"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 254: NĂM HI NINH THỨ 7 (GIÁP DẦN, 1074)

Từ tháng 6 năm Hi Ninh thứ 7 đến hết tháng 7 cùng năm.

[1] Tháng 6, ngày Đinh Mão, mùng 1: Lệnh cho Tri Hi Châu Vương Thiều làm Đô đề cử việc mua ngựa ở Hi Hà lộ, Quyền đề điểm hình ngục Trịnh Dân Hiến làm Đồng đề cử. Do Trung thư tâu rằng Hi Hà xuất ngựa nhiều nhất, tuy đã đặt ty mua ngựa ở Hi Châu nhưng pháp lệnh chưa đầy đủ. Ngày 25, Vương Thiều tâu…

[2] Chiếu ban cho Ty đề cử Thường bình thương Hà Bắc ở Vệ Châu 49.000 thạch lương dự trữ, cho vay các hộ thiếu lương bậc trung ở ba huyện Cộng Thành, Hoạch Gia và Cấp[1]. Phán Đại Danh phủ Văn Ngạn Bác tâu: “Dân đói thiếu lương ở Hoài, Vệ Châu tụ tập làm giặc, ban đầu không có kết bè kết đảng, chỉ tạm thời xúi giục rồi lại tan rã. Vì không có chủ mưu, việc truy bắt chỉ làm phiền dân lành, không yên tâm làm ruộng. Xin chỉ truy bắt những kẻ chủ mưu có tên tuổi và tình tiết nghiêm trọng.” Được chấp thuận.

[3] Chiếu cho Ty chuyển vận và Ty đề cử Hà Bắc lộ đặt trường, dùng lương dư của Thường bình và kho tỉnh giảm giá, cho phép dân dùng tơ, gấm, lụa, lĩnh tăng giá để mua, làm kế hoạch năm của Ty chuyển vận, hoặc đợi mùa thu thu mua.

[4] Ngày Canh Ngọ: Trung thư tâu việc xong, Vua bàn: “Người xưa dùng binh có thuật chính và kỳ, cho rằng cờ xí lộn xộn không chỉnh tề, trống lớn nhỏ không ứng hợp, đó là thua thật. Như Hàn Tín phá Triệu, dựa sông lập trận, bỏ cờ trống đại tướng để dụ địch, Thành An Quân là người biết binh, nếu không cho thấy thua thật, sao có thể thắng được?”

[5] Ty sát phỏng Hà Bắc đông lộ là Tăng Hiếu Khoan xin từ ty này cử quan cùng Ty an phủ và Ty chuyển vận khảo sát ba đầm ở Thương Châu và vùng đất bồi lấp dọc sông Hoàng Hà để chiêu mộ người trồng cây. Được chấp thuận.

[6] Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự Trương Ngạc tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, quyền đề điểm các lộ Giám ty dâng tấu về việc tuần tra, xin các quan Giám ty mỗi năm chia nhau đi tuần tra các châu huyện, đến ngày 15 tháng giêng năm sau phải tâu lên Trung thư việc đã tuần tra. Nếu qua một năm mà không tuần tra, thì giao cho quan điểm kiểm của Trung thư tâu lên.” Triều đình nghe theo.

[7] Ngày Tân Mùi, ra chiếu rằng các quan đến hầu ở điện sau, nếu xin nghỉ quá hai lần trong một tháng, thì lệnh cho Nội thị tỉnh cử thầy thuốc đến khám xét.

[8] Trứ tác tá lang Hoàng Nhan tâu rằng, việc cấp phát tiền và thóc thanh miêu, xin đặt ra điều ước rõ ràng, để các quan lại châu huyện căn cứ vào năm được mùa hay mất mùa mà cấp phát số lượng thích hợp, không lấy số lượng cấp phát ban đầu làm mức cố định. Quyền Nhuận châu Quan sát suy quan Vương Địch tâu rằng, tiền thanh miêu xin từ nay nếu bị thiên tai mất mùa trên năm phần, thì các khoản nợ cũ về tiền và thóc đều chưa được thu hồi. Chiếu đều giao cho Ty Nông tự xử lý.

[9] Ngày Quý Dậu, cử quan đi tạ mưa.

[10] Hà Đông đô chuyển vận sứ, Thái thường tự thiếu khanh, Tập hiền điện tu soạn Trương Cảnh Hiến được thăng làm Hữu gián nghị đại phu, tiếp tục giữ chức cũ. Trước đó, các quan lại các lộ thi hành tân pháp có sai sót, Giám ty thường tâu hặc, khiến mọi người lo sợ, nhưng Cảnh Hiến không hặc tấu ai. Có người bàn muốn chia Hà Đông làm hai lộ, việc giao cho Cảnh Hiến, Cảnh Hiến tâu: “Hà Đông đất đai màu mỡ và cằn cỗi xen kẽ, các châu huyện giàu nghèo cũng khác nhau, chính nên thông thương để chuẩn bị chi phí biên phòng. Nếu chia lộ, thì tài phú khó mà điều động.” Bàn luận đó bèn bãi bỏ. Vua phê: “Lộ Hà Bắc đã biên chế nghĩa dũng, bảo giáp, nên nhanh chóng lệnh báo số đinh lên.”

[11] Ra chiếu cho các châu Chân, Dương, Sở đào sông vận tải theo cách của lộ Lưỡng Chiết, chọn những chỗ cạn nhất đào trước, lệnh cho Phát vận chuyển vận ty mượn tiền thóc thượng cung để thuê phu.

[12] Ngày Giáp Tuất, quyền tri Khai Phong phủ Tôn Vĩnh tâu: “Chiêu Hóa quân Tiết độ sứ, Khang Quốc công Thừa Hiển thường dùng tiền vàng đưa cho nhà sư Bản Lập để xin thăng chức. Xin sai quan khác điều tra xử lý.” Chiếu cho Khai Phong phủ xử lý công minh, nếu việc liên quan đến Thừa Hiển thì gửi văn thư cho Đại Tông Chính ty cùng thẩm vấn. Bản Lập từng nhờ cậy con của Tể thần Vương An Thạch là Vương Bàng, Tôn Vĩnh nhiều lần lên điện tâu việc này, Vua thấy rõ ý của Vĩnh muốn liên lụy đến An Thạch. Bản chép của Chu bản bỏ đoạn “Bản Lập từng nhờ cậy Vương Bàng” trở xuống, nay khôi phục lại.

[13] Cùng ngày, sau khi Trung thư tâu việc xong, Vua nói với các phụ thần: “Gia Cát Lượng ở lều cỏ, ắt có điều tự trọng, sau đó mới có thể được trọng dụng. Những việc phạt trên hai mươi gậy đều tự mình xử lý, nước Thụy ít người tài năng, nên mọi việc đều phải tự làm, cũng không thể chê trách được.” Lại nói: “Hàn Tín làm đại tướng, khuyên Hán Vương định Tam Tần, an thiên hạ, không gì không theo kế sách của ông; dù có nguy hiểm ở Thành Cao, Uyển, Diệp, nhưng đại kế thiên hạ đã định sẵn rồi.”

[14] Chiếu cho Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty cấp năm trăm độ điệp để chuẩn bị cứu tế.

[15] Lại chiếu: Từ nay, các trường bán muối ở Thiểm Tây nếu lượng muối hiện có đủ dùng trong hai năm thì tạm ngừng mua thêm.

[16] Ngày Ất Hợi, chiếu bỏ lệ đạo sĩ dùng uy nghi đón dẫn tang lễ của tông thất.

[17] Chiếu giám An Thượng Môn, Quang châu Tư pháp Tham quân Trịnh Hiệp bị cách chức, đày đi biên quản ở Đinh châu. Ban đầu, Hiệp dâng thư hiến bức tranh lưu dân, triều đình cho là điên cuồng, cười mà không hỏi tội, chỉ sai Khai Phong phủ hặc tội ông tự ý dùng trạm ngựa để dâng tấu. Hiệp lại dâng thư nói: “Hạn hán là do Vương An Thạch gây ra, nếu bãi chức An Thạch, trời ắt sẽ mưa.” Khi An Thạch bị bãi chức, Lữ Huệ Khanh lên nắm quyền, Hiệp lại nói: “An Thạch đặt ra tân pháp hại dân, Huệ Khanh kết bè đảng gian tà, che lấp sự sáng suốt. Chỉ có Phùng Kinh dám đứng ra phản đối, dám đối đầu với An Thạch. Xin hãy cách chức Huệ Khanh, dùng Kinh làm tướng.” Ông còn nói Kinh cùng Nguyên Giáng, Tôn Vĩnh, Vương Giới đều là người nhân nghĩa. Huệ Khanh nổi giận, bèn tâu lên Vua, trách phạt nặng Hiệp. Sách 《Hiệp Ngôn Hành Lục》 chép: Lữ Huệ Khanh tham chính, hôm đó kinh thành có gió lớn, bụi vàng phủ kín chiếu dày hơn một tấc. Hiệp lại dâng sớ bàn việc này, nhưng không được trả lời. Việc này cần xem xét thêm. Hiệp tiến cử Kinh làm tướng, theo bản truyện của Kinh, cả sử cũ và sử mới đều chép, nhưng 《Thực Lục》 và 《Mặc Bản》 chỉ nói Hiệp khen Kinh cùng Nguyên Giáng, Tôn Vĩnh, Vương Giới đều là người nhân nghĩa, không nói tiến cử Kinh làm tướng, có lẽ không rõ ràng, 《Chu Bản》 lại bỏ tên bốn người. Theo 《Hi Ninh Biên Sắc》, tội tự ý dùng trạm ngựa chỉ bị đánh một trăm trượng, nay bị cách chức và đày đi biên quản, có lẽ vì lý do khác, nhưng 《Mặc Bản》 và 《Chu Bản》 đều nói là do tội dâng thư hiến tranh và tự ý dùng trạm ngựa. Điều này cũng không rõ ràng, có lẽ lúc đó chỉ mượn cớ này để trách phạt Hiệp mà thôi, nay căn cứ vào bản truyện mới, cũ và 《Tư Mã Quang Ký Văn》 để sửa chữa. Ngày 7 tháng 4, Hiệp bị hặc tội lần đầu; ngày Canh Tý (7 tháng 1) năm thứ 8, Hiệp lại bị đày đến Anh châu.

