VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 256: NĂM HI NINH THỨ 7 (GIÁP DẦN, 1074)
Bắt đầu từ tháng 9 năm Hi Ninh thứ 7 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 9, ngày Bính Thân (mùng 1), sai quan làm lễ tạ mưa, lệnh cho các quan địa phương làm lễ tạ ở núi sông.
[2] Chiếu cho Ty Nông tự ghi chép các công trình thủy lợi đã xây dựng. Từ nay, triều đình phái sứ giả đi, giao cho họ điều tra thực tế, nếu có việc không đúng sự thật hoặc không phù hợp thì phải xem xét và tâu lên. Việc này do Thị ngự sử kiêm Tri tạp sự Trương Hổ đề xuất.
[3] Ban cho Dương Diễm, chức Hữu ban Điện trực, kiêm Quản câu Tu nội ty, 30 độ điệp, vĩnh viễn không phải khảo xét. Dương Diễm vốn là thợ mộc ở Hàng Châu, có tài khéo léo, mọi công trình xây dựng do Tống Dụng Thần phụ trách, Diễm đều tham gia, nên được ra vào cung cấm. Từng được lệnh tu sửa tháp Cảm Từ, sau khi hoàn thành, tự nhận đã vay tiền của quan ty tu sửa tháp hơn 9.000 quan để hoàn thành công việc, xin nộp lại tờ tuyên trát xuất thân, cầu xin ban cho tờ sắc cáo không tên để trả nợ. Vua lệnh cho Diễm đem sổ chi phí đến Trung thư và quan cũ phụ trách kho tu sửa tháp là Phó sứ Cung bị khố Lê Vĩnh Đức xác nhận số tiền đã vay rồi tâu lên, nên ban cho. Sau đó, Diễm nhờ công lao xây dựng mà được thăng chức, không bao giờ dừng lại. Sử nhà Chu chú thích rằng: Dương Diễm đâu từng ra vào cung cấm, lời này là bịa đặt. Ngày Kỷ Mùi, triều chỉ xuống cho các quan xét hỏi, đều không có căn cứ, nên xóa bỏ. Lại xóa câu “Diễm sau nhờ công lao xây dựng mà được thăng chức, không bao giờ dừng lại”, thêm vào câu “Vua dùng người, dù là người nhỏ cũng tận dụng hết tài năng của họ, ban thưởng tận tình, mỗi việc đều hợp lý, không để xảy ra sự may rủi như vậy.” Sử mới hoàn toàn theo bản cũ, nay theo đó.
[4] Ngày Đinh Dậu, Vua nói với các phụ thần: “Xưa kia từ Thang đến Trụ hơn 600 năm, dân chúng theo nhà Thương cũng đã lâu, cùng sức thì đo đức, cùng đức thì đo nghĩa, Vũ Vương dùng 300 cỗ xe chiến, 3.000 quân Hổ Bôn mà đánh bại đám đông như rừng của Trụ, việc dùng binh hành quân, nếu không có pháp chế thì không thể làm được như vậy.” Phùng Kinh nói: “Trụ tuy có 70 vạn quân, nhưng dân thiên hạ khổ vì chính sách tàn bạo của Trụ, theo về với nhân đức của Văn Vương, Vũ Vương, bởi vì đức là quan trọng chứ không phải số đông.”
[5] Chiếu cho Tri phủ Thành Đô từ nay tiến cử quan văn làm Tri châu Nhung.
[6] Lại có chiếu cho Ty chuyển vận lộ Hà Bắc Tây điều tra thực trạng các chức Thông phán ở phủ Chân Định, các châu Hình, Minh, Từ, Tương, Triệu và các chức Tri huyện, nếu không thể an định dân chúng để họ trở lại làm ăn, thì chọn quan trong bộ mình tạm thay thế, đồng thời nhanh chóng cứu tế; đối với những người thuộc Nghĩa dũng, Bảo giáp, Bảo đinh chính danh, thì ưu tiên cho vay mượn. Lúc đó, Vua nghe tin dân lưu tán ở Hà Bắc ngày ngày đi qua kinh sư không dứt, tuy đã dụ các nơi như châu Thiền v.v. thu hồi những hộ có sức lực, lệnh cho họ dời vào thành quách để an định, nhưng lo rằng châu huyện không thể hiểu rõ dụ này, nên việc di chuyển vẫn chưa dừng, do đó có mệnh lệnh này. Việc thu hồi những hộ có sức lực, xem ngày Canh Tý, nên ở trước ngày Đinh Dậu này.
[7] Tri châu Quế Lưu Di xin chiêu mộ người khai khẩn đất hoang, Trung thư Hộ phòng tâu: “Phủ Khai Phong đang chiêu mộ người khai khẩn ruộng lúa, và châu Nguyên mới đặt, có phép đồn điền, việc này tương tự như ở Quảng Tây. Xin ghi chép việc này giao cho Lưu Di, lệnh cho ông ta tham khảo thêm để đặt phép rồi tâu lên.” Vua nghe theo. Ngày 19 tháng 4 đặt châu Nguyên, phép đồn điền được nói đến chưa thấy. Bản chí cũng nói: Chương Đôn lúc đầu xây châu Nguyên, cũng đặt đồn điền vụ. Lại nữa, ngày 21 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 2, bãi bỏ đồn điền vụ ở châu Nguyên.
[8] Vua phê: “Các quân ở kinh sư thiếu ngựa, cản trở việc luyện tập, có thể lệnh cho Ty mua ngựa ở lộ Hi Hà, nếu mua được ngựa có thể cấp cho quân đến 300 con, thì sai quan đưa đi.”
[9] Ngày Mậu Tuất, Vua vì mấy ngày liền mưa dầm, vui mừng dụ các quan phụ chính rằng: “Trẫm trong cung sai người đào đất đến một thước năm tấc, đất vẫn còn ẩm ướt, như thế ắt có thể cày cấy được.” Hàn Giáng v.v. tâu: “Bệ hạ thương xót dân chúng, cầu đảo đầy đủ, tinh thành thấu đến trên, liền được cảm thông. Thần v.v. dự lễ trai Thái Nhất, trộm thấy những người làm việc hơn mười ngày chưa từng cởi đai, có thể thấy ý thánh rất thành kính, các quan tả hữu cũng không dám lơ là chút nào.” Lại dụ về việc phòng bị biên giới Hà Bắc: “Muốn chọn lọc binh mạnh ở các nơi như Đại Danh, Cao Dương, Chân Định v.v. thì không khó, nhưng người thống lĩnh thì chưa thấy. Xưa Tào Công từng nói quân của Viên Thiệu nhiều, chỉ đủ để bị bắt, các khanh nên suy nghĩ kỹ điều này.”
[10] Tri Thái Nguyên phủ, Long Đồ các trực học sĩ, Khởi cư xá nhân Lưu Tường được bổ làm Lễ bộ lang trung, tái nhiệm. Tường sau đó vì mẹ mất nên từ chức.
[11] Kinh Hồ Bắc lộ chuyển vận ty tâu: “Các châu quân và bốn lộ Xuyên Hạp thuộc khu vực tiền sắt, tội nhân đáng phải phối đến Quảng Nam, trừ những kẻ hung ác, còn lại đều phối đến Nguyên Châu, đợi khi đủ 500 người thì dừng.” Chiếu rằng trong 500 người sương quân Nguyên Châu, chiêu mộ 300 người bản thành, lấy tên là Tuyên Tiết; 200 người lao thành, cho phép thích chữ và phối tội nhân các nơi, đợi khi đủ thì ngừng phối.
[12] Chiếu cho các lộ Hà Bắc, Kinh Tây, Hoài Nam, Vĩnh Hưng, Tần Phượng chuyển vận sứ: “Gần đây mưa nhiều, nên đốc thúc quan chức khuyến khích dân chúng ra sức cày cấy. Những nông dân bị thiên tai, nếu vì nợ công tư hoặc bị giam giữ do sổ sách, đều tạm tha về làm ruộng, đợi khi gieo trồng xong thì thi hành.”
[13] Dân Châu tâu đã lập giải ngạch, xin ban sách Quốc Tử Giám, cho phép xây dựng châu học. Được chấp thuận.
[14] Ngày Kỷ Hợi, lệnh cho Kỳ vương Hạo làm Á hiến trong lễ Nam Giao, Gia vương Quần làm Chung hiến.
[15] Hoàn Khánh lộ an phủ sứ Sở Kiến Trung tâu: “Theo chiếu chỉ, vì biên giới bị hạn hán, người Hán và người Phiên thiếu lương thực, người Hạ nhân lợi dụng nạn đói này, dùng vật thưởng để dụ dỗ các hộ thục, đến hàng nghìn người kết bè bỏ trốn. Nếu không cứu giúp kịp thời, có thể dẫn đến chạy trốn, gây bất lợi cho biên phòng, giao cho thần tìm cách an định và cứu giúp. Thần từ tháng 8, mỗi hộ cấp 1 hộc 5 đấu đến 2 hộc lương, nay lại là tháng 9, mỗi hộ theo nhân khẩu hỗ trợ 300 đến 500 tiền, đến tháng 4 năm sau tổng cộng 12 vạn quan.” Trên phê: “Vừa phát lương lại cấp tiền, chi phí quá nhiều, trong lúc thiên tai, biên giới xa xôi lấy đâu ra để cung ứng? Hãy bãi bỏ việc hỗ trợ tiền. Các châu quân không thuộc biên giới, vẫn chiêu mộ các hộ thiếu lương thực vận chuyển gạo đến các thành trại biên giới, so với giá mua ban đầu không thiệt hại, quan phủ sẽ bán ra, nếu bản ty không có lương thực thì tính toán với chuyển vận sứ để mua đổi.”
[16] Chiếu cho châu Doanh sửa thành đã xong, châu Ký đang sửa, cùng các châu Thâm, Triệu, Hình giao cho Lý Tắc, các châu Ân, Tân giao cho Trần Tri Kiệm kiểm tra lại; còn lại giao cho ty Sát phỏng cử quan xét lại, xem xét quân dân trong và ngoài địa giới châu huyện, nếu có việc khẩn cấp thì vào bảo hợp sửa chữa, vẽ đồ bản tâu lên. Tri Kiệm lúc đó là Phó sứ chuyển vận lộ Hà Bắc Đông.
[17] Ngày Canh Tý, Vua bàn với các đại thần về việc phòng thủ Hà Bắc[1], Hàn Giáng nói: “Thời Hán, Đường, quân trọng yếu đều ở kinh đô, quân biên giới chỉ đủ phòng thủ. Bốn phương có biến, thì quân từ đó xuất phát, nên biên giới không tốn kém, mà mạnh gốc yếu ngọn cũng thuận lý. Từ sau niên hiệu Khai Nguyên, có việc với tứ di, quyền thần đều cai quản một phương, quân trọng yếu đều ở tây bắc, loạn Thiên Bảo là do kinh đô trống rỗng, giặc thỏa sức hoành hành.” Vua nói: “Người già ở biên giới cũng nói quân biên giới ngày nay nhiều hơn trước, tình thế như tháp Phật đảo ngược, Trẫm cũng thường nghĩ đến việc này.” Sách Binh chí ghi việc này vào đầu niên hiệu Hi Ninh là sai.
[18] Lệnh cho Thái tử Trung doãn, Hiệu khám Quán các, Thuyết thư điện Sùng Chính Lữ Thăng Khanh kiêm chức Đồng tu soạn kinh nghĩa.
[19] Vua phê: “Quân cấm ở kinh đô và Hà Bắc thường thiếu người làm việc, phủ giới và các lộ Kinh Đông Tây, Hoài Nam trước đã điều quân cấm, quân sương đến các lộ, lần lượt rút bớt về doanh trại. Các lộ gần đây đã tăng thêm quân cấm tự túc lương và quân sương được huấn luyện, lệnh cho ty Kinh lược an phủ, Kiềm hạt thường xuyên tuyển chọn bổ sung, đủ số quy định, huấn luyện tinh nhuệ, để phòng thủ.”
[20] Triệu tập các đại thần xem lúa ở vườn sau.
[21] Thượng phê: “Gần đây, dân lưu tán từ các trấn Hà Bắc như Triệu, Hình, Minhh, Từ, Tương qua kinh sư, có nhiều người giàu có và hộ khẩu. Nghe nói không phải vì thiên tai mất mùa mà thiếu ăn, chỉ vì khách hộ phần lớn đã bỏ trốn, người giàu không dám yên ổn ở quê nhà. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn dân biên giới lưu tán, sẽ rất bất lợi cho kế hoạch phòng thủ. Có thể lệnh cho các châu như Thiền Châu xem xét, nếu quả là hộ giàu có, thì tính theo đầu người cấp một phần lương thực để về quê, đồng thời ra lệnh rõ ràng, dùng tâm an ủi. Nếu ở thôn quê, khó ở một mình, thì dùng nhiều cách khuyên bảo, tạm thời dời đến các thành quách gần đó để an cư.” Ngày Đinh Dậu đã nói về việc đưa người giàu có về quê, không nên bốn ngày sau mới ban chỉ dụ, e rằng thực lục có thể đã ghi sai thứ tự.
[22] Ngày Tân Sửu, chiếu cho lộ Chân Định phủ xuất 15 vạn thạch lương thực từ kho tỉnh để bán giảm giá, cho phép dân gian dùng vàng bạc để mua, mỗi hộ không quá hai thạch.
[23] Lại chiếu cho các châu quân bị thiên tai ở phủ Khai Phong và Hà Đông, cho phép nộp đơn kiện ngoài hạn để tâu lên.
[24] Sai Tỷ bộ viên ngoại lang Vương Tuân Long đi Kinh Đông thu mua, chiếu cho ty Chuyển vận Kinh Đông lấy tiền bạc dâng lên để làm vốn mua lương.
[25] Ngày Nhâm Dần, Hộ bộ thị lang về hưu Trương Diễm mất.
[26] Ngày Giáp Thìn, An phủ sứ lộ Kinh Nguyên Vương Quảng Uyên tâu: “Dân đói lưu tán, kho lương sắp hết, tính ra một tháng cần chi 47.000 thạch. Xin ban 500 độ điệp, mượn thóc từ kho phong trang để cứu tế.” Thượng nói: “Kinh Nguyên tuy bị thiên tai, nhưng không nghiêm trọng như Quảng Uyên nói, há lại không phân biệt giàu nghèo mà cứu tế đồng loạt sao?” Sai Thái thường bác sĩ Lưu Định đi xem xét việc cứu tế, gấp rút tâu lên. Ngày 1 tháng 11, thúc giục Lưu Định.
[27] Thượng phê: “Trước đây đã ban chỉ dụ, các hàng nhân trong kinh đóng tiền miễn hành, đặc biệt miễn 1 vạn quan, theo Tôn Vĩnh đã xem xét, có thể nhanh chóng thực hiện.” Đây theo 《Ngự tập》. Tiền miễn hành 1 vạn quan, đến lúc này mới được miễn.
[28] Ngày Bính Ngọ, Vua bàn với các đại thần về phép đánh trận, nói rằng: “Binh là việc âm, chủ về sát phạt, tôn bên phải, mà dương nhiều thì thắng, như cao có thể thắng thấp, dài có thể thắng ngắn vậy.”
[29] Xuống chiếu cho cơ quan Tường định hành hộ lợi hại sở, các hàng nếu có sự khác biệt thì quy về một hàng để cung nộp, vẫn thuộc quản lý của Đô đề cử thị dịch ty.
[30] Xuống chiếu cho châu Thiền báo cáo số lượng dân lưu vong qua sông phía nam từ đầu mùa xuân. Lúc đó, dân lưu vong ở châu Thiền, châu Hình và bảy châu khác tổng cộng hơn 46.000 người.
[31] Trong cung ban ra 25 bộ đồ bàn về công thủ để ban cho Hà Bắc, lại ban ra mẫu địch lâu, gửi đến Giám quân khí để ban hành và chế tạo.
[32] Giám mục sứ Hà Nam là Lữ Hi Đạo xin chiêu mộ dân chăn dương ở Sa Uyển. Vua xuống chiếu cho Bì Công Bật xem xét nguyện vọng của dân và báo cáo lợi hại. Công Bật xin cấp 10 khoảnh đất chăn dương, chiêu mộ người cày cấy, mỗi mẫu nộp 100 tiền thuế, do Giám phong chứa, còn lại 1.000 khoảnh giao cho Sa Uyển giám chăn ngựa. Vua đồng ý. Công Bật lại xin chiêu mộ người ở kinh kỳ nộp dương, mỗi cân giá 130 tiền. Vua xuống chiếu bãi bỏ. Ngày 19 tháng 4 nhuận năm thứ 8, Công Bật mới có đề nghị này. Sử nhà Chu chép cả ở đây và ở kia, là sai. Nay chỉ chép ở đây. Phạm Tổ Vũ trong bài chí mộ Hi Đạo viết: Hi Đạo ban đầu dâng sớ về việc thuế khóa, Thần Tông bảo rằng có người muốn chăn dương ở Sa Uyển, tính toán đưa về kinh. Hi Đạo nói: “Đây là việc nhỏ, thần không dám làm phiền thiên tử.” Vua nói: “Có chuyện thời Đường.” Hi Đạo đáp: “Đường đô ở Ung, gần Sa Uyển, nay kinh sư không thể so với Ung được.” Liệt kê lợi hại, tốn mấy vạn quan tiền, Thần Tông nghe theo. Xét việc này, Hi Đạo là người không muốn chăn dương, khác với thực lục, cần xem xét lại.
[33] Ngày Đinh Mùi, Lang trung bộ Ngu là Du Sĩ Long, Viên ngoại lang bộ Chức phương là Trịnh Thứ đều được thăng một chức, bổ làm Tri châu. Vì trước đây giám sát việc thu thuế ở Thị dịch vụ có lợi tăng lên.
[34] Tu soạn Sử quán là Tống Mẫn Cầu dâng sách 《Phiên di triều cống lục》, tổng cộng 21 quyển, theo yêu cầu của Lý Bình.
[35] Tư nông tự tâu: “Gần đây, huyện Tường Phù dẫn các bảo giáp vào yết kiến, có người tự xin được thi võ nghệ, tuy đã ban ơn, nhưng lo rằng về sau sẽ có nhiều người bắt chước, từ nay ai dám tự xin, dù võ nghệ đạt yêu cầu cũng phải cách một lần mới được thi.” Vua nghe theo.
[36] Có quan phụ chính tâu nên đặt chức phó cho các tướng súy, Vua nói: “Người ta thường ghen ghét người tài, nếu để họ tiến cử người mình biết, thì chỉ chọn những kẻ kém hơn mình, chứ không có lòng thành thực lo việc triều đình.” Lữ Huệ Khanh nói: “Kinh Thi có câu: ‘Chu viên tư tuân’, mỗi lần lo nghĩ đều không kịp, người xưa coi việc vương sự là tâm như vậy.” Vua nói: “Thánh nhân lấy ý kiến của người khác để làm điều thiện, lời nói của người nào có thể làm được thì nên làm ngay, cần gì phải hỏi.” Phùng Kinh nói: “Vua Thuấn từ làm ruộng, làm đồ gốm, đánh cá, đến khi lên ngôi, không gì là không lấy từ người khác.” Vua nói: “Dùng lời người khác cũng khó, chỉ có Vua Thuấn là bậc đại thánh nên mới làm được như vậy. Trẫm mỗi khi xử lý việc nhỏ, trong lòng đã hiểu rõ, thì lời nói đúng sai lập tức phân biệt được, đó là lý do người xưa coi trọng việc biết lời nói.”
[37] Ra chiếu rằng: “Trước đây chia hai lộ Đông và Tây của Lưỡng Chiết, nay các cơ quan tâu rằng việc cung ứng tiền lương phần lớn ở Chiết Tây, cùng việc thủy lợi đều ở các châu Tô, Tú, nếu chia ra tất sẽ thiếu sót, nên không chia lộ nữa.” Việc chia lộ vào ngày Quý Tỵ tháng 4, bản Chu bỏ đi bản Mực, là sai. Việc chia lại lộ vào ngày Bính Dần tháng 5 năm thứ 9.
[38] Ngày Mậu Thân, ra chiếu rằng các quân sương, cấm đang làm dịch vụ, từ nay tạm miễn dịch, chuyên tập võ nghệ.
[39] Đặt sáu chỉ huy Giản Trung, Bảo Ninh ở phủ Phượng Tường với ba nghìn người, chuyên lo việc tu sửa thành trại ở Hi Hà.
[40] Ban cho nội tàng khố mười vạn quan tiền, hai mươi vạn thạch lương sao ở Hà Bắc giao cho Tây lộ chuyển vận ty, để thương nhân nộp vào.
[41] Các cửa ở phía nam thành Thanh Thành, phía trước gọi là Thái Nhân, phía sau gọi là Củng Cực, phía đông gọi là Thừa Hòa, phía tây gọi là Nghênh Hi, chính đông gọi là Tường Hi, chính tây gọi là Cảnh Diệu. Cửa phụ phía đông gọi là Dần Minh, phía tây gọi là Túc Thành. Cửa điện gọi là Đoan Thành, phía trước đông và tây gọi là Tả Gia Đức và Hữu Gia Đức. Điện nhỏ gọi là Hi Thành. Cửa vườn gọi là Bảo Hoa. Trước đây, tên các cửa điện ở Thanh Thành đều do các học sĩ tạm thời soạn dâng lên, đến nay sai Trung thư tham định ban tên, làm thành quy định vĩnh viễn.
[42] Sát phỏng sứ Hà Bắc Tây lộ Thẩm Quát tâu: “Gần đây có chỉ, lệnh cho các chuyển vận sứ Lưỡng Chiết lộ mỗi người phụ trách một châu về việc thủy lợi đợt thứ hai, chuyển vận ty tâu rằng có điều bất tiện. Thần ở bản lộ, cùng các giám ty bàn bạc suốt nửa năm, Vương Đình Lão chưa từng nói có điều bất tiện, nay lại có sự khác biệt, xin được xem xét.” Chiếu rằng việc thủy lợi đợt thứ hai, trừ những nơi không thể tiến hành, đều bắt đầu từ những chỗ thấp, ruộng trung và cao không được đắp đê như nhau, lại lệnh cho Đình Lão trình bày rõ sự khác biệt trước sau để tâu lên.
[43] Chiếu cho Lưu Thầm và Tiêu Sĩ Nguyên hội với Tiêu Tố và Lương Dĩnh ở Đại Hoàng Bình, vì Lữ Đại Trung đang để tang cha nên không đến. Ngày 25 tháng 3, Thầm và các người nhận mệnh. Ngày 27 tháng 4, Đại Trung xin giao việc phân định địa giới cho Hàn Chẩn. Đây là sự việc ghi trong thực lục. Đại Trung sau đó xin nghỉ về Vĩnh Hưng quân thăm cha bệnh, hẹn gặp Lưu Thầm ở Thái Nguyên, Thầm khởi hành ngày 7 tháng 6. Cha Đại Trung qua đời, sau khi chôn cất, chiếu cho Đại Trung mặc tang phục đến Đại Châu bàn bạc kín với Thầm. Ông đến Đại Châu vào ngày 20 tháng 10. Đây là căn cứ theo tập của Đại Trung.
[44] Ban đầu, Tố giữ chức Bình chương sự, muốn ngồi chính diện hướng nam, tự nói rằng sứ thần Bắc triều giữ chức Tể tướng có nghi lễ ngồi như vậy trong miếu, còn lại thì xếp theo thứ tự quan chức mà ngồi, lại muốn dùng đôn để phân biệt cao thấp. Thầm và những người khác đều không theo, gửi văn thư chất vấn, từ tháng 7 đến tháng này. Việc này được báo lên, mới nhận được lời nói của Quốc tín sở: “Năm Chí Hòa nguyên niên, Quốc tín sứ Tiêu Đức giữ chức Bình chương sự, cùng với sứ tiếp đón ở quán, khi ngồi trên ngựa đều phân biệt chủ khách để báo cáo.” Tố và Dĩnh bèn không dám tranh cãi nữa. Văn cũ nói rằng bèn lấy lễ chủ khách mà gặp nhau, nay sửa lại là bèn không dám tranh cãi. Sách 《Xu mật thời chính ký》 ngày 5 tháng 10 chép: Tố và Thầm cùng nhau gửi văn thư qua lại mấy chục lần. Việc này được báo lên, Quốc tín sở tra xét đến chuyện cũ của Tiêu Đức, viết tráp gửi cho Thầm và những người khác. Thầm và những người khác gửi điệp cho Tố, xin chỉ theo thứ tự ngồi đã bàn ngày 6 tháng 9, sớm hẹn ngày gặp mặt. Tố bị bẽ mặt, bèn theo lễ chủ khách mà gặp nhau. Việc bàn ngày 6 tháng 9, chính là lễ gặp mặt chủ khách. Việc gặp mặt thì diễn ra sau ngày 5 tháng 10, và đến cuối tháng 12.
[45] Ban đầu, triều đình ra chiếu cho Lưu Thầm cùng người phương Bắc hội nghị, về đền Thiên Trì và chân núi Hoàng Ngôi đã có bằng chứng rõ ràng, có thể dùng lý lẽ để thuyết phục. Còn các địa giới khác nếu không thể thương lượng được, thì lấy khoảng giữa các trạm canh phía nam và bắc làm đất không canh tác; nếu vẫn không được, thì cho phép lấy khoảng giữa làm ranh giới, nếu khoảng giữa không có đất trống, thì lấy phía ngoài trạm canh làm ranh giới. Việc này diễn ra vào ngày Mậu Thân tháng này, tức ngày 13. Sau đó, Lý Thuấn Cử tâu: “Gần đây đến trạm thám thính xa, nhìn từ xa về nơi hội nghị ở Đại Hoàng Bình, thấy rõ địa hình, hỏi người phòng thủ, họ nói muốn lấy thẳng Đại Hoàng Bình và Hoành Đô Cốc làm ranh giới, dựng trạm canh. Sứ giả đang ở trong nước, lại nghe tin sẽ cử sứ giả đi lần nữa, biết mình không có lý, nên cố tạo thanh thế. Thần đoán địch có ý định nhất định đạt được điều mình muốn trong hội nghị, nếu không gặp mặt, chỉ dựa vào việc dời trạm canh theo vị trí cũ, thì hội nghị hay không cũng như nhau. Nếu lo sợ việc đứt giao hảo gây hấn, thì chắc chắn không phải ở đây. Nếu muốn nhượng bộ theo ý họ, thì không bằng để địch tự chiếm đất vô cớ, đợi khi binh lực và lương thảo của ta đã chuẩn bị đủ, rõ ràng lỗi thuộc về họ rồi mới lấy lại. Triều đình nếu quan tâm đến biên giới, cần phải có chủ trương rõ ràng, như năm trại cấm địa Đại Thạch, nên đòi lại bằng lý lẽ, vẫn giữ cửa ải để phòng thủ giao thông, hoặc tạm thời dùng kế sách kiềm chế.”
Triều đình bèn ra chiếu bãi bỏ chỉ thị ngày Mậu Thân tháng 9. Nhưng sau đó cuối cùng vẫn nhượng bộ hoàn toàn. Các ngày Bính Thân mùng 2, Nhâm Tuất 28 tháng 11 năm này, Nhâm Thân mùng 10 tháng 2 năm sau, Canh Tý mùng 8, Ất Dậu 17 tháng 3, Bính Dần mùng 5 tháng 4, đều cần tham khảo.
Theo 《Thực lục》: Ngày Bính Dần tháng 4 năm Hi Ninh thứ 8, sứ Liêu là Tiêu Hi từ biệt. Ban đầu, triều đình cử Lưu Thầm và Tiêu Sĩ Nguyên đến Hà Đông biện luận về biên giới, còn Khiết Đan cũng sai Tiêu Tố và Lương Dĩnh họp ở biên giới. Lưu Thầm vì bệnh không đến ngay, lại cử Lữ Đại Trung thay Tiêu Sĩ Nguyên. Tiêu Tố và Lương Dĩnh tỏ ra cứng rắn, không chịu gặp Lưu Thầm. Một hôm, quân Khiết Đan dẫn hơn vạn người vào địa giới Đại Châu, đốt trạm canh, bắn tên với quân triều đình. Sau đó, Tiêu Tố và Lương Dĩnh thẳng vào Hoành Đô Cốc, dựng trướng, mời Lưu Thầm đến gặp, nhưng Lưu Thầm không đi. Họ lại muốn đặt trại ở Tây Hình Đông Cốc, Lưu Thầm cho rằng địa giới bị xâm phạm quá sâu nên không đồng ý, cuối cùng họp ở Đại Hoàng Bình, gặp nhau ba bốn lần nhưng không thể quyết định được ranh giới. Ban đầu, họ chỉ vào đê đất ở dãy núi phân thủy ba châu Uất, Ứng, Sóc làm ranh giới, Lưu Thầm cùng Tiêu Tố và Lương Dĩnh đi xem xét thì không thấy đê đất, nên chỉ nói lấy dãy núi phân thủy làm ranh giới. Vì núi nào cũng có dãy phân thủy, nếu nói chung chung lấy dãy phân thủy làm ranh giới, thì đến lúc đó có thể chiếm đoạt, đó là ý đồ xảo quyệt của địch. Sau khi kéo dài việc đàm phán với Lưu Thầm, họ lại cử Tiêu Hi đến.
Quân Khiết Đan dẫn hơn vạn người vào địa giới Đại Châu, đốt trạm canh, bắn tên với quân triều đình. Sau đó, Tiêu Tố và Lương Dĩnh thẳng vào Hoành Đô Cốc, dựng trướng, mời Lưu Thầm đến gặp, nhưng Lưu Thầm không đi. Họ lại muốn đặt trại ở Tây Hình Đông Cốc, Lưu Thầm cho rằng địa giới bị xâm phạm quá sâu nên không đồng ý, cuối cùng họp ở Đại Hoàng Bình. Những việc này nên ghi vào tháng 9 năm thứ 7, không nên tách ra tháng 4 năm thứ 8, cần xem xét kỹ và sửa chữa. Phạm Dục viết 《Tiết Hướng hành trạng》, chép rằng: Tiết Hướng dâng mật tấu, xin cho Lưu Thầm hoãn lại, để làm hao mòn quân địch. Vua nghe theo kế của Tiết Hướng, quân địch hết lương, bèn rút đi.
[46] Ngày Kỷ Dậu, Lý Thừa Chi, Kiểm chính Trung thư ngũ phòng công sự, Công bộ Viên ngoại lang, Tu soạn Tập Hiền điện, được cử làm Sát phỏng sứ Hà Đông.
[47] Ban cho Ty Đề hình Hà Đông một nghìn tấm độ điệp tăng nhân mặc áo tía để lo liệu tiền lương, phân phát cho các châu quân thiếu thốn trong khu vực quản hạ.
[48] Kinh lược ty Hi Hà tâu: “Các quan lo việc quân nhu trong việc thu phục Hà Châu, Đào Châu, xin được ban thưởng theo hạng ba, hạng tư.” Chiếu giảm thời gian khảo hạch, miễn thi, bổ nhiệm không kể thứ bậc, tổng cộng hai mươi hai người.
[49] Vua phê: “Các Kinh lược ty năm lộ Thiểm Tây xem xét các thành, lũy, trại dọc biên giới, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ phòng thủ, không được để lỡ việc biên phòng.”
[50] Ngày Canh Tuất, mượn một triệu quan tiền từ kho Nội tàng, giao cho Ty Chuyển vận Hà Bắc để phong trang.
[51] Lại ra chiếu cho các quan coi việc chăn nuôi ở Tần Phượng, Nguyên Châu, Vị Châu, Trấn Nhung, Đức Thuận quân, hễ có ngựa của bộ lạc đến thì nhận ngay, không được tự tiện sai người đi chiêu dụ.
[52] Ngày Tân Hợi, Quần mục ty tâu: “Ngoài số ngựa dự trữ không dùng đến và ngựa bệnh trong các trại nuôi, từ nay lấy hai nghìn con làm mức, còn lại những con có thể dùng cho quân đội và các việc lặt vặt, tạm thời cấp cho quân sĩ thiếu ngựa.”
[53] Ra chiếu cho các châu Hình, Lạc, Từ, Tương, Triệu và quân Thành Đức, thuế hạ năm nay được tạm hoãn thu.
[54] Ra chiếu cho Ty Chuyển vận Kinh Đông, dùng tiền thuế thượng cung đổi lấy thóc, phong trang rồi chở bằng đường thủy đến Hà Bắc.
[55] Ra chiếu cho vợ con Triệu Tư Trung được mặc y phục người Thổ vào chầu.
(Xem ngày 21 tháng 6.)
[56] Ra chiếu cho Giả Xương Hoành và các quan coi việc Thị dịch, từ nay có việc công thì được phép dâng tấu trực tiếp lên điện.
(Theo 《Ngự Tập》.)
[57] Ngày Nhâm Tý, sai Lý Bình, Đông thượng các môn sứ, Thứ sử Vinh Châu, tạm quyền cùng coi việc Tam ban viện. Bình từ đây mới được trở lại, nên ghi chép đặc biệt.
[58] Ty Nông tâu: “Những người được Vua ban sắc khen thưởng và con cháu các đế vương đời trước được hưởng ân điển theo pháp luật, tiền dịch phải nộp theo lệ quan hộ; những người được ban hiệu xử sĩ không phải do kỹ thuật cũng theo lệ này.” Đều được chấp thuận.
[59] Lấy Ty Mãi mã ở Tần Châu thuộc Ty Mãi mã Hi Hà lộ, lại lấy Thông phán Tần Châu kiêm coi việc chăn nuôi, cuối năm tính số ngựa chuyển đi.
[60] Ty Đô đề cử tại kinh thị dịch tâu rằng: “Xin bãi bỏ việc so sánh ban ơn cuối năm của các quan đề cử trong ty, còn các quan giám thì theo quy định thưởng cũ. Các việc mua bán, trao đổi đều theo giá thị trường cao thấp, không được định giá. Những vật phẩm cần cấp cho Tam ty để biến chuyển thì theo giá do Tam ty định. Dân nếu muốn dùng tài sản thế chấp để vay mua bán, mỗi năm trả lãi hai phần, tính lãi theo tháng thì cho phép.” Được chấp thuận.
[61] Vua thấy các lộ bị hạn hán, Ty Thường bình chưa thể cứu tế, bèn dụ các quan phụ chính rằng: “Các kho thường bình trong thiên hạ, nếu lấy một nửa phát tiền lấy lãi, một nửa giảm giá bán ra[2], khiến hai việc như cán cân nương tựa nhau, không được thiên lệch, như thế dân chắc được hưởng ơn. Nay các quan cố chấp thi hành phép mới, chỉ muốn phát tiền, còn quy chế cũ của kho thường bình thì không ai đốc thúc. Phàm phép tắc đời trước có điều gì khả thi thì nên cẩn thận giữ gìn, nay không hỏi lợi hại thế nào, cứ nhất loạt thay đổi, há hợp lý sao?” Đây là chép theo bản mực, bản son theo đó. ý thánh của Thần Tông, từ đây có thể thấy. Ngày 26, Vua phê có thể tra cứu.
[62] Ngày đó, ba ty bị cháy, từ giờ Tỵ đến giờ Tuất mới dập tắt, thiêu hủy 1.080 gian nhà, hồ sơ giấy tờ gần như hết sạch. Triều đình ra chiếu cho ba ty tạm làm việc ở Thượng thư tỉnh. Chu Định Quốc trong 《Tục quy điền lục》 chép rằng: Vào niên hiệu Hi Ninh, có người dâng kế sách nấu rượu liên hoàn, một cửa mà ba nồi, một cửa dùng củi, ba nồi cùng sôi, dùng củi đã tiết kiệm, gọi là phép thiêu tỉnh. Dùng phép đó truyền khắp thiên hạ. Phép này vốn là lợi ích nấu muối ở Ba Thục, nước nóng nhanh chóng lấy được. Thực tế chỉ sôi một nồi mà thôi, nấu rượu rốt cuộc không thể dùng được, nhưng các nơi chỉ truyền phép thiêu tỉnh[3]. Đến khi ba ty bị cháy hơn nghìn khu nhà, trong một ngày mà hồ sơ còn lại không đáng kể, mới biết “thiêu tỉnh” là lời sấm về tai họa của ba ty, há phải ngẫu nhiên sao! Phép liên hoàn, theo 《Nhật ký》 của Tư Mã Quang, là do Kinh đông đề hình Vương Cư Khanh dâng lên, đã chú thích vào ngày Tân Dậu tháng 12 năm thứ 4, cần xem xét kỹ hơn.
[63] Lại ra chiếu cho quyền Ngự sử trung thừa kiêm học sĩ, thường tham dự chính nha khởi cư, đều đứng ở ban trung thừa, còn thứ tự xếp hạng thì theo học sĩ. Vì Trực học sĩ viện Đặng Oản và Chương Đôn tranh luận về thứ tự ban nên có lệnh này. Ngày Nhâm Tý tháng giêng năm thứ 8, ban hành lệnh riêng.
[64] Ngày Quý Sửu, ra chiếu cho Tân tri Thường châu, Quốc tử bác sĩ Lữ Gia Vấn, Giám thị dịch vụ thượng giới, Chức phương viên ngoại lang Lưu Tá, Tây đầu cung phụng quan Ngô Chân Khanh đều thăng một chức, Câu đương công sự, Tu Thành huyện úy Lưu Huýnh làm Phụng lễ lang, mỗi người giảm thời gian khảo hạch ba năm; các quan lại khác thăng chức theo thứ tự, ban thưởng tiền có khác nhau. Vì ba ty xét lại lợi nhuận khóa thuế của thị dịch vụ thượng giới, so với năm thứ 6 tăng hơn mười vạn quan tiền.
[65] Đề cử Vĩnh Hưng, Tần Phượng lộ giao tử Tống Địch chế định pháp lệnh giao tử Vĩnh Hưng, Tần Phượng lộ. Ngày 26 tháng 6, Địch lấy chức Tri Bân châu làm Đề cử, nay đổi làm Chế trí. Ngày 21 và 26 có thể tra cứu.
[66] Chiếu rằng các sứ thần thuộc tam ban, khi gặp ngày lễ Đồng Thiên, từ chức Cung phụng quan đến Điện trực, cho phép tùy nghi đóng góp tiền để dâng bạc và làm sớ công đức ở đạo trường, cử sứ thần quản lý việc tổ chức tiệc chay. Bởi trước đây thường thu tiền lương của sứ thần để chi vào các khoản phù phiếm, khiến người ta khổ sở, nên có lệnh này.
[67] Chiếu rằng các lộ Hà Đông, Tần Phượng, Vĩnh Hưng thuộc Đô tổng quản ty, ngoài việc quản lý quân mã theo chỉ huy riêng, thì tại phủ Khai Phong, cùng các lộ Hà Bắc, Kinh Đông, Kinh Tây, đặt 37 chức tướng và phó, chọn những đại sứ thần từng trải qua chiến trận để chuyên trách huấn luyện. Hà Bắc gồm 4 lộ, đánh số từ 1 đến 17; phủ Khai Phong từ 18 đến 24; Kinh Đông từ 25 đến 33; Kinh Tây từ 34 đến 37. Đây là theo đề nghị của Thái Đĩnh. Việc bàn về địa giới Vân Trung với địch lâu ngày không quyết định được, Thái Đĩnh xin triệu hồi toàn bộ quân đồn trú dọc biên giới Hà Bắc, tỏ ra không có việc gì, đồng thời tích trữ lương thực biên giới, nhân đó cải cách chế độ, đặt chức tướng chính và phó, đều cấp hổ phù. Lại vì quân Hà Bắc huấn luyện không đúng phép, khi cấp bách không đủ dùng, nên tâu xin chọn quan binh ở Thiểm Tây để huấn luyện. Ngày 12 tháng 6 năm thứ 6, lấy 62 chỉ huy Vũ vệ Kinh Đông, phân sai chủ binh quan điều động huấn luyện[4]. