"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 248: NĂM HI NINH THỨ 6 (QUÝ SỬU, 1073)

Từ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 6 đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 11, ngày Canh Tý, mùng một, Trung thư tâu: “Vâng chỉ lập sổ sách để khảo sát công trạng và lỗi lầm của các quan chức trong và ngoài triều. Nếu gặp việc bổ nhiệm, kiểm tra, ghi chép, tiến cử mà có chỉ đặc biệt, xin từ nay cũng đồng thời kiểm tra và ghi chép.” Vua đồng ý.

[2] Điện trực Trương Vinh vào điện Thùy Cung chầu Vua, tự trình bày rằng trước đây vì phạm tội bị cách chức, có con gái bị bán vào cung. Vua ra chiếu tha tội, lệnh cho Nội Đông Môn trả lại con gái cho ông.

[3] Vương An Thạch tâu: “Tiết Hướng lấy sổ sách chi tiết về tiền, lúa, vàng bạc, vải lụa ra vào trong 6 năm ở Thiểm Tây, gây phiền nhiễu cho dân rất nhiều, xin bãi bỏ việc này.” Vua nói: “Trung thư lệnh cho Tiết Hướng điều tra việc tiền và vải lụa ra vào ở Thiểm Tây, chắc là do văn thư cũ trong tỉnh không đầy đủ, không thể thấy rõ.” An Thạch nói: “Văn thư cũ trong tỉnh tuy chưa từng được kiểm tra, nhưng số lớn vẫn có thể thấy được. Pháp lệnh trong tỉnh nghiêm ngặt như vậy mà còn không đầy đủ, thì các châu bên ngoài làm sao đầy đủ được. Nếu có việc truy xét, thay thế chuyên phó, phải kéo dài từ 7, 8 năm trở lại đây, bao nhiêu người, bao nhiêu ngày mới xong được, mà như thế này thì không có ngày kết thúc. Trước đây so sánh việc muối giải giới của Tiết Hướng, còn gây phiền nhiễu cho nhiều người, cuối cùng không xong được, mà triều đình lại ra chỉ bãi bỏ. Nay việc này gấp mười lần muối giải, văn thư làm sao xong được?” Vua hỏi: “Làm sao thấy được số tiền và vải lụa ở Thiểm Tây tăng giảm?” An Thạch đáp: “Tiết Hướng khi ở Thiểm Tây, tiền và vải lụa không thiếu, sau này mới thiếu. Nếu do người sắp xếp không đúng cách dẫn đến thiếu hụt, thì Tiết Hướng chỉ cần kiểm tra văn thư trong tỉnh, điều tra việc thực hiện khi còn ở Thiểm Tây, sau này thay đổi thế nào mà dẫn đến thiếu hụt. Nếu không phải do thực hiện khác biệt mà dẫn đến thiếu hụt, chỉ là do năm được mùa hay mất mùa, việc nhiều hay ít, nên số tiền hiện có nhiều hay ít khác nhau, thì cũng có thể thấy đại khái, không cần phải kiểm tra từng chi tiết ra vào mới thấy được.” Vua bèn lệnh bãi bỏ việc yêu cầu văn thư từ tỉnh.

[4] Sau vài ngày, Vua lại nói: “Thiểm Tây thiếu hụt tài chính, nếu có việc biên giới, lấy gì để đối phó?” An Thạch đáp: “Có việc biên giới cũng không cần tăng chi phí. Trước đây, việc biên giới, nếu triều đình chỉ ra lệnh cho các nơi kiên cố phòng thủ thành trại, không giao chiến với địch, từ từ luyện binh quấy rối chúng, khiến chúng không được nghỉ ngơi. Chúng nhiều lần tập hợp, tự nhiên không còn khả năng hành động, Bính Thường sẽ bị bắt. Như vậy thì binh lực và lương thực hiện có đủ để giải quyết việc. Không làm theo cách này, mà tùy việc loạn ứng phó, nên tốn kém mà việc không thành.” Vua nói: “Vừa có việc liền đến xin thêm quân.” An Thạch đáp: “Thời Thái Tổ, có tướng lĩnh sai con trai đến xin quân, xin không được, khóc mà đi, nhưng cuối cùng không thất bại. Nay tướng lĩnh xin quân, cho hay không là do bệ hạ.” Vua nói: “Thái Tổ dùng Quách Tiến, nay e khó được người như vậy.” An Thạch đáp: “Quách Tiến có gì khó được? Làm việc thì tài năng tự xuất hiện. Như Vương Quân Vạn, khi còn làm chỉ huy, ai bảo ông ta có thể dùng được? Nhờ việc lập công, sau đó mới biết ông ta có thể dùng.”

[5] Vua nói: “Ngày nay, di địch thật có thể đối phó như vậy.” An Thạch đáp: “Trung Quốc rộng lớn, dân đông của cải nhiều, thêm vào đó bệ hạ thông minh, lo lắng chăm chỉ việc thiên hạ, nếu sắp xếp không sai, thì dù Mặc Đốn cũng đáng gì phải sợ? Hán Cao Tổ bị Mặc Đốn làm khốn đốn, cũng vì Trung Quốc mệt mỏi vì chiến tranh, dân chúng muốn nghỉ ngơi mà thôi. Nếu Hán Cao Tổ có thiên hạ như ngày nay, ắt không còn sợ Mặc Đốn.” Vua nói: “Trời khiến Trung Quốc có cách thắng di địch, chỉ là đời sau đảo ngược mà thôi.” An Thạch đáp: “Đúng vậy. Kinh Thi lấy việc di địch mạnh, Trung Quốc yếu là ‘dê đực đầu to’, rõ ràng không phải là lẽ thường của trời đất.”

[6] Ngày Tân Sửu, thêm một chức Huyện thừa ở huyện Bình Giang, châu Nhạc.

[7] Ngày Nhâm Dần, ban chiếu cho An phủ ty vùng biên giới phía bắc Hà Bắc chỉ huy các huyện lệnh, huyện úy của hai huyện Quy Tín và Dung Thành, từ nay nếu gặp quân tuần mã của Bắc giới, phải từ từ đuổi theo, không được làm tổn thương nhau. Ban đầu, quân tuần mã của Bắc giới đi qua Bạch Câu, huyện úy Quy Tín là Tang Cảnh bắn bị thương Tiểu Ưng quân sứ của Châu Trác là Cố Đức, nên mới có lệnh ước thúc này. Ngày 25 tháng 7, theo《Nhật lục》: Hàn Chẩn tâu xin giữ lại Phùng Hành Kỷ, cho rằng nếu bãi chức Hành Kỷ, người Bắc sẽ cho rằng vì việc bắn chết người nên bị bãi, sẽ càng kiêu ngạo, nếu họ lại đến ắt sẽ cho là có mưu kế, người Bắc càng nghi ngờ. Vua nói: “Hành Kỷ tâu báo cũng không thấy có gì sai lầm.” Hoặc có người hôm qua đối đáp với người Bắc nói việc mở rộng thành trì là sai. Vua nói: “Hôm qua Tăng Hiếu Khoan dẫn theo sứ thần, chính là người do Trương Lợi Nhất tiến cử, chỉ nghe lời bọn họ nên mới như vậy.” Chẩn lui ra, tôi tâu với Vua: “Tôn Vĩnh nói Tang Cảnh là con rể của Hình Tá Thần, nghi ngờ việc bắn chết người có thể không hoàn toàn thuộc địa phận Nam giới, việc này chưa rõ, nhưng không thể không xem xét.” Lại tâu với Vua: “Triệu Tử Kỷ nói mọi người rất khen ngợi Trương Lợi Nhất, thần đã nói với họ mấy việc thực tế về Lợi Nhất mà triều đình biết, họ mới nói hoàn toàn không biết có chuyện này.” Vì sứ thần ở Hùng Châu đều do Lợi Nhất tiến cử, nên mới như vậy. Việc này liên quan đến Tang Cảnh, ghi chép thêm để xem xét sau.

[8] Chiếu rằng mùa đông năm nay không đóng cửa sông Biện, sai đóng bè để ngăn nước nổi. Trước đó, Quyền phán Tướng tác giám Phạm Tử Kỳ tâu: “Cửa sông Biện mỗi năm mở đóng, hao tổn nhân lực và tiền của, không chỉ khiến dân chúng thêm khốn khổ, mà sau khi đóng cửa còn cản trở việc vận chuyển đường thủy. Xin mỗi khi đến mùa đông, không nên đóng cửa sông, để thuyền bè từ ngoài sông lớn đi thẳng vào sông Biện đến kinh thành, bãi bỏ việc chuyển vận, như vậy kế hoạch hàng năm chắc chắn sẽ tăng lên nhiều, binh lính chèo thuyền cũng có thể giảm bớt, thuế rượu và lợi tức khác cũng sẽ tăng lên, lợi ích công tư đều thuận tiện, không gì hơn được. Nếu cho rằng không đóng cửa suốt mùa đông sẽ làm lấp lòng sông, thì xét rằng mỗi năm đóng cửa thường vào cuối đông, khi sương rơi nước rút, đến khi nước ngừng chảy cũng có cát lắng, nhưng gặp nước mùa xuân chảy mạnh thì không còn tích tụ gì. Nếu sau này cần nạo vét và tu sửa, có thể ấn định thời hạn, tạm thời đóng cửa, so với việc hàng năm phải làm công trình, thì phiền phức và tiết kiệm khác nhau nhiều.” Bèn hạ chiếu cho quan lại cửa sông Biện xem xét, cuối cùng theo ý kiến của Tử Kỳ. Lúc đó Cao Ly phái sứ thần đến triều cống, lệnh cho từ sông Biện ngược dòng đến kinh đô.

[9] Ban đầu, bàn về việc không đóng cửa sông Biện, Vua nói: “Xưa đóng cửa sông tốn kém nhiều.” An Thạch nói: “Nghe nói có khi tốn đến trăm vạn.” Vua nói: “Mấy năm trước nếu nói không đóng cửa sông Biện, người ta ắt sẽ kinh hãi.” Bèn ra lệnh không đóng cửa sông Biện và xem xét chi phí hàng năm về nhân công, vật liệu đóng cửa sông để trình lên. Vua nói: “Nghe nói ở Đô tỉnh có bia ghi rằng kênh rạch trước đây thông với sông Biện, không biết từ khi nào đáy sông dần cao lên.” An Thạch nói: “Nay đầu các kênh đều sâu, sông Biện rất thấp. Lại xem chùa Tướng Quốc, cát tích gần đến mái nhà, thì sông Biện dần cao lên chưa lâu.” Vua nói: “Sông Biện đã có từ lâu, sao gần đây lại dần cao lên như vậy?” An Thạch nói: “Xưa không xây kinh đô, nên không như triều ta chuyên dựa vào nước sông, do đó nước từ các đầm hồ, kênh rạch đều chảy vào sông Biện, cát theo dòng mà không đọng lại. Từ khi xây kinh đô, vận chuyển bằng đường thủy không thể ngừng một ngày, chỉ dựa vào nước sông để dẫn vào sông Biện, các nguồn nước khác không thể chảy vào sông Biện nữa, đó là lý do cát tích tụ dần cao lên.”

(Sách 《Bút đàm》 của Thẩm Quát có nhiều điểm tương đồng với lời của Vương An Thạch, nay ghi chú ở đây để tham khảo. Sông Biện của triều đình, huy động phu dịch từ hơn ba mươi huyện thuộc kinh kỳ và các quận phụ cận, mỗi năm nạo vét một lần. Năm Tường Phù, Tạ Đức Quyền, chức Cáp môn chi hậu sứ thần, được giao trông coi việc đào kênh rạch ở kinh kỳ, tạm mượn phu dịch nạo vét sông Biện. Từ đó, ba năm nạo vét một lần, bắt đầu lệnh cho các quan huyện ở kinh kỳ kiêm nhiệm việc quản lý kênh rạch và sông ngòi, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên. Lâu dần, việc đào kênh rạch dần lơ là, các quan huyện chỉ mang danh không, sông Biện có khi hai mươi năm mới nạo vét một lần, cát bùn tích tụ hàng năm. Trước đây, nước từ các kênh rạch ở kinh sư đều chảy vào sông Biện, bia ghi ở tường Đô đường Thượng thư tỉnh có viết[1] “đào tám kênh, phía nam chảy vào sông Biện” là vậy. Từ khi sông Biện bị bồi lấp, từ cửa Đông thủy môn của kinh thành xuống đến Ung Khâu, Tương Ấp, đáy sông đều cao hơn mặt đất bên ngoài đê hơn một trượng hai thước, từ trên đê sông Biện nhìn xuống nhà dân[2], như ở trong thung lũng sâu.

