"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 245: NĂM HI NINH THỨ 6 (QUÝ SỬU, 1073)

Từ tháng 5 đến tháng 6 năm Hi Ninh thứ 6.

[1] Tháng 5, ngày Quý Mão, mùng một, Vua ngự điện Văn Đức.

[2] Quan chuyển vận phán quan châu Quỳ là Tằng Phụ tâu rằng, Dương Quý Thiên ở châu Bá là người hùng mạnh nhất trong các bộ tộc Di, vì tuổi già nên sai con là Quang Chấn và Quang Vinh dâng ngựa yên, ngưu hoàng, xạ hương. Vua xuống chiếu bổ Quang Chấn làm Tam ban phụng chức, Quang Vinh làm Tá chức.

[3] Ngày Giáp Thìn, Xu mật sứ Trần Thăng Chi kiêm chức Quần mục chế trí sứ.

[4] Chiếu rằng: “Văn Ngạn Bác từng nhận di chiếu của tiên triều, nay thôi chức ở Xu phủ, nên theo lệ của Tăng Công Lượng khi thôi chức Tể tướng, ban ơn cho con cháu.” Việc này trong Ngự tập ghi là ngày 12, nay theo Thực lục.

[5] Ngày Ất Tỵ, xuống chiếu cho các quan sát phỏng ở các lộ, lộ Hà Đông và Lưỡng Chiết được tâu cử 12 người làm kinh quan, chức quan, huyện lệnh, các lộ khác 10 người, việc thăng chức không hạn chế số lượng.

[6] Ngày Bính Ngọ, Đông thượng các môn sứ, Thứ sử châu Hà, Tri đức Thuận quân Cảnh Tư Lập làm Tri châu Hà, Tây kinh Tả tàng khố sứ Miêu Thụ làm Tri đức Thuận quân, chuyên quản lính chính và cung thủ ở Kinh Nguyên, phối hợp ứng phó các lộ Hi Hà và Kinh Nguyên, Đô giám Vương Ninh làm phó. Lúc đó châu Hà chưa khôi phục, đã bổ nhiệm trước Tư Lập làm Tri châu kiêm Đào Tây an phủ sứ, làm việc ở thành Hương Tử. Ngày 1 tháng 9, Vương An Thạch có nói thêm.

[7] Xuống chiếu đặt tên thành A Nạp ở lộ Hi Hà là thành Định Khương, thành Hương Tử là trại Ninh Hà, thành Khang Lạc là trại Khang Lạc, bảo Lưu Gia Xuyên là bảo Đương Xuyên, đều thuộc châu Hà.

[8] Xuống chiếu xuất 1 vạn quan tiền Thường bình để cứu tế các hộ thiếu thốn ở các huyện châu Diên.

[9] Ngày Mậu Thân, sai các quan đại thần cầu mưa.

[10] Xuống chiếu rằng, ai dựng cối xay nước, cối giã, cối xay làm cản trở việc tưới tiêu ruộng dân, sẽ bị xử theo tội vi chế, không được giảm tội dù đã thôi chức hay được ân xá, quan ty nào dung túng cũng bị xử tương tự.

[11] Ngày Kỷ Dậu, xuống chiếu cho lộ Hi Hà xây dựng các thành trại Định Khương, Ninh Hà, Khang Lạc và châu Hà chuẩn bị khí giới, áo giáp phòng thủ, lệnh cho Ty chuyển vận hai lộ Vĩnh Hưng quân và Tần Phượng chuẩn bị ứng phó từ các châu quân gần đó.

[12] Ngày Canh Tuất, ban chiếu cho các lộ Kinh lược ty: “Việc tổ chức đội ngũ đều theo phép của Lý Tĩnh, ba người làm một tiểu đội, chín người làm một trung đội, việc thưởng phạt đợi khi có thứ tự rõ ràng sẽ xem xét quyết định. Số lượng đội ngũ và khí giáp, theo phép giáo dục của lộ Kinh Nguyên.” Ngày 11 tháng 12 là Canh Thìn, ngày 18 là Đinh Hợi, cần xem xét lại.

[13] Lại ban chiếu cho châu Hà: tiền công sứ hàng năm ban tặng 2.000 quan, tạm thời tăng thêm 1.000 quan, đợi khi có tiền thu nhập khác thì dừng.

[14] Ban chiếu cho các lộ chuyển vận ty như Vĩnh Hưng quân, cấp 10 vạn quan tiền giao cho lộ Tần Phượng chuyển vận ty, để giúp chi phí biên giới.

[15] Ngày Quý Sửu, Trương Ngạc, Ty hộ tham quân châu Nhạc, Hiệu thư Sùng Văn điện, Biên tu Tam ty sắc thức, được làm Quang lộc tự thừa, quyền Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự.

[16] Lệnh cho Hùng Bản, Đô quan viên ngoại lang, Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự, đi xem xét việc thường bình đẳng ở lộ Tử Châu và xử lý việc người Di ở giám Dục Tỉnh châu Lô. 《Tân kỷ》 chỉ chép là sai Hùng Bản xử lý việc người Di ở châu Lô.

[17] Trước đó, Bản và Bồ Tông Mạnh đều tâu rằng: “Việc đánh dẹp man tộc Dục Tỉnh không nên điều động quân Tây Xuyên, vì vừa yếu lại xa, chỉ nên điều quân ở Châu Nhung mà thôi.” Lại nói: “Man tộc Dục Tỉnh không nên dùng đại quân đánh dẹp, vì khi bị uy hiếp, chúng sẽ dựa vào núi rừng, quân triều đình không thể tiến vào được. Tuy nhiên, chúng có ruộng để sinh sống, nếu dùng quân quấy nhiễu, khiến chúng không thể canh tác, thì chúng sẽ tự khốn đốn. Nay không chú trọng việc quấy nhiễu để chúng không thể canh tác, mà lại dùng đại quân đánh dẹp, khi ta rút quân thì chúng lại xuất hiện, khi ta tiến đánh thì chúng lại ẩn náu, lương thực ở Châu Lộ khó tiếp tế, quân ta ắt sẽ bị khốn đốn.” Vua cho là phải, muốn lập tức cử hai người này đi. Vương An Thạch nói: “Thần muốn bàn bạc thêm, sau đó sẽ xin chỉ dụ.”

Lúc đó, Lý Man đề nghị dùng mệnh Vua để chiêu phủ Phủ Vọng Tuyết Thứ và Yến Tử, An Thạch lại tâu với Vua: “Hai người này đều cho rằng Phủ Vọng Tuyết Thứ và Yến Tử không thể dùng mệnh Vua để tôn vinh, vì sẽ làm tăng thế lực của họ, sau này khó kiểm soát. Thần nghĩ rằng hai tộc này nhiều lắm cũng chỉ có vạn người, phong tục man di coi trọng mệnh Vua, nay ban tước vị, hàng năm ban thưởng thêm một chút, ước định không xâm phạm lẫn nhau, nếu họ cảm ân huệ, thì đó chính là cách để ngăn chặn mưu đồ thôn tính của họ. Nay dù để họ tự do, thì họ cũng sẽ thôn tính lẫn nhau, không phải là điều ta có thể kiểm soát, làm sao ngăn chặn được sự lớn mạnh của họ?” Vua cho rằng Lý Man đã sai lầm, An Thạch nói: “Tấu chương của Lý Man cũng chỉ nói rằng mỗi bộ tự quản lý, không được xâm phạm lẫn nhau mà thôi. Dùng mệnh Vua để chiêu phủ hai thủ lĩnh, e rằng nên làm như vậy.” Vua bèn cho là phải. Sau đó, An Thạch nói Bản là người cẩn thận, chắc chắn sẽ giải quyết được việc, bèn chỉ cử Bản đi, và truyền lệnh cho Bản biết ý này.

[18] Phó sứ Sát phỏng Hà Bắc lộ là Triệu Tử Kỷ tâu rằng, việc khai đào sông Hô Đà mới ở huyện An Bình, châu Thâm cùng khu vực giáp giới quân Vĩnh Ninh và châu Kì đã xâm phạm ruộng dân, xin miễn thuế, Vua đồng ý.

[19] Xuống chiếu cho Kinh lược ty Kinh Nguyên lộ, dùng tiền quan để trả cho ngựa mà bộ lạc Phiền ở quân Đức Thuận đã mua, không được tăng giá.

[20] Chiếu đặt tên thành mới của châu Giáp là trại An Giang, thành mới của châu Phú là trại Trấn Giang, trại mới Cung Khê là trại Cung Khê. Theo 《Cửu Vực Chí》, trại An Giang gồm năm châu Giáp, Trung Thắng, Vân, Hạc, Hổ, tức vùng đông huyện Long Tiêu, châu Tự thời Đường; trại Trấn Giang gồm ba châu Phú, Cẩm, Viên, tức đất huyện Long Tiêu thời Đường; trại Cung Khê sau đổi thành phố, thuộc huyện Ma Dương, châu Nguyên. 《Nam Giang Truyền》 cho rằng việc này xảy ra vào tháng 6, nay theo 《Thực Lục》.

[21] Ban thưởng tiền đặc chi cho quân sĩ xuất trận ở châu Lô và lính đồn trú ở trại Ninh Viễn, giám Dục Tỉnh, số lượng có khác nhau.

[22] Ngày Giáp Dần, Chương Đôn, Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự, Bí thư thừa, Tập hiền hiệu lý, Đồng tu khởi cư chú, được đổi sang lễ phòng.

[23] Thẩm Quát, Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự, Thái tử trung doãn, được giao xem xét và định lại các lệnh sắc của ba ty.

[24] Hầu Thúc Hiến, Quản câu Đô thủy giám thừa, được cử kiểm tra lại kế hoạch sông Bạch Câu. Việc này liên quan đến sự kiện ngày 16 tháng 8, đến ngày 27 tháng giêng năm sau thì bãi bỏ.

[25] Chiếu cho năm lộ Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hoàn Khánh, Phu Diên, Hà Đông đều theo lệnh của Tổng quản ty Kinh Nguyên, chỉ huy việc chuẩn bị lương thực. Binh lính có gia đình được phân công làm lương khô và bánh mè, cấp thêm tiền trà, rượu, củi, nước. Đây là những thứ cần thiết khi hành quân, trước trận chưa kịp nấu nướng, chủ tướng ra lệnh mới được ăn. Theo lệ cũ, việc này giao cho dân phường quách, gây phiền nhiễu, nay lệnh cho quân đội tự lo liệu, cả công lẫn tư đều thuận tiện.

[26] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu rằng, các tân binh cung tiễn thủ đã luyện tập võ nghệ thành thạo, xin cho luân phiên đến dưới quyền Tuần kiểm để thay thế chính binh về kinh. Chiếu cho Triệu Tiết xem xét lại khoảng cách đường xa gần, thời gian luân phiên thay đổi rồi tâu lên. Có thể tham khảo sự kiện ngày 27 tháng 9 năm thứ 5.

[27] Ngày Ất Mão, chém đầu Vương Thiên, người hai nơi cung cấp lương thực, dân thám sát biên giới phía bắc, gia quyến đưa về châu Đàm quản thúc. Thiên phạm tội phóng hỏa đốt miếu dịch Nhật Câu, vu cáo người phương bắc để cầu thưởng.

[28] Trước đó, châu Hùng gửi công văn đến châu Trác để bắt giặc, và lấy củi, rơm, lúa miến làm chứng cứ. Vương An Thạch nói: “Củi, rơm, lúa miến há chỉ có ở phương Bắc? Dù không phải do binh lính gây hỏa hoạn, sao biết không phải người địa phương có hiềm khích với binh lính và các bô lão trong làng, nên đốt lửa để vu oan cho họ?” Đến khi việc bại lộ, Ngự sử Thái Xác nói: “Tội đốt lửa rất nặng, chỉ vì ba bốn nghìn tiền mà làm việc này, e rằng không đúng sự thật.” Vua đem lời ấy nói với Vương An Thạch, Vương An Thạch nói: “May mà không bại lộ, nên dù pháp luật nghiêm khắc cũng không sợ. Hơn nữa, việc báo tin thám thính một sự việc chính xác, từ nay về sau An phủ ty sẽ tin tưởng, không chỉ là lợi ba bốn nghìn tiền mà thôi. Trước đây, Hà Đông tâu lên một người báo tin thám thính, còn nói rằng mười mấy năm trước báo tin thám thính việc của Quách Ân đã đúng sự thật, chắc chắn có thể tin tưởng. Từ đó mà xét, việc thám báo một sự việc chính xác mang lại lợi ích sau này, không chỉ là ba bốn nghìn tiền.” Việc đốt lửa, sách 《Nhật lục》 ghi chép khá chi tiết, vào ngày mồng 8 và 13 tháng 11 năm thứ 5. Lại thêm ngày 15 tháng 5 năm thứ 6, có thể xóa bớt phần phụ lục.

[29] Thượng hoàng nói với Vương An Thạch: “Quân đội phía Đông gần đây cũng có thể sử dụng được.” An Thạch đáp: “Từ khi Bệ hạ ra lệnh huấn luyện đến nay, quả thật đã có thể sử dụng, nhưng trước đây thì không như vậy. Thần chưa từng đến vùng Tây Bắc, chỉ thấy quân Hổ Dực và Quảng Dũng đóng ở Giang Ninh, huấn luyện gần nửa năm mà vẫn không thể đạt được thứ tự. Nhưng hiện nay quả thật đã có thể sử dụng, cần phải đốc thúc các tướng lĩnh, kiểm tra kết quả huấn luyện, ai không chú ý thì sẽ bị cách chức hoặc giáng chức. Chỉ cần xử phạt một hai người, tự nhiên mọi người sẽ tuân theo chiếu chỉ, không lo quân đội không tinh nhuệ. Hơn nữa, việc này có số liệu để kiểm tra, không khó biết. Nếu không chú tâm, không thể trốn tránh tội lỗi. Hiện nay biên cương không có việc gì, tướng lĩnh không có trách nhiệm gì khác, nếu huấn luyện không tinh nhuệ, không biết dùng vào việc gì.” Thượng hoàng cho là phải. Thượng hoàng lại nói: “Gần đây tuy đã đặt ra thưởng phạt cho sứ thần huấn luyện, nhưng vẫn chưa có khuyến khích và trừng phạt binh sĩ.” An Thạch đáp: “Binh sĩ chỉ cần dùng bát bạc và đĩa bạc để khích lệ, nếu huấn luyện lâu mà không thành công thì sẽ đưa về làm quân Sương mà thôi.” Thượng hoàng nói: “Chỉ nên như vậy, nếu thăng chức thì thật đáng tiếc.” An Thạch đáp: “Thăng chức cần phải giữ lại để thưởng cho chiến công.”

[30] Ngày Bính Thìn, sai quan tạ ơn mưa.

[31] Chiếu ban sắc bảng cho Sát phỏng sứ Hùng Bản để hiểu dụ các vùng biên giới, trừ những thủ lĩnh chủ mưu gây loạn và những kẻ đã giết quan lại, tướng lĩnh thì không được tha, còn những người khác nếu tự thú sẽ được miễn tội.

[32] Viện Thẩm quan Đông xin từ nay về sau, khi dẫn kiến các quan triều đình để bổ nhiệm, không hạn chế số lượng, Thượng hoàng đồng ý.

[33] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho Hoàng thành ty huấn luyện quan Thân Tòng theo quy định của các quân, cấp đĩa bạc để dạy bắn cung.

[34] Ty Chuyển vận Tử Châu Lộ tâu lên nguyên nhân người Di ở Lục Châu gây loạn, chiếu cho Tri châu Lý Man trình bày việc bắt người Di nộp gạo thay củi. Ngày 13 tháng 4, Trương Tử Cẩn tâu, có thể tham khảo.

[35] Thái tử Thiếu sư Lý Giản Chi qua đời.

[36] Ngày Canh Thân, Ty Đề điểm phủ Khai Phong tâu xin cho các quan giám lăng Tung, Khánh, Ý kiêm nhiệm giám thuế trấn Quách Điếm, giảm bớt một viên quan giám thuế. Triều đình xuống chiếu không cho phép, vì các quan giám lăng Tung, Khánh, Ý phải chuyên lo việc phụng thờ lăng tẩm nhà Chu.

[37] Ngày Tân Dậu, Phó sứ Sát phỏng lộ Hà Bắc là Triệu Tử Kỷ tâu: “Từ cửa đạo Tây Sơn đến thôn Bách Tế hơn hai trăm dặm, trồng cây du và dâu, thu mua quả dâu, số lượng không ít, trồng trên ruộng dân, trâu bò không dám chăn thả.” Sứ Sát phỏng là Tăng Hiếu Khoan cũng tâu: “Dân kêu ca việc trồng cây chiếm đất canh tác, mượn xe trâu từ châu khác để chở cây dâu và du, rất phiền nhiễu. Lại thu mua quả dâu, và bắt các thôn xã giám sát việc tưới tiêu, dân rất khổ sở.” Triều đình xuống chiếu cho Trình Phưởng xem xét. Trước đó, có người tâu rằng dọc biên giới Hà Bắc có thể trồng cây dâu, du và các loại cây khác để ngăn chặn kỵ binh địch, đồng thời cung cấp vật liệu cho quốc gia. Triều đình nghe theo, sai Phó sứ Văn Tư là Hoắc Thuấn Phong và Phó sứ Cung Bị Khố là Vương Giám lấy danh nghĩa trồng cây du và liễu, đặt ty ở phủ Đại Danh, thực tế là do Trình Phưởng đảm nhiệm. Tử Kỷ và Hiếu Khoan đều tâu việc này bất tiện[1], nên lại sai xem xét và tâu lên. Ngày Mậu Thìn, 27 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ nhất, bãi chức Thuấn Phong và những người khác. Chữ “xuyên” đọc là “xuyên”. 《Chu sử》 chép rằng sau đó Tăng Hiếu Khoan có tâu việc này. Xét Tử Kỷ là Phó sứ Sát phỏng của Tăng Hiếu Khoan, không nên nói là “sau đó”, 《Chu sử》 sai vậy. 《Cựu sử》 vừa chép ngày 19 tháng 5 Tử Kỷ tâu việc này, sai Trình Phưởng xem xét, lại chép ngày 29 tháng 7 Hiếu Khoan tâu việc này, rồi sửa đổi pháp luật. 《Cựu sử》 cũng trùng lặp, không đúng thể lệ ghi chép. Thực ra Hiếu Khoan và Tử Kỷ cùng đi sứ, lần lượt tâu việc, sau đó sửa đổi pháp luật, có lẽ do Hiếu Khoan lại xin. Nay hơi sửa chữa cho khỏi mâu thuẫn.

[38] Tử Kỷ lại tâu rằng, Trình Phưởng xây cầu phao ở Trung Độ, Châu Trấn không thuận tiện, xin sai Giám ty đi xem xét. An Thạch hết lòng bảo vệ Phưởng, nói rằng không cần xem xét, và nói: “Người đi sứ vốn muốn khảo sát tình hình thực tế của quan lại, nay Lý Thừa Chi đi sứ Lưỡng Chiết, lại đặc biệt tiến cử Nghiêm Quân Huống, Quân Huống là người không theo tân pháp để làm vui lòng dân chúng. Triệu Tử Kỷ đi sứ Hà Bắc, chuyên tấn công Trình Phưởng, Phưởng là người tận tụy với công việc, bị mọi người ghen ghét. Người đi sứ như vậy, thì những lời phỉ báng không đến mà những lời khen ngợi lại về với họ, nhưng đó không phải là lợi ích của nhà nước. Điều này chắc chắn là do thánh tâm chưa thể không bị những lời nói suông làm dao động, nên mỗi người tự tính toán lợi hại, liền đi theo con đường này, muốn thay đổi phong tục để trở thành trung thực, điều này sao có thể kéo dài được!”

[39] Ngày Quý Hợi, Thái tử Trung Doãn, Tập Hiền Hiệu Lý, Quản Câu Quốc Tử Giám Lý Định kiêm chức Trực Xá Nhân Viện. Trước đó, Vua nói với Vương An Thạch: “Lý Định được thăng chức trước Đặng Nhuận Phủ, sau đó không được bổ nhiệm chức vụ nào khác, người như vậy sao không thu dụng khen thưởng.” An Thạch nói: “Khi cả thiên hạ đều nói rằng phép thường bình làm hại dân chúng, để lừa dối bệ hạ, chỉ có Định nhờ Tôn Giác tiến cử đến kinh sư, đem những điều nghe thấy trên đường thẳng thắn tâu lên, nên bị cả triều đình vu cáo. May mắn được minh oan, sau đó lại bị khởi tố, sự tình này bệ hạ chắc chắn sẽ hiểu rõ.” Vua muốn cho Định làm Phán Lại Bộ Thuyên, An Thạch nói: “Thuyên ty hiện không thiếu người, nếu Định có năng lực làm quan thực sự không hơn người khác, nhưng văn tự cũng có thể dùng được.” Vua nói: “So với Trương Hổ thì sao?” An Thạch cho rằng Định hơn Hổ, nên có mệnh lệnh này.

[40] Xu mật viện tâu rằng: “Gần đây đã lập ra pháp lệnh về dũng cảm và hiệu dụng ở các lộ, các lộ biên giới thuộc Kinh lược ty đều tuyển chọn người tài giỏi, dũng cảm ứng mộ vào quân đội, hàng tháng cấp tiền lương, ngựa chiến, vũ khí và giáp trụ, thường xuyên luyện tập, nếu không có điều động thì đều được phép về nhà. Những người có công lao chiến đấu sẽ được thăng bổ theo thứ tự. Từ bốn lần thăng bổ lên đến chức tá, so với cung thủ có công được thăng chuyển từ áp quan đến tá chức gồm mười bốn bậc, sự chậm trễ và nhanh chóng đặc biệt, không phù hợp với ý nghĩa ban thưởng công bằng của triều đình.

Trước đây, Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tấu rằng: ‘Võ nghệ dũng cảm, trước đây tuy phân chia đẳng cấp, nhưng lực cung phần lớn không đạt tiêu chuẩn, tinh nhuệ và yếu kém lẫn lộn, gần một nửa là yếu đuối. Sau khi xem xét và thử nghiệm, đã loại bỏ những người yếu kém, chỉ giữ lại những người tinh nhuệ và dũng cảm.’ Nay lấy Hà Đông, Phu Diên, Tần Phượng, Hoàn Khánh, Hi Hà lộ mỗi lộ ba trăm người, Kinh Nguyên lộ năm trăm người làm định mức. Hạng nhất bắn cung bộ một thạch một đấu, bắn cung ngựa chín đấu, lương một ngàn; hạng hai bắn cung bộ một thạch, bắn cung ngựa tám đấu, lương bảy trăm; hạng ba bắn cung bộ chín đấu, bắn cung ngựa bảy đấu, lương năm trăm. Đều dùng tên ngắn để vào trận, đồng thời kết hợp bắn ngựa chạy và bắn cọc, luân phiên sử dụng thương và giản. Không cầm tay, không đóng trại. Mỗi quý đầu tiên đến Kinh lược ty để xem xét và thử nghiệm, đồng thời ghi tên vào sổ quân, nếu có việc biên giới thì tập hợp lại, cấp lương thực, mượn ngựa quan, cấp cỏ khô. Ngày luyện tập, theo giáp chia ra bắn trúng mục tiêu và chiến đấu ngoài chiến trường sẽ được thưởng, người không trúng sẽ bị giảm lương, quý sau vẫn không trúng sẽ bị cách chức. Khi chiến đấu có công sẽ được định thưởng theo tám bậc: Một, cấp giấy chứng nhận; hai, giáp đầu; ba, thủ khuyết quân tướng[2]; bốn, quân tướng; năm, điện thị; sáu, tam ban tá sai; bảy, sai sứ; tám, tá chức. Cung thủ có công cũng được định thưởng theo tám bậc: Một, áp quan, thừa cục; hai, tướng ngu hậu, thập tướng; ba, phó binh mã sứ, quân sứ; bốn, phó chỉ huy sứ; năm, đô ngu hậu; sáu, đô chỉ huy sứ; bảy, tam ban sai sứ; tám, tá chức. Khi chỉ huy gặp khuyết sẽ xếp hàng[3], tức theo lệ cũ thăng chuyển.”

Triều đình đồng ý, và ban hành cho các lộ. Bản chí và thực lục giống nhau, chỉ hơi sửa chữa và trau chuốt lời văn, nay theo thực lục.

[41] Chiếu rằng từ nay, các quận, huyện chủ qua đời, nếu có thân thuộc làm quan xin thăng chức, không được thăng đến chức Nội điện Sùng ban.

[42] Chương Đôn tâu: “Quyền Phát khiển Kinh Hồ Nam Lộ Chuyển vận Phó sứ Thái Diệp nguyên tấu về lợi hại của Mai Sơn và việc sắp xếp người Dao ở Mai Sơn, Vũ Cương, được chủ khách 14.809 hộ, đinh 79.089 người[4], ruộng 260.436 mẫu, khởi thuế tô và tu sửa thành trại Vũ Dương, Quan Giáp. Các quan như Đề điểm Hình ngục Tôn Khẩn, Quyền Phát khiển Đề điểm Hình ngục Chu Sơ Bình, Quản câu Thường bình ty Kiều Chấp Trung, Tri đàm châu Phan Túc[5] đều cùng bàn bạc hợp lực.” Chiếu rằng mỗi người được thăng một chức, Thái Diệp vẫn giữ chức Trực Tập hiền viện.

[43] Ban đầu, bàn về việc ban thưởng, Trần Thăng Chi xin cho Thái Diệp thăng một chức, còn lại giảm năm thăng chức, Vua cho là ít. Vương An Thạch xin cho Thái Diệp thêm một nhiệm kỳ, còn lại thăng chức. Ngô Sung, Phùng Kinh cho rằng Thái Diệp là người đầu tiên đề xuất, phần thưởng chưa xứng đáng, Vua nói: “Triều đình đã có quyết định riêng.” Sau đó lại nói: “Thái Diệp có thể dùng được, không cần thăng nhiệm kỳ, chỉ cần bổ nhiệm chức quán.” Sau đó, Thái Đĩnh từ chối ân mệnh của Thái Diệp, Vương An Thạch nhân đó tâu với Vua: “Thái Diệp ngăn cản Chương Đôn, cho rằng không thể vội vàng, lại nói Mai Sơn không thể dễ dàng chiếm được, Bệ hạ chắc còn nhớ.” Vua nói: “Thái Diệp chỉ sợ công lao thuộc về Chương Đôn thôi.” Vương An Thạch nói: “Người như vậy đã được bổ nhiệm chức quán, thì sớm muộn sẽ mong được tu khởi cư chú.” Vua suy nghĩ lâu rồi nói: “Thái Diệp không khác gì Lưu Cẩn.” Mọi người đều nói Thái Diệp tâm cơ xảo trá không thể so với Lưu Cẩn, Vua nói: “Thái Diệp hơi hiểm ác.”

[44] Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng: Kiềm hạt Trương Thủ Ước dẫn binh bộ phận người Phiên đến tu sửa thành Khang Lạc, thông phán Tần Châu là Trần Hoành lo việc cung ứng quân nhu đầy đủ. Chiếu cho Thủ Ước thăng làm Dẫn tiến phó sứ, Hoành thăng một bậc quan chức, lại thăng thêm một nhiệm kỳ; các sứ thần hạng ưu được chuyển ba bậc, hạng nhất hai bậc, hạng hai một bậc, hạng ba nếu chém được thủ cấp thì được một bậc, còn lại giảm thời gian khảo xét ba năm. Trước đây, Vương Thiều xin ban thưởng hậu hĩnh cho Trần Hoành, Vương An Thạch nói: “Hoành trước đây tu sửa sắc lệnh, khi xong việc, đáng được ban thưởng. Vì Quách Quỳ cùng các thuộc quan ngăn trở việc của Thiều, nên thần chọn Hoành đến giúp Thiều.” Ngô Sung nói: “Hành vi riêng của Hoành không thể khen ngợi.” Vua hỏi An Thạch, An Thạch trả lời không biết, Trần Thăng Chi cũng nói không biết, Phùng Kinh nói: “Thần nghe nói, nhưng mờ ám khó rõ.” Mọi người bàn cho Hoành chuyển một bậc quan chức, Vua bảo thăng thêm một nhiệm kỳ. An Thạch nói: “E rằng chỉ nên chuyển quan chức, đợi khi có khuyết ở tỉnh phủ, với uy tín như Hoành, cũng có thể tiến cử.” Vua nói: “Việc này đáng được ban thưởng, đã chuyên sai đi, lại thăng thêm một nhiệm kỳ, cũng không sao.”

[45] Ghi chép con trai của Vương Hồi, nguyên là Tiết độ suy quan quân Trung Vũ, là Vương Phần làm Trai lang Giao Xã. Trước đây, Hữu chánh ngôn, Đồng phán Quốc tử giám Thường Trật tâu rằng Vương Hồi có học thuật và đạo đức: “Thần từ khi được triệu kiến, bệ hạ thường hỏi về con người của Hồi, và thần cũng tiếc rằng Hồi không được cùng thăng lên hàng ngũ triều đình. Gần đây lại được chỉ dụ tiến cử di văn của ông, triều đình nên khen thưởng. Theo phép tắc của tiên vương, người tốt thì con cháu được hưởng, người về hưu được hưởng lộc đời đời, đến cả thời Hán, Ngụy như Quản Ninh, cũng là người có đức hạnh kiên định, được triệu mà không đến, nhưng con vẫn được làm lang, huống chi Hồi không chỉ là người hiền đức thời nay, không may đã qua đời, nay có con là Phần, mong được đặc biệt ban cho chức vụ.” Vua nói: “Trật vốn có đức hạnh được Lữ Công Trước, Trình Hạo kính trọng, khi Công Trước và các người khác còn bận rộn, Trật đã ra làm quan, ắt là có lý do riêng. Gần đây vì nhiều lời tâu không được nghe, nên nhiều lần xin từ chức. Nay xin cho con của Hồi một chức quan, Hồi có văn tài và đức hạnh, so với người thường, làm đến chức chính lang, có thể tiến cử con, thì ban cho một chức quan cũng không quá đáng.” Vì thế có mệnh lệnh này.

[46] Ngày Giáp Tý, Vua phê: “Thường Trật đã xin nghỉ bệnh đủ trăm ngày, nghe nói quan lại theo lệ đã ngừng cấp bổng. Nhà Trật vốn nghèo, cha con đều ốm nằm, thuê nhà ở kinh sư, lại bị ngừng bổng, thì sẽ không còn tiền mua thuốc thang, rất không xứng với ý triều đình đối đãi Trật. Có thể từ nay trở đi, tháng nào cũng cấp bổng như cũ.”

[47] Vương An Thạch bàn với Vua về việc đắp đập hồ, Vua cho rằng việc đắp đập là để bảo vệ đất nước. Vương An Thạch nói: “Đúng là như vậy, trong chế độ nhà Chu cũng có chức quan coi giữ đê điều, nhưng việc này thường xâm phạm đất đai của dân, dựa vào đó để bảo vệ đất nước cũng không phải là kế sách hay. Thời Thái Tổ chưa có đập hồ, nhưng Khiết Đan không dám xâm phạm.” Vua nói: “Hãy giảng hòa với họ.” Vương An Thạch đáp: “Họ tự đến cầu hòa, chứ không phải ta cầu hòa với họ. Chu Thế Tông cũng không từng giảng hòa với họ, nhưng Thế Tông đã mở rộng được đất đai phía nam, còn họ thì không thể xâm phạm.” Vua lại cho rằng Thế Tông thắng được Khiết Đan là do gặp phải Vua Khiết Đan lúc đó đang ngủ quên. Vương An Thạch nói: “Lý Cảnh không phải là người thường ngủ quên, nhưng cũng bị Thế Tông chiếm được Hoài Nam. Ngày 5 tháng 4 năm thứ 8, Vương An Thạch lại nói về việc Vua Khiết Đan ngủ quên, chú thích ở phần Tiêu Hi vào từ biệt. Nay Vua Khiết Đan chưa chắc đã hơn được Lý Cảnh? Trong nước họ, trộm cướp không bị ngăn cấm, mọi việc đều đổ nát, nếu sau này bệ hạ có cách để thắng được họ, thì mới có thể nói rằng họ không thể thắng được Lý Cảnh. Trời ban cho bệ hạ tư chất thông minh, lại giúp đỡ bệ hạ rất nhiều, nếu bệ hạ ra sức thực hiện chính sách của tiên vương, lấy việc thu phục bốn phương, yên định Trung Quốc làm trách nhiệm của mình, thì kẻ địch mạnh nào cũng có thể khuất phục được.”

Vua lại khen Thế Tông giỏi cai trị. Vương An Thạch nói: “Nắm được thế lợi của thiên hạ, thì làm gì có bề tôi không thể cai trị, kẻ địch mạnh không thể khuất phục? Thế Tông chém Phàn Ái Năng, thì quân đội không thể không mạnh; chọn người trong dân chúng, cử Lý Cốc, Vương Phác, thì đất nước không thể không yên trị. Lý Cốc, Vương Phác tuy không thể sánh với người xưa, nhưng cũng là người giỏi nhất thời đó. Chỉ cần làm được hai việc này, đủ để thành đại nghiệp.” Bằng Kinh nói Thế Tông tàn bạo. Vua nói: “Nghe nói khi Thế Tông băng hà, mọi người đều khóc thương.” Vương An Thạch nói: “Nói cho ngươi biết về đạo đức, là để thực hiện hình phạt. Người ta vui vẻ với đạo đức là vì hình phạt được thực hiện, hình phạt được thực hiện thì những kẻ lừa dối, lười biếng, hung bạo sẽ sợ hãi, những người trung thành, chăm chỉ mới có chỗ để kêu oan, có chỗ để gửi gắm tính mạng, đó là lý do mọi người khóc khi Thế Tông băng hà.”