[18] Quyền Phát Khiển Tần Phượng đẳng lộ Chuyển Vận Phán quan Lưu Tông Kiệt tâu: “Giai châu trước thuộc Tần châu, nay ở phía nam Dân châu, nếu cắt về Hi Hà, quân mã dễ dàng phối hợp.” Chiếu Vương Thiều xem xét rồi tâu lên, nhưng cuối cùng không thực hiện.

[19] Hoàng thành sứ Vương Quân Vạn làm Đông thượng các môn sứ, Đạt Châu đoàn luyện sứ; Hạ Nguyên Kỷ làm Đông thượng các môn sứ, Quả Châu thứ sử; Tây thượng các môn sứ Miêu Thụ làm Tứ phương quán sứ, Vinh Châu thứ sử; Như kinh phó sứ Địch Vịnh làm Hoàng thành sứ, vẫn kiêm chức các môn thông sự xá nhân; những người khác được thăng chức và ban thưởng. Đây là do công lao đưa quân vượt sông Thao đánh giết bộ lạc Thổ Phồn và mở đường thông suốt. Vua nhân bàn về việc ban thưởng công lao ở Hi Hà, nói: “Vào niên hiệu Khánh Lịch, phương Tây dùng binh, Lưu Bình và Cát Hoài Mẫn thất bại, quân lính chết và bị thương mấy vạn người, mới được truy tặng chức quan, ban ân điển đặc biệt, con cháu được hưởng đến hai mươi người; còn quân lính dũng cảm bị thương nặng chỉ được hai ngàn tiền, sao mà bạc bẽo thế! Nay trong các yến tiệc, người nhạc công thổi sáo đánh trống, thu nhập còn hơn thế. Người xưa nói lương thực phải tương xứng với công việc, chính là muốn cho phần thưởng tương xứng với công lao. Nay việc ban thưởng ở Hi Hà có thể nói là hậu hĩ, nhưng để khích lệ tinh thần quân sĩ, ai nấy đều sợ không được đối mặt với kẻ địch, chính là nhờ vào điều này.”

[20] Ngày Đinh Sửu, ty An phủ dọc biên giới Hà Bắc dâng lên bản đồ và quy chế về việc đào ao hồ, đắp đê đường dọc biên giới, xin giao cho ty Đồn điền các quận biên giới; lại xin trồng liễu và gieo gai ở các thành quân sự dọc biên giới để phòng bị nhu cầu biên phòng. Đều được chấp thuận.

[21] Kinh lược sứ Hi Hà lộ Vương Thiều tâu: “Hai châu Hi, Hà là nơi tập trung quân đội nhiều nhất, mỗi năm chi hết 32 vạn hộc lương thực cho người và đậu cho ngựa, 80 vạn bó cỏ. Trong lộ này có việc buôn bán, có thể dựa vào thuế trà, muối, rượu để ứng phó việc mua lương thực, xin cử hai quan viên nhân lúc giá rẻ mà lo liệu; còn cỏ và đậu, xin cử riêng bốn người chuyên trách; và lập ra quy chế thưởng để hoàn thành công việc, lại xin cấp 20 đến 30 vạn giấy muối, đợi ba năm sau bản ty sẽ tự lo liệu.” Được chấp thuận.

[22] Vua nói với các quan phụ chính: “Gần đây sai tiểu sứ đến các huyện gần kinh đô xem xét lúa mùa thu, thấy lúa tốt phi thường, đã có cây cao đến hai thước, nếu mùa thu này được mùa, dân ta có thể tạm thời được nghỉ ngơi chăng!”

[23] Ra chiếu lệnh cho phủ Khai Phong ghi chép số lượng người lớn nhỏ và quê quán của dân đói trong kinh thành để tâu lên. Phủ Khai Phong ghi chép được 936 người, chiếu sai quan viên xét hỏi, cấp giấy tờ, cho về quê.

[24] Chiếu rằng: “Các châu quân chức sự, nếu có việc tu sửa thành lũy, quân khí, phải bẩm báo lên Kinh lược ty, Quân chính huấn luyện đô tổng quản hoặc Kiềm hạt ty. Vật liệu cần dùng, ngoài việc bẩm báo lên Chuyển vận ty, không cần bẩm báo lên Giám ty. Việc không thuộc quyền hạn của các ty này, cũng không cần cung cấp báo cáo. Nếu Kinh lược ty không đề xuất hoặc xử lý không đúng, Giám ty phải tâu lên.”

[25] Ngày Mậu Dần, ban thưởng tiền đặc biệt cho tướng sĩ tham gia đánh dẹp ở châu Đào, số lượng có khác nhau.

[26] Chiếu rằng: Tại kinh đô, các Chuyển vận ty, các quân Đô ngu hậu trở xuống đến Đô chỉ huy sứ, nếu có người được thăng chức do chiến công và muốn nhường lại cho con cháu, thì cho phép. Những năm gần đây, quân hiệu được thăng chức do chiến công, thường được thăng lên chức vụ cao, nên nay cho phép nhường lại cho con cháu.

[27] Lại chiếu rằng: “Các quan án sát, nếu xét thấy các sứ thần lớn nhỏ có tật bệnh, hèn yếu, không xứng chức, mà chưa qua xác minh đã thay thế, thì đợi đến Tam ban viện dẫn lên Xu mật viện xét lại. Nếu có thể tiếp tục làm việc, thì cho nhận chức vụ phù hợp. Nếu xét thấy không đúng, quan ty phải xin chỉ.”

[28] Ngày Kỷ Mão, chiếu rằng: Các sắc lệnh tại kinh đô, một ty, một lộ, một châu, một huyện đã biên soạn xong, đều phải trình lên Trung thư. Sắc lệnh tại kinh đô và một ty gửi cho Kiểm chính quan, còn lại gửi đến Tường định nhất ty sắc lệnh sở để xét lại.

[29] Tể thần Hàn Giáng tâu: “Vương Dụng Thần, trước là Nội điện sùng ban, là người dám liều chết, thực sự có chiến công. Nay Hi Hà lộ đang cần người tài võ, mong được thăng lên chức vụ gần hạ ban.” Chiếu bổ nhiệm làm Tam ban tá chức, chỉ sử của Hi Hà lộ Kinh lược ty. Trước đây, Dụng Thần làm Đô giám ở trại Định Xuyên thuộc quân Trấn Nhung[2], vì tự ý lấy trộm của công 37 tấm lụa, theo luật phải xử tử, nhưng được tha chết, phạt làm Hạ ban điện thị, đưa về bản lộ hiệu dụng, đến nay lại được bổ nhiệm.

[30] Ngày Tân Tỵ, Lý Phục Khuê, vốn là Binh bộ Viên ngoại lang, mới được bổ nhiệm làm Tri châu Thái Châu, được phục chức Công bộ Lang trung, Trực Long đồ các, Tri châu Thương Châu. Phục Khuê từ Tào Châu vì lý do thân tộc nên được điều đến Thái Châu, khi qua kinh đô được vào chầu, nhận mệnh này.

[31] Lô Bỉnh, Trung thừa, đề điểm hình ngục Lưỡng Chiết lộ, được thăng làm Thái thường Bác sĩ, thăng một bậc. Bỉnh vì có công đề cử việc muối, làm tăng thuế khóa. Lúc này Bỉnh đã được điều đến Hoài Nam Đông lộ. Ngày 18 tháng 2 năm thứ 5 làm Hiến ty Chiết lộ, ngày 19 tháng 5 năm thứ 7 đổi sang Hoài Đông, ngày 26 tháng 5 năm thứ 8 lại được thăng chức, ngày 19 tháng 5 năm nay là ngày Bính Thìn, có thể tra cứu. Sách 《Bạch Trạch Biên》 của Phương Chước có ghi chép, đã thấy ngày 18 tháng 2 năm thứ 5.

[32] Vua phê: “Nghe nước Hạ gặp hạn hán, đưa gia súc đến chăn thả ven sông biên giới. Lệnh cho sáu lộ Kinh lược quân mã ty nghiêm ngặt răn đe, các quan chức tại chức thường xuyên kiểm soát các hộ Hán và Phiên, không để xảy ra xâm phạm.”

[33] Ngày Nhâm Ngọ, phân mệnh các phụ thần cầu mưa.

[34] Ghi chép Tiên Vu Chi Thiệu, tiến sĩ Lô Châu, làm Giao xã Trai lang, vì Sát phỏng ty Tử Quỳ lộ tâu lên những việc biên giới và pháp lệnh do Chi Thiệu trình bày có thể áp dụng.

[35] Chiếu tăng số lượng giáo thụ các lộ.

[36] Lại chiếu cho Tống Sung Quốc, Đồng tri Lễ viện, đợi đến khi Lễ viện đủ ba năm, sẽ được bổ nhiệm ở tỉnh phủ. Vì Phán Thái thường tự Nguyên Ráng tâu rằng Sung Quốc là con của Tống Tường, nguyên là Tể tướng, đã làm việc hai năm, có công lao trong chức vụ.

[37] Ban tên chùa mới ở Dân Châu là Quảng Nhân Thiền viện, cấp năm khoảnh ruộng công, mỗi năm cho một người xuất gia.

[38] Ngày Quý Mùi, Ty chuyển vận Tần Phượng lộ xin đặt giám ở Tà Cốc, Phượng Tường phủ, đúc tiền Chiết ngũ, Chiết thập, xin ban chữ ngự bút. Chiếu chỉ đúc tiền Chiết nhị.

[39] Ty chuyển vận Hà Bắc Tây lộ xin miễn thuế thân cho những người ứng mộ dịch vụ mà gia đình họ phải tham gia bảo giáp. Được chấp thuận.

