói: “Chỉ sợ Vương Thiều không dám xin thêm chức tước cho Du Long Kha.” An Thạch nói: “Bệ hạ có thể nhờ trung nhân truyền chỉ.” Vua nói: “Trung nhân truyền chỉ, ý thường không đầy đủ.” An Thạch nói: “Bệ hạ có thể dùng thủ sắc để truyền chỉ.”
Vua nói: “Chỉ cần khanh viết thư nói rõ là được.” An Thạch nói: “Gần đây vì Vương Thiều có công việc, nhận được thư của ông ấy mà chưa dám trả lời.” Vua nói: “Viết thư có hại gì?”
Vua lại muốn phong ngay cho Du Long Kha làm Thứ sử bộ lạc, An Thạch nói: “E rằng chưa cần thiết, chỉ nên giao cho Vương Thiều cân nhắc là tiện nhất.” Văn Ngạn Bác nói: “Người gần thì vui, người xa thì đến. Nếu ban thưởng chức tước cho Du Long Kha quá hậu, thì các bộ lạc cũ có thể không vui.” Vua nói: “Tình thế lớn nhỏ tự nhiên khác nhau.” An Thạch nói: “Đúng vậy. Lệnh Tu Kỷ sức lực đâu thể so với Du Long Kha?”
Vua nói: “Lệnh Tu Kỷ chỉ có bốn trăm hộ, còn Du Long Kha được xưng là mười vạn người[8], dù ít cũng phải vài vạn.” Vua nghe theo ý kiến của An Thạch, hạ lệnh cho An phủ ty và có mệnh lệnh này. Lại ban thêm tước hiệu và họ Bao, đặt tên là Thuận.
Tây Khương Du Long Kha sau khi quy phụ triều đình, được dẫn vào Cáp môn yết kiến, nói với sứ giả áp tùng rằng: “Từng nghe nói Bao Trung thừa Chửng là trung thần của triều đình, nay tôi đã quy phụ nhà Hán, xin được mang họ Bao.” Thần Tông đồng ý theo lời thỉnh cầu, đặt tên là Thuận. Sau này, ông hết lòng trung thành phục vụ ở Hi Hà. (Điều này căn cứ theo ghi chép của Lý Phục Khuê, nhưng sợ rằng thông tin nghe được có thể không chính xác, cần xem xét thêm.) Ngày 18 tháng 12 năm thứ 4, lần đầu được phong chức Điện trực.
Vua lại muốn phong ngay cho Du Long Kha làm Thứ sử bộ lạc, An Thạch nói: “E rằng chưa cần thiết, chỉ nên giao cho Vương Thiều cân nhắc là tiện nhất.” Văn Ngạn Bác nói: “Người gần thì vui, người xa thì đến. Nếu ban thưởng chức tước cho Du Long Kha quá hậu, thì các bộ lạc cũ có thể không vui.” Vua nói: “Tình thế lớn nhỏ tự nhiên khác nhau.” An Thạch nói: “Đúng vậy. Lệnh Tu Kỷ sức lực đâu thể so với Du Long Kha?” Vua nói: “Lệnh Tu Kỷ chỉ có bốn trăm hộ, còn Du Long Kha được xưng là mười vạn người[9], dù ít cũng phải vài vạn.”
Vua nghe theo ý kiến của An Thạch, hạ lệnh cho An phủ ty và có mệnh lệnh này. Lại ban thêm tước hiệu và họ Bao, đặt tên là Thuận. Tây Khương Du Long Kha sau khi quy phụ triều đình, được dẫn vào Cáp môn yết kiến, nói với sứ giả áp tùng rằng: “Từng nghe nói Bao Trung thừa Chửng là trung thần của triều đình, nay tôi đã quy phụ nhà Hán, xin được mang họ Bao.” Thần Tông đồng ý theo lời thỉnh cầu, đặt tên là Thuận. Sau này, ông hết lòng trung thành phục vụ ở Hi Hà.
Điều này căn cứ theo ghi chép của Lý Phục Khuê, nhưng sợ rằng thông tin nghe được có thể không chính xác, cần xem xét thêm. Ngày 18 tháng 12 năm thứ 4, lần đầu được phong chức Điện trực.
[23] Thái thường thừa, quyền Giám sát ngự sử lý hành Hoàng Hảo Khiêm được quyền thông phán Dĩnh Châu, vì mẹ già nên tự xin như vậy.
[24] Ngày Tân Mão, ban chiếu rằng: “Biên giới phía Bắc nhiều việc không tuân theo quy định cũ, gần đây thường gây ra sự việc, lo rằng có âm mưu xấu, có thể chỉ huy các vùng Hà Bắc, Hà Đông dùng nhiều tiền bạc để chiêu mộ người thâm nhập dò xét động tĩnh rồi báo cáo.”
Trong sách thệ ước hai triều có ghi: Năm Hi Ninh thứ 5, châu Hùng tấu rằng: “Viên ngoại lang Chức phương Vương Ngọc cùng Thị cấm Giám trường Lý Đoan Ngạn ở trong trướng phía nam cầu Bạch Câu giới thủ, ngồi cùng với Tả nha Đái Tòng Tỉnh do phía Bắc cử đến, theo lệ chuyển 2.000 tấm lụa hội thứ nhất đến giữa cầu xếp đống, có Giản tử Dương Nguyên Hanh của kho Vĩnh Phong phía Bắc điểm qua số lớn, quân hai bên điểm qua số nhỏ. Tòng Tỉnh lệnh Nguyên Hanh mở bó lụa, xem từng tấm và đo kích thước. Đoan Ngạn cùng Hữu nha Tòng Tỉnh bàn rằng: ‘Vật phẩm tin cậy, từ lâu giao nhận chưa từng có lệ này.’ Tòng Tỉnh nói: ‘Theo lệnh tuyên chỉ lần này, khi giao nhận phải kiểm tra từng tấm, nếu không có hư hỏng nhỏ thì mới giao, không phải gây sự.’ Tòng Tỉnh lại nói: ‘Dù là lụa tốt nhất cũng phải đợi vài ngày. Giao nhận biểu đồ cần xem xét kỹ.’ Châu ty xét rằng, lệ giao lụa từ lâu, mỗi 2.000 tấm làm một hội, chỉ điểm số từng hội để giao nhận, chưa từng sai người mở từng tấm để kiểm tra. Nay nếu để họ chọn lọc như vậy, không chỉ gây khó khăn trì hoãn, mà còn lo mất thể thống, lại sợ sinh sự không dứt. Từ năm ngoái, mỗi lần giao nhận bạc lụa, phía Bắc thường gây khó, phải nhiều lần thương lượng mới theo lệ cũ. Nay lại sinh sự, nếu không xử lý, e rằng phía Bắc sẽ thêm phiền phức. Châu ty xét rằng, nếu chiều theo để họ kiểm tra từng tấm, không chỉ tổn hại thể thống, mà còn khiến họ thêm kiêu ngạo, rất bất tiện. Châu này đã gửi văn thư cho Vương Ngọc đợi thêm vài ngày, phải theo lệ cũ để giao nhận.” Ngày 12 tháng 5, phụng thánh chỉ lệnh châu Hùng giữ lý lẽ, thương lượng khéo léo, theo lệ cũ giao nhận. Không rõ sau đó giao nhận thế nào. Chiếu này nói biên giới phía Bắc không tuân lệ cũ, chính là chỉ việc này, nay ghi chú vào ngày này.
[25] Vương An Thạch dâng sớ của Vương Thiều lên Vua, Thiều nói: “Đã mở rộng đất đai hơn 1200 dặm, chiêu dụ hơn 30 vạn người. Sách 《Vương Thiều bản truyện》 chép: Thiều dâng bản đồ các bộ lạc Thổ Phồn đã hàng phục, thu được hơn 2000 dặm đất, hơn 20 vạn nhân khẩu. Cả bản chép tay và bản in đều giống nhau, nhưng lại khác với sớ của Thiều, cần xem xét thêm. Tuy nhiên, đây chỉ là điều mà mọi người cho là kết quả khác thường. Những gì Thiều muốn làm cho triều đình vẫn chưa rõ ràng, có lẽ tướng công cũng không chỉ kỳ vọng Thiều làm được như vậy, e rằng những người phụ trách đều muốn giữ gìn thành tích, không còn ý chí phấn đấu tiến lên nữa.”
Vương An Thạch tâu với Vua: “Thiều làm như vậy thật là tốt. Nay 30 vạn người nếu có thể dần dần dùng pháp luật để điều khiển, không lâu nữa sẽ trở thành người Hán, bởi vì vốn dĩ họ đều là người Hán. Thiều nói đã chiêu mộ được hơn 900 người dũng cảm, cày cấy 100 khoảnh ruộng, lập hơn 30 quán rượu. Các bộ lạc Thổ Phồn đã trở thành người Hán, họ coi thường đất đai mà quý trọng hàng hóa, người Hán có thể giao dịch với họ, tức là người Hán có đất, các bộ lạc Thổ Phồn có hàng hóa, cả hai đều đạt được điều mình muốn, ruộng đất được khai khẩn, thương mại thông suốt. Người Hán và Thổ Phồn hợp làm một, tự nhiên dễ dàng điều khiển. Nhân đó ra lệnh cho Thiều như các lộ khác, dùng tiền để hỗ trợ việc thu thuế, lại quyên hơn một triệu quan tiền để nuôi ngựa ở các bộ lạc Thổ Phồn, và tổ chức họ thành đội ngũ, khuyến khích họ luyện tập võ nghệ, khiến dân chúng giàu có, binh mã hùng mạnh, nhân đó mà sử dụng họ, thì không gì là không thể. Nay các bộ lạc Thổ Phồn mới quy phụ, giống như người thời hỗn mang, chỉ cần ta sắp đặt là được.” Vua nói: “Mộc Chinh cần phải sớm tiêu diệt.” Vương An Thạch nói: “Không chỉ Mộc Chinh, Đổng Chiên và nước Hạ cũng đều nằm trong sự sắp đặt của ta. Các lộ khác có thể ngồi yên không lo gì.” Vua nói: “Nay tuy đã chiêu dụ được, nhưng chưa thể sử dụng.” Vương An Thạch nói: “Kế hoạch ban đầu của Thiều đến nay không hề sai lệch, nay đã thấy manh mối, từ đây trở đi, ngày càng thấy hiệu quả, không lo không dùng được, chỉ cần bệ hạ sáng suốt xem xét, đừng để những ý kiến khác làm rối loạn mà thôi. Việc án của Thiều xong rồi, nếu triệu ông ấy về để truyền đạt ý chỉ này, chắc chắn sẽ thành công.” Vua nói: “Cao Tuân Dụ đã đến, có thể dùng ý chỉ này để truyền đạt cho ông ấy.”
[26] Ngày Nhâm Thìn, bổ nhiệm Đại Lý tự thừa, Đô thủy giám chủ bạ Chu Lương Nhụ làm Điện trung thừa. Trước đó, Lương Nhụ tâu: “Sông Biện hàng năm có các tên gọi như nghĩ khai, thứ nghĩ khai, nghĩ bị khai, tổng cộng bốn năm chỗ, tuy cửa sông cũ không có gì thay đổi, nhưng những người như hào trại vẫn tính toán rộng rãi, mỗi năm điều động dân phu đến bốn năm vạn người, gây ra nhiều phiền nhiễu, ruộng đất tốt của dân hoặc bị đánh dấu làm sông đào, hoặc chỉ định làm trại phu, khiến dân các châu Lạc, Mạnh, Nhữ, Thái, Hứa, Trịnh hàng năm phải điều động, sức lực kiệt quệ không chịu nổi, thêm vào đó vật liệu sử dụng hàng năm không kể xiết, tệ nạn tích tụ lâu năm đã thành thói quen. Chỉ như mùa xuân năm thứ tư, khai đất ở Ti Gia Điếm, huy động hơn bốn vạn dân phu và binh lính, một tháng tính ra hơn một trăm hai mươi vạn công, mới được ba tháng thì đã bị bồi lắng, Ứng Thuấn Thần xin dùng lại cửa sông cũ, chỉ huy động hơn một vạn công, chỉ trong bốn ngày nước đã chảy thuận lợi. Từ đó có thể thấy, nếu sông vẫn chảy dọc theo bờ nam, chỉ cần dùng cửa sông cũ là thuận tiện.” Do đó, sai Lương Nhụ đi xem xét, và Lương Nhụ lại tâu: “Cửa sông mùa xuân năm nay có thể huy động hai nghìn tám trăm năm mươi mốt người, một tháng tính ra hơn mười vạn năm mươi công, so với số công huy động năm thứ tư giảm đi tám chín phần mười, lương thực và vật liệu không tính vào đó.” Đô thủy giám cũng xin theo lời tâu của Lương Nhụ, nên ban thưởng cho ông. Cuối tháng mười năm thứ tư, Ứng Thuấn Thần xin dùng lại cửa sông cũ ở Biện khẩu.
[27] Hà Dương Tam Thành tiết độ sứ, Thủ Tư không kiêm Thị trung Tăng Công Lượng làm Tập Hi quan sứ.
[28] Tri châu Tử, Thiếu phủ giám Triệu Thượng Khoan làm Tư nông khanh, Trực Long đồ các, Đề cử Hà Đông lộ hình ngục, Quang lộc thiếu khanh Cao Phú làm Bí thư giám, Trực Long đồ các, Tri châu Thương, Thông phán Điện trung thừa Trương Tuân Đề cử Kinh Tây lộ thường bình đẳng sự. Trước đó, Vương An Thạch tâu với Vua rằng: “Cao Phú xây dựng thủy lợi, công lao rất nhiều. Phú ở châu Đường, dù không có công này, cũng nên làm Đề điểm hình ngục. Trước đây vì lời người ta mà bãi chức, chưa được hưởng ân, muốn xét lại để ban thưởng.” Vua nói: “Tốt.” Do đó, cùng Thượng Khoan, Tuân đều tiến trình, Vua dụ các quan chấp chính rằng: “Thượng Khoan ở châu Đường khai khẩn ruộng đất, đào kênh, chiêu tập dân, hầu như không có đất bỏ hoang, đã có thành tích, nên tuyên bố tình hình trị lý, và thăng chức để khuyến khích thiên hạ. Dân ngu có thể cùng hưởng thành quả, khó cùng lo liệu từ đầu, triều đình khởi xướng nếu thực sự biết lợi ích, giả sử ép buộc để hoàn thành công việc, cũng không có hại, chỉ cần không giả dối mà thôi.”
[29] Thượng lại bàn rằng người có tài không thể để ở chỗ nhàn rỗi, nhân đó nói Hán Vũ Đế cũng biết dùng nhân tài. Vương An Thạch nói: “Vũ Đế tầm nhìn thấp, nên dùng tướng súy chỉ là Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, đến nỗi hộ khẩu trong thiên hạ giảm một nửa, nhưng cũng không thể diệt được Hung Nô.” Thượng nói: “Vũ Đế tự mình ham muốn nhiều thôi.” Thượng dụ các quan chấp chính rằng: “Hành động của bậc nhân chủ không nên có ham muốn làm hại chính sự.” An Thạch nói: “Ham muốn cũng không thể hại chính sự, như Tề Hoàn Công cũng ham muốn nhiều, nhưng bày mưu đặt kế, không mất đi cơ hội xưng bá thiên hạ, là vì biết dùng người vậy.” Thượng nói: “Hán Vũ Đế cực kỳ bất nhân, vì ham muốn một con ngựa mà khiến quân đội vất vả vạn dặm, phong hầu hơn bảy mươi người, coi mạng người như cỏ rác, nên hộ khẩu giảm một nửa. Mạng người cực kỳ quan trọng, đức lớn của trời đất là sinh tồn, sao có thể như vậy!” An Thạch nói: “Bất nhân như vậy, không chỉ là họa của con người, báo ứng âm dương cũng không thể tránh được!” Thượng nói: “Có chính sự tốt thì không chỉ con người được yên ổn, chim muông cá biển cũng đều thuận lợi, như ‘lưới dày không bủa vào ao tù’, thì cá biển cũng được thuận lợi sinh trưởng.” An Thạch nói: “Đúng vậy. Tiên vương ban ơn đến chim muông cây cỏ, không chỉ vì chính sự, mà đức nghĩa đến cùng cực, mới có thể khiến trời đất hòa hợp, nên ‘mưa rào rào, mây đen đen’ là thơ thời thịnh trị của nhà Chu; đến lúc suy, đói kém dịch bệnh, ứng với chính sự, là lời chê trong Biến Nhã vậy. Bởi người hòa thì trời đất hòa ứng, người không hòa thì trời đất không hòa ứng, đó là lẽ tự nhiên.” Thượng nói: “Thời Nghiêu, Thuấn phượng hoàng đến múa, vốn không lạ gì.”
[30] Chiếu ban cho Kinh Đông Lộ số lượng lương thực nộp năm ngoái và năm nay là tám mươi bảy vạn quan tiền, làm vốn cho Ty Thị dịch vụ ở kinh đô.
[31] Cơ quan Củ sát tại kinh hình ngục tâu rằng: “Dân chúng phạm tội, Ngự sử đài cử quan văn đến cùng cơ quan đó tra hỏi lấy lời khai rồi mới tâu lên xin xét xử, đó là để coi trọng việc hình ngục, ngăn ngừa tệ nạn xử án sai lầm. Còn quân nhân thuộc các ty Điện tiền, Mã quân, Bộ quân phạm tội chết, chỉ gửi văn thư đến Thẩm quan Tây viện, cử Đại sứ thần đến tra hỏi, nhưng Đại sứ thần ít thông hiểu luật pháp, xin theo lệ của Khai Phong phủ, gửi văn thư đến Ngự sử đài cử quan đến các ty đó tra hỏi.” Lại tâu: “Các chức Kiểm pháp quan của Tam ty và Pháp tào tham quân, Công tào tham quân của Khai Phong phủ nếu có khuyết, xin cử người trong số những người mới đỗ kỳ thi pháp quan để bổ sung.” Đều được chấp thuận.
[32] Trung thư tâu: “Việc thăng chức cho tông thất, xin từ chức Quan sát sứ trở lên thì do Đại tông chính ty xét cử, bảo đảm rồi tâu lên, Trung thư căn cứ lệ mà thi hành. Còn từ chức Phòng ngự sứ chính nhiệm trở xuống, chỉ do bản ty xét cử, theo lệ khảo xét quan lại kinh triều của Thẩm quan Đông viện mà xin chỉ, sau khi được phê chuẩn thì giao cho Trung thư cấp sắc cáo. Tông thất làm quan ngoài kinh thì theo lệ quan ngoài, giao cho cơ quan quản lý thi hành.” Được chấp thuận.
[33] Xuống chiếu rằng phi tần, công chúa, bề tôi xin ân điển cho quan y, không được vượt quá chức Trực Hàn lâm Y quan viện. Trước đây, Trần Quốc trưởng công chúa tâu xin thăng Thái y thừa Lý Vĩnh Xương lên chức Trực Hàn lâm Y quan viện, chiếu cho một con của ông ta được vào học ngành y, đồng thời đặt ra quy định riêng, từ đó định ra chế độ này.
[34] Đông thượng các môn sứ, Xu mật đô thừa chỉ Lý Bình thích bàn luận việc, thường được thi hành. Tuy nhiên, tính cách khắc nghiệt, ở các môn và Xu mật viện thường lộng quyền không kiêng dè, bố trí nhiều tai mắt, nghe ngóng việc bên ngoài để tự cho là trung thành, mong được trọng dụng, khiến trong ngoài đều nghi ngại. Ông ta cũng từng kịch liệt phản đối phép trợ dịch, cho rằng không thể thi hành, Vương An Thạch đặc biệt ghét ông ta. Việc kịch liệt phản đối phép trợ dịch được ghi trong 《Nhật lục》 ngày 23 tháng 6 năm thứ 4, nay phụ chép ở đây, không ghi riêng.
Trước đây, trong lễ thượng thọ ở điện Tử Thần, theo nghi thức cũ chỉ nói rằng Xu mật, Tuyên huy, Tam ty phó sứ không được ngồi, còn theo lệ cũ thì thân vương, hoàng thân đều được ngồi, chỉ trong yến tiệc lớn ở điện Tập Anh mới có nghi thức thân vương, phò mã đô úy không được ngồi. Lúc đó, Lý Bình định ra nghi thức mới, ban đầu không có gì thay đổi, nhưng lại vội hặc tội các quan các môn không nên để thân vương, hoàng thân, phò mã ngồi dự ở điện Tử Thần, cho rằng không tuân theo chế độ mới, khiến Giả Hữu[10], Mã Trọng Lương đều bị cách chức. Vương An Thạch tâu rằng Lý Bình định ra nghi thức không rõ ràng, lại tự tiện kết tội người khác. Vua cũng nói rằng nghi chế hỗn loạn không thể dùng được, xuống chiếu trách Lý Bình luận tội không đúng, cùng các quan các môn đều được tha tội.
Sau đó, Lý Bình kêu oan trước mặt Vua, tự cho rằng việc mình luận tội không sai, Vua phê vào trung thư, lệnh trình lại lệnh tha tội. Vương An Thạch cố tâu: “Các quan các môn vô tội, Lý Bình luận tội thực sự không đúng, Giả Hữu, Mã Trọng Lương không nên bị cách chức. Hơn nữa, Vương Chiêu Tự cùng Giả Hữu, Mã Trọng Lương đều bị hặc tội, nhưng khi cách chức Giả Hữu, Mã Trọng Lương, lại cử Vương Chiêu Tự thay hai người đó. Bệ hạ chưa từng tự mình định đoạt việc tốt xấu, sao có thể để Lý Bình định đoạt? Phàm việc tạo uy phúc, vốn là quyền của bệ hạ, nhưng thần chức trách là phụ đạo bệ hạ bằng đạo nghĩa, việc thưởng phạt như thế này không thể gọi là nghĩa. Một người ngang ngược trong thiên hạ, Vũ Vương cho là điều nhục nhã, nay ở ngay bên cạnh điện đài, để họ bị đàn áp tùy tiện, khiến người trong lòng bất bình, sao có thể làm chủ thiên hạ, làm cha mẹ dân? Bệ hạ nếu tự mình định đoạt việc tốt xấu, dù có quá đáng, người ta vẫn còn sợ; bệ hạ nếu để người khác định đoạt việc tốt xấu, e rằng uy phúc sẽ bị người khác chiếm đoạt. Thần đâu phải tranh cãi đúng sai với Lý Bình, chỉ là nghĩa lý phải như vậy.” Vua cuối cùng cho rằng nghi thức Lý Bình định ra so với nghi thức cũ vốn không có gì thêm bớt, không phải do nghi thức mới không rõ ràng. Các quan các môn đã thấy bản vẽ chỗ ngồi truyền lại khác với bản vẽ chỗ ngồi trong nghi thức, lẽ ra phải xin chỉ thị, nhưng lại tự ý dùng bản vẽ truyền lại để sắp xếp, Lý Bình hặc tội họ không phải là không đúng. Vua xuống chiếu đặc cách tha tội cho các quan các môn.
An Thạch lại dâng tấu trước, Vua nói: “Nếu quả nhiên nghi chế mới không rõ ràng, thì cũng không phải chỉ riêng Lý Bình có tội.” An Thạch nói: “Trung thư chỉ nói nghi chế mới không rõ ràng, vốn chưa từng đổ tội riêng cho Lý Bình. Nghi chế đã định như vậy không rõ ràng, lại còn vu cáo các quan lại ở các môn, đó là tội của Lý Bình.” Vua nói: “Lý Bình vốn có tội, nhưng cũng chưa thể chỉ tội riêng cho Lý Bình được[11].” Đoạn này căn cứ vào 《Ngự tập》 và 《Nhật lục》 mà sửa chữa. Vua phê giao cho Trung thư: Trước đây vì Lý Bình luận tội các môn dùng sai nghi lễ chúc thọ ngày Đồng Thiên tiết, đặc cách tha tội. Nay triệu hỏi Lý Bình kỹ càng, những điều Lý Bình luận tội đều không sai, có thể tiến trình lại để lấy chỉ dụ. Trung thư tấu: Đã phụng chỉ nghi chế chúc thọ mới định không rõ ràng, các quan lại ở các môn đều không tâu xin, đặc cách tha tội. Lại phê: Nghi chế chúc thọ mới định với nghi chế cũ vốn chưa từng thay đổi, tức là không phải nghi chế mới định không rõ ràng, tất cả các quan lại ở các môn không hợp lý khi thấy bản đồ chỗ ngồi truyền lại với bản đồ chỗ ngồi trong nghi chế khác nhau, không tâu xin lấy chỉ dụ, liền tự ý dùng bản đồ chỗ ngồi truyền lại để dán định, đặc cách tha tội, nhanh chóng sửa đổi thi hành.
Lại phê giao cho Xu mật viện: Lý Bình vì sửa đổi văn tự mà bị khiển trách, vừa lúc tấu sự ở Diên Hòa, nhân hỏi kỹ càng, mới biết là các lại viên không nói rõ đã qua Xu mật viện phó sứ sửa đổi, liền dùng ý mình sửa đổi mấy chục chữ, nhưng Lý Bình tự nhận thật có tội cẩu thả, xét kỹ tâm ý, cũng không có gì khác, chỉ vì chức vụ không dám cẩu thả, về lý cũng nên khoan dung, có thể đặc cách tha tội. Lâm Hi chép việc Lý Bình rất chi tiết. Nay phụ chú lúc Lý Bình ra làm Tri Bảo châu. Lâm Hi nói Lý Bình sắp xếp sai chỗ ngồi các viên quân, chắc là Lâm Hi nghe không rõ. Lý Bình ra làm Tri Bảo châu vào tháng 7 ngày Mậu Tuất[12].
[35] Ngày Quý Tỵ, Tư nông tự thừa Sái Thiên Thân xin rằng Kinh lược an phủ ty Hà Đông cũng nên đặt kho thường bình, các điều ước đều theo như Thiểm Tây. Vua phê: “Các hộ người Phiên ở ba châu Lân, Phủ, Phong so với các lộ Thiểm Tây càng nghèo khó, nên theo lời xin của Thiên Thân, trong số lụa gấm ban gần đây cho Thiểm Tây, hãy cấp năm vạn tấm cho hai lộ Kinh Nguyên, Phu Diên để làm vốn cho Hà Đông.”
[36] Chiếu rằng các thủ lĩnh từ em của Mộc Chinh là Đổng Cốc trở xuống, đều được thăng bổ và ban thưởng trà, lụa theo thứ bậc khác nhau.
[37] Ngày Giáp Ngọ, Vua nói với Vương An Thạch rằng: “Sái Xác bàn về việc thi ở Thái học rất sơ sài.” Phùng Kinh nói: “Nghe nói nhiều thí sinh đạo văn của cha con Vương An Thạch, quan coi thi ghét điều đó nên hạ điểm họ.” Vua nói: “Cần thống nhất đạo đức. Nếu nói như vậy, thì sao có thể tùy tiện nói? Lời trong 《Thi》, 《Thư》 giống nhau thì không thể sửa được sao?” An Thạch nói: “Câu ‘Nhu viễn năng nhĩ’, cả 《Thi》 và 《Thư》 đều có lời này, không thể dùng lời khác thay thế. Thần xem sách Phật, thấy hợp với kinh điển, vì lẽ đó, dù cách xa nhau, sự phù hợp vẫn như khớp với phù tiết.” Vua nói: “Phật là người Tây Vực, ngôn ngữ khác, đạo lý sao lại khác?” An Thạch nói: “Thần nghĩ rằng nếu hợp với lý, dù quỷ thần có khác, cũng không thể thay đổi được.” Vua nói: “Đúng như vậy.”
[38] Phùng Kinh nói: “Vùng Tây Bắc thiếu người làm giáo thụ.” Vương An Thạch nói: “Giáo thụ phải là người có thể làm gương mẫu cho người khác, nếu không phải người như vậy thì không bằng để họ học tập các tác phẩm của người gần đây.” Vua nói: “Người Tây Bắc thật sự còn mơ hồ, chưa có chỗ dựa.” Vương An Thạch nói: “Người Tây Bắc trước đây làm học cứu, học tập những điều không có nghĩa lý, nay đổi thành tiến sĩ, học tập những điều có nghĩa lý. Lấy học cứu làm tiến sĩ, đối với sĩ nhân không phải là không vui; bỏ điều vô nghĩa lý để theo điều có nghĩa lý, đối với việc học tập không phải là không tốt. Số lượng giải ngạch cũ vẫn trả về cho bản lộ, sĩ nhân vùng Đông Nam không thể xâm chiếm, đối với sĩ nhân cũng không có gì tổn hại. Đã không có tổn hại, lại khiến sĩ nhân bỏ điều vô nghĩa lý để theo điều có nghĩa lý, thoát khỏi danh hiệu học cứu để trở thành tiến sĩ, điều này cũng là chính sách mới đối với sĩ nhân Tây Bắc, có thể nói là không phụ lòng họ.” Phùng Kinh nói: “Người Tây Bắc cứng nhắc, khó thay đổi.” Vương An Thạch nói: “Người theo khoa cử cũ tuy không thay đổi hết, nhưng mười người phải thay đổi ba bốn người, thế hệ sau thì thường thay đổi hết. Phàm việc cải cách cũ thành mới, cũng cần thời gian để thấy hiệu quả trong mười năm sau.”
[39] Hôm đó, Vương An Thạch ở lại, xin được nhậm chức ở một quận phía đông nam, nói: “Lâu nay mệt mỏi, gần đây lại bệnh tật, sợ công việc sẽ hỏng, làm liên lụy đến sự sáng suốt biết người của bệ hạ.”
Vua rất lấy làm lạ về việc Vương An Thạch như vậy, nói: “Khanh há có điều gì chưa nói hết, hãy vì Trẫm mà nói ra, Trẫm nào từng trái ý khanh, hay là vì Lý Bình chăng?” An Thạch đáp: “Thần không vì việc đó. Từ tháng hai đến nay, thần đã muốn tự nói, nếu được một hai năm nghỉ ngơi ở ngoài, bệ hạ không cho thần là vô dụng, thần cũng không dám nói mệt.”
Vua nói: “Khanh có bệnh gì, ắt có lý do, hãy vì Trẫm mà nói hết. Việc thiên hạ đang có đầu mối, khanh mà đi, làm sao xong? Khanh được Trẫm dùng, không phải vì tước lộc, chỉ vì mang đạo thuật có thể giúp dân, không nên tự chôn vùi, khiến người ta không được hưởng ơn. Trẫm dùng khanh, há có gì khác? Trời sinh thông minh, để trị dân, cùng nhau làm hết đạo để trị dân mà thôi, không phải vì công danh.
Từ xưa đến nay, quan hệ quân thần như khanh với Trẫm rất hiếm, há giống như quân thần đời nay? Như Phùng Kinh, Văn Ngạn Bác, vốn quen việc đại thần đời nay, hoặc lấy việc chia đều lao nhọc làm lời, khanh há nên như vậy? Trẫm ngu muội, ban đầu chưa biết gì, từ khi khanh ở Hàn Lâm, mới được nghe thuyết đạo đức, lòng dần khai ngộ, khanh là thầy của Trẫm, quyết không cho khanh ra ngoài. Hãy thôi viết văn tự, chỉ khiến bốn phương nghe, hoặc sinh ra ngóng trông, nghi ngờ giữa Trẫm với khanh có điều gì, Trẫm với khanh há người khác có thể xen vào! Khanh có điều chưa nói hết, hãy vì Trẫm mà nói.”
An Thạch nói: “Thần mang ơn bệ hạ biết đến, vốn nên hết lòng trung thành, nhưng thật vì bệnh tật suy yếu, sợ không xứng với ý bệ hạ giao phó, rất không dám vội vàng nói đến việc này, nhưng lâu nay tự suy tính, phải đến làm phiền thánh thính. Thần cũng thấy Phùng Kinh, Văn Ngạn Bác gần đây đều xin đi mà không được, thần rất sợ bệ hạ không nghe thần đi, không muốn gây ra việc rối ren, nhưng suy tính kỹ phải đến như vậy, xin bệ hạ xem xét kỹ.” An Thạch lui ra, Vua giữ lại, dặn đừng dâng văn tự, như vậy hai lần, An Thạch nói: “Thần nhận thánh chỉ[13], chưa dám dâng văn tự, đợi một hai ngày nữa xin được đối đáp.”
Vua nói: “Đừng như vậy, quyết không cho khanh đi. Người ngoài ngóng trông, sợ hại việc.”
(Trần Quán bàn rằng: Lúc đầu niên hiệu Hi Ninh, Thần Tông cho Vương An Thạch là người hiền, từ khi Đặng Oản bị đuổi, không còn cho Vương An Thạch là người hiền nữa. Vương An Thạch lui về viết sách, uất ức oán hận, lúc đó tự cho mình là thánh, trong sách mượn lời thánh huấn nói: “Khanh là thầy của Trẫm.” Lại nói: “Nghĩa quân thần, nặng hơn bạn bè. Trẫm đã cùng khanh làm quân thần, nên vì Trẫm mà chịu khuất một chút.” Những lời bất kính như vậy mượn lời thánh huấn, trước sau không thống nhất, lại nói Lữ Huệ Khanh cũng là thầy, lại nói như Thường Trật cũng nên khuất mình mà thờ. Huệ Khanh là thầy thì mượn lời Tăng Công Lượng, Thường Trật đáng làm thầy thì mượn lời Trương Tiển. Thần Tông thường nói “Thường Trật là người không biết điều”, mà có thể làm thầy của thánh chúa sao? Huống chi hành trạng của Trương Tiển, vốn có đầu đuôi, há có việc tôn vinh người không biết điều mà xin thánh chúa thờ làm thầy? Thần Tông lấy đạo Nghiêu, Thuấn soi sáng thiên hạ, cao dày như trời đất, sáng như mặt trời mặt trăng, Vương An Thạch lại muốn cùng Lữ Huệ Khanh, Thường Trật đều làm thầy, khinh nhờn Vua cha, chẳng phải quá lắm sao! Việc đó giả dối, nên tôi gắn vào ngụ ngôn[14].)
[40] Ngày Ất Mùi, ban chiếu rằng: Con trai của Tây Kinh Tả Tàng khố Phó sứ Bạch Ngọc là Chiêu Tín, trước đây ở Hoang Đôi gặp giặc, cùng cha mình chiến đấu ác liệt khiến giặc Tây thua chạy. Tuy nhiên, vì là con em tướng quan, theo pháp luật không được luận công ban thưởng, có thể cho dẫn vào yết kiến để nhận chỉ sau đó bổ làm Tam ban tá chức, ban thưởng đai bạc, áo bào và hốt.
[41] Ngày Bính Thân, Vương An Thạch tâu với Vua: “Lưu Hi Thích trước đây vì Quách Quỳ mà du thuyết, lời nói có phần lừa dối, bệ hạ có nhớ không? Sợ rằng người như thế không nên còn giao phó việc nghe ngóng.” Vua hỏi: “Lúc đó hắn nói việc gì?” An Thạch đáp: “Hắn nói Du Long Kha muốn đến Kinh lược ty ra mặt và giúp Trí Duyên, suýt nữa làm hỏng kế hoạch biên cương của bệ hạ.” Vua nói: “Hi Thích nói việc này, việc kia thì đúng là thật.” An Thạch tâu: “Nếu mọi lời nói đều không thật, thì đó là kẻ ngu xuẩn, làm sao có thể che mắt bệ hạ? Chỉ vì nói sự thật xen lẫn lừa dối, khiến bệ hạ không nghi ngờ là gian tà, che mắt bệ hạ, đó mới là điều mà Nghiêu, Thuấn lo sợ và khó xử lý. Huống chi việc phương xa, bệ hạ không thể tự mình đến tận nơi, chỉ nhờ vào người nghe ngóng, nếu họ lừa dối thì không thể dung thứ được.” Vua nghe xong rất hài lòng.
[42] Ty An phủ vùng biên Tần Phượng lộ tâu: “Các bộ tộc phiên ở vùng sông Đào gần đây biết quan phủ có tiền hỗ trợ, không ngừng đến xin nhận. Vì mới nhận chỉ dụ triều đình lệnh từ cuối tháng ba ngừng chi trả, sợ rằng vì thế mà ngăn trở tình cảm của người phiên.” Chiếu rằng từ nay không hạn chế thời gian chi trả, nếu tiền ở Ty Kinh lược không đủ, thì lấy tiền ở Ty Thị dịch tiếp tục chi trả. Lại tâu xin lập trường học ở quân Thông Viễn, cũng được chấp thuận.
Vương An Thạch nói: “Chủng Thế Hoành ở châu Hoàn lập trường học, cho con em các quan phiên vào học, Ty Giám sát nghi ngờ việc này, sai quan đi xem xét. Thế Hoành cho rằng không phải muốn lấy con em quan phiên làm môn sinh, mà chỉ muốn thân thiết với họ, lại khi bình thường không có việc gì, mỗi nhà như có con tin ở châu.” Vua nói: “Thế Hoành việc gì cũng có mưu kế, việc lập trường học không phải là tùy tiện.” Vương An Thạch lại tâu Vua: “Phàm muốn thành đại công lập đại sự, phải thấy được điều người khác không thấy, mới có thể thành công. Như Hàn Tín dùng binh, người nước Triệu cười nhạo, các tướng miệng nói vâng, đến khi thắng rồi, các tướng vẫn không biết vì sao thắng. Nay tấu chương từ biên giới đến, mọi người cùng bàn cho là được, mới theo, mọi người sao có thể thấy được điều người khác không thấy, e rằng dù có Hàn Tín cũng không chịu dùng cho triều đình.” Vua vui. An Thạch lại nói: “Dù Hàn Tín cũng không thể không thất bại. Đạo dùng tướng, nếu biết tài năng của họ, dù một lần thất bại cũng nên khoan dung.” Vua nói: “Như Yến Đạt tuy đại bại, đã tha tội rồi.” Vua lại nói: “Nay quả là chưa phải lúc dùng binh, mọi việc chưa có gì khả dụng.” Lại nói: “Dù nước Hạ dùng binh, cũng như thắng ta.” An Thạch nói: “Chúa nước Hạ hôn loạn yếu đuối, nhưng người thường quen thấy việc từ thời Nguyên Hạo đời Khánh Lịch, tự có lòng sợ họ; họ cũng quen thấy việc cũ, lại thấy tướng biên giới ta vẫn sợ hãi như trước, cũng không tự biết mình yếu đuối.” Bằng Kinh nói: “Người Hạ cả nước đến, ta thường lấy một lộ chống lại, nên không địch nổi.” Vua nói: “Chỉ một lộ nếu có tướng giỏi, há không đủ chống nước Hạ sao?”
[43] Ngày Đinh Dậu, quan Phán quan bộ Hộ là Lữ Gia Vấn tâu: “Các xưởng rượu trong kinh đô và các nơi khác dùng phương pháp nấu liên tiếp ba mẻ, mỗi năm tiết kiệm được hơn bốn mươi vạn cân củi. Áp dụng ở huyện Trần Lưu thuộc phủ giới, tiết kiệm được ba mươi hai vạn cân. Ước tính các châu mỗi năm tiết kiệm được mười sáu vạn quan tiền củi. Trước đây, tướng quân Tam ty là Vương Tĩnh đã dâng phương pháp nấu liên tiếp hai mẻ, còn dân châu Quắc là Thường Chấn đã cải tiến thành phương pháp nấu liên tiếp ba mẻ, xin ban thưởng cho cả hai.” Vua xuống chiếu thăng Vương Tĩnh lên chức Đại tướng, giảm thời gian khảo hạch năm năm; Thường Chấn được miễn xét tuyển, thử làm chức Trợ giáo Tứ môn Quốc tử giám; lại ban cho xưởng rượu châu Tào ba nghìn quan tiền.
[44] Giáng chức Phó sứ kho Tả Tàng là Cao Hoán, người đang giữ chức Tri quân Bảo Đức, xuống làm Hữu Thanh đạo suất, giám đương ở Hồ Nam[15]. Do Kinh lược sứ Hà Đông là Lưu Tường tâu: “Trước đây, Tri phủ Thái Nguyên là Lữ Công Bật sai quân đi xây trại ở vùng đất mới[16], bản ty cử Cao Hoán làm Đô đại đề cử, nhưng nhiều lần gửi văn thư mà ông ta không đến. Sau đó, Hoán dời đến phủ, nói rằng vốn không quen với tài năng dũng mãnh của kẻ thất phu, lại dâng sớ nói rằng: ‘Nếu không bị người trên kiềm chế và sai khiến, mà được thống lĩnh ba năm vạn quân để dẹp yên giặc cướp, thần nguyện tận lực.’ Trước đây, trong trận La Ngột thành, Hoán thực sự sợ ra trận nhưng bên ngoài lại nói khoác, triều đình vốn đã biết. Đến lúc này, Vua nói với các quan phụ tá: “Hoán vi phạm quân lệnh, Lữ Công Bật không thể thi hành pháp luật. Trẫm đang yêu cầu các quan biên giới phải làm việc hiệu quả, như Hoán thì nhút nhát và dối trá, nếu không cách chức thì không thể khuyến khích mọi người.” Vì thế có lệnh này, lại sai Viện Tiến tấu gửi văn thư đến các lộ.
[45] Ngày Mậu Tuất, quan Đề cử Kinh Tây Thường bình đẳng sự Trần Thế Tu tâu: “Xin ở bờ nam và bắc cầu đá châu Đường xếp đá làm bến ngựa, dựng cầu vồng bắc qua sông, dưới cầu đào rãnh ngang chắn ngang sông, dẫn nước vào kênh Đông Thiệu và Tây Thiệu, dẫn nước vào 15 đầm như Cửu Tự, thì trong phạm vi 200 dặm, lợi ích thủy lợi mùa đông sẽ được đều khắp.” Vua xuống chiếu cho quan Tri châu Đường là Tô Quyên xem xét lại, nếu đúng như vậy thì giao cho Thế Tu đảm nhiệm việc xây dựng. Sau đó, vì Quyên giữ đất khó rời đi, nên Vua hạ chiếu bãi chức Thiêm thư phán quan của châu, đặt một viên Thông phán, lệnh coi việc thủy lợi, vẫn dùng Thiêm thư phán quan trước là Bàng Phưởng làm chức này, theo lời xin của Ty Chuyển vận và Ty Đề cử. Việc đặt Thông phán là ngày 12 tháng 6, nay chép chung vào đây.
[46] Ngày Kỷ Hợi, Tuyên khánh sứ, Văn Châu Đoàn luyện sứ, Nhập nội Phó đô tri Lý Kế Hòa mất, con trai ông là Lý Tòng Thiện xin theo lệ gia tặng, Vua nói: “Lệ này là việc rất tệ, trước đây tặng Thạch Toàn Bân là vì ông ấy theo hầu Tiên đế, còn Kế Hòa không có quân công, sao có thể dùng lệ này được?”
[47] Ngày Tân Sửu, sai Hiệu thư Viện Sùng Văn là Vương An Lễ chuyên trách biên soạn điều lệ về nghĩa dũng ba lộ. Việc này căn cứ theo 《Ngự Tập》. Ngày 7 tháng 5 là Bính Tuất, ngày 7 tháng 6 là Ất Mão, ngày 13 tháng 7 là Canh Dần, ngày 19 tháng 7 là Bính Thân, ngày 14 tháng 7 nhuận là Tân Dậu, ngày 15 tháng 7 nhuận là Nhâm Tuất.
[48] Ngày Nhâm Dần, Vua hạ chiếu cắt bốn trại Ninh Viễn của châu Tần thuộc về quân Thông Viễn, lại ở ba nơi là Thanh Đường, Vũ Thắng quân và tộc Mã Lộc mới hàng, mỗi nơi xây một bảo trại, theo lời xin của Ty An phủ Duyên biên Tần Phượng. Trước đó, Lữ Công Bật tâu không chịu cắt bốn trại thuộc về Thông Viễn, Văn Ngạn Bác cũng nói: “Quan Văn Doanh là nơi hiểm yếu, không thể giao ra ngoài.” Vương An Thạch tâu: “Muốn đàn áp người Khương Di khiến họ phục tùng, nên làm cho thế lực của Thông Viễn thêm mạnh.” Quan Văn Doanh cần xem xét thêm. Vua nói: “Muốn mạnh thì tăng quân là được.” An Thạch nói: “Cắt nhiều trại thì quân phòng thủ tự nhiên tăng, nếu lại tăng quân thì chỉ thêm tốn kém mà thôi.”
[49] Đại Lý tự tâu: “Theo chế độ cũ, quan tường đoạn có tám viên, nay xin tăng thêm hai viên, chọn người mới thi đỗ về hình pháp để bổ nhiệm, và hai người cùng ký tên.” Vua đồng ý.
[50] Ngày Quý Mão, Vua xuống chiếu sai Lục trạch phó sứ Vương Trung Chính đến ty An phủ vùng biên giới lộ Tần Phượng để lo việc công, nhằm mưu việc khôi phục Vũ Thắng quân[17]. Tháng này, ngày Tân Tỵ, Vua xuống chiếu lấy trại Cổ Vị làm quân Thông Viễn, cần xét lại.
[51] Phò mã đô úy Vương Sư Ước tâu, xin theo lệ của chính nhiệm, được điều binh sĩ ở các châu quân bên ngoài để sai phái, nhưng Vua không nghe. Bởi vì trong phủ chúa đã chiếm dụng nhiều người thuộc thân sự, liễn quan và các ty rồi.
[52] Ngày Giáp Thìn, Quyền đề điểm hình ngục lộ Kinh Hồ Nam, Chức phương viên ngoại lang Mao Hàng bị giáng một chức, và điều sang lộ Giang Nam, vì tội tự ý gửi văn thư cho châu Đàm cắt các hương lý thuộc huyện nhập vào huyện lân cận.
[53] Ngày Ất Tỵ, triều đình ban chiếu cho Viện chế khám ở Tần Châu đang điều tra việc công của Vương Thiều ở Ty thị dịch, các quan chức và sứ thần liên quan, sau khi vụ án kết thúc, ngoài tội tham nhũng, những người còn lại đều được phục chức. Lúc này, triều đình chuẩn bị tiến hành chiến dịch Vũ Thắng, lo ngại thiếu quan chức đi theo quân đội. Sau đó, lại ban chiếu cho Chuyển vận sứ Trương Sâm chuyên lo việc chuẩn bị tiền lương và vật dụng để tu sửa các đồn lũy ở Thông Viễn quân.
Trước đó, Cao Tuân Dụ dự định vào mùa xuân đến kinh đô tâu việc, triều đình đã thúc giục. Vương Thiều tâu: “Thần gần đây bị Viện chế ngục thẩm vấn, nay từ Thông Viễn quân đến Tần Châu để tiện trả lời, xin cho Tuân Dụ ở lại nhiệm sở, và do Kinh lược ty cử người khác thay Tuân Dụ đi.”
Hoàng đế nói với An Thạch: “Vương Thiều không có việc gì khác, hơn nữa Tuân Dụ đã đến, An phủ ty đang thiếu người, nên cho Thiều nhanh chóng trở về nhiệm sở. Nếu Viện chế ngục có hỏi gì, hãy trả lời bằng văn bản niêm phong.” Lại ra lệnh thúc giục Đỗ Thuần kết thúc vụ án, nói: “E rằng mọi người nghi ngờ, sợ hãi, không dám tiến lên.” An Thạch nói: “Hiện nay Vương Thiều chỉ dành hai ba phần tâm lực lo việc biên cương, còn bảy tám phần tinh thần dùng để phòng bị người khác phá hoại, đó là lý do việc biên cương khó thành; không chỉ Thiều như vậy, những người làm việc với Thiều cũng đều do dự, không dám dùng ba bốn phần sức lực để tiến hành công việc, nên việc càng khó thành.”
Hoàng đế nói: “Chính vì những người làm việc với Thiều như vậy.” Hoàng đế lại nói: “Lữ Công Bật nói việc Đổng Chiên kết thân với nước Hạ, ý của ông ta dường như cũng không thích An phủ ty ở biên giới. Nếu không chiêu nạp các bộ lạc phiên, làm sao có thể ngăn Đổng Chiên kết thân với nước Hạ?” An Thạch nói: “Việc Đổng Chiên kết thân với nước Hạ không ảnh hưởng gì đến việc biên cương. Chỉ cần chúng ta thân thiết với người Hán và phiên, khiến họ vui lòng phục vụ, thì dù Đổng Chiên có kết thân sâu với nước Hạ, cũng không dám trái với ân tín của triều đình, huống chi chỉ là kết hôn, lẽ nào lại không cân nhắc lợi hại mà đem cả nước theo họ hàng nhà vợ chồng?” Hoàng đế cho là phải. (Ngày 26 tháng 5.)
[54] Phát vận ty tâu rằng các châu Hàng, Việt, Hồ không chịu thi hành phép mới về bắt muối, nên lợi tức thuế càng bị thiếu hụt, xin điều tra rõ. Vua nghe theo. Vương An Thạch nói: “Những người bàn luận đều cho rằng bắt muối sẽ khiến nhiều người phạm tội, nhưng hiện nay ở Hoài Nam việc bắt muối được thực hiện nghiêm ngặt, nên không có ai phạm tội. Nếu các châu Hàng, Việt, Hồ không theo phép mới để bắt muối, thì kẻ phạm pháp sẽ không dứt.”
Vua nói: “Phép của bậc vương giả như sông lớn, khiến người ta dễ tránh mà khó phạm. Như phép kho được thi hành, năm ngoái chỉ xử phạt hai trăm người vận chuyển, so với trước đây đã giảm năm trăm người; hơn nữa, gạo cũng không bị pha tạp, quân lính không cần phải hối lộ, đây thực là phép tốt.” An Thạch nói: “Hiện nay phép mới vẫn chưa được phòng ngừa đầy đủ, nên tuy không có pha tạp, nhưng vẫn còn thiếu sót. Nếu sau này phòng ngừa không để thiếu sót, thì số người bị xử phạt còn có thể giảm thêm.” An Thạch lại nói: “Những người coi kho vốn vô lại, nên không tránh khỏi đôi khi phạm pháp, nhưng ngay lập tức bị tố cáo. Còn như các nơi như Thuyên, Thẩm, thì lại không dám nhận hối lộ.”
Vua nói: “Không biết Khai Phong thế nào, e rằng chưa thể dứt ngay được.” An Thạch nói: “Nghe nói lại dịch Khai Phong phủ tự nói rằng trước đây gặp việc, chỉ nghĩ làm sao để kiếm tiền, lại nghĩ làm sao để lừa dối quan viên, thực không có lòng suy xét đúng sai. Từ nay e rằng có thời gian để làm việc này. Nhưng lâu dài, lộc của lại dịch trong thiên hạ e rằng phải tăng hết, để họ được sung túc.”
Vua nói: “Như thế há chẳng tốt sao, chỉ lo thiếu tiền mà thôi.” An Thạch nói: “Việc này nhiều lắm cũng không quá tốn trăm vạn quan, nhưng lộc của lại dịch đủ thì chính sự sẽ được thực hiện, chính sự được thực hiện thì lợi tức thu được cũng sẽ không ít, hơn nữa hiện nay y phục và ăn uống của lại dịch vốn cũng do dân chúng cung cấp, chỉ là không bắt họ nộp thuế theo phép mà thôi. Trước đây tuy hơn mười vạn quan, nhưng chín vạn quan là từ thuế tiền tửu phường, nếu sau này các lộ thu thuế tiền tửu phường[18], tất nhiên sẽ đủ lộc cho lại dịch mà còn dư.”
(Xem ngày 26 tháng 5 năm thứ 5. Vua lại nói: “Lại dịch nhận hối lộ cũng không tránh khỏi lấy từ tiền công.” An Thạch nói: “Như việc vận chuyển tiền từ kho ra, lại lấy tiền tửu phường bù vào là vậy. Nay cấp lộc công cho họ, thì không bị người khác lấn chiếm, lại không đến nỗi phạm pháp hại việc để kiếm lợi.” An Thạch bàn về phép kho, nhân việc bắt muối mà nói đến, sử nhà Chu chép phụ vào ngày Quý Mùi 27 tháng 8 năm thứ 3, về việc xử phạt người vận chuyển còn lộn xộn, nay vẫn chép vào ngày này.)
[55] Chiếu bỏ ban Ngoại điện trực. Ngoại điện trực vốn dùng để bố trí những người già yếu trong các ban, những năm gần đây thường sai đi các châu ngoài quản lý kho tạm, số người còn lại chỉ còn vài người, nên bỏ đi.
[56] Quyền Độ chi phó sứ Trầm Khởi tâu: “Thần vâng chiếu xem xét định lại chế độ quân khí, xin hạ lệnh cho các nơi chế tạo quân khí ở kinh đô và ba lộ Kinh lược ty cùng các quan chủ quản quân sự, sau khi nhận được yêu cầu, quan giám tạo và quan chủ quản quân sự phải trực tiếp hỏi han thợ thủ công, ngoài những chế độ và nguyên liệu cũ đã đúng phép và có thể sử dụng được, còn có những việc gì trong quá trình làm việc có sai sót không thể sử dụng được; hỏi han rộng rãi về các loại quân khí, những thứ tinh xảo, bền lâu có thể lập thành chế độ và cách sử dụng thích hợp, biên soạn thành văn bản, quan giám và quan quân sự cam đoan gửi về sở này để xem xét kỹ lưỡng. Những quan giám và quan quân sự ở các nơi nếu lười biếng, chậm trễ hoặc không tuân thủ cung cấp thông tin, cho phép châu đó tố cáo lên. Nếu thợ thủ công cung cấp thông tin không đúng chế độ, lại dịch xử lý chậm trễ, đều theo sở này gửi văn bản cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo lý. Mong rằng việc xem xét được kỹ lưỡng, sớm hoàn thành sách.” Vua đồng ý. Việc này ghi trong 《Hội yếu》 ngày 26 tháng 5 năm thứ 5.
[57] Ngày Bính Ngọ, sao Thái Bạch xuất hiện ban ngày.
[58] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu cho Kinh Nguyên lộ, sai Thái Đĩnh dạy bày trận pháp ở sân Nha môn, rồi dẫn vào yết kiến tại điện Sùng Chính, lại ban bố pháp ấy cho các lộ. Trước đó, Đĩnh ở Kinh Nguyên dựng nhà Cần Vũ, các tướng cứ năm ngày thay phiên lên dạy tập, năm ngũ làm một đội, năm đội làm một trận, trận xếp ngang, ba hồi trống thì ra, cùng bắn ba phát tên rồi trở về vị trí; lại đánh trống, các đội đều rút thương đao ra, theo tiếng trống bộ hành tiến lên làm động tác đâm chém, mười bước thì trở về. Tất cả những lần trở về vị trí đều nghe tiếng chiêng thì lùi. Kỵ binh cũng xếp năm ngũ thành hàng, bốn hồi trống thì ra, bắn cưỡi ngựa xoay vòng. Trước ngày tập một hôm, các tướng quan điểm duyệt đầy đủ, đến khi tập, lại duyệt một lần nữa. Trong đội, người và ngựa đều mạnh yếu xen kẽ, người mạnh được ghi tên làm kỳ binh, ẩn trong đội, gặp khi dùng kỳ binh thì tách riêng thành đội ra đánh. Kinh Nguyên lộ trong ngoài có bảy tướng, lại có tướng Tả Hữu Sách Ứng của hai châu Kinh, Nghi, mỗi tướng đều có mười trận bộ binh và kỵ binh, chia tả hữu từ thứ nhất đến thứ năm, mỗi lần duyệt một trận, đại khái là như vậy. Vua khen pháp ấy hay, nên ban bố.
[59] Tri châu Ung Châu là Tiêu Chú tâu: “Xin răn bảo các tri châu ở các động, nếu nhận được tin báo có giặc ngựa đi qua địa phận mà không lập tức đến ngăn chặn đánh nhau[19], đều xử theo quân pháp.” Vua bảo các phụ thần rằng: “Việc báo tin hư thực chưa rõ, lại giặc có đông ít, nếu thế lực không địch nổi, sao có thể ngăn chặn? Há có thể lập tức theo quân pháp? Nên lệnh cho Kinh lược ty xem xét giảm bậc mà xử.”
[60] Đề cử Thiểm Tây thường bình đẳng sự, Quốc tử bác sĩ là Trầm Phi tâu: “Xin khôi phục di tích Lục Môn Yển ở huyện Vũ Công, phủ Kinh Triệu, ở phía nam kênh đá hai trăm bước, đào hầm đất, dùng gỗ làm cửa, chuyển dòng sông, có thể tưới được ba trăm bốn mươi dặm ruộng.” Chiếu cho một viên quan của Thiểm Tây đề cử thường bình ty cùng với Trầm Phi xem xét, nếu hợp với việc tu sửa, thì tính toán công việc rồi tâu lên. Sau đó rốt cuộc không thành công.
[61] Tháng đó, bãi bỏ châu Từ, đổi thành quân Cát Hương, thuộc châu Thấp; bãi bỏ huyện Văn Thành, đổi thành trấn, nhập vào Cát Hương. Bãi bỏ huyện Hương Ninh, chia đất nhập vào hai châu Tấn và châu Nhượng. Bãi bỏ quân Liên Thủy và Cao Bưu, đổi thành huyện, lấy Liên Thủy thuộc châu Sở, Cao Bưu thuộc châu Dương. Cửa ải Kiếm Môn và huyện Kiếm Môn lại thuộc châu Kiếm. Bãi bỏ huyện Định Tương của châu Hãn, nhập vào các châu Tú, Dung và Lộ; huyện Lê Thành nhập vào huyện Lộ Thành. Bãi bỏ huyện Nghiệp của châu Tương, hai huyện Tán Hoàng và Bách Hương của châu Triệu, huyện Hiếu Nghĩa của châu Phần, huyện Hưng Sơn của châu Quy, đổi thành trấn. Huyện Nghiệp của châu Tương bãi bỏ thành trấn, nhập vào huyện Lâm Chương. Sách 《Cửu vực chí》 ghi vào năm Hi Ninh thứ 6, khác với chỗ này. Ngày Canh Ngọ tháng 7 năm thứ 6 nói về 28 huyện cần xem xét.
- Chữ 'Giám' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác và chính văn bổ sung. ↵
- Câu này nghi có chỗ sai sót, hoặc chữ 'vãng' là 'trú'. ↵
- Chữ 'Bạch' nguyên bản là 'Trực', theo bản khác sửa lại. ↵
- Theo 《Tống sử》 quyển 155, chí về tuyển cử, năm Nguyên Hựu thứ 4 lập hai khoa kinh nghĩa và thi phú, lấy 《Thi》, 《Lễ ký》, 《Chu lễ》, 《Tả thị Xuân thu》 làm đại kinh. Nghi ngờ chữ 'Nghị' là sai của chữ 'Nghĩa'. ↵
- Hướng Truyền Phạm, chữ 'Truyền' nguyên là 'Phó', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 464, bản truyền sửa lại. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Xem dân vậy, xét theo đây là lời tượng trong quẻ Quán hào cửu ngũ, trên nguyên có ba chữ 'quan ngã sinh', nghi là thiếu. ↵
- chữ 'thả' nguyên là 'đán', theo bản các sửa. ↵
- Mười vạn người, 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 6-7 chép là 'mười vạn nhà'. ↵
- Mười vạn người, 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 6-7 chép là 'mười vạn nhà'. ↵
- Giả Hữu, chữ 'Hữu' nguyên bản là 'Hựu', theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 59, sự tích Vương An Thạch phần trên sửa lại. Phần sau tương tự. ↵
- 'Chưa thể chỉ tội riêng cho Lý Bình' nguyên văn là 'thủy', căn cứ theo sách trên đã sửa lại. ↵
- 'Mậu Tuất' nguyên văn là 'Mậu Thìn'. Xét năm Hi Ninh thứ 5 tháng 7 không có ngày Mậu Thìn, căn cứ vào quyển 235 năm Hi Ninh thứ 5 tháng 7 ngày Mậu Tuất sửa lại. ↵
- Thần nhận thánh chỉ 'nhận' nguyên là 'Tu', theo các bản sửa. ↵
- Tôi gắn vào ngụ ngôn 'gắn' nguyên là 'Kích', theo các bản và sách trên sửa. ↵
- 'Hữu Thanh đạo suất' trong 《Tống hội yếu》 chức quan 65-37 chép là 'Tả Thanh đạo suất phủ suất'. ↵
- Nguyên văn chép 'điều trại', căn cứ vào ý nghĩa sửa thành 'tu trại'. Theo 《Tống hội yếu》 chép: 'Lữ Công Bật xây trại mới ở vùng đất mới.' ↵
- Vũ Thắng quân nguyên bản chép là 'Thành Thắng quân', theo bản trong các các mà sửa. ↵
- Thuế tiền tửu phường, chữ 'thuế' nguyên là 'thặng', theo bản trong các kho sửa lại. ↵
- chữ 'lan' nguyên bản viết là 'Lan', theo bản trong các các mà sửa. ↵