[48] Hoàng thành ty xin tăng lương, thi hành pháp luật nghiêm khắc. Phùng Kinh muốn làm theo lời tâu của nội thần, nhưng Vương An Thạch cho rằng không cần. Vua nghe theo lời An Thạch, nói: “Việc này người thường thấy thì cho là nhỏ nhặt, nhưng có thể khiến quan lại không dám nhận hối lộ, kẻ gian hùng nhờ đó mà xem xét chính sự.” An Thạch nói: “Khách đến mà không cần nhờ cậy quan lại, đó là điều sử sách xưa khen ngợi Khổng Tử.” Vua nói: “Chỉ sợ vì thế mà có việc bị đình trệ.” Phùng Kinh nói: “Trước đây nói việc đình trệ ở Tam ban, nhưng xét ra không có việc nào bị đình trệ cả.” An Thạch nói: “Khai Phong vì không nhận hối lộ nên càng muốn giải quyết nhanh chóng, không cố ý gây phiền phức, vì thế mà việc kiện tụng giảm bớt.” Ngày 27 tháng 8 năm thứ 3 có ghi tổng số tăng lương, có lẽ nên phụ chú vào đây, cần xem xét thêm. “Khách đến không cần nhờ cậy quan lại”, ngày 3 tháng 5 năm thứ 5 đã từng nói, nay lại nhắc lại, nên giữ cả hai. An Thạch nói “không cần”, cần tra cứu thêm.

[49] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu cho Đặng Nhuận Phủ, người phụ trách việc thường bình ở Kinh Đông lộ, điều tra rộng rãi những người có đức hạnh xuất chúng, được dân làng kính phục, rồi báo tên lên.

[50] Trương Tông Vọng, người phụ trách việc đi lại ở Tử Châu và Toại Châu, tâu rằng Cảnh Tư Trung, Phó sứ kho Tả tàng Tây Kinh, cùng các tướng khác đốt phá đồn lũy của giặc, giao chiến với quân man di. Đường hiểm trở, Tư Trung cùng Tôn Hạo, Phan Tín, Phó Biểu Thần và 294 quân sĩ đều tử trận. Vua sai Hùng Bản điều tra rõ rồi báo lên. Sau đó, Bản dâng danh sách người tử trận, phong cho con trai Tư Trung là Xương Phù cùng 6 người khác làm Tam ban phụng chức đến Điện thị, còn các quân sĩ khác được ban tiền bạc, lụa là cho gia đình tùy theo mức độ. Tư Trung, người Phổ, làm Đô giám Toại Châu, chỉ huy 500 quân, theo Kiềm hạt Trương Thừa Hữu làm tiên phong. Giặc chiếm nơi hiểm yếu, áp sát quân quan, Tư Trung đánh không lợi, tả hữu khuyên ông bỏ chạy, nhưng ông không nghe, vung kiếm chiến đấu đến chết. Trước đây không có lệ phong chức cho con cháu, nhưng Bản vì Tư Trung mà xin, Vua thấy quân hành lộn xộn, chỉ ban ân cho mỗi người một chức. Việc phong chức cho Tư Trung là ngày 3 tháng 11, nay ghi chung vào đây.

[51] Chiếu cho Hùng Bản nhanh chóng tiến quân, các quan lại trên đường này đang xử lý việc dân tộc thiểu số hãy tạm dừng binh lính để phòng thủ, canh giữ các đường ra vào, chưa được tiến quân một cách hấp tấp.

[52] Lại chiếu sai Sùng nghi sứ, Kiềm hạt phủ Thành Đô, châu Lợi, lộ Lợi Châu là Điền Nhân quyền phát khiển châu Lô xử lý việc dân tộc thiểu số, các khoản tiền và lụa cần thiết để khao thưởng thì lệnh cho Chuyển vận ty cung ứng. Lại chiếu điều động binh lính ba châu Giai, Thành, Phượng tạm đóng quân ở châu Lô. Lại chiếu cho Lý Man cùng Chuyển vận ty, Đề điểm hình ngục ty và Điền Nhân cùng nhau bàn bạc kỹ lưỡng để xử lý.

[53] Đề cử việc tu sửa thủy lợi ở hai lộ Chiết là Giáp Thiện bị truy làm Tư nông tự thừa, đưa về Lại bộ Lưu nội tuyển, đồng thời bãi bỏ việc tu sửa thủy lợi ở hai lộ Chiết.

[54] Ban đầu, Giáp Thiện trình bày về thủy lợi ở Tô Châu, có sách và bản đồ, cho rằng vùng đất quanh hồ hơi thấp, thường bị ngập nước, còn vùng đất ven biển hơi cao, thường bị hạn hán. Vì vậy, người xưa trị thủy đã đào các con kênh dọc gọi là “phố”, ngang gọi là “đường”, lại có cửa, đập, ngòi, rãnh bố trí như bàn cờ. Giáp Thiện có thể kể ra tổng cộng hơn 260 công trình. Nay muốn theo cách của người xưa, cứ 7 dặm đào một con phố dọc, 10 dặm đào một con đường ngang, lại dùng đất đào lên để đắp đê, cần đến 20 triệu nhân công[6]. Khi có nước thì trị thủy cho ruộng cao, khi hạn thì trị thủy cho vùng trũng, dự tính trong 3 năm sẽ hoàn thành việc trị thủy cho ruộng đất Tô Châu. Triều đình nghe lời Giáp Thiện, cho là khả thi, bèn chính thức bổ nhiệm ông làm Tư nông tự thừa, lệnh cho ông đứng ra phụ trách việc xây dựng. Tuy nhiên, Giáp Thiện chỉ biết nói suông, đến khi khởi công ở Tô Châu, dân chúng bị quấy nhiễu, dư luận xôn xao. Đúng lúc Lữ Huệ Khanh được triệu về, tâu rằng cách làm của Giáp Thiện sai trái, lại vi phạm chỉ dụ trước đó của triều đình, nên mới có mệnh lệnh này.

Vua nói với Vương An Thạch: “Giáp Thiện có vẻ không phải người làm bậy, sao nay lại thế này?” Lại nói: “Lữ Huệ Khanh cực lực phản đối việc tu sửa, nói là không có đất.” An Thạch đáp: “Thần từng đi khắp sông ngòi Tô Châu, tự tay đào thử, đều có thể lấy được đất, đất như hào, rất dùng được. Lúc đầu thần bàn việc đắp đê Chí Hòa, người Tô Châu đều cười, lúc ấy triều đình cũng không thi hành. Sau này đắp xong, dài khoảng 70-80 dặm, bờ cao giữa dòng nước sâu, nào có lo không có đất?” Vua lại cho rằng đê lớn không thể làm được, việc tát nước khó khăn. An Thạch nói: “Nay ở Giang Nam có những con đê lớn dài đến 70-80 dặm, không lo khó tát nước, chỉ là Giáp Thiện làm vội vàng, lại cố ý vi phạm điều ước mà thôi.” Giáp Thiện nhận mệnh vào ngày 8 tháng 11 năm ngoái, đến ngày 18 tháng 4 năm nay, Tô Châu…

[55] Ngày Bính Dần, ban chiếu cấp áo bông cho binh lính làm việc tu sửa thành trì ở Hà Châu.

[56] Ngày Đinh Mão, sai Đái ngự khí giới Vương Trung Chánh đi khảo sát những vùng đất bỏ hoang và bị xâm chiếm trái phép trên đường Lân Phủ, chiêu mộ các tay cung tên và kiểm tra binh lính phiên. Trước đó, Vua đã ra lệnh cho Vương Ninh điều quân tiếp ứng Hi Hà, nhưng sau đó lại thu hồi chiếu chỉ, muốn dùng Trung Chánh thay thế Ninh. Vương An Thạch tâu: “Trung Chánh và Vương Thiều không hòa hợp, chi bằng tạm dùng Ninh.” Vua nói: “Trung Chánh trước đây đã có công, nay lại muốn tự nguyện lập công, với Thiều cũng không có gì khác.” Bèn đổi mệnh lệnh cho Trung Chánh. An Thạch lại tâu: “Trung Chánh không nên đi. Trước đây Trung Chánh muốn đi Thanh Đường giúp Thiều, đã nhiều lần nói với thần, nhưng nghe nói Trung Chánh nói chuyện với người đi Hi Châu, lại cực lực làm lung lay công việc của Thiều. Bởi vì Trung Chánh ban đầu cùng Thiều hợp mưu, một khi Thiều bỏ hết, công lao đều về tay Lý Hiến, nên Trung Chánh oán Thiều, tất sẽ ra sức báo thù, hơn nữa Hi Hà mới xây dựng, dễ bị lời nói làm lung lay, thật không nên để Trung Chánh đi.” Bằng Kinh và Vương Khuê lại nói: “Sáu nghìn quân tiếp ứng, e rằng Trung Chánh không thể chỉ huy được.” Vua nói: “Chỉ vì không hòa hợp với Thiều, nếu chỉ huy quân đội thì Trung Chánh giỏi vỗ về quân sĩ, không phải không thể. Nhưng Trung Chánh cũng chỉ muốn nhận chức vụ biên cương, không nhất thiết phải chỉ huy quân tiếp ứng.” Vì vậy lại dùng Ninh như cũ. An Thạch nhân đó nói: “Việc Lân Phủ cần phải kinh lý, nên sai Trung Chánh đi.” Vua vội triệu Trung Chánh hỏi tình hình, Trung Chánh xin đi, nên có mệnh lệnh này.

[57] Ban chiếu: “Bốn mươi bảy chỉ huy mã quân ở Hà Đông, từ nay luân phiên sai bảy chỉ huy đến Phu Diên lộ thay phiên, mỗi năm thay một lần. Lại ủy cho Đô tổng quản ty Phu Diên lộ rút giảm mười chỉ huy mã quân đóng đồn trở về.”

[58] Ty chuyển vận Thành Đô phủ lộ tâu: “Gia Châu và Cung Châu đã nhiều năm ngừng đúc tiền, dân gian thiếu tiền mặt. Xin hạ lệnh cho Tam ty xem xét, giảm một nửa số tiền đúc, để cân bằng với giấy giao tử.” Vua đồng ý, lại lệnh cho Ty chuyển vận cuối năm báo cáo số tiền đúc, so sánh vốn lãi để tâu lên. 《Chí》 có ghi việc này, ngày mồng 4 tháng 7.

[59] Ngày Mậu Thìn, ban chiếu: “Kinh lược sứ Kinh Nguyên lộ là Vương Quảng Uyên gần đây tiến cử quan lại phần nhiều bừa bãi, hoặc là con em nhà quyền quý, hoặc là lại thuộc trong phủ, sai họ cầm quân chống giặc, ắt sẽ làm lỡ việc nước. Tuy phần lớn đã lưu lại trong cung không ban xuống, nhưng vẫn lo Quảng Uyên chưa thấu hiểu trọng trách được giao phó, còn tiến cử bừa bãi, có thể đưa tờ chiếu này cho hắn, lệnh từ nay phải công tâm lựa chọn.”

[60] Sở Tường định hành hộ lợi hại điều quán tâu: “Nên giao cho Khai Phong phủ cử quan giám sát việc phân chia tài sản, tại quan nghị định, hoặc cho phép thăm dò phân chia, không được tùy tiện sai phái hàng hóa. Quan ty mua hàng hóa, nếu không có giá thời điểm, không được lập ra hàng hộ. Nay các hàng hộ nguyện nộp tiền miễn hành, xin theo sở này cân nhắc quyết định, đều làm lộc cho các lại. Theo đó. Sách kỷ cũ và mới chép: Quan mua hàng của dân, lại bắt ép không nhận, đòi hỏi trăm thứ, dân bị khốn đốn, nên lệnh cho dân nộp tiền miễn hành, quan tự mua. Ngày 26 tháng 5 năm Hi Ninh thứ 6, trung thư trát tử, Sở Tường định hành hộ lợi hại điều quán tâu, theo trát tử của trung thư: Vâng thánh chỉ, tường định việc lợi hại của hàng hộ, trước hết tâu lên. Nay trước hết tường định được mấy điều, trong đó có một điều, theo trạng của hàng nhân Từ Trung Chính, 26 hộ hàng thịt hạng trung và hạ, mỗi năm cùng nộp 600 quan tiền miễn hành cho quan, không phải cung cấp thịt cho các nơi. Nay theo trạng của các hàng nhân, định được 13 hộ hạng trung, cùng nộp 400 quan tiền, chia đều 12 tháng trong năm, xin nộp hàng tháng, mỗi hộ nộp 2 quan 70 văn; 13 hộ hạng hạ, cùng nộp 200 quan tiền, chia đều 12 tháng trong năm, xin nộp hàng tháng, mỗi hộ nộp 1 quan 290 văn. Bên phải vâng thánh chỉ: Nên giao cho Sở Tường định hành hộ lợi hại điều quán cùng Tam ty bàn bạc tâu lên. Trát giao cho Sở Tường định hành hộ lợi hại điều quán. Theo đó, ngày 3 tháng 9 năm đó, trát tử của trung thư tỉnh, vâng thánh chỉ: Theo đó. Điều này căn cứ vào sách biên lục năm Tuyên Hòa thứ 7, tháng 9[7] ngày 21, trát tử của Ty Giảng nghị chép, nay phụ chú ở đây. Lệnh chỉ huy lúc đó căn cứ vào điều này. Ngày 23 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 1 có thể tra cứu.

[61] Ngày Kỷ Tỵ, Tri chế cáo kiêm Thị giảng Lữ Huệ Khanh kiêm Quyền tri Gián viện.

[62] Ngày Canh Ngọ, Lữ Gia Vấn, Điện trung thừa kiêm chức Đề cử tại kinh thị dịch vụ, được thăng làm Quốc tử bác sĩ, đồng thời được thăng một bậc; Lưu Tá, Đồn điền viên ngoại lang kiêm chức Giám thượng giới, được thăng làm Đô quan viên ngoại lang, đồng thời giảm thời gian khảo khóa hai năm. Đều do thị dịch vụ thu được lãi nhiều trong năm. Ban đầu, bàn việc Lữ Gia Vấn thăng một chức, Vương An Thạch cho rằng nên thăng thêm một bậc, Vua nói: “Công lao của Gia Vấn thật nhiều.” Nên thăng thêm một bậc.

[63] Ngày Tân Mùi, bộ tộc Long ở tây nam dâng sản vật địa phương. Ngày mùng 2 tháng 4, các bộ tộc Long, La, Thạch đến triều cống.

[64] Chiếu rằng từ nay người Hán được phép mua bán ruộng đất của người Di. Trước đây, Vương An Thạch bàn việc người Di ở Lô Châu, nhân đó nói: “Người Hán không được mua bán ruộng đất của người Di, điều luật này nên bãi bỏ.” Vua hỏi: “Từ trước đến nay đã có điều luật này, vì sao?” An Thạch đáp: “Chắc là do việc mua bán lẫn lộn, dẫn đến tranh chấp, gây ra xung đột biên giới, nên mới đặt ra luật cấm. Nếu có thể biến người Di thành người Hán, thì việc này không đáng lo ngại. Lại nữa, đất hai bên sông Dục Tỉnh, nếu bỏ ra vài vạn quan tiền để mua, cho người Hán đến ở canh tác, thì lâu dài Dục Tỉnh sẽ không còn việc người Di nữa.” Vua cho là phải, bèn hạ chiếu này.

(Việc này căn cứ theo An Thạch ngày 22 tháng 4, còn 《Chu sử》 chép vào ngày 28 tháng 9 là không đúng. Việc cho phép mua bán ruộng đất người Di, căn cứ theo pháp sách là mệnh lệnh ngày 29 tháng 5. Ngày 3 tháng 9 năm thứ 5, ban đầu ra chiếu cho phép mua bán và thuê đất của các bộ lạc biên giới Thiểm Tây. Ngày 28 tháng 9, Hùng Bản tâu việc.

《Nhật lục》 của Vương An Thạch ngày 22 tháng 4, còn 《Chu sử》 chép vào ngày 28 tháng 9 là không đúng. Việc cho phép mua bán ruộng đất người Di, căn cứ theo pháp sách là mệnh lệnh ngày 29 tháng 5. Ngày 3 tháng 9 năm thứ 5, ban đầu ra chiếu cho phép mua bán và thuê đất của các bộ lạc biên giới Thiểm Tây. Ngày 28 tháng 9, Hùng Bản tâu việc.

《Nhật lục》 của Vương An Thạch: Ngày 22 tháng 4 năm thứ 6, trình việc Trung thừa nói về Lý Man, Vua nói: “Đặng Oản nhiều lần biện hộ cho Lý Man, Lý Man gây biến, giết nhiều người, e rằng không thể không có tội.” Thái Đĩnh nói: “Hắn nói về thư riêng của Trương Tuân Long, Tuân Long ở xa, không có cách nào tố cáo, nên gửi thư cho thần, mong được thông đạt lên trên, há là riêng tư sao? Nay cứu giúp Lý Man, lại là việc riêng.” An Thạch nói: “Lý Man xử lý việc biên giới, e rằng cần có việc. Như Tuân Long nói hắn nhận của cải từ dân biên giới, nhờ đó xin ân trạch, e rằng là vu khống. Theo lời tấu của Đặng Oản, Lý Man trước đây chưa từng đến Lô Châu, Lý Man vốn có tiếng tốt, không thể có chuyện này.” Trần Thăng Chi cũng nói: “Lý Man trị dân rất tốt, dân rất yêu mến.” Vua nói: “Những điều Đặng Oản nói về việc người Di phần nhiều là đúng.” Bèn sai đưa cho Hùng Bản xem xét. An Thạch nói: “Người Hán không được mua ruộng đất người Di, điều luật này nên bãi bỏ.”

Vua cũng cho là phải, nói: “Từ trước đến nay đã có điều luật này, vì sao?” An Thạch đáp: “Chắc là do việc mua bán lẫn lộn, dẫn đến tranh chấp, gây ra xung đột biên giới, nên mới đặt ra luật cấm. Nhưng nếu có thể biến người Di thành người Hán, thì việc này không đáng lo ngại. Lại nữa, đất hai bên sông Dục Tỉnh, nếu bỏ ra vài vạn quan tiền để mua, cho người Hán đến ở canh tác, thì lâu dài Dục Tỉnh sẽ không còn việc người Di nữa.” Vua nói: “Vốn mang theo La Tài Tiến đi theo, nói rằng người Di có thể dùng lợi để thuyết phục đồng đảng, khiến họ làm việc cho ta, nội bộ đánh lẫn nhau. Nếu quả như vậy, đó là thượng sách.”)

[65] Tháng đó, bỏ châu Phục, đổi thành huyện Cảnh Lăng, thuộc châu An; lại lấy huyện Ngọc Sa làm trấn, thuộc huyện Giám Lợi, phủ Giang Lăng; bỏ trại Vĩnh Hưng ở châu Thi, đặt trại Di Bình.

[66] Ngày mùng một tháng 6, Quý Dậu, xuống chiếu từ nay chỉ bổ một người làm chức Đề cử tại kinh các ty khố vụ câu đương công sự.

[67] Xuống chiếu cho ty Chuyển vận lộ Vĩnh Hưng quân, Tần Phượng điều 2000 quân ở thành Bắc giao cho Cảnh Tư Lập. Lúc đó đang xây thành châu Hà, Tư Lập vẫn còn ở trại Ninh Hà.

[68] Ngày Ất Hợi, Chương Đôn tâu: “Hồ Nam đã tổ chức xong bảo giáp. Hai châu Toàn, Thiệu đều giáp với động người thiểu số, các viên chức thổ đinh, nỗ thủ, xin cho giữ nguyên chức cũ kiêm thêm chức Đô phó bảo chính, bảo trưởng, tập luyện võ nghệ.” Xuống chiếu cho ty Nông tự và Binh bộ cùng bàn định rồi tâu lên. Sau đó cho phép giữ chức bảo chính, bảo trưởng, bỏ việc tập luyện.

[69] Ngày Bính Tý, Vua nói với các quan chấp chính: “Trận đánh ở thành Hương Tử, phía tây Đào, nghe nói quan quân tham công, có người chém quân phiên thuộc bộ Ba Chiên Giác để lấy thủ cấp, mọi người đều rất bất bình. Việc này gây hại không nhỏ, không thể không xem xét. Phép trận của Lý Tĩnh, lấy quân Hán làm một đội, quân phiên làm một đội, dùng người như vậy, tự nhiên không loạn. Có thể lệnh cho Vương Thiều xem xét kỹ, soạn điều ước rồi tâu lên.” Vương An Thạch nói: “Vũ Vương dùng người Dung, Thục, Vi, Lô, Bành, Bộc, chỉ theo một phép, nay muốn dùng Hạ để cải hóa Di, thì nên cho quân phiên dần giống với quân Hán, khác với giặc phiên.” Vương Khuê nói nên cấp riêng áo làm hiệu, Vua ngại tốn kém, An Thạch nói: “Nay muốn dùng, trước hết phải dùng hào kiệt của họ, tức là những người gọi là ‘phiên cảm dũng’. Đã thu dụng họ, há lại tiếc phí tổn? Tính ra so với chiêu mộ quân, chi phí cũng không nhiều. Những người ‘phiên cảm dũng’ đã vui vẻ được dùng, thì những người khác dần dần cũng sẽ ngưỡng mộ, vui vẻ được dùng.”

[70] Thẩm hình viện tâu: “Tội nhân ở đảo Sa Môn Điểu Sơn thuộc Đăng Châu, định mức là hai trăm người, nếu vượt quá thì di chuyển sang nơi khác qua biển, e rằng không hợp với ý ngăn chặn kẻ gian. Xin cho tội nhân ở đảo Sa Môn Điểu Sơn đều được phân bổ đến các lao thành ở bốn châu Quỳnh, Nhai, Đam, Vạn, những người hiện có ở đó theo lệ được xem xét di chuyển khi có ân xá.” Chiếu rằng từ nay lấy ba trăm người làm định mức. Ngày 18 tháng 7, lại có việc ngày 25 tháng 6 năm Trị Bình thứ 4 về sự việc của Lý Khánh có thể tham khảo.

[71] Ngày Đinh Sửu, chiếu dời trà trường ở Tần Châu đến Hi Châu, để tiện cho việc buôn bán với các tộc Khương mới quy phụ.

[72] Đề cử ở Kinh Thị dịch vụ tấu: “Tam ban tá chức Trương Cát Phủ được cử làm câu đương công sự ở thượng giới, Cát Phủ từ chối vì hiện đang làm chỉ sử cho Lý Chương, mà Chương đang bị giáng chức, nếu bỏ đi một sớm một chiều thì nghĩa lý không yên.” Vua than rằng: “Mười nhà trong một ấp ắt có người trung tín. Cát Phủ tuy là tiểu nhân, nhưng nêu cao nghĩa khí, còn hơn Lý Thanh Thần xa lắm, nên chiều theo ý nguyện của ông ta.” Vương An Thạch nói: “Nghe nói Cát Phủ rất có tài năng, nay điều ông ta trình bày là nghĩa riêng, triều đình dùng người chính nên dùng những người như thế này.” Trước đây, Hàn Giáng làm tuyên phủ, Thanh Thần theo làm việc, sau khi Giáng không thành công bị giáng chức, Thanh Thần tìm cách tự bảo toàn, nhiều lần chê bai Giáng, nên Vua coi thường ông ta.