[40] Giáp Thân, ban chiếu cho các quan chức ban trực và thân tòng quan của Hoàng thành ty bị phối lưu đến các châu lao thành, bản thành, những người dưới 50 tuổi phạm tội nhẹ, ban trực đổi sang phối lưu vào Long Kị, thân tòng quan phối lưu vào Tráng Dũng, lệnh Hình bộ lập ra quy chế xét xử các quan chức ban trực. Trước đây, các vệ sĩ vì phạm tội nhỏ hoặc bị liên đới mà bị giáng chức và phối lưu, những người ở phương Nam thường mắc bệnh chướng khí, phần lớn không trở về, tự cho mình có tài võ nghệ, nhưng lại khốn khó vì cơm áo, có kẻ bỏ trốn làm giặc, nên cần thu xếp, giúp đỡ họ.

[41] Ban chiếu cho các quan chức phụ trách việc dẹp loạn người Man ở Ý, Hợp, hạng nhất là quan kinh đô được giảm thời gian khảo hạch 2 năm, quan tuyển chọn được thăng một bậc, những người khác được giảm thời gian và bổ nhiệm vào chức vụ thuận tiện gần nhà. Đây là theo đề nghị của quan sát phỏng Chương Đôn.

[42] Miễn thuế tiền bán măng hàng năm từ các vườn trúc quan ở ba huyện Lễ Dương thuộc châu Lễ, giao cho các cơ quan hữu trách xem xét và định ra luật về việc trộm măng và trúc, lệnh cho các châu huyện bảo vệ, chăm sóc để hỗ trợ việc chế tạo vũ khí. Đây là theo đề nghị của quan đề điểm hình ngục Lý Bình Nhất ở địa phương.

[43] Ất Dậu, hoàng tử thứ năm ra đời, sai Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh đến Thái miếu làm lễ báo cáo. Đặt tên là Nhuận.

[44] Quan đề điểm hình ngục Trịnh Dân Hiến ở lộ Tần Phượng tâu rằng đã xác định được ranh giới của các xạ thủ cung tên người Hán và người Phiên ở châu Hi, xây dựng đồn bảo, chia đều đất đai, hỗ trợ họ canh tác để tự túc lương thực. Vua phê rằng: “Các xạ thủ cung tên ở châu Hà, châu Dao, châu Dân, lệnh cho Dân Hiến nhanh chóng thực hiện việc an phủ. Ty chuyển vận cung cấp tiền lương vào thời điểm canh tác, để sớm thấy được kết quả.”

[45] Vua bảo các quan phụ tá rằng: “Tài chính trong thiên hạ, nếu triều đình chú ý một chút thì có thể tiết kiệm được rất nhiều. Trước đây, khi giải tán và sáp nhập các doanh trại quân đội[3], đã lệnh cho kế toán giảm bớt hơn 3.000 quân nhân từ chức thập tướng trở xuống, ngoài việc cấp phát đặc biệt vào hai dịp lễ và lương thực cho người hầu[4], mỗi năm tiết kiệm được 450.000 quan tiền, 400.000 thạch gạo, 200.000 tấm lụa, 30.000 tấm vải, và 2.000.000 bó cỏ[5]. Nếu mọi việc đều như vậy, và các chuyển vận sứ ở các lộ đều có người tài, lại cho họ giữ chức lâu dài, để họ lo liệu, thì tài chính há chẳng đủ dùng sao!” Ngày 23 tháng 3 nhuận năm Trị Bình thứ 4; cuối tháng 10 năm Hi Ninh thứ nhất, ngày 19 tháng 7 và ngày 12 tháng 10 năm thứ hai, cuối tháng 3 và ngày 23 tháng 11 năm thứ ba, ngày 21 tháng 10 năm thứ sáu, đều là việc sáp nhập doanh trại. Chí về binh chế ghi lời này sau năm Hi Ninh thứ hai, trước khi Tô Thức bàn về việc sáp nhập doanh trại, không đúng thứ tự sự việc, nên căn cứ theo thực lục.

[46] Châu Thiểm tâu rằng, ngày Ất Sửu tháng 5, mưa lớn gây lũ lụt, làm ngập hai huyện Thiểm và Bình Lục. Chiếu cho dân bị thiên tai lũ lụt được cấp lương thực trong ba tháng, binh lính và nhân viên ở các trạm dịch được cấp 1.000 tiền để di chuyển.

[47] Chiếu ban xuống mẫu giấy Tuyên cho châu Hàng, mỗi năm sản xuất 50.000 tờ. Từ nay, giấy dùng thường ngày trong công văn, dài ngắn rộng hẹp, không được dùng giấy Tuyên để tránh nhầm lẫn.

[48] Ngày Đinh Hợi, Diệp Thích, chức Quân sự suy quan ở Mục Châu, Tập học công sự ở Lễ phòng Trung thư, được bổ làm Quang lộc tự thừa, Hiệu khám ở Quán các, quyền Kiểm chính công sự ở Lễ phòng Trung thư. Diệp Thích ban đầu được bổ làm Giám sinh ở Quốc tử giám, Vương An Thạch yêu thích bài đối sách của ông. Khi Vương An Thạch rời chức, Lữ Huệ Khanh tiến cử ông được triệu đối, nhưng không hợp ý Vua. Vua vì Vương An Thạch nên đặc cách ban mệnh này. Việc của Diệp Thích, căn cứ theo 《Tư Mã ký văn》.

[49] Ban cho Mộc Chinh họ Triệu, tên là Tư Trung, làm chức Vinh Châu đoàn luyện sứ; mẹ là Thọ An quận quân Dĩnh Thành Kết được ban họ Lý, phong làm Toại Ninh quận thái phu nhân; vợ là Du Long Thất làm An Định quận quân, Kết Thi Tốt làm Nhân Hòa huyện quân; lại đặt tên cho em trai là Đổng Cốc là Kế Trung, Kết Ngô Diên Chinh là Tế Trung, Hạt Ngô Sất là Thiệu Trung, Ba Chiên Giác là Thuần Trung, Ba Chiên Mạt là Tồn Trung; lại ban tên cho hai con trai, con trưởng là Bang Tịch Vật Đinh Ngột tên là Hoài Nghĩa, con thứ là Cái Ngột tên là Bỉnh Nghĩa, đều làm Hữu thị cấm. Thủ lĩnh Kết Thành Mạt và A Lý Cốt đều làm Đông đầu cung phụng quan. Ngày 4 tháng 12, Tư Trung làm chức Tần Châu kiềm hạt, ngày 27 chém A Lý Cốt. Theo truyện cũ về Triệu Tư Trung và phụ truyện tháng 6 năm Hi Ninh thứ 10: Mộc Chinh được ban tên họ, nhậm chức Vinh Châu đoàn luyện sứ; mẹ là Dĩnh Thành Kết làm Toại Ninh quận thái phu nhân, mỗi tháng được cấp 30 ngàn tiền son phấn; vợ là Bao thị làm Hàm Ninh quận quân; em trai và các con đều được thăng chức. Khi dẫn Tư Trung vào triều kiến, Vua triệu Bao thị và Du Long Thất, cho phép mặc y phục người Phiên và hai con trai đều được lên điện ban lời hỏi thăm. Lại xuống chiếu cho Tư Trung và Bao thị, nghe nói vợ chồng không hòa thuận, nay phải hòa hợp. Tư Trung không thể tuân chiếu, bèn xuống chiếu cho Tư Trung ở Hi Châu, Bao thị và Du Long Thất ở Hà Châu. Việc này hơi khác so với thực lục, nay ghi chép thêm. Việc cho phép mặc y phục người Phiên vào triều kiến là vào ngày 16 tháng 9.

[50] Ngày Mậu Tý, Vương Khánh Dân, chức Tri Ký Châu, tâu rằng trong châu có sông Tiểu Chương, trước đây bị dòng Bắc của Hoàng Hà chặn lại, nay sông đã chảy về phía đông, xin phát dân phu khơi thông. Vua xuống chiếu cho Ngoại đô thủy giám thừa ty xem xét rồi tâu lên. Sau đó việc này không thực hiện.

[51] Chiếu cho các chùa, giám, viện chủ phán quan, mỗi năm được tiến cử một viên quan thuộc hạ của mình làm kinh quan, hoặc trong số các chức quan huyện lệnh, nếu chọn được ba viên trở lên thì được tiến cử hai viên, sáu viên trở lên thì tiến cử ba viên. Trước đây, Câu đương Tam ban viện Trần Dịch và Thái Xác tấu cử Quyền chủ bạ, Phụng Quốc quân Tiết độ suy quan Chu Thục làm kinh quan, chiếu gửi đến Lưu nội tuyển cho phép thu dụng, từ nay các quan thuộc tại các nha môn chủ phán ở kinh đô đều theo lệ này, nhân đó định thành lệnh.

[52] Ngày Tân Mão, chiếu cho đặt Hồn nghi và Phù lậu mới chế tạo của Ty thiên giám tại Hàn lâm Thiên văn viện. Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý, kiêm Sử quán kiểm thảo, đồng tu Khởi cư chú, đề cử Ty thiên giám Thẩm Quát được thăng làm Hữu chánh ngôn, ban thưởng mỗi thứ bạc và lụa năm mươi tấm, Thu quan chính của Ty thiên giám là Hoàng Phủ Dũ cùng mười người khác đều được giảm năm thăng cấp, còn lại mỗi người được ban thưởng bạc và lụa khác nhau. Trước đây, Thẩm Quát dâng ba bản tấu về Hồn nghi, Phù lậu, Cảnh biểu cùng khí cụ Hồn nghi, triều đình nghe theo lời tấu, sai cải tạo pháp vật và lịch thư, đến nay Hồn nghi và Phù lậu đã hoàn thành[6], nên ban thưởng. Ngày 27 tháng giêng năm thứ tám, lịch thư hoàn thành.

[53] Vương Thiều tâu: “Theo chiếu chỉ chiêu mộ mua ngựa của người Phiên, nay người Di ở Hắc Thành đem nhiều ngựa tốt đến biên giới, xin chỉ huy Ty mua trà nhanh chóng ứng phó.” Triều đình nghe theo, lại sai Lý Kỷ căn cứ vào số trà hiện có tính toán vận chuyển bằng đường bộ và đường thủy, tâu lên số lượng đã phát đi. Ngày mùng 1 tháng 6, giao cho Vương Thiều và Trịnh Dân Hiến đề cử việc mua ngựa.