Năm Hi Ninh, bàn việc dẫn nước sông Lạc vào sông Biện, tôi nhân đi sứ, đi dọc sông Biện, từ cửa Thượng Thiện của kinh sư đo đến bờ sông Hoài ở Tứ Châu, tổng cộng tám trăm bốn mươi dặm một trăm ba mươi bước. Địa thế: Kinh sư cao hơn Tứ Châu mười chín trượng bốn thước tám tấc sáu phân. Ở phía đông kinh thành, đào giếng giữa lòng kênh sâu đến ba trượng mới thấy đáy cũ. Đo đạc địa thế, dùng thước ngắm và thước đo mực nước, cũng không tránh khỏi sai lệch nhỏ. Bên ngoài đê sông Biện, đều là rãnh đất đào cũ, tôi nhân đó đào thông các rãnh nước, lúc thì đắp đập ngăn nước, đợi nước lặng[3], phía trên dần cạn, lại đắp một đập khác, nối tiếp như bậc thang, rồi đo độ chênh lệch mặt nước trên dưới đập, tổng hợp lại mới biết được độ cao thấp thực tế của địa thế.)

[10] Ngày Quý Mão, Toàn Duy Kỷ, chức Tẩu mã thừa thụ ở Lân Phủ lộ, xin bãi bỏ lính sương quân để làm lính cung tiễn thủ, được chấp thuận. Trước đây, vùng ngoài sông có nhiều đất hoang, Vua sai Vương Trung Chánh, chức Đái ngự khí giới, chiêu mộ dân làm lính cung tiễn thủ để khai khẩn, nhằm giảm bớt quân đồn trú. Chuyển vận sứ Triệu Tử Kỷ nhân đó dâng sách lược kiêm việc chiêu mộ lính sương quân, nhưng không tính toán chi phí cấp lương. Đến nay, bãi bỏ việc này.

[11] Ngày Giáp Thìn, Tiết Hướng, chức Thiên Chương các đãi chế, quyền Tam ty sứ, được bổ nhiệm làm Long Đồ các trực học sĩ. Việc khai khẩn đất đai ở Đào, Hà, chi phí rất lớn, Hướng hết sức lo liệu, mọi người cho là khó, Vua ban chiếu thưởng 300 lượng bạc và 300 tấm lụa, nói: “Khanh chú tâm việc biên cương, thấy được thành tích này, nên an ủi lòng trung thành.” Hướng nhân đó xin răn các tướng súy giảm bớt người thừa, bãi bỏ lính nhũng, tiết kiệm chi phí không cần thiết, giảm bớt thuế khoá. Lại lo việc vượt quyền. Vua lại dụ bằng chiếu rằng: “Trước đây chọn khanh đảm nhiệm việc quốc kế, nay có thể đề xuất sáng suốt, không bỏ lỡ cơ hội, đó là việc trong chức trách, sao gọi là vượt quyền?”

[12] Ngày Ất Tỵ, ra chiếu: Lính cung tiễn thủ mới chiêu mộ ở Kinh lược ty Hà Đông lộ, nhà cửa, tường vách đều do quan phủ tu sửa, nếu ai muốn xin gỗ và tự lo việc thi công thì cho phép.

[13] Lại ra chiếu: Quân Nam Giang ở Thần Châu trước trận đều được cấp tiền đặc chi theo thứ bậc.

[14] Ngày Bính Ngọ[4], quan đồng sát phỏng các việc thường bình ở Kinh Đông lộ[5], Lữ Thăng Khanh, chức đoàn luyện suy quan ở Thường Châu, được bổ làm Thái tử Trung doãn, quyền phát khiển chuyển vận phán quan Kinh Đông lộ. Sách “Tư mã ký văn” chép: Thăng Khanh đi sát phỏng Kinh Đông về, được bổ làm chuyển vận phán quan Hoài Nam. Chức chuyển vận phán quan phải do quan thăng triều đảm nhiệm, lại mượn thêm chức Trung doãn, sau đó triệu về làm thuyết thư. Bản “Nhật lục” ngày nay không nói là mượn, cần xét lại.

[15] Chiếu cho Quân khí giám dùng mẫu yên cương đã được Điện tiền Mã quân ty[6]nghiên cứu, tính toán số ngựa của các quân ở kinh thành để chế tạo và cấp phát. Ban đầu, quân mã dùng yên lớn, không tiện cho chiến đấu ngoài chiến trường. Đến lúc này, Vua mới dùng yên nhỏ bằng da kiểu biên giới, dùng yên gỗ và dây cương dài, có thể xoay trở và bắn tên, phát huy hết kỹ năng phi ngựa. Lại chọn người biên giới quen cưỡi ngựa để sung vào các quân. Sau đó, Vua phê: “Trước đây ban xuống mẫu yên, lo số lượng nhiều chưa kịp chuẩn bị, nghe nói các quân cũng có yên riêng, đại thể giống mẫu mới, nếu có thể tự chuẩn bị thì cấp tiền.” Sách “Chí” có chép việc này, ngày 27 tháng 6, cần xét lại.

[16] Nhân có tin thắng trận của Ý và Hợp, Vua bàn về kẻ cầm đầu, lo rằng chúng trốn tránh không bắt được. An Thạch nói: “Uy danh của quân ta chấn động, rợ ngoài không dám chứa chấp, e rằng sẽ bắt được.” Vua nói: “Như Mộc Chinh, quân quan không phải không uy chấn, nhưng cuối cùng vẫn dám chứa chấp, tại sao vậy?” An Thạch nói: “Từ khi Hà Châu giết kẻ đầu hàng, chúng đâu dám tin tưởng tướng biên, nên liều chết cùng Mộc Chinh.” Vua nói: “Trước đây Mộc Chinh sao không đầu hàng?” An Thạch nói: “Chỉ vì chưa có họa cấp bách, nên chưa hàng, nay cấp bách mà không hàng, e rằng vì việc giết kẻ đầu hàng vậy.”

[17] Ngày Đinh Mùi, Vương An Thạch tâu: “Dùng bừa sông để nạo vét Hoàng Hà, từ giờ Mão ngày 28 đến giờ Thân ngày 29, sâu thêm từ 9 tấc đến 1 thước 8 tấc, xin dùng bừa nạo vét sông Biện.” Vua nghe theo. Vua nói: “Quả như vậy, sẽ tiết kiệm rất nhiều sức dân và vật liệu. Nghe nói một quân ở Hà Bắc dùng đến 5.000 dân phu, mà quân ấy chỉ có 5.000 đinh, một dân phu tốn đến 8 quan tiền. Âu Dương Tu thường nói rằng khai sông như đốt lửa, không khai sông như mất lửa. Nếu dùng dân phu làm khổ dân như vậy, thì không bằng không khai sông.” An Thạch nói: “Nếu cả hai đều là họa, thì khai sông dùng dân phu cũng như đốt lửa, mất lửa. Nếu dùng sức vạn người trong một năm, mà trừ được họa của nghìn người trăm năm, thì cũng như đốt lửa, mất lửa vậy. Nay dùng sức vạn người, trừ họa của mười vạn người, thì nhất định phải làm. Kinh Dịch nói ‘làm hại thiên hạ mà dân theo’, vì tuy hại họ, nhưng cuối cùng khiến họ được yên ổn lợi lạc. Cho nên rét lạnh nắng mưa không phải không hại, nhưng không có rét lạnh nắng mưa thì cũng không thể thành vật, nên để yên hay làm hại, đều là đạo trời, há chỉ để yên mà thôi!” Việc này theo 《Nhật lục》 của Vương An Thạch ngày 8 tháng 11.

[18] Trước đó, có người được tuyển chọn là Lý Công Nghĩa dâng lời, xin chế tạo “Thiết Long Trảo” để nạo vét sông. Phương pháp là: dùng vài cân sắt làm thành hình móng vuốt, thả chìm xuống đáy nước, buộc dây thừng, dùng thuyền kéo đi. Hoạn quan Hoàng Hoài Tín cho rằng móng sắt quá nhẹ, không thể chìm, nên xin chế tạo “Tuấn Xuyên Bà”. Phương pháp là: dùng một khúc gỗ lớn dài tám thước, răng dài hai thước, xếp dưới khúc gỗ như hình cái bừa, dùng đá đè lên; hai bên buộc dây thừng lớn, hai đầu buộc vào thuyền lớn, cách nhau tám mươi bước, mỗi bên dùng xe trâu[7] để kéo, kéo qua kéo lại làm xáo trộn bùn cát, sau đó lại di chuyển thuyền để nạo vét. Vương An Thạch rất tán thành phương pháp này, từng sai Hoài Tín nạo vét sông Nhị Cổ. Hoài Tín dùng hai mươi hai chiếc thuyền, trong bốn canh giờ nạo vét sông sâu từ ba thước đến bốn thước bốn tấc, nước đã chảy theo, lại còn tẩy rửa, trong một ngày lại tăng thêm một thước. Hoài Tín xin dùng năm trăm binh lính, trong hai mươi ngày đào sáu dặm sông thẳng, thuận theo thế nước sông Nhị Cổ, dùng bừa để nạo vét, có thể di chuyển dòng sông lớn cho nhanh. Vua đồng ý theo kế hoạch của Hoài Tín[8]. An Thạch xin lệnh cho Hoài Tín nhân tiện khảo sát các đê Thiên Đài, đào sông thẳng, dùng bừa để nạo vét. Vua cũng đồng ý. Đoạn này thấy trong 《Nhật lục》 ngày 9 tháng 10 năm thứ 5, nay chép vào đây. 《Hà cừ chí》 chép đào sông thẳng bảy dặm, 《Nhật lục》 chép sáu dặm, nên tham khảo cả hai.

[19] Một hôm lại nói: “Mở một con sông thẳng, tính ra tiết kiệm được chín trăm vạn vật liệu, ba trăm vạn nhân công. Như cái bàn xới sông do Hoài Tín chế tạo, có thể dùng được trong mọi tình huống nguy cấp. Lý do không thể mở sông thẳng là vì gần nước, đào vài thước đã thấy nước, không thể thi công được. Nay chỉ cần thấy nước là dùng bàn xới để nạo vét, không thể không khiến nước chảy vào chỗ sông thẳng. Như vậy một năm tiết kiệm được bao nhiêu triệu vật liệu và nhân công. Lại nữa, các cửa cống sông Biện, sông Quảng Tế và các sông giảm lũ, từ nay không cần tính toán công sức để nạo vét, chỉ cần chế tạo hàng trăm nghìn cái bàn xới, sẽ không bao giờ bị bồi lắng nữa.”

Đoạn này thấy trong 《Nhật lục》 ngày 19 tháng 10 năm thứ 5, nay chuyển vào đây, cần xem xét kỹ lưỡng hơn, e rằng năm tháng trong 《Nhật lục》 cũng có sai sót, hoặc không phải là việc năm thứ 5. 《Hà cừ chí》 chép: Phạm Tử Uyên dâng tấu công lao thử nghiệm bàn xới sông, chiếu thưởng cho Hoài Tín 15 đạo độ điệp, Công Nghĩa được bổ nhiệm tại triều đình. Cũng ghi vào sau tháng 9 năm thứ 5, cần tham khảo thêm để chỉnh sửa. Việc mở sông thẳng từ đầu đến cuối, vào ngày 5 tháng 2 và cuối tháng 6 năm thứ 7, lại ngày 11 tháng 12. 《Hà cừ chí》 năm thứ 5 tháng 9, sau khi thưởng công đắp đê ngăn lũ, liền chép việc Lý Công Nghĩa, nói rằng Tiết độ suy quan Lý Công Nghĩa dâng phương pháp xe bùn bằng móng sắt để nạo vét sông Hoàng Hà, nội thị Hoàng Hoài Tín cho là có thể dùng nhưng chưa hoàn hảo, Trung thư xin cho Hoài Tín và Công Nghĩa cùng thử nghiệm. Bàn xới được đặt ở đuôi thuyền, dùng dây thừng lớn thả móng sắt xuống nước, thợ chèo gấp gáp, thuyền nối nhau xuôi dòng, qua một hai lần, nước đã sâu thêm vài thước. Có người nói đó là cách Vũ dùng để nạo vét sông, nên gọi là bàn xới sông. Hoài Tín xin đào một con sông thẳng dài 7 dặm ở chỗ gần hai cửa sông mới mở tại cảng Thanh Hà để thử nghiệm, xem hiệu quả. Chiếu cho khởi công vào đầu mùa xuân. Năm đó, Phạm Tử Uyên dâng tấu công lao thử nghiệm bàn xới sông, chiếu thưởng cho Hoài Tín 15 đạo độ điệp, Công Nghĩa được bổ nhiệm tại triều đình.

Năm thứ 6, Vương An Thạch tâu với Vua về lợi ích của việc dùng bàn xới để nạo vét sông Nhị Cổ và đắp đê ngăn sông Ngư Lặc: “Nay các đê đã nạo bỏ các bãi cát, nước tự dời chỗ, nếu không ngừng công việc, dù là thượng nguồn sông Nhị Cổ, cũng có thể khiến nước chảy ngầm dưới đất.” Vua bèn lệnh cho Công Nghĩa đổi làm quan kinh. Ngày 5 tháng 2 năm thứ 7, Tử Uyên tâu rằng việc nạo vét sông Nhị Cổ và sông Thanh Thủy Trấn đã thông suốt, còn ba nhánh sông Ngư Lặc dần dời đi có thể đắp đê ngăn lại, tức là sông đổ vào Thanh Thủy Trấn, sông Nhị Cổ chảy, trả lại nhiều ruộng đất cho dân. Chiếu cho Tử Uyên đợi nạo sâu rồi đắp đê ngăn lại. Tháng 3, Lưu Cáp tấu rằng bàn xới sông đã nạo vét sông Thanh Thủy Trấn sâu rộng, và việc đắp đê ngăn sông Ngư Lặc đã hoàn thành. Do đó, chiếu cho phủ Đại Danh an phủ xác minh rồi tâu lên. Bèn sai Tử Uyên làm Đề cử việc nạo vét, từ Vệ châu đến cửa biển, sáu đô đại ty của sông Hoàng Hà đều giảm một quan, các quan đê đều giảm bớt. Còn Tử Uyên, Lưu Cáp, Chu Trọng Lập vì công nạo vét đều được thăng một chức, những người khác giảm thời gian khảo hạch, ban tơ lụa có khác nhau. Xét ngày 11 tháng 3 năm thứ 10, Công Nghĩa đổi làm quan kinh, ngày 3 tháng 4, sai Tử Uyên làm Đề cử, ngày 11 tháng 12 năm thứ 7, thưởng cho Tử Uyên, chỉ thưởng cho Hoài Tín độ điệp và Công Nghĩa được bổ nhiệm tại triều đình, không thấy trong 《Nhật lục》, cần xem xét thêm.

[20] Ngày Mậu Thân, Kinh lược ty Hi Hà tâu: “Các tướng thu phục Hà Châu, phá được tộc Thường Gia và theo Vương Thiều đến dưới núi Lộ Cốt, tiên phong xông lên, dũng cảm chiến đấu, chém được hơn ba nghìn thủ cấp.” Chiếu ban ân có phân biệt.

[21] Ngày Canh Tuất, Viên ngoại lang Đồn điền, Đồng phán Đô thủy giám Hầu Thúc Hiến kiêm chức Đề cử Duyên Biện Ứ Điền.

[22] Ghi công Tam ban Phụng chức Mã Hòa, con là Hữu Khánh làm Hữu ban Điện trực, lập tức cấp bổng. Vì Mã Hòa khi đánh Hà Châu xông lên thành trước, bị tên bắn trúng trán mà chết.

[23] Lại chiếu rằng công lao ở Hà Châu, chém được một thủ cấp thưởng thêm năm tấm lụa, những người tiếp ứng đại quân phá tan bộ tộc cũng được như vậy.

[24] Đề cử Ty thiên giám tâu: “Theo lời của người làm lịch là Vệ Phác, đo đạc bằng hồn nghi, cảnh biểu, khắc lậu đều có sai lệch, không thể làm chuẩn được.” Chiếu đưa nguyên Quản câu đương quan Dương Mậu Tiên đến Khai Phong phủ xét tội rồi tâu lên.

[25] Ngày Nhâm Tý, Ty nông tự xin cho dân bảo giáp ở chín huyện Tương Ấp, Toan Tảo, Uý Thị, Trưởng Viên, Phong Khâu, Thái Khang, Dương Vũ, Khai Phong, Tường Phù tập luyện trận pháp, theo lệ như các huyện Hàm Bình được vào yết kiến, được chấp thuận. Tạm ngừng việc tập hợp dạy bảo giáp trong kinh kỳ năm nay.

[26] Ngày Quý Sửu, Đông chí, đặt tượng thần Thái Nhất. Đức âm: “Giảm tội cho tù nhân trong thiên hạ, tội tử hình tạp phạm giáng xuống lưu đày[9], tội lưu đày trở xuống được tha. Những hộ dân bị thiên tai ở các lộ, nếu vì quá hạn mà không kịp khiếu nại về thuế, không được xét miễn, thì Giám ty xem xét rồi miễn. Dân đói kém, An phủ, Đề cử ty phải ưu tiên cứu tế, không để họ phải lưu lạc. Ngoài việc đã chỉ huy về nợ quan ở lộ Hà Bắc, các lộ khác nếu bị thiên tai mà được miễn thuế từ năm phần trở lên, thì nợ quan tạm ngừng.” Trước đó, Vua vì hạn hán lâu ngày, muốn nhân Đông chí ban đức âm, thuận theo lời chúc của Thái Nhất, hạ chiếu bảo các phụ thần bàn bạc. Vương An Thạch xin theo chiếu chỉ, soạn các điều cần thi hành dâng lên, Vua trong cung thêm vào điều xét miễn, thật là Vua sáng suốt trong chính sự, thương dân như vậy.

[27] Ngày Ất Mão, Vua đến cung Trung Thái Nhất và điện Tập Hi để dâng lễ.

[28] Ngày Mậu Ngọ, Vương An Quốc, quyền Tiết độ suy quan quân Vũ Xương, Hiệu thư viện Sùng Văn, được bổ làm Trứ tác tá lang, Hiệu lý Bí các. Theo lệ cũ, Hiệu thư viện Sùng Văn sau hai năm mới được bổ làm Hiệu khám quán các. Vương An Quốc được Tham tri chính sự Phùng Kinh và Vương Khuê tiến cử vì học hạnh xuất chúng, nên được đặc cách bổ nhiệm.

[29] Ty Nông tâu: “Bảo giáp phủ giới Khai Phong, lấy năm nhà gần nhau làm một bảo, năm bảo làm một đại bảo, mười đại bảo làm một đô bảo. Nếu đủ hai trăm hộ trở lên thì lập thành một đô bảo, số lượng chính trưởng tạm giữ như cũ. Những nơi không đủ hai trăm hộ thì tùy theo địa phương thuận tiện mà sáp nhập vào đô bảo khác. Các lộ khác cũng làm theo.” Vua chuẩn tấu. Ngày 27 tháng 8 (Mậu Tuất), có thể tra cứu thêm.

[30] Vua phê: “Nghĩa dũng Thiểm Tây chưa được sắp xếp, gần đây ban hành luật mới chưa thể thi hành, nay lộ Kinh Nguyên đã làm như vậy, nên lệnh cho Kinh lược ty phân tích tâu lên.” Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》, cần tra cứu thêm, ngày 20 có phê chuẩn hợp lệ.

[31] Kinh lược ty Hi Hà tâu, Bao Thuận xin ghi công hiến giếng muối để bổ dụng con trai. Vua dụ Vương Thiều xét lại, giếng muốn vốn do nhiều người hiến, sao chỉ mình Bao Thuận xin thưởng? Nếu chỉ thưởng Thuận, thì những người khác có tranh chấp không? Và lệnh Thiều xem xét điều kiện bán muối rồi tâu lên.

[32] Khiết Đan muốn tranh giành địa giới ba châu Uất, Ứng, Sóc, việc đã có manh nha, Vua rất lo lắng. Vương An Thạch tâu với Vua: “Khiết Đan không đáng lo, trong nước họ còn không thể bắt được trộm cướp, sao dám làm địch với Trung Quốc? Hơn nữa, họ ngồi nhận hối lộ lớn[10], có gì gấp gáp mà tự chuốc lấy nguy hiểm?” Vua nói: “Vì Hà Bắc cũng không có gì để đối phó.” An Thạch nói: “Hà Bắc nhân vật đông đúc, chỉ cần sắp xếp có phương pháp, không lo không có gì để đối phó, việc chậm thì sắp xếp chậm, việc gấp thì sắp xếp gấp.” Gia truyền của Lữ Huệ Khanh chép lời Huệ Khanh rằng: “Giặc hiện nay chưa chắc đã đến mức này, giả sử có việc xảy ra, với sự lớn mạnh của Trung Quốc, gấp thì ứng phó gấp, chậm thì ứng phó chậm.” Lời này hơi giống với lời của An Thạch, ghi chú thêm vào ngày Bính Dần tháng 4 năm thứ 8 dưới phần Tiêu Hi vào từ biệt. Vua nói: “Họ đông người, làm sao?” An Thạch nói: “Đông người càng không đáng lo, nếu đông người mà có người chủ tài năng dẫn dắt, phân biệt tài năng, hèn kém, dũng cảm, nhút nhát, mỗi người đúng vị trí của mình, thì đáng sợ. Nếu không có người chủ tài năng dẫn dắt, phân biệt tài năng, hèn kém, dũng cảm, nhút nhát, mỗi người không đúng vị trí của mình, thì dễ bị quấy rối và thất bại. Lo lắng là ở chỗ sắp xếp không có phương pháp, không thể phân biệt tài năng, hèn kém, dũng cảm, nhút nhát, nên dẫn dắt không đúng cách. Không lo họ đông người, họ đông người chính là dễ bị quấy rối và thất bại.”

[33] Vua nói: “Tiên triều vì sao lại có việc Thiền Uyên?” An Thạch đáp: “Tiên triều dùng tướng, như Vương Siêu cũng từng được triệu đối, Chân Tông nói chuyện với ông ta, sau đó đem lời nói đó bàn với đại thần. Thần đọc sử sách, thấy lúc bấy giờ bàn luận rốt cuộc không có quyết đoán, trên dưới rất là lộn xộn, như thế làm sao thắng được địch? Lại nữa, Thái Tông vì Phó Tiềm tâu việc phòng bị mùa thu đã gần, cũng không biết quân tướng ở đâu, ban chiếu giao hai quyển văn tự, nói số quân đều ở trong đó, đợi giặc như thế thì mở quyển này, như thế kia thì mở quyển kia. Nếu dùng tướng như thế, thì chỉ có Vương Siêu, Phó Tiềm mới chịu làm tướng, người hơi có tài lược, ắt không chịu làm tướng lúc này, ngồi chờ thất bại. Chỉ việc dùng tướng như thế, thì không thể thắng được địch.” Vua cho là phải.

[34] Vua nhân đó nói: “Thời gian đáng tiếc, nếu chậm một ngày, thì mất một ngày việc.” An Thạch nói: “Có chậm một ngày mà mất một năm việc.” Vua nói: “Như việc sắp xếp bảo giáp, nghĩa dũng, lại phải đợi lúc nông nhàn, ấy là chậm một ngày mà mất một năm việc.” An Thạch nói: “Chậm một năm việc thì có việc không kịp.”

[35] Vua lại lo người Hạ, nói: “Nếu có việc phương Bắc, thì hai mặt đều bị địch, làm sao?” An Thạch nói: “Triều đình chưa nên có việc phương Bắc, nếu có việc phương Bắc, người Hạ không thể thắng được Trung Quốc lúc bấy giờ, ngày nay Trung Quốc với người Hạ, há chỉ như Nguyên Hạo với Trung Quốc lúc bấy giờ? Vì thế không đáng lo.”

[36] Sau vài ngày, Vua lại nói: “Khiết Đan cứng rắn chống đối như vậy, phải làm sao?” An Thạch đáp: “Khiết Đan chỉ tranh giành từng tấc đất nhỏ nhoi, mưu lược của họ đã rõ, có gì đáng lo? Chẳng hay bệ hạ lo thiếu tiền lương chăng? Hay lo thiếu người? Hay lo không có nhân tài để bàn việc?” Vua nói: “Nhân tài chưa được đào tạo thành tựu, tiền lương cũng thật sự thiếu thốn, người lại chưa được huấn luyện.” An Thạch nói: “Việc có việc gấp việc chậm, nên cách xử trí cũng có gấp có chậm. Nếu có việc gấp, thì gấp rút huấn luyện người cũng chưa muộn. Giả sử Khiết Đan muốn cắt đứt minh ước, cũng không thể trong một năm mà khởi binh lớn được. Ứng biến lúc đó, cũng đủ để đối phó. Nếu bàn về tiền lương, thì nhân việc gấp mà lo liệu, cũng không sợ thiếu. Chỉ hiện nay chưa gấp, nên cũng chưa cần vội vàng. Chỉ có việc thiếu nhân tài là đáng lo nhất. Nhưng nhân việc mới thấy được nhân tài. Như việc Hi Hà, thì nhân tài Hi Hà đã có thể thấy được; việc Ý, Hợp, thì nhân tài Ý, Hợp cũng đã có thể thấy được. Bệ hạ nếu thấu hiểu tình hình, không bị che lấp, khiến người có tài năng, có chí hướng không còn do dự, không còn lo lắng, ai nấy đều muốn đóng góp công sức, thì nhân tài không sợ thiếu người sử dụng. Tình người trên thì vì đạo nghĩa, giữa thì vì công danh, dưới thì vì bổng lộc. Bệ hạ nếu lấy ba điều này đãi kẻ sĩ trong thiên hạ, mỗi người đều được đúng phần mình, thì dù hiền hay không hiền, chỉ cần có chút tài năng, đều sẽ hết sức phục vụ bệ hạ. Khiết Đan không có năng lực, có gì đáng lo?” Vua cho là phải. Sử quan họ Chu lấy đoạn từ “Bệ hạ nếu thấu hiểu tình hình” trở xuống chép vào ngày Đinh Sửu tháng 2 năm thứ 7, nay vẫn ghi vào ngày này.

[37] Ngày Canh Thân, Vương Thiều sai Bản Lệnh Chinh và Cố Vân Sấm Ba đến kinh đô, đều là thủ lĩnh quy thuận ở châu Dân.

[38] Thượng phê: “Điều khoản về Nghĩa dũng và Bảo giáp, gần đây Tăng Hiếu Khoan và các quan đã xem xét lợi hại của con đường Hà Châu, tham nghị và định ra. Các lộ Thiểm Tây, xét thấy tình hình khác biệt, nên đã lệnh cho Kinh lược An phủ ty tham nghị, nhưng chưa thấy tấu báo, mà nghe nói đã có nơi thi hành, e rằng Ty Nông tự, Binh bộ và các nơi khác thi hành sai lầm, nên lệnh cho trình bày rõ ràng từ khi nhận chỉ huy đến nay đã thi hành như thế nào để tâu lên.” Ngự tập ghi ngày 21, Thực lục ghi ngày 22, nay theo Ngự tập và phê chuẩn ngày 19, có thể tham khảo.

[39] Sai Nội cung phụng quan Lý Hiến đến Thái Nguyên phủ, Đại Châu lo việc công. Việc này căn cứ theo Ngự tập, cần xem xét thêm.

[40] Ngày Tân Dậu, chiếu cho Vĩnh Hưng quân, Hà Trung phủ, Thiểm, Giải, Đồng, Hoa, Phu, Diên, Đan, Phường, Bân, Ninh, Hoàn, Khánh, Diệu gồm 15 châu quân, ngoài việc tuyển Nghĩa dũng như cũ, thì Thương, Quắc châu và Bảo An quân chỉ tổ chức thành Bảo giáp.

[41] Chiếu định pháp sai khiển võ thần, lấy lịch sử làm quan và chức vụ chia làm 6 bậc, thăng một bậc là Quyền, thăng hai bậc trở lên là Quyền phát khiển, và tính chung hai năm làm một nhiệm kỳ, nếu được đặc ân thăng cải thì không theo quy định này.

[42] Tiết độ sứ Chấn Vũ quân Lý Chương từ Dĩnh Châu trở về triều, mất tại Tương Châu, được tặng chức Thái uý, thụy là Lương Huệ, cho năm con trai được thăng một chức, ba người chưa làm quan được bổ làm Tả thị cấm. Chương là người cương nghị, thông minh, thích đọc sách, không bao giờ để ý đến tài sản trong nhà. Khi ông mất, em trai là Phò mã đô uý Lý Vĩ muốn vay mượn mỗi nơi Tương, Đường, Hứa ba châu một nghìn quan tiền để lo việc tang, sau đó sẽ trả lại cho Tả tàng khố. Vua nói: “Chương là người nhà của Chương Ý Thái hậu, nên ban cho số tiền đã vay mượn đó.”

[43] Ngày Nhâm Tuất, Hữu chính ngôn, Tri chế cáo, kiêm Thị giảng, Kiểm chính Trung thư ngũ phòng công sự Lữ Huệ Khanh được cử làm Đề cử Chế sắc khố. Trước đó, Kiểm chính Hình phòng công sự Lý Thừa Chi xin lập kho, nên cử Thừa Chi kiêm quản, nhưng vì kho lưu trữ văn thư của năm phòng, khó để chỉ một phòng quản lý, nên lệnh cho Huệ Khanh kiêm quản.

[44] Chiếu cho Lý Bình Nhất, Đề điểm hình ngục Kinh Hồ Bắc lộ, trình bày rõ việc dâng tấu sai về việc giám thuế ở Đỉnh Châu, rằng Vương Yến, chức Tá, hôn nhược không thực, để tâu lên. Yến đến Tam Ban viện để xét xem có thể đảm đương công việc hay không.

[45] Đại Tông Chính ty tâu rằng, tông thất nào thiếu hẳn ngựa và thiếu một nửa người theo hầu, thì cho phép theo chỉ dụ triều đình được miễn đến chầu, Vua nghe theo.

[46] Vua hỏi về lợi hại của việc nuôi ngựa, Vương An Thạch tâu: “Hiện nay các phường giám phải tốn hơn 500 quan tiền mới nuôi được một con ngựa. Nếu cho các bộ tộc ở Thao, Hà nuôi ngựa, chi phí chắc chắn sẽ không nhiều như vậy, lại còn được ngựa tốt. Vùng đất đó thích hợp nuôi ngựa, lại thêm các bộ tộc lấy việc nuôi ngựa làm nghề, rất tiện lợi, tiết kiệm được không ít tiền, mà đất đai của các phường giám cấp cho dân, thu được lợi cũng không ít.” Vua bàn về chính sự thời Tam Đại, coi xe ngựa là việc cấp bách. An Thạch nói: “Nay dùng xe thì không cần dùng ngựa, chỉ cần người kéo là đủ. Dùng người kéo xe, tiết kiệm được cỏ lương, không lo ngựa chạy mất, chưa chắc đã không hơn dùng ngựa. Ví như xưa dùng thẻ tre, nay dùng giấy, dù thánh nhân thời Tam Đại sống lại, chắc chắn cũng không dùng thẻ tre nữa. Sợ rằng dùng người kéo xe cũng như vậy.” Vua nói: “Việc gì có lý là có thể làm được. Trước thời Tam Đại, thánh nhân chỉ tùy thời mà đặt ra phép tắc, nên mới dùng ngựa mà thôi.” Vua lại nói: “Trời khiến Trung Quốc có đạo thường thắng, chỉ là đời sau đánh mất đạo ấy mà thôi.” Tháng 12 năm này ngày 18, và tháng 2 năm sau ngày 12, có thể khảo cứu.

[47] Ngày Quý Hợi, Vua bàn về việc lương thực ở Hi Hà, muốn giao tài phú các lộ cho Kinh lược sứ tự lo liệu, nhưng rốt cuộc không thực hiện được, Vua coi việc nông là cấp bách. Vương An Thạch nói: “Nhà có thể giúp nước, nước có thể giúp thiên hạ, thiên hạ tất phải nhờ trời đất.” Vua nói: “Nếu đặt ra phép tắc di dân đến những nơi đất rộng, cũng là đạo sinh tài mở đất của bậc vương giả vậy.”

[48] Ngày Giáp Tý, quyền phát khiển Chuyển vận phán quan lộ Tần Phượng, Tán thiện đại phu Thái Mông làm Chuyển vận phán quan lộ Vĩnh Hưng quân, cùng Sát phỏng sự lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng về việc thường bình, Đại Lý tự thừa Lý Sát làm Thái tử trung xá, quyền phát khiển Chuyển vận phán quan lộ Tần Phượng. Mông cùng Thái Diên Khánh cùng làm việc nhưng không hòa hợp, nên dời Mông và dùng Sát thay thế. Việc Mông và Diên Khánh không hòa hợp, theo bản truyện của Diên Khánh, là do dùng công văn quân nhu điều động quân của Trương Thủ Ước, Mông tâu lên. Xét sự thật thì không phải vậy, nay chỉ nói là không hòa hợp mà không nói rõ lý do. Ngày 11 tháng 10, Diên Khánh được thăng chức.

[49] Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu rằng, những người làm việc trong đội cung tiễn thủ lập công được đổi sang ban hàng, ruộng đất của họ từ nay không được mang theo, chỉ cho con cháu hoặc tá điền thay thế làm cung tiễn thủ, được chấp thuận.

[50] Đô tổng quản ty lộ Cao Dương Quan tâu rằng, sau khi xem xét việc các châu quân luyện tập theo pháp mới, đã thành thứ tự, không nghe có việc trốn tránh luyện tập, chiếu cho Tẩu mã thừa thụ Vương Diên Khánh, Trương Cẩn trình bày rõ ràng. Trước đó, ban hành pháp luyện tập mới cho các quân, chia thành thượng, trung, hạ quân, cung nỏ, sức mạnh và bắn trúng, giáo đao theo thứ bậc, nhưng Diên Khánh tâu rằng có quân sĩ trốn luyện tập sang Bắc giới, nên tra hỏi.

[51] Châu Đàm tâu rằng, Tây thượng các môn sứ, nguyên Tri châu Quế Châu Tiêu Chú dâng biểu xin cho con làm Tam ban phụng chức, cháu làm Tam ban tá chức, được chấp thuận. Vua phê: “Chú trước đây có công, con trai trưởng sau khi mãn tang sẽ được đặc cách thăng chức, và ban 300 tấm lụa.” Bản truyện của Chú nói rằng Chú không muốn lấy Giao Châu. Theo 《Đông Hiên Lục》 của Ngụy Thái, thì Chú thực sự nói Giao Châu có thể lấy được, nên được dùng lại, khác với bản truyện. Sau khi mất được ưu đãi như vậy, có lẽ bản truyện của Chú không nắm được ý, cần xem xét lại. Chú bị bãi chức Tri châu Quế Châu vào ngày Tân Sửu, 27 tháng giêng.

[52] Ngày Ất Sửu, ban chiếu cho Đồng phán Đô thủy giám Hầu Thúc Hiến, Quyền phát khiển Giám thừa Du Sung Tri, Chủ bạ Lưu Cáp đều thăng một chức, Quyền đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự Ngô Thẩm Lễ, Lưu Thục đều giảm thời gian khảo hạch hai năm, đều vì có công kiêm nhiệm đề cử việc ứ điền.

[53] Kinh lược ty Hà Châu tâu rằng, Kiềm hạt Vương Quân Vạn xin đem ân thưởng chuyển quan để ban cho cha mẹ, chiếu đặc cách ban ân nhưng không cho phép chuyển ban.

[54] Lại ban chiếu cho Tam ty ở hai lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng mỗi năm trong số tiền giải diêm phong trang, mượn 1 triệu quan tiền, giao cho Chuyển vận ty lộ Tần Phượng lo liệu việc mua lương thảo ở Hà Châu, lại cho phép xem xét tình hình cấp bách của kho dự trữ biên giới, tăng giảm giá tiền đã định. Vua lấy làm lạ vì quân Thiểm Tây ít, tiền của không đủ. Vương An Thạch nói: “Việc này đã giao cho Tiết Hướng điều tra, nhưng hiện tại còn thiếu, cần phải ứng phó, cho kịp thời thu mua.” Vua lại cho rằng Chuyển vận sứ không phải là người thích hợp, nói: “Dùng những người này lo việc tài chính, chưa thể làm được việc.” An Thạch nói: “Tiền của Thiểm Tây không đủ, cũng sợ chưa thể đổ lỗi cho Giám ty, chắc chắn là có nhiều chỗ tiêu pha. Như việc dùng binh ở Châu Hà số lượng cũng không nhiều, mà tiền của tiêu tốn lại nhiều như vậy, vì đã dùng binh thì chi phí tất nhiên phải như thế. Đến như những sai lầm nhỏ cũng có thể có, chưa chắc đã khiến tiền của thiếu hụt.” Vua nói: “Một việc sai lầm, thường dẫn đến mất mấy chục vạn quan tiền.”

[55] Ngày Bính Dần, Tả tàng khố sứ Đổng Trọng Bảo làm Hoàng thành phó sứ, Nội điện sùng ban Lý Thực làm Cung bị khố phó sứ. Vì Chương Đôn tâu rằng Trọng Bảo và những người khác ở Tự Châu đánh giặc Man có công.

[56] Ban chiếu: Khai Phong phủ có tuyết lạnh, những người già yếu, trẻ nhỏ cô đơn không nơi nương tựa trong và ngoài kinh thành, đều được thu dưỡng ở bốn Phúc điền viện, từ nay về sau theo lệ này.

[57] Lại ban chiếu cho lộ Kinh Nguyên ngoài số tiền diêm sao thường lệ, thêm 20 vạn quan, giao cho Kinh lược ty mua lương thảo phong trang.

[58] Ngày Đinh Mão, Đô chuyển vận ty Hà Đông xin ở 12 châu quân Phần, Thạch v.v. mua lương thảo theo giá thỏa thuận, cho phép trả bằng tiền và vải, theo lời xin.

[59] Ngày Mậu Thìn, sai quan tạ ơn vì có tuyết.

[60] Chiếu cho Lưu nội tuyển, cựu quan chức Lư Châu quan sát suy quan Giang Diễn được thăng một bậc, chủ bạ huyện Hội Kê là Diệp Biểu cùng sáu người khác đều được bổ nhiệm vào chức vụ trong triều, đều là do có công trong việc kiểm tra và tu sửa hồ Giám ở Châu. 《Tống loại uyển》 chép: Tháng 11, có quan lại không theo phép mới, Vương An Thạch muốn trị tội nặng, Vua không đồng ý, An Thạch cố tranh luận, nói: “Nếu không thế, phép sẽ không thi hành được.” Vua nói: “Nghe nói dân gian cũng khổ vì phép mới.” An Thạch đáp: “Dù trời lạnh hay nắng mưa, dân vẫn có kẻ oán than, há đáng để ý sao?” Vua nói: “Sao không khiến dân không còn oán than dù trời lạnh hay nắng mưa?”

[61] Tháng này, bãi bỏ Châu Đam, đổi thành quân Xương Hóa; Châu Nhai đổi thành quân Chu Nhai; Châu Vạn An đổi thành quân Vạn An. Đổi các huyện Cảm Ân, Lăng Thủy, Ninh Viễn, Cát Dương thuộc Xương Hóa và huyện Vị Nam thuộc Hoa Châu thành trấn; đổi trấn Vĩnh Phong thuộc Tín Châu thành huyện. Đặt huyện Địch Đạo thuộc Hi Châu và huyện Bao Hãn thuộc Hà Châu.

[62] Tháng 12, ngày Canh Ngọ mùng một, Chương Đôn tâu rằng người Dao ở các động thuộc các châu Hoành, Vĩnh đã nghe chiêu dụ và nộp đất, xin cho họ trở thành dân của tỉnh, Vua đồng ý.

[63] Ngày Tân Mùi, bãi bỏ Cục tường định chư ty khố vụ lợi hại. Quan tường định là Quốc tử bác sĩ Lữ Gia Vấn được thăng một chức, Phó sứ Tả tàng khố là Lưu Vĩnh Uyên được bổ nhiệm theo chỉ định của Xu mật viện.

[64] Ngày Nhâm Thân, Quan văn điện học sĩ, Hộ bộ thượng thư, phán Nam Kinh lưu ty ngự sử đài là Trương Phương Bình được bổ nhiệm làm Tri châu Trần.

[65] Tam ty tâu rằng, theo phép mới, lương lại tăng thêm, trừ số cũ ra, phải chi thêm một trăm bảy mươi mốt nghìn năm trăm năm mươi ba quan tiền. Thực lục chỉ chép ba mươi vạn, nay theo 《Bút đàm》 của Thẩm Quát mà chép rõ. Chiếu lấy tiền thuế phường trường từ năm Hi Ninh thứ tư trở về sau để hoàn lại, nếu không đủ thì lấy tiền thị dịch, thị lệ bù vào, lại lệnh cho Ty đề cử trướng khảo xét số chi thu tâu lên Trung thư. Lúc ấy, từ các cơ quan trong triều đến các giám ty, châu ngoài, đều cấp lương cho lại viên, gọi là phép thương. Kinh sư phải chi thêm lương lại bốn mươi mốt nghìn ba trăm bốn mươi quan, các giám ty, châu ngoài sáu mươi tám nghìn chín trăm tám mươi quan. Nhưng đều lấy đủ từ tiền phường trường, bến đò, thị lệ, miễn hành, dịch thặng, tiền lãi, mà vào khoản thu của triều đình, ban đầu không hề hao tổn, dân không phải nộp thêm thuế, mà lại viên được cấp lương. Đoạn này được chép vào ngày 27 tháng 8 năm thứ ba. Thẩm Quát nói: Lại viên trong thiên hạ vốn không có lương thường, chỉ nhờ nhận hối lộ mà sống, thường có kẻ làm giàu được. Năm Hi Ninh thứ ba mới định lương lại trong thiên hạ, đặt ra phép nặng để ngăn tệ nhờ vả. Năm ấy, các ty ở kinh sư phải chi lương lại ba nghìn tám trăm ba mươi tư quan hai trăm năm mươi bốn đồng, dần dần tăng thêm, đến năm Hi Ninh thứ tám, khi tôi làm Tam ty sứ, phải chi ba mươi bảy nghìn một trăm năm mươi ba quan một trăm bảy mươi tám đồng. Những lại viên ở kinh sư vốn có lương và lương lại trong thiên hạ đều không kể vào số này.

[66] Xu mật viện Thừa chỉ ty tâu rằng, các loại dã chiến và thương đao thủ, nay không được lấy người thân trong ngũ phục để đối thí, theo lời tâu.

[67] Chiếu rằng từ nay các lộ tâu thưởng, phải kê rõ tướng quan, sứ thần, số quân xuất chiến, số giết chết, bắt sống, thiệt hại để tâu lên.

[68] Tặng Chỉ huy Trần Xương Ngôn, Trần Xương Triều của Kiềm hạt ty Kinh Hồ Bắc lộ làm Quang lộc tự thừa, cho một con mỗi người làm Giao xã trai lang, vì tử trận khi đánh trại Cửu Linh.

[69] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng các nha giáo ở Điện tiền Mã quân ty và các lộ, châu quân, đổi người cỏ bắn theo cách tuyên thí thành cọc cỏ, lại đặt xa hai mươi bước.

[70] Hạ lệnh cho Diêm Sĩ Lương, chức Đồng đề điểm chế trí đồn điền sứ ở Hà Bắc, chuyên trách việc tu sửa và đắp đập ở cửa Phác Trang, tăng cường dẫn nước vào các đầm Đường Đông. Trước đây, các đầm Tam Đường ở phía bắc Châu Thương được dẫn nước từ sông Hoàng Hà, nhưng sau khi sông Hoàng Hà đổi dòng, các đầm này bị bồi lấp. Trình Phưởng từng đề nghị khơi thông vịnh Tì Bà để dẫn nước sông Hoàng Hà vào, nhưng công trình không thành công. Đến nay, Diêm Sĩ Lương kiến nghị nên đắp đập ngăn nước sông Ngự Hà, dẫn nước từ đầm Tây Đường vào, vì vậy triều đình chấp thuận đề nghị của ông và ban lệnh này.

[71] Ngày Giáp Tuất, Ngự sử Thịnh Đào tâu: “Trước đây, Ngô An Trì đề nghị dân đóng tiền để được miễn phục dịch, Đô đề cử Thị dịch Lữ Gia Vấn được lệnh cùng các quan phủ ty xem xét kỹ lợi hại. Tuy nhiên, Gia Vấn quá khắt khe, cố tình thu lợi nhỏ, dù đã sắp xếp lại phần nào, nhưng ngoài chi phí cần thiết, việc thu thuế quá nhiều. Xin triều đình xem xét lại việc thu tiền miễn phục dịch, chỉ thu đủ chi phí thường xuyên cho người phục dịch, còn lại đối với hộ trung và hạ thì xin miễn giảm.” Tấu chương không được phúc đáp. Bản chép của Chu bị xóa bỏ.

[72] Hạ chiếu cho Ty chuyển vận lộ Hoài Nam Đông chiêu mộ dân nghèo thiếu ăn để tu sửa sông Giới và sông Diêm cổ ở các huyện Giang Đô, Cao Bưu, Thiên Trưởng thuộc Dương Châu.

[73] Ngày Ất Hợi, Vua nói với các đại thần: “Phép tập hợp lực lượng của Lý Tĩnh, lấy ba người có cùng chí hướng làm một đội, đã lệnh cho Lý Hạo thử nghiệm ở hai châu Ý và Hợp, nghi ngờ rằng cũng có thể áp dụng được.” Vương An Thạch và các đại thần tâu: “Từ thời Tam Đại đến Hán, Ngụy, đều lấy năm người làm một ngũ, còn ba người, nếu một người tử trận, viên chỉ huy cầm đao đứng sau sẽ chém hai người kia, e rằng không ổn. Tuy nhiên, phép này cũng có thể điều chỉnh để sử dụng.” Vua nói: “Đường Thái Tông hỏi Lý Tĩnh về yếu lĩnh binh pháp, Tĩnh đáp rằng ‘không cần bày binh bố trận, chỉ cần khiến địch phải theo mình’, chỉ một câu mà thôi, thật sự ngắn gọn và đúng trọng tâm.”

[74] Lại nói: “Cao Tông đánh Quỷ Phương ba năm, mà Chu Công đông chinh cũng ba năm, sao lâu vậy?” An Thạch nói: “Người xưa muốn quân đội của mình được toàn vẹn, nên không vội vàng, lại thêm địch có mạnh yếu khác nhau, nên khó thắng. Như Quản Thúc, Sái Thúc là người Vũ Vương sai đi giám sát người Thương, trọng trách rất lớn, ắt không phải người tầm thường, vào thời thịnh trị của nhà Chu, mới có thể dẫn quân làm phản, suýt nguy hiểm đến vương thất, nên không dễ dàng đánh bại.” Vua nói: “Quân tử và tiểu nhân đều có đạo riêng, nên có thể đối địch nhau.” An Thạch nói: “Đúng vậy, như Hoàng Đế là bậc thánh thần, mà phải đánh với Xi Vưu bảy mươi trận mới thắng, cũng vì lẽ đó.”

[75] Vua nói: “Với Vũ Vương, Chu Công là bậc đại thánh nhân, mà tục cũ của nhà Thương phải trải qua ba kỷ, sau đó mới thay đổi phong tục, Vệ Văn Công có bài thơ “Đế Đông” mới ngăn được sự dâm loạn, là sao?” An Thạch nói: “Tục của người Thương đã quen với cái ác của Trụ từ lâu, bị nó làm mê muội, như oán hận nhà Chu, không để họ như nhà Thương thay nhà Hạ, có kẻ phục dịch trong triều, dùng lời lẽ xảo trá làm loạn chính đạo, nên không dễ như ngăn dâm loạn.” Vua nói: “Văn Vương ở vùng Giang, Hán không ai dám phạm lễ, Vệ Văn Công cũng ngăn được dâm loạn, khiến người trong nước không dám khinh nhờn, sao khác được như thế.” An Thạch nói: “Vệ Văn Công chỉ là Vua một nước nhỏ, nhưng biết sửa mình để trị dưới, dùng người hiền tài, đất đai tuy nhỏ hẹp, nhưng nếu biết thực hành lễ nghĩa liêm sỉ, lại dùng khanh đại phu đồng lòng hiệp đức, thì cái tục dâm loạn kia, vốn là điều mọi người ghét, ngăn lại cũng không khó. Không như thời Văn Vương, thân là chư hầu, mà khiến người vùng Giang, Hán không dám phạm lễ.”

[76] Sai Thẩm Hi Nhan, quan Đề điểm thương trường, và Mục Tuân, quan Thôi trực của Ngự sử đài, xét định những người thừa bị chiếm dụng ở kinh thành. Một hôm, Vua bảo Vương An Thách rằng: “Số người thừa đến tám vạn người, phần nhiều bị các quan chiếm dụng. Nghe Lữ Công Bật nói, khi cha ông ta là Di Giản làm quan, chỉ có ba người đương trực.” An Thạch nói: “Nếu Di Giản làm quan mà gần bề trên, chỉ có ba người đương trực, thì e rằng tổn hại quốc thể. Vua tôn quý như đền đài, quần thần như bậc thềm, trên dưới có uy nghi, mới có thể trị dân. Nếu quá suy yếu, chẳng bằng kẻ giàu, thì không biết lấy gì làm thế đền đài. Lúc ấy quả như vậy, cũng không nên làm khuôn phép. Huống chi nay binh lính bị các quan sai khiến đều có số nhất định, chưa thấy quá đáng, chỉ lo không đúng người mà thôi. Như Lữ Di Giản làm đại thần, nhận hối lộ, làm hỏng trăm việc triều đình, thì dù cho một người đương trực cũng không cần.” Vua bèn cười. Đoạn này thấy ngày 7 tháng 2 năm [7], nay phụ vào đây.

[77] Ngày Bính Tý, cấp hai ngàn độ điệp cho Đô đề cử thị dịch ty, để chiêu mộ người nộp tiền làm vốn mua thóc cho Chuyển vận ty lộ Tần Phượng.

[78] Ngày Đinh Sửu, chiếu rằng các quan kinh đô làm chức Đề cử quan đều là Đồng đề cử.

[79] Sứ giả Tử Quỳ Lộ là Hùng Bản tâu: “Quan binh ở trại Giang An lấy danh nghĩa bàn mua ruộng, dụ người Di ở Tam Lý là Đẩu Thiết đến trại, rồi tra hỏi tên chủ mưu giết hại quan binh. Người ấy tự biết tội lớn, liền rút dao kêu giết, sau đó chém chết. Đẩu Thiết là giặc cướp nguy hiểm.” Vua nói: “Những người Di này đúng là không thể tha, nhưng dụ rồi giết, e gây hại về sau. Nói là kêu giết, chỉ là lấy cớ đó thôi.” Sau đó, Hùng Bản xin thưởng công, Vua không cho. Vì Hùng Bản dùng hịch triệu Tham quân ty Hộ châu Nhung là Trình Chi Nguyên tạm quản huyện Giang An, bí mật mưu tính việc này. Chi Nguyên liền triệu các tù trưởng đến sảnh, hỏi Tả Tàng Cảnh ở đâu. Các tù trưởng la hét không chịu, bèn giết hơn 90 người. Đẩu Thiết là người chém Tư Trung, bị trói giải đến châu Lô, xử lăng trì rồi chém đầu để tế Tư Trung. Chi Nguyên là người Mi Sơn. Sử nhà Chu nói không có căn cứ, nên bỏ việc của Trình Chi Nguyên. Nay khôi phục lại.

[80] Xuống chiếu cho Tư Nông tự: Dân châu Tề, châu Duyễn chiếm ruộng cấm ở Thái Sơn, tùy đất tốt xấu mà định mức thuế, cho phép tiếp tục ở lại canh tác.

[81] Ngày Mậu Dần, Tân quyền Phát khiển Đề điểm Hình ngục lộ Hoài Nam Tây là Trần Xu tâu: “Năm Hi Ninh thứ 5, Tô Châu, Hồ Châu được mùa lớn, giá gạo so với Hoài Nam chỉ bằng một nửa. Thuyền buôn chở gạo, vì các trạm dọc đường thu thuế qua lại, nên gạo Tô, Hồ không đến được Hoài Nam, xin tạm miễn thuế.” Vua đồng ý. Xu lại tâu: “Hộ đẳng thứ năm ở Lưỡng Chiết khoảng một triệu, nộp tiền dịch chỉ năm sáu vạn quan, tiền ít mà đánh thuế nhiều, hơn nữa hộ đẳng thứ năm trước đây không phải chịu dịch, xin được miễn.” Vua xuống chiếu miễn. Việc này căn cứ vào bản chí, phụ vào sau lời Đặng Oản tháng 10 năm thứ 4 nói về Lý Du, Chu Ước. Xét Trần Xu đến tháng 12 năm thứ 6 mới làm Hiến lộ Hoài Tây, nay phụ chép.

[82] Xuống chiếu cho phép thí sinh lộ Hi Hà không kể hộ tịch, thời hạn, được dự thi, định mức giải thưởng cho châu Hi là 5 người, châu Hà, châu Đào, châu Dân mỗi nơi 3 người.

[83] Lại ban tên cho Thiền viện Đông Sơn mới xây ở châu Hi là Từ Vân, hồ Đông là Huệ Nhật.

[84] Ngày Canh Thìn, Tán thiện đại phu Thái Mông được cử làm người đề xướng việc tu sửa kênh Bạch Cừ ở quân Vĩnh Hưng. Lúc này, Mông đang giữ chức Vận phán ở Vĩnh Hưng, nhưng sách 《Thực lục》 bỏ sót việc này, cần xem xét lại.

[85] Tu soạn Kinh nghĩa sở kiểm thảo, tiến sĩ Từ Hi ở Hồng Châu được bổ làm Tiết độ suy quan quân Trấn Nam, tập học công sự ở phòng Hộ bộ Trung thư. Hi cùng với Ngô Trước, Đào Lâm đều là những người bình dân được làm Kiểm thảo ở Kinh nghĩa sở, đến lúc này lại được chọn vào Trung thư để tập học và kiểm tra chính sự. Trước đó, Lữ Huệ Khanh tiến cử 24 thiên sách trị nước của Hi, Vua khen ngợi và nói: “Hi nói rằng triều đình dùng kinh thuật để thay đổi sĩ nhân, đã thay đổi được tám chín phần mười, nhưng những kẻ chỉ biết sao chép lời người khác mà không cầu thông hiểu tâm ý cũng chiếm tám chín phần mười. Lời này rất đúng. Xem văn học của Hi, hiểu rõ chính sự, nên thử thách ở nơi có ích.” Vương An Thạch nói: “Các quan Kiểm chính ở Trung thư như Chương Đôn, triều đình nên có sự bổ nhiệm ngay, sau này dùng người khác, nếu không xứng đáng sẽ khó cách chức, nên đặt người vào tập học.” Vua cho là phải, bèn dùng Hi làm việc đó. Việc tập học công sự ở năm phòng Trung thư bắt đầu từ đây.

[86] Vua lại bàn về phép tập hợp lực lượng của Tư Mã, Tôn, Ngô và Lý Tĩnh, Vương An Thạch nói: “Người xưa bàn về binh pháp không ai bằng Tôn Vũ, vì ông ấy đã thấy được đạo lý cơ bản. Như mặt trời có ngày dài ngắn, mặt trăng có lúc sống chết, năm thanh biến hóa không thể nghe hết, năm sắc biến hóa không thể xem hết, kỳ chính biến hóa không thể cùng. Đại khái là thấy được đạo lý cơ bản, nên lời nói của ông ấy có liên quan đến điều này.” Vua nói: “Biết được kỳ chính là then chốt của việc dùng binh. Kỳ là đạo trời, chính là đạo đất. Đạo đất có quy luật, đạo trời thì biến hóa vô thường. Đến mức dùng được kỳ chính, lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ, thì thật là diệu và thần.” An Thạch nói: “Đúng vậy. Trời có thể làm trời mà không thể làm đất, đất có thể làm đất mà không thể làm trời. Có thể làm cả trời lẫn đất, tận dụng sự ra vào, thì đó gọi là thần. Thần nên có thể lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ.” Lời đối đáp của Vương An Thạch được ghi trong 《Nhật lục》 ngày 25 tháng 12.

[87] Thượng thiện phép kết đội của Lý Tĩnh, triệu tập Giả Quỳ đến hỏi, Quỳ cho rằng không hợp, bèn hạ chiếu cho Trung thư, Mật viện cùng bàn bạc. An Thạch nói: “Nay chỉ kết ba người thành một đội, lại kết năm người thành một ngũ, cho đấu với nhau để xem bên nào thắng, thì có thể dùng hay không sẽ thấy ngay.” Vua bèn lệnh cho Quách Cố cùng Điện tiền ty mỗi bên làm một phép, thử xem cách nào khả dụng. Bản cũ ngày 18 Đinh Hợi, lại chép chiếu cho Giả Quỳ, Quách Cố dạy tập và so sánh phép kết đội ngũ, cùng lệnh cho Trình Phưởng đi dọc sông thu thập gỗ làm xe. Xét phép so sánh đội ngũ của Giả Quỳ, Quách Cố đã ghi đủ ở đây, nay theo bản Chu mà bỏ đi phần chép ngày Đinh Hợi. Ngày 8 tháng 5 Canh Tuất, đã lệnh cho các lộ dạy ba người thành một đội, ở đây lại nói thêm, cần xét lại. Bản chí chép: Vua lo các tướng ra quân không có phép hành trận, từng nói: “Lý Tĩnh kết ba người thành một đội ắt có ý nghĩa. Lý Tĩnh rất thông thạo binh pháp, sách về tinh tú, Vũ Lâm đều lấy ba người làm một đội[11], Tĩnh không phải không có căn cứ.” Bèn lệnh cho Giả Quỳ, Quách Cố thử nghiệm. Bản chí phụ vào năm thứ 5, cần xét lại.

Nhưng cho rằng Tĩnh có thể thắng được rợ Di Địch, lại nhiều lần khen ngợi binh pháp của Hoàng Đế, ắt thông hiểu phép ngũ xưa, việc dùng ba người làm một đội, hoặc ắt có ý nghĩa. An Thạch nói: “Đời sau không có người hiểu binh pháp, Tĩnh có thể kết ba người thành một đội để đối phó với kẻ địch suy loạn tán loạn, nên thường thắng, so với Hàn Tín thì đã không bằng. Còn binh pháp của Hoàng Đế, ắt không phải Tĩnh có thể biết, vì từ Hoàng Đế trở đi đã có phép ngũ, há để các bậc thánh nhân đời sau trí tuệ không bằng Tĩnh, mà không thể kết ba người thành một đội sao?” Vua nói: “Hàn Tín dùng mấy chục vạn quân đối đầu với Hạng Vũ mười vạn, Tĩnh dùng một vạn quân đối đầu với Hiệt Lợi cả nước, Tĩnh chưa hẳn không bằng Tín.” An Thạch nói: “Từ Si Vưu đến nay chưa có ai như Hạng Tịch, Hiệt Lợi chỉ là rợ Di Địch suy loạn, Lý Tĩnh dẫn quân tinh nhuệ, đánh sâu vào đất địch mà phát huy cơ trí, lại nhân lúc địch không phòng bị, nên thắng là điều dễ dàng.” Vua nói: “Binh pháp vốn muốn đặt vào chỗ dễ thắng.” An Thạch nói: “Đặt vào chỗ dễ thắng và khó thắng mới là kỳ, đặt vào chỗ dễ thắng với dễ thắng thì không đủ gọi là kỳ.”

[88] Phùng Kinh nói: “Bệ hạ bàn về việc binh đạo cao xa, không phải là điều mà quần thần có thể theo kịp.” An Thạch nói: “Trời ban cho Bệ hạ tư chất thánh thiện cao xa, không khác gì với Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ. Bàn về binh đạo quả thật là cao xa, nhưng các bậc tiên vương tuy nói ‘mở rộng sáu quân’, chế ngự quân đội, nhưng khi ngồi bàn luận đạo lý thì chưa từng đề cập đến việc chiến trận. Bởi vì cho rằng việc vận dụng ba quân năm binh là phần nhỏ của đức, không đáng bàn. Khổng Tử cũng nói: ‘Việc tế lễ thì ta từng nghe, còn việc quân lữ thì ta chưa học.’ Cho rằng nếu đã hiểu được cái gốc thì cái ngọn không cần phải lo.” Vua nói: “Có những việc cần phải làm theo thời, như Tuyên Vương lấy việc Bắc phạt làm trọng.” An Thạch nói: “Tuyên Vương có thể Bắc phạt là nhờ biết phân biệt quân tử và tiểu nhân, dùng người như Cát Phủ, Trương Trọng. Nếu trong mười bước mà không phân biệt được quân tử và tiểu nhân, thì không biết làm sao có thể thắng được Hiểm Duẫn. Như vậy, việc Tuyên Vương làm còn có điều quan trọng hơn cả Bắc phạt. Bệ hạ tu thân tề gia, quả thật không thua kém Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ. Nếu thần thấy Bệ hạ có chút thiếu sót, há dám không dám can gián? Nhưng Bệ hạ lên ngôi đã sáu bảy năm mà chưa thành tựu được công nghiệp như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, ắt là có chỗ khác với các bậc ấy. Kinh Thi nói: ‘Nghĩ không cùng, nghĩ đến ngựa tốt’, ‘Nghĩ không tà, nghĩ đến ngựa đi xa.’ Nếu bậc quân chủ xuất phát từ lòng thành chính, thì ngựa có thể khiến tốt, có thể khiến đi xa, huống chi là con người? Như vậy, không có người làm tướng soái không phải là điều Bệ hạ lo lắng, huống chi ngày nay bốn phương đều không có hào kiệt, không đủ để làm phiền đến thánh lự của Bệ hạ.” Vua cho là phải. Trên đây đều thấy trong 《Nhật lục》 ngày 22 tháng 12.

[89] Vua lại bàn về việc binh, cho rằng nếu biết được lý lẽ âm dương ngũ hành mà sử dụng thì sẽ đạt được mục đích, điều cốt yếu là thông hiểu lý lẽ mà thôi. An Thạch nói: “Trời đất bị âm dương ngũ hành chi phối, thông hiểu lý lẽ âm dương ngũ hành, đó chính là tinh nghĩa nhập thần để đạt được sự ứng dụng, làm việc gì cũng được, đâu chỉ riêng việc binh.” (Xem thêm ngày 23). Vua lại nói Phù Kiên dùng trăm vạn quân mà bị nước Tấn đánh bại. An Thạch nói: “Phù Kiên được xưng là minh chủ, nhưng thực chất lại nông cạn. Vương Mãnh, Phù Dung khuyên can mãi, cho rằng Mộ Dung Thùy thường lợi dụng tai họa của quốc gia, là mối họa trong lòng. Không lo nghĩ đến điều này mà lại đi đánh xa Ngô Hội, đó là tự chuốc lấy thất bại, chứ không phải nước Tấn đánh bại được.” Vua nói: “Thùy ắt có cách để thuyết phục lòng ông ta.” An Thạch nói: “Phù Kiên muốn bình định nước Tấn, Thùy khuyên ông ta bình định nước Tấn rồi mới phong thiền, đó là điều Phù Kiên muốn, nên bị Thùy mê hoặc.” Vua nói: “Điều này tùy thuộc vào việc nhà Vua nghe lời khuyên có sáng suốt hay không mà thôi. Phù Dung, Vương Mãnh cho rằng không nên đánh nước Tấn, nhưng Phù Kiên không nghe, nên thất bại. Tấn Vũ Đế muốn bình định nước Ngô, cả nước đều cho là không nên, chỉ nghe theo lời của Trương Hoa, Dương, Đỗ vài người, nên thắng lợi. Như vậy, việc nghe lời khuyên há không cần thận trọng sao?”

[90] Ngày Tân Tỵ, Mục Châu quân sự suy quan Diệp Thích, Bình Dư huyện lệnh kiêm Biên tu Tam ty lệnh thức San định quan Trương Nguyên Phương, Hưng Bình huyện úy Vương Chấn, đều được bổ làm Trung thư Tập học công sự, Diệp Thích ở Lễ phòng, Trương Nguyên Phương ở Lại phòng, Vương Chấn ở Hình phòng. Diệp Thích, ngày Đinh Hợi tháng 6 năm thứ 7 được bổ làm Kiểm chính, ngày Đinh Sửu tháng 10 thì mất. Trương Nguyên Phương, không rõ lai lịch. Vương Chấn, người Khai Phong.

[91] Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ Tôn Cấu[12] tâu rằng, đã chiêu dụ Bắc Giang Hạ Khê Châu thứ sử Bành Sư Yến quy phụ, ghi chép địa lý bốn phía, số hộ khẩu để tâu lên, chiếu cho Chương Đôn xem xét kỹ lưỡng rồi xử trí.

[92] Ngày Nhâm Ngọ, cơ quan phụ trách in ấn và biên soạn sắc lệnh tâu rằng bản khắc mới của sắc lệnh sắp hoàn thành, lo rằng Trung thư, Xu mật viện còn có các điều khoản cần bổ sung và các điều khoản tiếp theo, xin đợi đến năm sau ban hành, được chấp thuận.

[93] Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng, tại thành Tây La ở Hi Châu đã lập trường học cho người Phiên, khuyên dụ con em các quan Phiên vào học. 《Chu sử》 chép lời Vương An Thạch, việc này liên quan đến quân sự Thông Viễn, đã ghi rõ lúc đó, nay xóa bỏ. Lại tâu rằng sáu thủ lĩnh tộc Cố Mật có công giúp Bao Thuận, Hạt Ngô Sất đánh trận, chiếu cho mỗi người thăng một bậc, những người khác có công giết giặc hoặc bị thương nặng được thăng chức và ban lụa theo mức độ khác nhau; Nạp Khắc Thông chết, con trai là Kết Oát Sấm kiêm chức Tuần kiểm của bộ tộc.

[94] Chiếu cho Tri châu Quế Châu là Trầm Khởi, châu Dung chiêu dụ người Man, vốn để giảm bớt chi phí, nay lại xây dựng các trại mới, chi phí so với trước đây nhiều hơn, yêu cầu báo cáo rõ lợi hại. Lúc đó Trầm Khởi muốn xây năm đến bảy trại trong vùng đất mới, trại lớn đóng quân sáu bảy trăm người, trại nhỏ ba năm trăm người. Việc này có thể xem cùng ngày Canh Ngọ tháng mười.

[95] Ngày Quý Mùi, Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng, tại châu Dân mua lương thảo, nhiều thương nhân muốn xin tiền mặt và giấy tờ kinh đô, xin theo lệ của quân Thông Viễn lộ Hi Hà, cấp ba mươi vạn quan tiền mặt, chiếu cấp mười vạn quan, và lệnh cho Tam ty định số tiền thưởng thêm để báo cáo.

[96] Chiếu rằng tại kinh đô thu tiền miễn hành, nếu có ai kêu ca bất tiện, Đô đề cử ty Thị dịch xử lý và báo cáo.

[97] Ban cho Chuyển vận ty lộ Hoài Nam Tây ba vạn thạch gạo thường bình, để chiêu mộ dân đói khổ xây dựng thủy lợi.

[98] Ngày Giáp Thân, sai Chức phương viên ngoại lang Lâm Tích giám sát việc nạo vét sông Biện bị tắc.

[99] An phủ ty lộ Kinh Đông Tây tâu: “Châu Vận bị hạn hán, dân không nộp được thuế thường, xin tạm hoãn các khoản nợ mua chịu lương thảo.” Được chấp thuận.

[100] Ngày Ất Dậu, Diệp Khang Trực, Đại Lý tự thừa, tri huyện Quang Hóa; Giang Diễn, tiền quyền Lư Châu quan sát suy quan; Thời Hiếu Tôn, úy huyện Ung Khâu; Viên Mặc, tham quân ty hộ Châu Tú, đều được bổ làm câu đương sự ở Ty Nông tự. Vì công việc Ty Nông tự quản lý khá nhiều, thỉnh thoảng phái thuộc quan đi xem xét các việc thường bình ở các lộ, nên tăng thêm người, đều theo sự tiến cử của Tăng Bố, phán Ty Nông tự.

[101] Trung thư tâu: “Xin tăng lương lại ở Khai Phong phủ và các nơi khác để thi hành pháp luật nghiêm khắc.” Vua nói: “Trước kia lại không được cấp lương, mà nhận hối lộ thì bị xử nặng, nay triều đình cấp lương mà trách người, có thể gọi là trung thứ vậy.” Một hôm khác, Vua lại khen pháp lương là trung thứ. Phùng Kinh nói: “Thiên hạ vô sự mới có thể thi hành điều này. Thời Thái Tông từng tuyên dụ các quan châu huyện rằng, có đạo lý thì lấy ít tiền, không có đạo lý thì đừng lấy.” Vua nói: “Lúc đó tiếp nối thời Ngũ Đại, tài chính không đủ.” Vương An Thạch nói: “Dù tài chính không đủ, lại cũng là người, không phải không ăn không mặc mà làm việc công, đã ăn mặc thì tất phải có chỗ ra, tự có thể dùng pháp luật thu liễm, rồi cấp lương cho họ.” Vua nói: “Lúc đó cũng chưa thể chính pháp được.”

[102] Tam ty tâu: “Lương thực ở biên giới Thiểm Tây đắt đỏ, xin trách nhiệm chuyển vận ty giảm giá.” Vua nói: “Làm cạn kiệt ngân khố nước ta là do binh lính quá nhiều, không nghĩ đến việc này, mà chỉ tính toán từng chút về lương thảo, là mất cái cốt yếu vậy. Nên cùng Xu mật viện bàn việc dời quân vào gần trong để ăn, nhằm giảm chi phí biên giới.”

[103] Chiếu cho các lộ an phủ ty, theo chuyển vận ty, đề điểm hình ngục ty, đề cử ty, tùy theo lộ mình mà phân định các châu quân để đề cử việc dạy và duyệt nghĩa dũng, bảo giáp.

[104] Hoàng Hoài Nhân, nhập nội tây đầu cung phụng quan, trước đây tu sửa thuyền rồng ngự tọa ở Kim Minh trì, xin ban độ điệp để thưởng, chiếu cho tam ty cấp mười vạn tiền.

[105] Ngày Đinh Hợi, Lữ Đại Trung, bí thư thừa, được bổ làm kiểm tường văn tự binh phòng Xu mật viện.

[106] Vương Lệnh Đồ, đô thủy giám thừa, được giảm hai năm khảo khóa, vì bản giám tâu rằng Lệnh Đồ sáng tạo ra cứa răng ở địa giới huyện Bạch Mã, tránh được nạn nước sông đột ngột dâng cao.

[107] Cùng quản câu Ngoại đô thủy giám thừa là Trình Phưởng tâu: “Quốc gia ba năm một lần tế lễ ở Viên Khâu, nơi trai giới thường dùng màn trướng, dựng thành cung vây, gọi là Thanh Thành, việc trang trí bên trong rất tốn kém. Nếu dùng vật liệu trang trí bên trong, tính toán số lượng rui, đòn tay, ngói, lá, v.v., cùng với việc huy động quân lính một lần để trang trí, và mượn quân khách thượng hà theo lệ hàng năm, xây cung thất để chuẩn bị nơi trai giới, có thể hoàn thành trong một năm, đây là việc tạm thời vất vả nhưng lợi ích lâu dài.” Không được trả lời. Bản Chu bỏ đi. Bản mới cho rằng: không theo lời thỉnh cầu của nội thần, có thể thấy chính sự thánh minh, nên giữ lại. Việc này đáng được giữ lại.

[108] Chiếu cho Trình Phưởng dọc theo sông thu thập 3000 cỗ xe, giao cho Quân khí giám định mẫu chế tạo chiến xa. Vua tu sửa nghiêm chỉnh võ bị, đã tham khảo phép ba người một đội của Lý Tĩnh đời Đường, muốn thử nghiệm, lại thấy biên giới phía bắc đất bằng phẳng, có thể dùng xe làm doanh trại phòng vệ, nên ban chiếu chỉ nội bộ, lệnh cho ba phủ bàn bạc, rồi có chiếu này. Năm sau, ngày 12 tháng 2 tâu bàn về xe dân, ngày 22 tháng 8 Thẩm Quát nói, có thể tra cứu. 《Binh chí》 chép: Ngày mồng 8 tháng 5 năm thứ 6, chiếu cho các lộ Kinh lược ty kết đội theo phép của Lý Tĩnh, ba người một tiểu đội, chín người một trung đội, thưởng phạt đợi khi thành nề nếp sẽ quyết định. Số lượng đội ngũ và khí giáp, theo phép giáo dục của lộ Kinh Nguyên. Xét 《Nhật lục》 phụ chép việc này vào ngày Canh Tuất mồng 8 tháng 5.

[109] Ngày Mậu Tý, lệnh Kiểm chính trung thư hộ phòng công sự là Trương Ngạc xét xử tội nhân đang bị giam ở Tam ty và Khai Phong phủ.

[110] Đồng phán Đô thủy giám là Lý Lập Chi tâu: “Ở huyện Ung Khâu, nước sông ế lăng tràn bờ chảy lan, đổ vào sông Bạch Câu. Đến kiểm tra cửa sông phía đông, thấy thân sông Biện bị bồi lấp, cao hơn mặt nước bốn thước, đã tính toán công sức để tu sửa.” Chiếu ban tiền cho quân lính sửa chỗ vỡ đê, quân lính đắp đập đóng cửa cống Khổng Cố cũng được như vậy. Năm sau, ngày mồng 6 tháng 2, Vương Tường bị cách chức.

[111] Ngày Tân Mão, chiếu cho Lưu nội tuyển, tiền Hồ Châu quan sát suy quan là Thiệu Quang được thăng hai bậc, bổ nhiệm làm quan ở nơi thuận tiện, vì Lưỡng Chiết chuyển vận ty tâu rằng Quang đã đo đạc được hơn 1100 khoảnh đất cát bồi ở chín huyện Ôn, Đài, v.v..

[112] Ty Chuyển vận lộ Đông Hoài Nam tâu: “Xét việc trước đây, Phó sứ Phát vận Giang Hoài, Lang trung Độ chi Bì Công Bật khai sông Hoàng Trì ở Châu Chân, ngoài số phu dịch đã định, còn có ba huyện mỗi nơi đều phải cung cấp thêm phu, cùng với binh phu tử thương, đào tẩu, lại từng giao cho quan bị giáng chức và quan các lộ khác đốc thúc, sai phá nhân thuyền cung ứng, lại dùng tiền phèn muối làm việc công. Khi thay chức, đã dùng năm chiếc thuyền đưa về kinh. Lại mượn ba trăm quan tiền kho giấy của Ty Phát vận, đợi khi có tiền ruộng chức sẽ trả, nhưng Quyền Phát vận Vạn Di đã phê cho mượn, đã trả mười bảy ngàn, còn lại chưa trả.” Chiếu cho Bì Công Bật giao Ty Đề điểm hình ngục lộ Vĩnh Hưng quân, Vạn Di giao Ty Chuyển vận lộ Đông Hoài Nam xét tội tâu lên. Sau đó, Công Bật bị giáng một chức, Di được nghe đức ân tha tội.

[113] Quân khí giám xin sai Phó sứ Tả tàng khố Lam Duy Vĩnh đến kiểm tra quân khí, biên soạn mục lục để ngự lãm, được chấp thuận.

[114] Hùng Bản tâu, trại Nạp Khê ở Châu Lô, là đường ra vào của người Ô Man, xin tăng thêm quân đồn trú và dời đặt Đô giám lộ phân, được chấp thuận.

[115] Ngày Nhâm Thìn, Quyền Phát khiển Phán quan Chuyển vận lộ Đông Kinh, Thái tử Trung doãn, Hiệu khám Quán các Lữ Thăng Khanh được điều sang lộ Đông Hoài Nam.

[116] Quân khí giám tâu, thợ làm cung Lý Văn Ứng, thợ làm tên Vương Thành đều có kỹ thuật tinh xảo, chiếu bổ làm Thủ khuyết quân tướng của Tam ty để dạy thợ.

[117] Đái ngự khí giới Trịnh Đức Thành xin tạm cử quan luân phiên túc trực, chiếu lệnh Tổng quản Chân Định phủ lộ Hướng Bảo túc trực. Theo chế độ cũ, quan ngoại nhiệm mang chức Đái ngự khí giới khi qua kinh đô triều kiến thì không phải túc vệ, nhưng lúc đó Hướng Bảo đi qua kinh sư, nên đặc cách ra lệnh cho ông túc trực. Vua nói với Vương An Thạch: “Hướng Bảo giỏi đánh trận, là tướng tốt, có khác gì Tiết Nhân Quý?” Vương An Thạch đáp: “E rằng không giống.” Vua nói: “Tiết Nhân Quý còn có mưu lược, như Hướng Bảo đã là khó được.” An Thạch nói: “Hướng Bảo chỉ có thể thuần thục cưỡi ngựa mà thôi, còn về vùng núi sông Tây Thị thì ông ta rất quen thuộc, nhưng trận Tây Thị suýt thất bại, tướng như vậy cũng không khó kiếm.” An Thạch cho rằng Hướng Bảo vừa tham lam, lại thất bại trong trận Tây Thị, chỉ vì Tây phủ dựa vào ông ta để phá hoại Vương Thiều, nên mới được khen ngợi trước mặt Vua.

[118] Ngày Quý Tỵ, chiếu chỉ cho các quan Giám môn 20 cửa thành ngoại thành từ nay không phải quản lý thuế khóa, chỉ cần căn cứ vào số tiền thuế thương mại thu được từ việc bắt giữ những kẻ trốn thuế mà lập ra mức thưởng phạt, chia làm 5 bậc, theo đề nghị của Đô thương thuế viện. Việc của Trịnh Hiệp, cần tra cứu thêm. Ngày 27 tháng 2 năm sau, Trương Ngạc giảm định mức thuế, có thể tham khảo.

[119] Chiếu cho Sát phỏng ty Lộ Tử Quỳ chuẩn bị sai khiển Bồ Tông Mẫn và Tri huyện Vĩnh Gia mới nhậm chức Trầm Quỳ, cùng với Chuyển vận ty Thành Đô phủ lộ xem xét việc lợi hại của việc thiết lập Thị dịch vụ ở Thành Đô phủ rồi tâu lên. Đoạn về Bồ Tông Mẫn và Trầm Quỳ này, trong《Nhật lục》ghi vào ngày 23 tháng 2 năm thứ 7 khi cử Lý Kỷ, bản Chu đã phụ trước vào đây, nay theo đó. Lời của Bằng Kinh vẫn ghi trong ngày tháng này.

[120] Lại chiếu cho mượn 87.000 quan tiền thuế trà phong trang của Đề điểm hình ngục ty Đại Danh phủ, giao cho Đô chuyển vận ty Lộ Hà Bắc Đông để mua lương thực dự trữ biên giới.

[121] Hạ quốc chủ Bỉnh Thường dâng ngựa để chuộc《Đại tạng kinh》, chiếu đặc cách ban cho kinh và trả lại ngựa.

[122] Ngày Ất Mùi, thủ lĩnh đô của châu Dân là Hạt Ngô Sất[13], thủ lĩnh đô của châu Đào là Ba Chiên Giác đều được phong làm Sùng nghi phó sứ, Đổng Cổ làm Lễ tân phó sứ, đều kiêm chức Kiềm hạt bộ phiên. Hạt Ngô Sất ở châu Dân, Ba Chiên Giác ở châu Đào, Đổng Cổ ở châu Hà. Đổng Cổ và những người khác đều là em của Mộc Chinh, Vương Thiều chiêu dụ họ quy phụ, đến lúc này, được dẫn vào yết kiến ở điện Diên Hòa, và có mệnh lệnh này. Sau đó lại có chiếu cho Đổng Cổ thăng một bậc, cũng làm Sùng nghi phó sứ. Đổng Cổ tuy không phải là thủ lĩnh, nhưng vì ở thành Nạp Khắc Lũy cùng với mẹ là Dĩnh Thành Giản đã đến trước mặt tiền quân của Cảnh Tư Lập xin hàng.

[123] Các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử của lộ Hà Bắc Tây tâu rằng: “Tham định lại pháp mới về nghĩa dũng và bảo giáp của phủ Chân Định. Những người cường tráng trước đây đều thuộc hương binh và các xã cung tiễn ở các châu quân biên giới, cũng ghi tên tuổi để tuần phòng và chặn giữ, xin hãy bãi bỏ tất cả, sắp xếp lại theo nghĩa dũng và bảo giáp.” Triều đình đồng ý. Ngày 19 tháng giêng năm sau có thể tra cứu. 《Binh chí》 chép: Bãi bỏ cường tráng và các xã cung tiễn biên giới ở lộ Hà Bắc Tây, những người đã đăng ký tuần thú. Chính là việc này. Tô Thức dâng tấu xin khôi phục lại các xã cung tiễn, nên tham khảo.

[124] Ngày Bính Thân, ra chiếu cho ty Thị dịch, trừ số tiền thị lệ để lại dùng chi tiêu, còn lại đều gửi đến sở Để đương, xuất ra để cấp lương cho lại, thuộc về Đô đề cử ty Thị dịch, lại lệnh cử hai viên quan Câu đương công sự chuyên trách việc kiểm tra và định giá.

[125] Tháng này, bãi bỏ các huyện Bình Lợi của châu Kim, Lâm Minh của châu Minh, Cao Dương của quân Thuận An, huyện Đại Danh và Viên Thủy Kinh Thành của phủ Đại Danh, đều đổi thành trấn. Ở châu Vị đặt cửa Chế Thắng và huyện An Hóa, lấy huyện cũ làm trấn.

[126] Chúa Liêu phái Lưu hậu quan sát Ích Châu là Gia Luật Động, Thiếu khanh Sùng Lộc là Đậu Cảnh Dung; mẹ chúa Liêu phái Tả Thiên Ngưu Vệ Thượng tướng quân là Gia Luật Vinh, Thái thường Thiếu khanh, Đãi chế Can Văn các là Lương Thụ sang chúc mừng ngày Chính đán. Sứ và phó sứ chúc mừng ngày Chính đán gồm bốn người, thực lục không ghi chép, nay dựa theo danh hiệu quốc tín để bổ sung.

[127] Năm đó, con cháu tông thất được ban tên và phong chức gồm 59 người, xử án tử hình 2.951 người.


  1. Bia ghi ở tường Đô đường Thượng thư tỉnh có viết 'viết' chữ nguyên thiếu, theo 《Bút đàm》 quyển 25, tạp chí 2 bổ sung.
  2. Từ trên đê sông Biện nhìn xuống nhà dân 'dân' nguyên là 'Biện', theo sách trên sửa.
  3. Đợi nước lặng 'đợi nước' hai chữ nguyên thiếu, theo sách trên bổ sung.
  4. Bính Ngọ nguyên bản là 'Bính Tý', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa. Xét: Tháng này ngày mùng 1 là Canh Tý, không có ngày Bính Tý, ngày Bính Ngọ phù hợp với văn cảnh trên dưới.
  5. Chữ 'sự' trong 'đồng sát phỏng Kinh Đông lộ thường bình đẳng sự' nguyên bản bị thiếu. Xét: Sách 'Tống hội yếu' chức quan 43, phần 2-3 chép rằng, năm Hi Ninh thứ 3, cử sứ giả đi sát phỏng các việc thường bình, thủy lợi nông điền và sai dịch ở Hoài Nam, Lưỡng Chiết, sau đó các lộ lần lượt cử quan đi sát phỏng. Cùng sách, chức quan 42, phần 62 chép rằng, tháng 5 năm Hi Ninh thứ 6, cử Lữ Thăng Khanh, hiệu khám ở quán các, đi sát phỏng Kinh Đông lộ. Lữ Thăng Khanh làm hiệu khám ở quán các, xem sách này quyển 243, ngày Canh Ngọ tháng 3 năm Hi Ninh thứ 6. Căn cứ vào đây, dưới chữ 'đẳng' rõ ràng thiếu chữ 'sự', nên bổ sung.
  6. Chữ 'mã' trong 'Điện tiền Mã quân ty' nguyên bản là 'vi', căn cứ theo 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 75 về Quân khí giám và văn bản dưới đây mà sửa.
  7. Xe trâu, 《Tống sử》 quyển 92, 《Hà cừ chí》 chép là 'hoạt xa'.
  8. Vua đồng ý theo kế hoạch của Hoài Tín, 'đồng ý' nguyên văn là 'kế', căn cứ theo các bản, bản hoạt tự sửa lại.
  9. Tạp phạm tử tội tòng lưu 'tòng' nguyên tác 'Đồ', theo các bản sửa.
  10. Hơn nữa, họ ngồi nhận hối lộ lớn, hai chữ 'thụ tọa' khó hiểu, theo ý văn, nghi là sai lầm của 'tọa thụ'.
  11. Đều lấy ba người làm một đội, xem 《Vũ kinh tổng yếu》 hậu tập quyển 17, điều 'Chư tinh chiếm': 'Vũ Lâm 45 sao, ba sao một nhóm, rải rác ở phía nam Luỹ Bích, chủ về tượng quân doanh trận bảo vệ.' 'Vũ Lâm' tức là chòm sao Vũ Lâm, 'ba người' nghi nên là 'ba sao'.
  12. Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ Tôn Cấu, chữ 'Cấu' nguyên là 'Giác', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 331, 《Tôn Cấu truyện》 sửa lại.
  13. Thủ lĩnh đô của châu Dân là Hạt Ngô Sất, chữ 'thủ' nguyên bản viết là 'thủ', căn cứ theo bản Các và quyển 249, ngày Giáp Thìn tháng giêng năm Hi Ninh thứ 7, cùng với 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 6.9 để sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.