[73] Trung thư lễ phòng dâng lên các điều mục về việc xem xét, Vua phê: “Năm phòng thúc giục ban hành văn bản và tham khảo những việc chưa rõ ràng, đáng lẽ có thể nghị định rồi tâu lên xin chỉ dụ, không cần phải xem xét.” Lúc đặt ra các điều mục, binh phòng đã nhầm lẫn. Vua tuy chỉ ra lỗi đó, nhưng không lập tức coi là tội. Bản Chu bỏ đi, cho là việc nhỏ không đáng ghi. Bản mới theo bản Chu. Nay vẫn giữ lại, e rằng ắt có lý do.

[74] Trước đó, Chương Đôn tâu: “Phùng Tông Đạo muốn đến trại mới, nhưng vì quân ít, thế yếu, sợ người Man nhìn thấy, nên đã ngăn lại.” Xu mật viện trình bày số quân đã điều động, nói là không ít, Vua nói: “Có lẽ quân chưa đến.” Xu mật viện nói đã đến, Vua im lặng, một lúc lâu sau nói: “Tông Đạo không có một tờ tấu nào trình bày việc bên đó, thật lạ.” Việc này theo《Nhật lục》ngày 19 tháng 4. Vương An Thạch nói: Vua đã nhận ra Xu mật viện ngăn cản Chương Đôn. Nay chọn lấy phần này để ghi chép thêm. Tông Đạo được phái đi vào ngày 28 tháng giêng.

[75] Hôm đó, Vua dụ Vương An Thạch bảo Chương Đôn đừng hành động hấp tấp, vì Tông Đạo nói trại do Đôn xây không kiên cố, lại tập hợp dân phu không thông qua châu huyện, sau này không biết số còn mất; lại nói người Cửu Linh cùng với Ý, Hợp chưa quy phụ, Đôn chỉ sai người khuyên dụ mà thôi. An Thạch nói: “Nay mỗi lần chém được một đầu người Man thì thưởng năm tấm lụa, ai dụ hàng được cũng vậy. Ý, Hợp chắc không có sức mua chuộc người Cửu Linh, người Cửu Linh thấy quân ta mạnh ắt không dám giúp Ý, Hợp. Nay dùng trọng binh áp sát, dùng tinh binh đánh, dùng lợi lớn dụ hàng, họ ắt sẽ dụ người Cửu Linh và người quy thuộc, chỉ giết vài kẻ cầm đầu. Quan quân chiếm giữ yếu địa, không hành động bừa bãi, ắt trăm trận trăm thắng mà không hề hấn gì.” Vua nói: “Nếu vậy thì tốt.” An Thạch nói: “Đã bàn kỹ, Lý Hạo cũng cho là nên làm thế, chắc không lo gì.” Việc này theo《Nhật lục》ngày 4, 5 tháng 6, nay ghi chép thêm.

[76] Ngày Kỷ Mão, xuống chiếu: “Từ nay, những năm bị thiên tai, ngoài việc cứu tế theo pháp luật, nếu cần cứu giúp thêm, phải tính trước số dân phu cần huy động để làm thủy lợi và tiền công, cấp tiền lương từ kho Thường bình, mộ dân đói đi làm. Nếu gặp thiên tai mà không cứu tế theo chiếu trước, giao cho Tư nông tự kiểm tra tâu lên để xử lý.”

[77] Xu mật phó sứ Thái Đĩnh dâng thư của Tri Vị châu Vương Quảng Uyên lên Vua, nói: “Cung thủ bản lộ vừa trở về từ phía tây sông Đào, sức lực mệt mỏi, nay nếu lại đi đánh thành, e rằng không chịu nổi.” Vua nói: “Quảng Uyên là bậc suý thần mà nói lời như vậy, chẳng phải làm dao động lòng người sao?” Vương An Thạch và các quan nói: “Đây chỉ là nhân việc trong thư mà nói đến, còn như tuyên bố động viên quần chúng, e rằng ông ta cũng không dám.” Vua nói: “Quảng Uyên tâu xin bổ nhiệm tướng tá, phần nhiều không đúng người. Gần đây bổ nhiệm một sứ thần, lại là thư lại của cung Vua Bộc, người này thân thiết với Thời Quân Khanh, ắt là do ông ta tiến cử. Bản lộ không thiếu quan lại có năng lực, bỏ mà không dùng, lại dùng những hạng người này, một mai làm hỏng việc triều đình, chẳng phải quá lắm sao! Trẫm đã nghiêm khắc trách mắng rồi, các khanh có thể nhân việc viết thư mà răn bảo thêm.”

[78] Ngày Tân Tỵ, đề cử ty thiên giám Trần Dịch và các quan tâu: “Sổ sách đo đạc của bản giám có chỗ sai lệch về khí và sóc, mà lịch Sùng Thiên thì khí chậm, lịch Minh Thiên thì sóc chậm, sai lầm đều do đặt nguyên không đúng, chưa thể khảo chính được. Và khi tập hợp các quan để xem xét kỹ thì thấy phù lậu không dùng được, hồn nghi của ty thiên giám và thiên văn viện cũng đều có chỗ sai lệch. Nếu chỉ dựa vào đồ cũ mà sửa chữa qua loa, thì không tránh khỏi sơ suất.” Vua xuống chiếu: “Về khí và sóc, lệnh cho ty thiên giám chỉ huy người hiệu định lịch là Vệ Phác soạn lịch mới, so sánh với lịch cũ xem cái nào sơ cái nào mật; còn phù lậu và hồn nghi, lệnh cho chế tạo theo mẫu mới, ty thiên giám đo đạc lại rồi tâu lên.”

[79] Người quy thuận Nam Giang là Hướng Vĩnh Ngộ, dâng lên chiếc ghế bành mạ vàng và thanh kiếm bạc mà tổ tiên ông là Phòng ngự sứ Thông Hán được Vua Chân Tông ban cho, cùng với ấn của châu Phú. Vua xuống chiếu trả lại kiếm và ghế vì là vật tiên triều ban tặng, chỉ giữ lại ấn. Sách 《Nam Giang truyền》 chép: Tháng 6, Vĩnh Ngộ cùng 25 người đến kinh, được dẫn vào yết kiến, ban cho y phục, đai lưng và tiền bạc. Vua xuống chiếu đổi thành trấn An Giang ở châu Giáp Tân Thành, trấn Trấn Giang ở châu Phú, và trấn Cung Khê ở sông Cung. Việc ban tên là vào ngày Quý Sửu tháng 5, sách chép nhầm.

[80] Ngày Quý Mùi, Đô đại đề cử Hà Dương, Hoài, Vệ châu giới Hoàng Sấm hà đê ngạn, Cung phụng quan Vương Hanh được giảm thời gian khảo hạch 3 năm, Quảng bị Chỉ huy sứ, Đô thủy giám Đô hào trại Cao Siêu được ban thưởng 3 vạn tiền, do Đô thủy giám Vương Hanh và các quan dâng lên phương pháp đắp đất làm đê, đóng cửa đê nguyệt, so với việc sửa chữa đê bị vỡ đã tiết kiệm được nhiều công sức và vật liệu.

[81] Chiếu cho Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty sai người ứng phó, cho các cung thủ Hi Hà vay lương thường bình và miễn lãi.

[82] Kinh lược ty Tần Phượng lộ tâu rằng, đã kiểm tra và đo đạc ruộng chức điền của quan lại cùng đất hoang hơn 30 khoảnh để chiêu mộ cung thủ, trong đó ruộng chức điền vẫn theo lệ cấp lại bằng diêm sao. (Có thể tham khảo thêm vào tháng 4 ngày Giáp Ngọ).

[83] Ngày Giáp Thân, Hữu Thần Vũ quân Đại tướng quân, Cù Châu Đoàn luyện sư Khắc Du được tập phong tước Tần Quốc công.

[84] Thượng phê: “Sông Biện gần đây bỗng nhiên cạn xuống, dòng chảy giữa sông đã ngừng, chỗ trũng chỉ còn sâu khoảng một hai thước. Nghe nói ở hạ lưu, thuyền bè công tư đều không biết trước thời gian xả nước để bồi đất, vì vậy không kịp giảm tải, phần lớn đều bị mắc cạn và hư hỏng, khiến bị đình trệ lâu ngày, lòng người bất an. Có thể lệnh cho các cơ quan liên quan của Đô thủy phân tích, rồi giao cho Tam ty cử quan cùng với Ty đề điểm phủ giới từ kinh thành đến Trần Lưu, xem xét có thuyền bè nào bị hư hỏng hay không, so sánh với số lượng hư hỏng trong những năm trước rồi tâu lên.” Sau đó, Ty đề điểm Ngô Thẩm Lễ tâu rằng, sau khi kiểm tra thuyền bè, ban đầu không có chiếc nào bị hư hỏng. Ngày 3 tháng 4 nhuận năm thứ 8, trong《Nhật lục》: Thịnh Đào nhân việc nước sông Tác dâng cao, nói rằng sông Biện không nên mở hai cửa. Nay kiểm tra sổ ghi chép mực nước, lúc đó, nước sông Biện giảm bốn tấc, còn nước sông Tác dâng cao sáu thước. Thịnh Đào lại nói rằng nước đã từng tràn bờ, nhưng tra xét lại thì năm đó không có việc nước tràn bờ; nói rằng không nên mở hai cửa, nhưng từ trước đến nay vẫn thường mở hai cửa.

Thượng nói: “Tống Xương Ngôn đóng cửa sông không đúng cách, một năm[8] đã mở đóng cửa sông Biện đến tám lần, không chỉ lãng phí nhân công vật liệu[9], mà còn khiến sông Biện không thông, làm trở ngại việc vận chuyển rất nhiều.” An Thạch nói: “Thịnh Đào trước tâu rằng vì việc bồi đất, hai ngày nước cạn, thuyền bè mắc cạn hư hỏng rất nhiều, kinh thành náo loạn, nhưng tra xét lại thì không có một chiếc thuyền nào bị hư hỏng; và việc mở đóng cửa sông tám lần này, làm khổ nhọc công tư, thuyền bè đều không thông, nhưng lại không nói gì, tại sao vậy?” Thượng nói: “Không liên quan đến Thịnh Đào, mà là do Tiết Hướng tâu.” An Thạch nói: “Việc Tiết Hướng tâu, thần không biết, nhưng Thịnh Đào đã có tờ tấu gửi xuống Trung thư. Không biết Tiết Hướng là cận thần, lại dám bịa đặt lừa dối Thánh thượng như vậy, có nên xử phạt không? Lừa dối như vậy mà không trị tội, không biết đạo lý nào cho phép?” Thượng chỉ cười. Đoạn phụ chú này cần tra cứu thêm.

[85] Chiếu rằng, 62 chỉ huy quân Vũ Vệ ở Kinh Đông thuộc các lộ, chia phiên điều động, cùng các quân mã còn lại, đều sai chủ binh quan chia bộ huấn luyện. Trước đây, quân bốn lộ Hà Bắc không chia tướng để dạy tập, Vua lo quân chế dần suy, nên có chiếu này. 《Thời chính ký》 chép: Hà Bắc từ khi thông hòa đến nay, không chia tướng, huấn luyện không tinh, lo sinh sự, nặng về sửa chữa, nếu không phải thánh lự sâu xa, phát từ quyết đoán của Vua, thì không thể đến thế. Nay ghi chú thêm. 《Binh chí》 chép: Chiếu rằng, bốn lộ Hà Bắc thừa bình đã lâu, nặng về đổi mới, nếu cứ theo lối cũ, càng làm suy quân chế, nên lấy 62 doanh Vũ Vệ ở Kinh Đông thuộc các lộ, chia phiên dạy tập, quân còn lại đều chia phái chủ binh quan huấn luyện.

[86] Lại chiếu rằng, Đô tuần kiểm Lân, Phủ, Phong châu là Trương Bảo dời sang sai khiển ở lộ Phu Diên, vẫn không tính là phạm lỗi, quan khám xét trước là Chu Lâm truất một chức, bắt thôi, quan thể lượng là Phạm Tông Sư bị thay thế. Trước đó, Bảo tâu rằng 3.000 kỵ binh giới Tây xâm phạm biên giới, nhưng Phu châu tâu chỉ có 100 kỵ, Kinh lược ty ủy Tông Sư thể lượng, Tông Sư nói chỉ hơn 200 người. Sau đó, ngục chế xét hỏi, đúng như lời Bảo, nên có chiếu này.

[87] Ngày Ất Dậu, Hình bộ Thị lang trí sĩ Lý Thụ mất. Vua ban chiếu riêng, vì là cựu thần ở phủ phiên trước, ưu đãi ban tặng, ban ơn cho con cháu thêm một bậc.

[88] Long đồ các Học sĩ, Công bộ Thị lang, Đề cử Hồng Khánh quan Phó Vĩnh mất. Có thể bỏ.

[89] Ngày Bính Tuất, chiếu rằng từ nay các quan người Phiên có công xin mở phường mới, đều do triều đình quyết định.

[90] Ngày Đinh Hợi, Tri Hà châu Cảnh Tư Lập xin lấy 55 người Khương hàng ở quân Đức Thuận là Lý Kỳ Tế làm Phiên dũng cảm ở ty An phủ Tây Thao, theo lời xin, lại tính theo nhân khẩu chia ba bậc cấp tiền tu tạo, bậc trên 7.000, còn lại giảm dần theo từng bậc.

[91] Ngày Mậu Tý, sai Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lý, Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự Thẩm Quát xem xét việc thủy lợi ruộng đất, sai dịch ở lộ Lưỡng Chiết kiêm sát phỏng. 《Tân kỷ》 không chép.

[92] Tri phủ Đại Danh Hàn Giáng tâu: “Bờ đê sông lớn, trước đây khi kiểm tra tính toán công trình vật liệu, chỉ dựa theo ý kiến của quan lại, nâng cao chỗ thấp, bồi đắp chỗ mỏng, ban đầu không có quy định cụ thể. Mong giao cho Đô thủy giám, từ nay trở đi đều lấy mặt nước làm chuẩn, cao thấp phải đồng đều, chỗ nào hướng vào bờ thì tăng thêm đắp bên ngoài đê, để ngăn ngừa nạn nước rò rỉ, trước hết giao cho Ngoại đô thủy giám thừa ty[10] cùng các quan lại đương chức đến tận nơi bờ đê bàn bạc lập pháp.” Theo đó.

[93] Chiếu rằng: Các chức Hoành hành sứ, Phó ở triều đình, từ nay đều kiêm quản Khách tỉnh và Tứ phương quán. Trước đây, Khách tỉnh và Tứ phương quán thiếu chính quan, nên dùng các chức Cáp môn sứ, Phó để quản lý. Đến nay, Dẫn tiến sứ Lý Đoan Khác đến kinh đô, Tây thượng Cáp môn phó sứ Trương Thành Nhất phải thôi chức, nhưng Đoan Khác xin cho Thành Nhất vẫn tạm quản lý như cũ, nên có chiếu này.

[94] Vua phê: “Các cung thủ Kinh Nguyên ở phía tây Thao hiện đang quản lý đã lần lượt được giải tán về nhà nghỉ ngơi, nên chỉ huy Vương Quảng Uyên khi đến nơi phải bảo các thành trại dưới quyền không được tùy tiện giữ lại, lại lệnh cho Kinh lược ty thường xuyên kiểm tra, ai vi phạm sẽ bị xử tội và báo lên.”

[95] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho Phó sứ Tả tàng khố Giả Thế Kinh giảm thời gian khảo hạch ba năm, vì trước đây từng đề cử xây đê Hoàng Hà, đào sông thẳng, thu hồi thế nước, có công lao. Sông thẳng, cần tra cứu ngày 2 tháng 2 và cuối tháng 6 năm thứ 7.

[96] Trung thư dâng lên phương pháp khuyến khích trồng dâu, Vua nói: “Nông tang là gốc của ăn mặc, nên khuyến khích dân. Nhưng dân không dám tự lực, chính vì châu huyện lấy việc này làm cớ để tăng hộ đẳng. Trước đã có điều cấm, nên tuyên bố lại.”

[97] Vua phê: “Tân Tri châu Hà Châu Cảnh Tư Lập có mẹ già, nhưng chưa có nhà ở, nên đặc cách sai em trai là Tư Nghị làm chức quan ở Tần Châu, để an ủi lòng hiếu thảo của ông.”

[98] Ngày Tân Mão, ban chiếu cho Dẫn tiến sứ Lý Đoan Khác đợi hai năm nữa sẽ bãi chức Phòng ngự sứ, chỉ huy có thể gia hạn thêm hai năm, vì tội tự ý sáp nhập các chỉ huy Kiêu Tiệp ở Ký Châu, bố trí sai lầm, dẫn đến việc địch đốt phá trạm dịch Quốc tín. Việc này xảy ra ngày 9 tháng 2 năm thứ 7, ngày 18 tháng 2 năm thứ 8 bãi chức chính nhiệm.

[99] Ngày Nhâm Thìn, Tư nông tự tâu: “Dân các huyện Toan Tảo, Dương Vũ, Phong Khâu thuộc Khai Phong hơn nghìn người đến ty kiện xin miễn việc luyện tập bảo giáp, đã ra bảng dụ không cho kiện vượt cấp. Vì quan lệnh, tá các huyện thuộc kinh đô có lúc triệu tập không đúng thời, nên dẫn đến kiện tụng. Riêng huyện Tộ Thành chưa lệnh luyện tập mà đã kiện, đều giao cho ty đề điểm xét xử.” Vua phê: “Hiện đang đúng mùa vụ, triệu tập không đúng lúc, thực sự bất tiện cho dân. Lệnh cho ty đề điểm hặc tội quan lại vi phạm pháp luật để tâu lên, từ nay không được cấm dân kiện vượt cấp[11].”

[100] Ngày Quý Tỵ, ty sát phỏng hai lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng tâu rằng huyện Lô Thị thuộc châu Quắc có tiền dịch của hộ xử sĩ Lưu Dịch đã về hưu, chưa dám theo lệ quan phẩm giảm một nửa để đóng, ban chiếu theo lệ quan thất phẩm.

[101] Ty sát phỏng lộ Kinh Đông xin từ nay nếu có ai tuyên truyền, tạo ra lời nói, văn tự để kích động dân chúng về việc thi hành phép sai dịch mới, đều theo pháp lệnh kích động bảo giáp, được chấp thuận.

[102] Ban chiếu lộ Hà Bắc không được huy động quá 5 vạn dân phu mùa xuân, lấy làm lệ thường hàng năm.

[103] Chiếu cho Tào Châu Lý Phục Khuê phạt 10 cân đồng. Ban đầu, Phục Khuê được bổ nhiệm làm Tào Châu, khi vào chầu có lời oán hận, nói: “Hai mươi năm trước đã biết Tào Châu, hôm nay thẹn gặp lại quan lại và dân chúng.” Vua nói: “Trận chiến Nạp Oát ở Khánh Châu, người chết oan lên đến hàng nghìn người, khanh không thẹn gặp vợ con họ, lại thẹn gặp quan lại và dân chúng Tào Châu sao?” Phục Khuê không biết trả lời thế nào. Đến lúc này, khi đến nhậm chức, trong biểu tạ ơn lại khoe khoang rằng mình vô tội mà bị hặc tội, bị Ngự sử Thịnh Đào đàn hặc, nên có mệnh lệnh này. Vua nói với Vương An Thạch: “Phục Khuê hư đản, tài năng không có gì đáng dùng, muốn cách chức lần nữa.” An Thạch nói: “Trước đây Phục Khuê bàn việc thưởng cho Lý Khắc Trung, Xu mật viện lệnh cho lại viên của viện và Tuyên phủ ty cung khai, đều nói không có tiền lệ, chỉ có bệ hạ biết là có tiền lệ, nên thưởng cho Khắc Trung. Vậy việc này không phải do Phục Khuê hư đản.” Vua nói: “Ngự sử nói Phục Khuê không chỉ có việc này.” An Thạch nói: “Những việc thực tế đều đã được xử lý, những việc trước khi an trí đều không có sự thật.” Vua nói: “Biểu tạ ơn có lời oán phỉ, sao không xử lý?” An Thạch nói: “Theo pháp luật, phạt đồng là đủ.” Vua vẫn còn nghi ngờ, An Thạch nói: “Phục Khuê đối đáp kiêu ngạo, bệ hạ phê chuẩn xử lý, đủ để răn đe. Nếu dùng lời Ngự sử, cách chức Phục Khuê, e rằng không công bằng, vì lời Ngự sử đều không đúng sự thật.” Vua bèn thôi.

[104] Ty Nông tự tâu: “Xét định việc Phủ giới đề điểm Ngô Thẩm Lễ xin lệnh cho các huyện khuyến khích dân tùy theo hộ đẳng trồng dâu, cho phép từ năm sau trồng, năm sau nữa di chuyển trồng, đợi khi thấy phương pháp trồng trọt hoàn thiện sẽ ban hành khắp các lộ.” Vua đồng ý.

[105] Ngày Giáp Ngọ, Hàn lâm học sĩ Trần Dịch tâu: “Phụng chỉ biên soạn 《Đạo trường trai tiếu thức》 28 quyển, xin ban hành, và hạ lệnh cho Tăng đạo lục ty, căn cứ vào bản giáo khoa tham khảo các danh mục, vị hiệu của các đạo trường, lập pháp tuân thủ.” Vua đồng ý.

[106] Ngày Ất Mùi, Vua phê: “Tổng quản Hi Hà lộ là Cao Tuân Dụ đang chỉ huy quân Hán và quân Phiên đóng ở sông Diêm Tỉnh để xây thành trại. Có thể lệnh cho xây hai dãy nhà ở thành mới, gồm bảy mươi gian, ban cho Bao Thuận và Bao Thành, trước hãy vẽ đồ án trình lên.” Việc xây trại Diêm Xuyên, có thể tra cứu trong bản truyện của Tuân Dụ. Ban đầu, bàn việc thu lại giếng muối của Bao Thuận, có người cho rằng không nên thu, Vương An Thạch nói: “Nếu Vương Thiều bảo người khác lấy ý riêng hỏi Bao Thuận: ‘Ngày xưa thu mười ngàn, nay cho mười lăm ngàn để mua, thế nào?’ Xét thấy tình hình so sánh lợi hại của Bao Thuận với người mua không khác gì, có thể sẽ vui vẻ, vui vẻ thì thu lại cũng không hại gì. Nay đặt thành trại, không lo tính toán nguồn cung cấp tại chỗ, lại từ trong vận chuyển tài vật để dự phòng, không phải là kế lâu dài.” Vua nói: “Xưa giữ biên cũng phải từ trong cung cấp.” An Thạch nói: “Phải tính toán hết mọi cách, nếu thế không được mới từ trong cung cấp. Nếu còn có thể tính toán tiện lợi, sao lại bỏ mà không tính, lại phải từ trong cung cấp?” Vua nói: “Như Hà Bắc thì phải đến từ trong cung cấp.” An Thạch nói: “Như thời Đường, phương trấn Hà Bắc, ngoài chống địch mạnh, bên cạnh phòng bị lân đạo, trong chống triều đình, lại còn hối lộ, nhưng trăm thứ không cần cầu bên ngoài mà vẫn đủ.” Ngô Sung nói: “Lúc đó sự đòi hỏi sao kể xiết.” An Thạch nói: “Gần đây ngoài việc cung cấp từ trong, há tránh khỏi phiền nhiễu sao?” Vương An Thạch bàn việc này vào ngày 16 tháng 7, nay phụ chép.

[107] Ngày Bính Thân, Tri Hình châu, Quang lộc khanh Sử Chiêu được bổ làm Tri Ân châu, và từ nay về sau sẽ luân phiên dùng võ thần. Vì Ngự sử Thái Xác tâu rằng hai châu Ân, Ký ở Hà Bắc đều là đất nội địa, không thể chỉ dùng võ thần làm Tri châu.

[108] Hùng Châu báo rằng hơn 500 kỵ binh tuần tra của giới Bắc đã vào đất lưỡng thuộc. Vua nói: “Người phương Bắc dần dần có vẻ gây chuyện. Hiện nay binh khí ở Hà Bắc đều hư hỏng không dùng được, thêm vào đó tướng sĩ lười biếng, sao có thể đối phó với kẻ địch?” Vương An Thích và các quan nói: “Nếu bệ hạ chú ý một chút đến việc phòng bị biên giới, thì cũng không khó. Hiện nay dân binh được tuyển chọn ngày càng được huấn luyện, ngoài ra còn có các quy chế về tài chính, sửa chữa thành lũy, chọn lựa tướng soái, chỉ cần làm tốt mấy việc này là đủ.” Vua nói: “Các khanh hãy bí mật lập kế hoạch rồi tâu lên.” Vua rất lo lắng về những kẻ gian nịnh, Vương An Thích nói: “Dù Thái Tổ nghiêm minh như vậy, nhưng Trương Diên Thông, Đào Cốc, Đinh Đức Dụ vẫn có thể lừa dối được, là vì chúng dùng lời gièm pha dựa vào hình dáng sự việc và dò xét điều mà nhà Vua nghi ngờ.”

[109] Ngày Mậu Tuất, Vũ Ninh quân Lưu hậu, được tặng chức Chiêu Tín quân Tiết độ sứ, Nam Khang quận vương Tông Lập mất.

[110] Ngày Kỷ Hợi, ra chiếu rằng từ Đô chỉ huy sứ trở xuống đến Phó đô đầu của các quân Ban trực, đều do Thừa chỉ ty ghi vào sổ. Khi có việc thăng bổ bất thường hoặc có sự cố, thì lệnh cho Điện tiền Mã, Bộ quân ty báo với Thừa chỉ ty để đối chiếu và ghi chú, nhằm chuẩn bị cho việc chuyển viên sử dụng.

[111] Thiết lập cơ quan Giám quản quân khí, thống nhất việc quản lý quân khí trong và ngoài nước. Các việc quản lý đều theo quy chế của Tướng tác, đồng thời cử Lữ Huệ Khanh và Tăng Hiếu Khoan làm Phán giám, các chức quan thuộc cấp dưới đều do các quan tiến cử. Trước đây, quân khí thuộc quản lý của án Trụ thuộc Tam ty, nhưng công việc của Tam ty quá nhiều, người phụ trách án lại thay đổi liên tục, nên đến lúc này mới bắt đầu theo quy chế thời Đường, lập Giám quản quân khí và bãi bỏ án Trụ.

Trước đó, Vua nói với các đại thần: “Binh khí ở Hà Bắc đều không thể dùng được.” Vương An Thạch tâu: “Binh khí không thể chuẩn bị trong một sớm một chiều, cần phải chuẩn bị trước.” Vua bèn bàn việc lập Giám và cử quan phụ trách, ngày hôm sau liền có lệnh này. Cả sử cũ và sử mới đều chép việc lập Giám quản quân khí, ngày 19 tháng 8 có chép về Lữ Huệ Khanh.

Sách 《Binh chí》 chép: Quân khí của triều đình trước đây thuộc quản lý của án Trụ thuộc Tam ty, nhưng công việc của Tam ty quá nhiều, người phụ trách án lại thay đổi liên tục, chỉ có thể giữ gìn sổ sách mà thôi. Trước đó, Vương Bàng từng nói: “Hán Tuyên Đế được xưng là bậc minh quân trung hưng, nhưng sử sách chỉ chép rằng kỹ xảo và thợ thủ công đều tinh xảo hơn thời Nguyên Đế và Thành Đế. Như vậy, việc này tuy là việc của quan lại, nhưng lại liên quan đến chính sự của triều đình, là điều mà người làm chính trị cần lưu ý. Hiện nay, bên ngoài phòng ngự hai biên giới, bên trong lo lắng về nạn cướp bóc, các kế sách chinh phạt và bắt giữ đều được coi là việc quan trọng hàng đầu, nhưng riêng việc chế tạo vũ khí lại không được quan tâm. Hiện nay, mỗi năm triều đình thu được cung nỏ, áo giáp các loại chất đầy kho vũ khí lên đến hàng ngàn vạn, nhưng không có thứ nào thực sự bền chắc, nhẹ nhàng và sắc bén để dùng làm vũ khí. Thần từng xem xét các xưởng chế tạo ở các châu, thậm chí có nơi thiếu thợ binh nên phải bắt dân thường đi làm, những vũ khí làm ra chỉ đủ hình thức, còn chất lượng tốt xấu thì không ai quan tâm. Quan lại quản lý kho vũ khí cũng chỉ đếm số lượng để cất giữ, chứ không ai kiểm tra xem có thực sự dùng được hay không, nên dù tích trữ nhiều nhưng phần lớn đều hư hỏng, không thể dùng được. Làm chính trị như vậy mà vẫn muốn dùng uy lực để quyết thắng, bên ngoài khuất phục kẻ địch mạnh mẽ, bên trong ngăn chặn kẻ gian ác nổi loạn, thần thật không thấy có thể được. Nếu muốn bỏ bê việc vũ bị, để thiên hạ thấy rằng không có việc gì, thì các nguyên liệu như kim loại, gỗ, tơ, sợi, gân, sừng, keo, sơn, tre, lông chim đều do sức dân làm ra, lại vô cớ tập trung thợ để phá hủy, thật đáng tiếc.

Thần nghĩ cách thuận tiện hơn là nên thay đổi chế độ, thu gom việc chế tạo của các châu lại một chỗ, giống như các xưởng đúc tiền hiện nay, rồi mỗi xưởng chọn một vị quan am hiểu công việc, giao cho chuyên trách; đồng thời chiêu mộ thợ giỏi trong thiên hạ, phân làm thợ cả ở các xưởng, triều đình cũng nên đặt quan chuyên trách để tổng quản việc này, sau đó xem xét chất lượng tốt xấu mà thưởng phạt nghiêm minh, như vậy mọi người đều cố gắng làm tốt, không cần đốc thúc mà vẫn tinh xảo. Có nghe nói hiện nay trong kho vũ khí vẫn còn cung thời Thái Tổ, dây cung vẫn như mới, còn những cung gần đây làm ra thường không dùng được. Nếu đúng như vậy, thì cũng thấy được sự lỏng lẻo của pháp luật. Xưa kia, Thùy làm Cộng công, các đời sau đều nhờ vào cung tên của ông mà đạt đến thịnh trị, đó là một ví dụ.” Vua phần nào nghe theo lời của Vương Bàng.

Năm thứ 6, bắt đầu theo quy chế thời Đường, lập Giám quản quân khí, thống nhất việc quản lý quân khí trong và ngoài nước. Đặt chức Phán giám và Đồng phán giám mỗi chức một người. Các chức thuộc có Thừa, Chủ bạ, Câu đương công sự, bãi bỏ án Trụ thuộc Tam ty, đem việc này về quản lý. Ở các châu có nguyên liệu, đều lập Đô tác viện. Những người trong thiên hạ biết rõ lợi hại của quân khí, cho phép đến Giám trình bày, lúc đó có rất nhiều quan lại và dân chúng dâng lên các phương pháp chế tạo vũ khí. Lệnh cho ba vị tướng xem xét những thứ thực sự tiện lợi thì mới chế tạo; lại cử quan lại mang những vũ khí tốt đến các xưởng chế tạo ở các lộ, làm mẫu để họ làm theo, chia thợ làm ba hạng, xem xét chất lượng vũ khí tốt xấu mà thăng giáng quan lại. Sách 《Binh chí》 chép đại để cho rằng mọi việc chính sự thời Thần Tông đều do Vương An Thạch và con trai quyết định, lời lẽ quá nịnh bợ, nay không chọn, nhưng lời của Vương Bàng cũng có chỗ đáng tham khảo, nên tạm ghi chú ở đây.

[112] Tháng đó, bãi bỏ quân Kinh Môn, đem hai huyện Trường Lâm, Đương Dương sáp nhập vào phủ Giang Lăng, huyện Kiến Ninh đổi thành trấn.


  1. 'Giai' nguyên bản là 'thượng', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại.
  2. thủ khuyết quân tướng 'khuyết' nguyên là 'quan', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 190 Binh chí, 《Thông khảo》 quyển 156 Binh khảo sửa.
  3. khi chỉ huy gặp khuyết xếp hàng 'khuyết' nguyên là 'quan', theo hai sách trên sửa.
  4. Số đinh 79.089 người trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 88 giống nhau, 《Trị tích thống loại》 quyển 17 phần Thần Tông khai Nam Giang chép là 'đinh 119.089 người', 《Tống sử》 quyển 494 phần Man Di truyện chép là '19.089 đinh'.
  5. Phan Túc, chữ 'Túc' nguyên bản viết là 'Phượng', căn cứ theo các bản và 《Tống sử》 quyển 333 phần Phan Túc truyền, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 88 phần Thảo Mai Sơn Man sửa lại.
  6. Số liệu 20 triệu nhân công trong 《Tống hội yếu》 Thực hóa 7-26 giống nhau, nhưng 《Ngô quận chí》 quyển 19 Thủy lợi ghi là 'ước tính dùng 10 vạn nhân công'. Theo 《Cửu vực chí》 quyển 5, Tô Châu có 33.318 hộ chính và 21.480 hộ khách. Nếu tính mỗi hộ 5 người, tổng cũng chỉ hơn 20 vạn người. Lại theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 69-70 mục Hộ khẩu: 'Năm Hi Ninh thứ 5 đời Thần Tông, cả nước có 1.509.156 hộ chính và khách, tổng cộng 21.867.852 nhân khẩu.' Bản gốc nói 'dùng 20 triệu nhân công' rõ ràng không thể được, nghi ngờ chữ 'thiên' (nghìn) là sai, nên là 'thập' (mười), có lẽ 《Ngô quận chí》 quyển 19 Thủy lợi ghi 'ước tính dùng 10 vạn nhân công' là chính xác.
  7. Tháng 9 năm Tuyên Hòa thứ 7 'tháng 9', các bản khác chép là 'tháng 4'.
  8. Một năm 'Một' nguyên bản là 'Hai', căn cứ theo bản trên và quyển 263, ngày Giáp Ngọ tháng 4 nhuận năm Hi Ninh thứ 8, chú thích của Lý Đào sửa lại.
  9. Không chỉ lãng phí nhân công vật liệu, chữ 'Lãng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung.
  10. Trước hết giao cho Ngoại đô thủy giám thừa ty, chữ 'Nhưng' nguyên là 'Nãi', theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa.
  11. Từ nay không được cấm dân kiện vượt cấp, chữ 'việt' nguyên là 'phó', căn cứ theo bản trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 71 về bảo giáp sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.