[54] Truy tặng Vệ quốc phu nhân Trầm thị làm Ngô quốc phu nhân. Trầm thị vào cung từ thời Thái Tông, từng hầu hạ Chân Tông khi còn ở phủ đệ, Vua phê: “Có thể truy tặng một đại quốc.” Nên có mệnh lệnh này.

[55] Ngày Nhâm Thìn, Tri thành đô phủ, Tư chính điện Đại học sĩ Triệu Biện được điều làm Tri Việt châu. Theo lời xin của ông.

[56] Tần Phượng đẳng lộ Đô chuyển vận sứ, Long đồ các Trực học sĩ Thái Diên Khánh được bổ làm Tri thành đô phủ.

[57] Đồng phán Ty nông tự, Hình bộ Viên ngoại lang, Tập hiền điện Tu soạn Hùng Bản được bổ làm Tần Phượng đẳng lộ Đô chuyển vận sứ.

[58] Trung thư tâu: “Vùng biên giới Thiểm Tây, năm Hi Ninh thứ 6 thu nộp tiền 5.230.000 quan, cấp 902.716 tấm diêm sao, nhưng dân chúng thực tế chỉ dùng 428.601 tấm, còn lại đều là sao hư. Tuy có quy định phải nộp tiền mới được cấp sao, dùng tiền mua lương thảo, nhưng do quan phủ thiếu tiền, các quan giám địch lo hoàn thành kế hoạch năm, không tránh khỏi việc chỉ dùng sao để chiết khấu đổi lương thảo. Tuy có quan lại dâng sớ xin khôi phục lưu hành giấy giao tử, nhiều người nói mỗi năm có thể phát hành 1.000.000 quan, nhưng họ không hiểu ý nghĩa của việc lưu hành giấy giao tử. Nay nếu dùng giấy giao tử ở Thiểm Tây, chỉ nên căn cứ vào số tiền hiện có của quan phủ để in ấn. Ví dụ như ở biên giới thu nộp 10.000 quan, lại muốn đổi tại một châu quân nào đó, thì chỗ đổi đó phải có 10.000 quan, lập tức ứng phó chi trả. Như vậy thì giấy giao tử và tiền lưu hành không khác gì nhau, có thể cứu nguy trong lúc khẩn cấp, và tránh được tệ nạn phát hành quá nhiều diêm sao, nâng giá hư ảo việc mua lương thảo ở biên giới.” Chiếu cho Bì Công Bật ở lộ Vĩnh Hưng, Hùng Bản ở lộ Tần Phượng kiêm nhiệm chức Đề cử thực hiện lưu hành giấy giao tử ở lộ mình, lại lấy Tống Địch[7], Tri châu Bân làm Đề cử thực hiện lưu hành giấy giao tử ở hai lộ Vĩnh Hưng và Tần Phượng. Ngày 18, 21, 26 tháng 9, cùng ngày 24 tháng giêng, ngày 8 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 4 có thể tra cứu. Quyển 6 Chí Thực hóa, Trung thư tâu: Diêm sao ở vùng biên giới Thiểm Tây phát hành quá nhiều, phần lớn là sao hư, giá muối càng rẻ, dùng sao chiết khấu đổi lương thảo, có nguy cơ nâng giá hư ảo việc mua lương thảo ở biên giới, xin thực hiện pháp lưu hành giấy giao tử ở Thiểm Tây. Ngày 26 tháng 6 năm thứ 7, chiếu cho Bì Công Bật, Hùng Bản phân công phụ trách việc này; lại chiếu cho Tri châu Đồng là Triệu Chiêm chế trí, ngày 21 tháng 9 năm thứ 7.

[59] Ngày Quý Tỵ, ghi nhận tiến sĩ Lý Tham Lỗ làm Trai lang ở Giao Xã. Tham Lỗ là con của Cấu, nguyên chủ bạ huyện Hải Môn, thuyết thư Thái học. Tri chế cáo Hứa Tướng, Đặng Nhuận Phủ tâu: “Cấu sớm nổi tiếng về văn học, giỏi cổ văn, thông kinh thuật, học trò theo học thường đến mấy trăm người. Tham tri chính sự Phạm Trọng Yêm tiến cử, từng được bổ một chức quan, đến Thái học làm thuyết thư, con cháu lưu lạc không ai được ghi vào sổ quan chức. Nay đem 17 quyển văn của ông ấy dâng lên, xin theo lệ của Vương Hồi bổ một người con làm quan.” Vì thế đặc biệt ghi nhận.

[60] Sát phỏng Hùng Bản của lộ Tử Quỳ tâu: “Dân các châu quận Quỳ, Hạp không có giếng uống, trong thành châu Quỳ dẫn nước từ ba động, hai khe Tam Tí, phân phối ra các ngõ phố, chứa vào thuyền gỗ, hạn gỗ, mỗi năm phải thay một lần, bắt người lấy nước nộp tiền để sửa chữa. Xin dùng tiền thừa từ miễn dịch đầu tử để chi trả, miễn thu tiền người lấy nước.” Theo lời tâu.

[61] Vua nói với các quan phụ tá rằng: “Các chức Tri châu, Chuyển vận sứ, nên để họ tại chức lâu dài.” Lữ Huệ Khanh nói: “Mọi người đều cho rằng việc cử người làm Huyện lệnh là cấp bách, nhưng không biết rằng việc bổ nhiệm quan chức ở đâu cũng cần chọn người tài?” Vua nói: “Thứ sử và Huyện lệnh là những người gần gũi nhất với dân, nên việc chọn người tài là cấp bách. Nếu trong số các Huyện lệnh có người làm việc hiệu quả rõ ràng, triều đình nên đề bạt vài người để khích lệ các quan khác, chẳng phải là tốt sao?” Phùng Kinh nói: “Hán Tuyên Đế từng lấy những Huyện lệnh có thành tích xuất sắc làm Thứ sử, và những Thứ sử có thành tích đặc biệt thì được thăng lên làm Tam công, như Hoàng Bá là một ví dụ.” Huệ Khanh nói: “Việc cai quản quận và làm phụ tá cho Vua là hai việc khác nhau.” Vua nói: “Nếu dùng người như vậy, e rằng không thích hợp. Đó là lý do tại sao phong thái của Hoàng Bá không bằng khi ông còn làm quận thú. Tài năng của các bậc phụ tá, như ‘Thập loạn’ thời Chu, mới xứng với chức vụ.”

Hàn Giáng và các quan khác nói: “Chúng thần được đề bạt quá mức, thực sự không xứng với sự kỳ vọng của bệ hạ. Nếu như bệ hạ đã nói, chúng thần dù có cố gắng hết sức cũng không thể ở lại Trung thư lâu dài, nhưng không dám không cố gắng.” Vua nói: “Như các khanh, tri thức cao xa, chỉ cần làm theo điều mình biết, thì không khó để đạt được như người xưa.” Huệ Khanh lại nói: “Thái thường tự là cơ quan phụ trách lễ pháp của triều đình, nhưng số lượng quan lại quá nhiều, người tài và kẻ kém cỏi lẫn lộn, mong rằng chọn ra hai ba người để chuyên trách việc này.” Vua nói: “Đúng vậy. Chỉ có việc tế tự và quân sự là đại sự của quốc gia. Triều đình những năm gần đây việc tế tự rất không đúng lễ. Hơn nữa, Thang phạt Kiệt, Vũ Vương phạt Trụ, đều trách cứ về việc hi sinh và ngọc tệ, điều này thực sự không thể xem nhẹ.”

[62] Chiếu cho Kinh lược An phủ, Chuyển vận ty Quảng Nam lộ, căn cứ vào số hộ thương thủ, thổ đinh nguyên quản, theo lệ nghĩa dũng, thương thủ ở Đông lộ và thổ đinh ở Tây lộ đều cứ ba đinh thì chọn một đinh, còn các châu quân vốn không có thương thủ, thổ đinh thì không đặt thêm. Do Chuyển vận ty bản lộ tâu xin làm rõ chế độ cũ, thương thủ và thổ đinh chỉ tính chủ hộ, cứ ba đinh thì ghi một đinh, nhưng chưa rõ đối với hộ có sáu đinh, chín đinh thì có nên tăng thêm hay không, và những nơi vốn không có thương thủ, thổ đinh có được phép chọn thêm hay không, nên có chiếu chỉ này. 《Hội yếu》 ghi quá chi tiết, nay theo 《Thực lục》 lược bớt, còn 《Bản chí》 thì càng sơ lược.

[63] Tri Quế châu Lưu Di tâu: “Theo chế độ cũ, thổ đinh ở năm quận Nghi, Dung, Quế, Ung, Khâm, từ tuổi thành đinh trở lên đều được ghi vào sổ. Vì giáp ranh với man tộc, họ tự lo sợ bị cướp bóc, nên việc phòng thủ, ứng viện không cần thúc ép. Nhưng theo chế độ gần đây, chủ hộ từ đệ tứ đẳng trở lên, cứ ba đinh chọn một làm thổ đinh. Mà những người sống gần biên giới phần lớn không thuộc đệ tứ đẳng trở lên, nếu cứ ba đinh chọn một thì số thổ đinh cũ giảm bảy phần mười. Số còn lại ba phần làm bảo đinh, bảo đinh phần lớn ở nội địa, lại đợi họ luyện tập võ nghệ, thì sẽ bỏ bớt sổ thổ đinh. Sợ rằng việc phòng thủ biên giới sẽ thiếu hụt, xin theo chế độ cũ thì tiện hơn.” Tâu được chấp thuận. Việc này căn cứ theo 《Bản chí》 năm Hi Ninh thứ 7, nay phụ vào ngày 27 tháng 6.

[64] Giáp Ngọ, Vua bàn về phép kết đội, than thở về việc dùng binh khó khăn, nói rằng: “Các quan biên thần ngày nay, hiểu rõ thể chế kỳ chính đã là không có ai, huống chi là biến hóa của kỳ chính! Hơn nữa, số ngũ hành của trời đất không quá năm, nên biến hóa của ngũ trận là xuất phát từ tự nhiên, không phải do cưỡng ép mà thành.” Hàn Giáng tâu: “Thần trước đây từng xin đặt chức quan giảng thuyết[8], nay muốn lệnh cho các quan suý thần ở các lộ trình bày pháp chiến trận lên, chọn lấy chỗ hay, lập thành phép.” Vua đồng ý, bèn hạ chiếu cho năm lộ An phủ sứ trình bày phép trận đội có thể dùng được và tìm người biết phép trận đội trình bày ý kiến để tâu lên. Chiếu này ban ngày 20 tháng 7, nay gộp vào đây. 《Bản chí》 ghi việc này vào năm thứ 5, sai rồi, nếu là năm thứ 5 thì Hàn Giáng không còn ở ngôi tể tướng.

[65] Chiếu rằng: “Dân phiên ở lộ Hi Hà gần đây đã quy thuận, việc nhiều đã ổn định. Việc thu chi tài lợi của lộ này, như việc chiết bạc muối, rượu, trà, phèn thuế, thị dịch, khai mỏ, gỗ, xưởng rượu, đúc tiền, giấy giao tử, muối sao v.v., giao cho Hùng Bản[9] kinh lý, cố gắng tiết kiệm sinh tài, biên phòng dồi dào, cắt giảm quan lại thừa, cùng với Vương Thiều bàn bạc thi hành.”

[66] Ất Mùi, sai Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh làm chức Đề cử biên tu ty nông điều lệ.

[67] Quan Tường nghị ở Thẩm hình viện là Giả Sĩ Ngạn xin sai quan dựa vào các chỉ dụ từ niên hiệu Hi Ninh đến nay sửa đổi lệ làm căn cứ, hoặc tự quyết định, hoặc dựa vào tỷ phụ, xét định kết án các vụ án công, chọn những vụ đáng làm khuôn mẫu biên thành lệ. Lại xin ủy quan dựa vào thể thức tâu án của các châu và các điều sắc, luật, lệnh, văn xử án, cắt giảm biên chép, lập thành án thức, ban bố trong thiên hạ. Chiếu cho Hình bộ biên định.

[68] Bính Thân, sai Câu đương Ngự dược viện Lý Thuấn Cử đến phủ Thái Nguyên, châu Đại làm việc công. Việc này căn cứ vào 《Ngự tập》.

[69] Chiếu cho các lộ Khai Phong phủ, Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Hoài Nam, Lưỡng Chiết, các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục phải báo cáo ngay những nơi trong hạt bị hạn hán, gửi bằng trạm cấp tốc để tâu lên. Theo 《Ngự Tập》, đều là việc ngày 30.

[70] Tháng này, Quảng Châu báo có chim phượng hoàng xuất hiện ở huyện Tăng Thành.

[71] Dân huyện Tây Thành là Cát Đức bỏ tiền riêng tu sửa đập Trường Lạc, dẫn nước tưới ruộng đất cho dân trong hương, được bổ làm chức Tư sĩ tham quân ở Kim Châu, ban cho 10 độ điệp cho sư. Việc này theo bản chí thêm vào.

[72] Đô thủy giám tâu: “Lưu Cáp trình bày, khám xét khu vực sông Hoàng Hà thuộc Bắc Kinh, từ năm Hi Ninh thứ hai đã đóng dòng chảy phía bắc, sau đó liên tục vỡ đê tại cảng Hứa Gia và trấn Thanh Thủy, chảy xuống đầm Bồ, nước tràn lan, ngập ruộng dân. Tháng 10 năm thứ sáu, Vương Lệnh Đồ và các quan đề nghị, xin đào sông thẳng tại khu vực đê thứ tư và thứ năm thuộc Bắc Kinh, để sông lớn trở lại dòng cũ hai nhánh. Cáp và các quan được lệnh khảo sát, tâu lên lợi ích, liền thi hành, sai Phạm Tử Uyên và các quan đảm nhiệm việc này. Tử Uyên và các quan đào sông thẳng, sâu tám thước, không ngừng nạo vét, lại đóng bốn nhánh sông Ngư Lặc ở bờ nam, dồn nước chảy hết vào sông hai nhánh. Nay sông thẳng sâu hai trượng năm thước, có chỗ tăng đến ba trượng, còn cảng Hứa Gia và sông trấn Thanh Thủy rất cạn, gần như không chảy. Xét kỹ sông hai nhánh, nay tuy nước sâu chảy mạnh thành dòng, nhưng từ đầm Bồ về phía đông, nối liền trấn Thanh Thủy và cảng Hứa Gia, chảy xuống đến đầu giới thứ tư, dần dần lộ ra ruộng đất, không có gì bảo vệ, nếu sau này gặp nước lớn tràn bờ, chắc chắn lại kéo nước về đầu sông, gây ra nạn lụt như trước.

Xin giao cho ngoại giám thừa ty khảo sát, đợi khi sương xuống nước rút, đóng sông trấn Thanh Thủy, đắp một con đê dọc sông, ngăn nước lũ, để sông lớn trở lại dòng cũ, không còn lo nước chảy lệch hay bị tắc nghẽn. Cùng với việc lộ ra hàng vạn khoảnh ruộng dân[10], dân được cày cấy, lại giảm bớt bảy đê thuộc huyện Đường Ấp[11] phía dưới châu Bác, tiết kiệm chi phí tu sửa hàng năm, cả công lẫn tư đều có lợi. Giám ty khám xét khu vực đê thứ năm thuộc Bắc Kinh, đào sông thẳng, dùng bàn nạo và móng sắt nạo vét sông, cùng đóng các nhánh sông Ngư Lặc, vốn do Lưu Cáp khảo sát và thi hành, nay lại đề nghị, xin sai Cáp cùng Vương Lệnh Đồ với ngoại đô thủy giám thừa ty bàn tính việc này.” Vua nghe theo.

(Hội yếu chép việc này vào tháng 6 năm thứ bảy, nay phụ vào cuối tháng. Việc đóng các nhánh sông Ngư Lặc, đã thấy ngày 5 tháng 2. Tử Uyên và các quan được thưởng, vào ngày Giáp Tuất 11 tháng 12 năm này. Lại có thể xem thêm ngày Đinh Mùi 8 tháng 11 năm thứ sáu.)

[73] Tháng bảy, ngày Mậu Tuất, ban chiếu lấy ngày Kỷ Mùi tháng 11 làm lễ tế Nam Giao.

[74] Ngày Kỷ Hợi, Ty An phủ lộ Chân Định phủ xin cấp 200 độ điệp cho tăng ni để tu sửa thành trì, và điều động 5.000 dân phu từ các huyện trong hai năm để đào hào. Được chấp thuận.

[75] Ngày Tân Sửu, ban chiếu cho dân trong phủ Khai Phong nộp tiền tằm, muối ăn và các khoản khác được quy đổi thành lương thực, ba hạng trên vẫn như cũ, còn lại đều cho phép nộp tiền, ai muốn nộp bằng hiện vật cũng được.

[76] Lại ban chiếu cho Ty Giải Diêm Thiểm Tây kiểm tra số tiền thu được nhiều hay ít sau khi Đồng Quản Câu Chế Trí Giải Diêm Ty Dương Bàn nhậm chức, rồi tâu lên. Vì Dương Bàn nói trong hai năm, so với trước đã tăng thêm hơn 70 vạn quan tiền, nhưng Sát Phỏng Lý Thừa Chi lại nói ông không làm tròn chức trách, xin so sánh sự tăng giảm của thuế khóa hàng năm. Cuối cùng thế nào?

[77] Ban cấp 500 độ điệp cho tăng ni làm vốn thị dịch ở Hàng Châu, lại cấp thêm 200 cho Ty Chuyển Vận lộ Hà Bắc Tây để mua cỏ.

[78] Ban chiếu từ nay các chức Chỉ huy sứ chính và phó trở lên của quân Sương trong và ngoài, quân Bản thành, Lao thành cùng các Ty Khố vụ, Viện, Phường, Giám, và các viên quân mới bổ nhiệm từ Cấm quân sang quân Bản thành, Lao thành, vẫn theo lệ cũ ban tuyên chỉ, còn lại thì cấp bổ điệp tại chỗ.

[79] Tam Ty xin mượn 20 vạn xấp lụa trong kho nội phủ để chuẩn bị áo mùa đông. Được chấp thuận.

[80] Ban chiếu từ nay ai tiến cử quan lại không xứng đáng đến mức bị cách chức, thì xin chỉ.

[81] Ngày Nhâm Dần, lấy Tể thần Hàn Giáng làm Nam Giao Đại Lễ sứ, Hàn lâm học sĩ Nguyên Giáng làm Lễ Nghi sứ, Hàn lâm thị độc học sĩ Trần Dịch làm Lỗ Bạ sứ, Ngự sử trung thừa Đặng Oản làm Nghi Trượng sứ, Quyền Tri Khai Phong phủ Tôn Vĩnh làm Kiều Đạo Đốn Đệ sứ. Sau đó Tôn Vĩnh bị bãi chức, lấy Hàn Chẩn thay thế.

[82] Quang lộc tự thừa Hàn Tông Cổ được bổ làm Hiệu khám ở Quán các. Tông Cổ là cháu của Hàn Giáng, được Vương An Thạch tiến cử triệu đối, nên được bổ nhiệm.

[83] Ngày Quý Mão, quần thần xin thêm tôn hiệu là Thiệu Thiên Hiến Cổ Văn Vũ, nhưng chiếu không cho phép. Từ đó dâng biểu năm lần, cuối cùng vẫn không được chấp thuận.

[84] Hạ lệnh cho Công bộ viên ngoại lang, Tu soạn ở điện Tập Hiền, Phán Tư Nông tự Lý Thừa Chi; Thái tử Trung doãn, Trực Tập Hiền viện, Đồng Phán Tư Nông tự Trương Ngạc; Bí thư thừa, Hiệu khám ở Quán các, Quyền Phán Hình bộ Chu Minh Chi; Thái tử Trung doãn, Quyền Giám sát ngự sử Lý hành Đinh Chấp Lễ, đều kiêm chức Tường định biên tu Tư Nông điều lệ; Chấp Lễ vẫn sung chức Hiệu khám ở Quán các. Tri Khai Phong phủ Binh tào tham quân, Đại Lý bình sự Ngô An Trì; Tiết độ suy quan quân Trung Chính, Quản câu Quốc Tử giám thừa Quách Phùng Nguyên; Ngô huyện úy, Kiểm thảo ở sở Đề cử tu soạn kinh nghĩa Tằng Mân[12], đều kiêm sung chức Biên tu san định quan.

[85] Vua phê: “Lộ Thiểm Tây hạn hán, hạt giống mùa thu chưa gieo trồng, lệnh cho Ty chuyển vận đến các danh sơn, linh từ cầu mưa.”

[86] Lại xuống chiếu cho các châu quân ở năm lộ giáo duyệt bảo giáp, nếu thiếu lệnh tá, cho phép lộ đó tạm cử người đang chờ bổ nhiệm hoặc chờ khuyết.

[87] Lại xuống chiếu miễn thu tiền miễn dịch một năm cho hộ ngũ đẳng ở lộ Hà Bắc Tây, từ nay về sau, các lộ Đông, Tây sai phu xuân không quá năm vạn người, nếu có việc nặng ở đê sông cần tăng thêm người thì cũng phải tâu lên.

[88] Lại xuống chiếu cho các nơi trong thiên hạ tấu báo việc mưa tuyết, trộm cướp, trước đây đều dùng trạng tâu lên, nay lệnh cho Ty thông tiến phân loại, tóm tắt thành mục tấu lên.

[89] Ty chuyển vận lộ Quảng Nam Tây tâu: “Xin lấy tổng số nhiếp quan làm mười phần, trưởng sử văn học bảy phần, tiến sĩ hai phần, người được bổ nhiệm do ân đặc biệt một phần, đợi khi có khuyết chính ngạch, sẽ lần lượt bổ nhiệm.” Theo lời tâu.

[90] Ngày Giáp Thìn, Hữu chánh ngôn, Trực Tập Hiền viện, Quản câu Quốc Tử giám Thường Trật được làm Bảo Văn các đãi chế, Phán Quốc Tử giám. Trật bị bệnh lâu ngày, các chấp chính nhiều lần xin thăng chức để an ủi, nên có mệnh lệnh này.

[91] Chiếu cho các tướng quan sứ thần ở Hi Hà lộ đã phá được bộ lạc Thổ Phồn ở thành Đạp Bạch, so với công lao thu phục lại Hà Châu lần trước, lần này được thưởng gấp đôi. Các sứ thần chỉ huy đội quân được tính theo số người trong bộ phận mình và số đầu giặc thu được, lấy mười phần làm chuẩn: chín phần trở lên là hạng ưu, năm phần trở lên là hạng nhất, ba phần trở lên là hạng nhì, một phần đến chưa đủ phần hoặc không thu được đầu giặc đều xếp hạng ba. Hạng ưu được thăng sáu cấp, các hạng khác giảm dần hai cấp, đến hạng ba được thăng một cấp, đồng thời giảm thời gian khảo hạch một năm. Do đó, Tiên phong Đông thượng các môn sứ, Đạt Châu đoàn luyện sứ Vương Quân Vạn được thăng làm Dẫn tiến sứ; Hoàng thành sứ, Văn Châu thứ sử Hàn Tồn Bảo được mang theo khí giới của Vua; Sách tiên phong Lục trạch sứ Lâm Quảng được thăng làm Hoàng thành sứ; Quả Châu thứ sử, Tả lặc trận Hữu kỵ kỵ sứ Hạp Khả Đạo, Hữu lặc trận Tả tàng khố sứ Hác Tiến, Điện hậu Diêu Huỷ, Sách điện hậu Diêu Lân đều được thăng làm Hoàng thành sứ; Giám chiếu quản Trung quân tướng Dẫn tiến sứ, Vinh Châu thứ sử Miêu Thụ được thăng làm Trung Châu đoàn luyện sứ; Tổng quản Yến Đạt cùng Vương Quân Vạn, Hàn Tồn Bảo, Miêu Thụ, Diêu Huỷ, Diêu Lân đều được phong quan cho một người thân thuộc; Vương Quân Vạn và những người khác đều thuộc hạng ba, nhưng được đặc cách thăng chức.

(Ba chữ “Giám chiếu quản” có thể sai, cần xem xét lại).

[92] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu: “Tông thất từ khi được ban tên và phong chức, từ mười lăm tuổi trở lên, tính mười năm khảo hạch; Đại Tông Chính ty theo lệ của Thẩm quan viện kiểm cử những người đã được ân điển cải chức, từ sau khi được ân điển tính lại thời gian.”

[93] Ty Chuyển vận Hà Bắc Đông lộ (theo văn bản, có thể thiếu chữ “Chiếu” ở đầu), kiểm định việc Ngoại đô thủy giám thừa Trình Phưởng mới khai thông nước sông Hồ Lô ở quân Vĩnh Tĩnh đổ vào sông Sa Hà, báo cáo lợi hại. Vì dân kiện nước bị bồi lấp dâng cao, xin đợi sau mùa thu thu hoạch, đê điều tạm vững chắc rồi mới khơi thông nước như cũ. (Có thể tham khảo ngày 19 tháng 6 và ngày 7 tháng 9 năm thứ 8).

[94] Đồng Củ sát tại kinh hình ngục Chúc Tư xin miễn trừ tiền tang thưởng mà dân phạm tội trong thiên hạ còn nợ phủ Khai Phong.

[95] Ban cho Ty Chuyển vận Hà Đông mười vạn quan tiền để mua lương thảo.

[96] Thẩm Quát, quan viên phụ trách biên soạn và chỉnh lý các sắc lệnh của ba ty, tâu rằng: “Thần vâng chiếu biên soạn các nghi thức về Minh đường, Tịch điền, Hợp hưởng và Cung tạ. Gần đây, nghi thức Minh đường và Hợp hưởng thường được thay đổi luân phiên với Nam giao; còn nghi thức Cung tạ và Tịch điền đã lâu không được bàn đến, nên lễ văn đã bị thất lạc. Đến cả các nghi lễ như Đông phong, Tây tự, Triều lăng cũng khó mà tra cứu được. Thần lo rằng nếu chỉ biên soạn suông thì sẽ vô ích, nên xin chỉ biên soạn hai nghi thức Minh đường và Hợp hưởng.” Triều đình đồng ý.

[97] Ngày Mậu Thân, ban chiếu cho Phó chuyển vận sứ Hà Bắc Tây lộ là Ngô Thẩm Lễ đi khảo sát các địa điểm ở Vệ châu và Tương châu có thể đặt trạm giám sát sắt, rồi tâu lên.

[98] Ban cấp 2.500 độ điệp cho tăng nhân, 50 sắc cáo và bổ điệp cho các chức vụ Thí giám chủ bạ, Trai lang và Châu trợ giáo, để cứu tế dân đói người Hán và người Phiên ở Kinh Nguyên và Hoàn Khánh lộ, đồng thời làm vốn mua lương thực dự trữ cho Vĩnh Hưng lộ.

[99] Ngày Kỷ Dậu, bổ nhiệm Từ bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý là Tiên Vu Sư Trung làm Tri châu Hà Châu. Sử sách ghi chép về việc này vào ngày mùng một tháng 5 là sai. Đây là lần đầu tiên bổ nhiệm một quan văn làm Tri châu Hà Châu, nên ghi lại.

[100] Cách chức Đồng tri Lễ viện của Đô quan Viên ngoại lang Tống Sung Quốc. Vợ của Sung Quốc là Bàng thị tính tình hung hãn và hay ghen. Khi Sung Quốc đến Thái thường để tế lễ, Bàng thị sai hai người hầu đi theo. Sung Quốc đánh hai người hầu rồi giao cho Khai Phong phủ xử lý, sau đó tự nhận tội. Khi được tha tội, ông cũng bị cách chức.

[101] Ngày Nhâm Tý, phong Mỹ nhân Hình thị làm Sung dung.

[102] Diên Châu xin phát 30.000 thạch gạo trắng từ kho tỉnh để bán cho dân đói. Triều đình đồng ý.

[103] Vua phê rằng: “Việc xây dựng lầu canh, dụng cụ phòng thủ và vật liệu quân dụng ở Hà Bắc cần được khẩn trương khảo sát, cử quan viên đến các nơi sản xuất để thu mua, hoặc giao cho Thị dịch vụ chiêu mộ thương nhân mua sắm.”

[104] Phân công các đại thần cầu mưa.

[105] Trung thư tấu rằng, từ Ứng Thiên đến phía nam Hoài Hà có nạn châu chấu, đã được chỉ sai quan đi giám sát việc bắt châu chấu. Vua phê: “Miễn cho họ không phải vào chầu từ biệt.”

[106] Ngày Quý Sửu, ban chiếu chỉ: “Mộc Chinh đã đầu hàng, việc biên giới Hi Hà dần ổn định. Từ nay về sau, nên mở rộng ân huệ, vỗ về các bộ tộc Khương, đó mới là lợi ích lâu dài để bảo vệ biên cương. Nếu các bộ tộc phiên làm loạn, cần phải tiến hành trấn áp, Kinh lược ty phải trình báo sự việc để xin chỉ dụ.”

[107] Tri gián viện Đặng Nhuận Phủ tâu xin, mỗi lộ chọn một người trong số các quan Giám ty, cùng với các quan Thủ, Lệnh điều tra rộng rãi về pháp độ thanh miêu. Lại xin mỗi năm phát một đợt thanh miêu, thu lãi hai phần. Chiếu chỉ đều giao cho Ty đề cử biên tu và Ty điều lệ của Tư nông tự. Bản Chu đã xóa đi, có dán thêm ghi chú rằng không thi hành. Nay khôi phục lại.

[108] Ngày Giáp Dần, ban chiếu cho các ty Chuyển vận ở Thành Đô phủ lộ điều tra các châu huyện bị thiên tai trong khu vực quản lý, không cần đợi dân khiếu nại, trực tiếp ấn định mức giảm thuế thu.

[109] Ty Chuyển vận Quảng Đông tâu: “Hai giám Vĩnh Thông và Phụ Dân ở châu Thiều, châu Huệ mỗi năm đúc 80 vạn tiền, gần đây lại tăng thêm 30 vạn tiền. Vừa rồi có chỉ đổi sang đúc tiền chiết nhị, mỗi năm so với tiền nhỏ có thể tăng thêm 20 vạn. Xin dùng thuyền thuê để chở đến ty Phát vận, đổi lấy tiền nhỏ chở về kinh, dùng vào việc quân quốc.” Vua phê: “Giám tiền Phụ Dân ở châu Huệ được lập vào năm Trị Bình thứ 4, số tiền đúc ra thuộc hạn ngạch hàng năm của Nội tàng khố. Chỉ từ năm ngoái mới chuyển giao cho ty Chuyển vận để mua đồng. Nay đã có dư, nên trả lại cho Nội tàng khố.”

(Có thể tham khảo thêm ngày 14 tháng 3 năm thứ 4 và ngày 23 tháng 10 năm thứ 6).

[110] Ban chiếu sai quan quyền nhiệm chức vụ tại kinh, như chức Thiếu khanh Đại Lý, nếu có thứ tự từ Tri châu trở lên thì cho phép tiến cử.

[111] Ban chiếu cho ty Đề cử Quảng Nam Đông lộ điều tra Lã Mạc, người phụ trách công vụ ở ty Thị dịch Quảng Châu, về việc tự ý vào ty Thị bạc bắt giữ hàng hóa của thương nhân phiên. Sử Chu cho là việc nhỏ nên đã xóa, nay khôi phục lại.

[112] Ngày Ất Mão, Kiểm chính Trung thư lại phòng công sự, Thái tử Trung doãn Du Sung được bổ làm Tập hiền Hiệu lý, quyền Phát khiển Hoài Nam Đông lộ Chuyển vận Phó sứ.

[113] Lễ tân Phó sứ, Đề điểm Từ Hiếu tự Nhâm Trạch được thăng làm Tây Nhiễm viện sứ, do là em cùng mẹ của Tiên Du phu nhân được hưởng ân huệ.

[114] Ty Nông tự tâu: “Người dân Tô Châu tố cáo việc Thẩm Quát và những người khác đắp đê ruộng dân, xâm phạm làm hư hỏng ruộng tốt, hao phí tiền công tư một cách vô lý, chưa rõ hư thực.” Chiếu cho Chuyển vận Phó sứ Trương Tịnh xem xét tình hình việc tố cáo rồi tâu lên. Đến tháng 10 thì xem xét xong.

[115] Chiếu rằng Ty Thị bạc Quảng Châu có thể giữ nguyên như cũ, không cần sáp nhập vào Ty Thị dịch vụ.

[116] Hùng Bản tâu: “Việc kinh lý châu Lô trừ việc xin hàng ra, các bộ lạc man di ở các thôn ven sông làm loạn đều đã dẹp yên, xin thưởng công cho các sứ thần có công dẹp giặc man di làm ba bậc.” Chiếu cho Lạc uyển Phó sứ, Cáp môn Thông sự Xá nhân Giả Xương Ngôn thăng làm Tây Tác phường Phó sứ, những người khác thăng chức, giảm năm khảo khóa có sai biệt.

[117] Tư nông tự tâu: “Sổ đinh sản chia làm năm bậc, trước đây dựa vào thư lại cùng kỳ mục, hộ trưởng cung cấp[13], nhưng có nhiều thiếu sót, không chính xác, khi kiểm tra sử dụng không có căn cứ. Nay theo biên sắc năm Hi Ninh chỉ xóa bỏ điều lệ cũ, không đặt ra quy định mới, khiến việc lập sổ không có văn bản để tuân theo, rất bất tiện. Theo kiến nghị trước đây, chỉ cần để dân tự khai báo tình hình thực tế, cho phép người khác tố cáo, là phương pháp chi tiết nhất, người giàu nghèo đều không thể che giấu, thực sự là phương pháp tốt để lập sổ.” Chiếu giao cho Ty đề cử biên tu điều lệ Tư nông tự. Người kiến nghị là Lữ Hòa Khanh, nguyên chức Úy huyện Khúc Dương, em của Lữ Huệ Khanh. Ngày 23 tháng 10 năm thứ 8, bãi bỏ việc khai báo tình hình thực tế.

Lữ Huệ Khanh viết trong bài văn khắc mộ Lữ Hòa Khanh rằng: “Khi ông làm Úy huyện Khúc Dương, gặp lúc triều đình mới ban hành pháp miễn dịch, các châu huyện khác đều không thể thực hiện, ông đầu tiên dựa vào hộ đẳng cao thấp của Khúc Dương, việc dịch nặng nhẹ, chia thành mấy bậc để đáp ứng mệnh lệnh. Định suý Lý Túc Chi rất khen ngợi, nhưng chưa kịp thực hiện thì vì tang mẹ phải từ chức. Sau khi mãn tang, lại nghiên cứu sổ thông kiểm thời Thái Tổ và các văn bản mệnh lệnh. Cái gọi là khai báo tình hình thực tế, tham khảo theo phép đại tỷ của Chu quan, soạn thành sách dâng lên, muốn dùng để quân bình tiền dịch trong thiên hạ. Gặp lúc tôi làm Tham tri chính sự kiêm quản Tư nông tự, việc này mới được thực hiện. Tể tướng Hàn Giáng nhiều lần xin ban thưởng thăng chức cho ông, nhưng ông kiên quyết từ chối, tôi cũng nhiều lần từ chối thay ông trước mặt Vua, nên cuối cùng không ban thưởng. Sau này có nhiều ý kiến khác nhau, việc tuy tạm dừng nhưng các châu huyện trên toàn quốc dùng để lập sổ đã chiếm tám chín phần mười, mà tiền dịch cuối cùng cũng nhờ đó được quân bình.” Sổ thông kiểm thời Thái Tổ, cần tra cứu thêm. Lữ Huệ Khanh được cử làm đề cử biên tu điều lệ vào ngày Ất Mùi tháng 6. 《Thực hóa chí》 chép việc Hòa Khanh dâng kiến nghị, nay phụ lục vào cuối tháng 7.

[118] Ngày Bính Thìn, chiếu rằng các phòng nếu soạn thảo hoặc sửa đổi sắc lệnh của một ty, đều phải gửi đến Pháp ty và Ty biên sắc xem xét định đoạt xong, mới được lấy chỉ ban hành.

[119] Ngày Mậu Ngọ, Trung thư đề cử Ngũ phòng công sự, Chủ khách lang trung Ngụy Hiếu Tiên nhậm chức Tri Từ châu. Ngày 22 tháng 4 năm [Hi Ninh] thứ 8, được triệu về làm Đồng đề cử Bách ty[14]. Việc này chắc chắn có nguyên nhân, có lẽ liên quan đến sự việc của Phùng Kinh.

[120] Vua phê: “Đã cử Lưu Thầm đến Hà Đông bàn với người phương Bắc về việc phân định địa giới, nay Hàn Trấn đang đi sứ, lo rằng trong trướng địch bàn luận có liên quan. Nay bàn việc này, nên lệnh cho Trấn trở về Hùng Châu, trước hết cử Vương Tuyên mang theo biên bản cuộc thảo luận về kinh sư.” 《Ngự tập》 quyển 98: Ngày 5 tháng 7 năm [Hi Ninh] thứ 8, hỏi về việc Vương Tuyên nhận chỉ dụ về kinh, đó là Thẩm Quát, không phải Hàn Trấn. Nhưng lúc này chưa cử Thẩm Quát, e rằng 《Ngự tập》 có chỗ khác với sự việc này.

[121] Vua lại phê: “Trước đây theo lời Vương Thiều tâu, ruộng hoang ở bản lộ có cỏ trắng, có thể dùng làm thức ăn cho ngựa cùng với rơm rạ. Nghe nói phía tây Đào Châu nhờ mưa nhiều, cỏ dại mọc um tùm, dân chúng bán 30 cân cỏ với giá 40 đồng, so với giá ở quan trường gấp mấy chục lần, nên lệnh cho Ty chế trí lương thảo cùng Chuyển vận ty nhanh chóng định giá, đốc thúc lại viên thu mua để hỗ trợ lương thực biên giới.” Ngày 24 có thể gộp việc này.

[122] Chiếu cho Đề cử Vĩnh Hưng quân lộ Thường bình đẳng sự, Thái thường bác sĩ Chương Tiết đi xem xét tình hình thiên tai ở Hoàn Khánh lộ, bàn bạc việc cứu tế rồi tâu lên.

[123] Ngày Kỷ Mùi, Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Thứ sử Mai Châu Thế Ân tập phong tước Sở quốc công. Thế Ân là con thứ ba của Tòng Thức. “Sở” có bản chép là “Vinh”.

[124] Chiếu cho Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận ty xem xét việc đặt ba chợ bán buôn ở cửa sông Nguyên, Cẩm, Kiềm để giao dịch với người Man có được không rồi tâu lên. Sau đó bản ty ủy cho Tri Nguyên Châu Tạ Lân đi xem xét, Lân tâu: “Đặt nơi buôn bán thì giá cả sẽ công bằng, chiêu dụ người Man Lão, những người mới quy phụ sẽ dần dần thuần phục, biên giới sẽ mãi mãi yên ổn.” Lại giao việc này cho Tam ty, lúc đó Chương Đôn đứng đầu Tam ty, cũng cho là tiện. Theo đó.

[125] Ban cấp 15 vạn cung nỏ cho Hà Bắc lộ, lệnh cho Chuyển vận ty phân phát cho các châu quân.

[126] Ngày Canh Thân, xuống chiếu cho các lộ thực hiện việc đo đạc ruộng đất và tính thuế, trong đó cỏ khô vẫn thu theo quy định cũ. Có thể gộp vào ngày 22.

[127] Ban cho Thị dịch vụ 20 vạn quan tiền lãi, giao cho Định Châu để phong trang.

[128] Lại ban cho Đô chuyển vận ty lộ Tần Phượng 2.000 tờ độ điệp cho tăng nhân, 300 tờ sắc điệp để thí giám chủ bạ, trai lang và châu trợ giáo, dùng làm vốn mua lương thực.

[129] Giang Ninh phủ xin dùng tiền dư thừa từ nha tiền để tăng cấp cho pháp ty. Nếu lại dịch nào nhận hối lộ trong khi thi hành công vụ, sẽ xử theo pháp luật của lại dịch chuyển vận ty.

[130] Ngày Tân Dậu, Kiểm chính trung thư khổng mục phòng công sự, Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý Hứa An Thế đi sát phỏng lộ Kinh Hồ, thay thế Dũ Sung.

[131] Việc tu sửa thành trì ở Dân Châu đã hoàn thành, ban tiền đặc chi cho các quân: cấm quân 500 quan, sương quân, cung tiễn thủ, phiên binh và nghĩa dũng 300 quan. Đổi ty Duyên biên an phủ sứ Dân Châu thành ty Đào Đông an phủ.

[132] Xu mật trực học sĩ, Tri Định Châu Tiết Hướng tâu: “Việc huấn luyện binh lính ở vùng biên giới, thí duyệt nghĩa dũng và bảo giáp, cần có thưởng phạt để khuyến khích họ. Hiện nay tiền trong công sứ khố không đủ chi phí, không có gì để làm phần thưởng, lại phải chiêu mộ người do thám việc cơ mật ở biên giới phía bắc. Những người được chiêu mộ không sợ bị giết chết là vì được dụ dỗ bằng vàng bạc. Nay nếu không đáp ứng được nhu cầu của họ, thì không ai dám nhận việc. Xin ban cho hơn 3 vạn quan tiền để buôn bán, dùng làm chi phí.” Xuống chiếu ban 300 tờ độ điệp cho tăng nhân.

[133] Ngày Quý Hợi, phân công các phụ thần cầu mưa ở giao miếu và xã tắc.

[134] Thượng hoàng phê: “Nghe nói ở lộ Hà Bắc có nạn châu chấu phá hoại mùa màng, nhưng các nơi phần nhiều cho rằng chưa đến mức nghiêm trọng nên không chú ý diệt trừ, hãy báo cáo tình hình theo thứ tự.” Lại phê: “Nghe nói ở các huyện như Trần Lưu, hộ nghèo đã thiếu ăn, nhưng quan huyện lại không cho dân khiếu kiện, nhiều người bị xử phạt, tình hình rất đáng lo ngại.” Bèn xuống chiếu cho các ty đề điểm, đề cử ở phủ giới Khai Phong và lộ Hoài Nam kiểm tra tình hình thiệt hại do châu chấu và hạn hán, những nơi nghiêm trọng thì báo cáo việc cần cứu tế. Ban 15 vạn thạch gạo để cứu tế thiệt hại ở lộ Hà Bắc Tây.

[135] Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh tâu: “Các điều lệ của Ty Nông bao gồm rất nhiều sự việc, xin hạ lệnh cho các lộ, bảo các quan đề cử trình bày rõ việc thi hành tân pháp ở lộ mình có điều gì nghi ngờ cần phải xin chỉ thị, hoặc có việc chưa đầy đủ, chưa tiện cần phải sửa đổi, hoặc lộ mình đã sửa đổi xong có thể áp dụng cho lộ khác, thì điều lệ cụ thể xin trình lên Ty Nông, gửi thông báo khắp các quan thuộc quyền, cũng cho phép trực tiếp trình bày ý kiến.” Ngày 17 tháng 3, Huệ Khanh làm phán Ty Nông, đã có lời tâu này, nên tham khảo.

[136] Lại nói: “Các châu huyện ở các lộ hiện đang thực hiện các việc như thường bình, miễn dịch, đinh sản, bảo giáp, nông điền, thủy lợi, đều dựa vào sổ sách để kiểm tra sự tăng giảm, hư thực, nên việc tạo lập sổ sách không thể không có quy định. Muốn lệnh cho các ty đề cử, căn cứ vào sổ sách hiện có của lộ mình, bàn cách tạo lập và phòng ngừa, trình bày mẫu đơn giản và gửi lên.” Triều đình đồng ý.

Sau đó, Huệ Khanh dâng tấu rằng: “Việc miễn dịch nộp tiền có lúc không đều, là do phép lập sổ không tốt. Theo lệnh về hộ tịch, người dân phải khai báo đầy đủ số nhân khẩu, ruộng đất, nhà cửa. Theo chiếu chỉ năm Gia Hựu, khi lập sổ, giao cho lệnh tá và hộ trưởng, ba hộ lớn ghi chép nhân khẩu, thuế sản, vật lực của dân thành năm hạng. Nhưng dân cư ở thôn quê, kỳ lão, hộ trưởng làm sao biết hết được sự giàu nghèo của họ? Nếu không bắt họ tự khai báo, thì họ không có trách nhiệm phải khai báo đầy đủ, làm sao họ tự nguyện khai báo? Lại không có chế độ thưởng, ai chịu tố giác? Vì thế, sổ cũ không thể tin cậy được, nên bắt chước ý của phép thủ thực, để dân tự khai báo tài sản. Nếu có khai man, thì áp dụng pháp thưởng cho người tố giác tài sản bị giấu giếm, như vậy mới có được sự thật. Phép thủ thực quy định khi lập sổ năm hạng, trước hết phải đưa mẫu cho dân, bảo họ làm đơn theo mẫu, nộp cho huyện ghi vào sổ, xếp hạng giá trị cao thấp thành năm hạng. Sau đó định rõ số tiền phải nộp, báo cho dân biết trong hai tháng. Nếu có ai giấu giếm tài sản không phải là đồ dùng, lúa gạo, thì cho phép tố giác, nếu đúng sự thật, sẽ thưởng một phần ba số tiền đó. Phép này quy định: ruộng đất, nhà cửa chia làm có sinh lợi và không sinh lợi, mỗi loại lập thành hạng[15], tiền mặt năm đồng tính bằng một đồng tiền sinh lợi. Tổng hợp số tiền tài sản của dân trong một huyện, lấy số tiền dịch định sẵn để chia đều. Phàm là ruộng đất, trước hết phải định giá trung bình báo cho dân biết, rồi căn cứ vào giá trị mà dân khai báo để tính tiền.” Từ đó bắt đầu thi hành phép thủ thực.

《Thực hóa chí》 quyển 2 chép việc Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh dâng tấu này, Trung thừa Đặng Oản phản đối. Xét việc thi hành phép thủ thực, 《Thực lục》 không ghi rõ năm tháng nào, chỉ chép vào ngày 19 tháng 7 năm này việc Ty Nông tự bàn luận, cũng không ghi ai là người đề xuất. Nay đã chép việc Hòa Khanh đề xuất vào ngày 19 tháng 7, lại chép vào cuối tháng 7 việc Huệ Khanh lệnh cho các lộ nộp mẫu sổ, nên lấy những điều 《Thực hóa chí》 chép về Huệ Khanh phụ vào đây. 《Thực hóa chí》 lại chép: Trung thừa Đặng Oản phản đối, thiên tử đồng ý với ý kiến đó, nên chép vào lúc bãi bỏ phép thủ thực. Phép thủ thực được thi hành vào ngày 19 tháng 10 năm thứ 7, bãi bỏ vào ngày 23 tháng 10 năm thứ 8.

[137] Chiếu cho năm lộ châu quân sửa thành xong, sai một viên Giám thừa của Quân khí giám cùng với Giám ty của bản lộ kiểm tra, trình bày rõ những việc chưa hoàn thiện, chưa thuận tiện hoặc có hại để tâu lên.

[138] Tháng đó, Ty đề điểm phủ giới Khai Phong tâu rằng huyện Hàm Bình có chim bồ câu ăn châu chấu.


  1. Theo văn dưới, nghi ngờ chữ 'thương' là sai, nên là 'thực'.
  2. Trại Định Xuyên, chữ 'Xuyên' nguyên là 'Châu'. Xét: Thời Tống không có 'trại Định Châu', trại Định Xuyên thuộc quân Trấn Nhung, xem 《Tống sử》 quyển 87, 《Địa lý chí》, 《Cửu vực chí》 quyển 3, chữ 'Châu' ở đây rõ ràng là sai, nên sửa lại.
  3. 'Giải tán' nguyên văn là 'bát', căn cứ theo sách này quyển 247, ngày Canh Dần tháng 10 năm Hi Ninh thứ 6, và quyển 194 chí về binh chế trong 《Tống sử》 mà sửa lại.
  4. Hai chữ 'lương thực' nguyên văn bị thiếu, căn cứ theo hai sách trên mà bổ sung.
  5. 'Hai' nguyên văn là 'ba', căn cứ theo hai sách trên và 《Văn hiến thông khảo》 quyển 153 chí về binh chế, cùng 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 mà sửa lại.
  6. Đến nay Hồn nghi và Phù lậu hoàn thành, 'Hồn nghi Phù lậu' nguyên bản viết là 'Phù nghi Hồn lậu', theo các bản và văn trên sửa lại.
  7. Tống Địch, chữ 'Tống' nguyên bản viết là 'Chu', căn cứ vào quyển 256, ngày Quý Sửu tháng 9 năm Hi Ninh thứ 7 trong sách này và quyển 181 Chí Thực hóa trong 《Tống sử》 mà sửa.
  8. Thần trước đây từng xin đặt chức quan giảng thuyết, chữ 'thỉnh' nguyên là 'vị', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 74 sửa lại.
  9. Hùng Bản, chữ 'bản' nguyên là 'mộc', theo bản các bản sửa lại.
  10. Cùng với việc lộ ra hàng vạn khoảnh ruộng dân 'dân', Tống sử quyển 92 Hà cừ chí, Tống hội yếu phương vực 14/25 chép là 'lương'.
  11. Đường Ấp 'Ấp' nguyên chép là 'Ba', theo bản các và Tống hội yếu sửa lại.
  12. Tằng Mân, chữ 'Mân' nguyên bản viết là 'Bách', căn cứ theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 73, sửa lại.
  13. Trước đây dựa vào thư lại cùng kỳ mục, hộ trưởng cung cấp, chữ 'kỳ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 66-39 bổ sung.
  14. 'Đồng' nguyên bản viết là 'Ty', căn cứ theo quyển 262, ngày Quý Mùi tháng 4 năm Hi Ninh thứ 8 sửa lại
  15. ruộng đất, nhà cửa chia làm có sinh lợi và không sinh lợi, mỗi loại lập thành hạng, chữ 'phân' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 177, 《Thực hóa chí》, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 73, phần thủ thực bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.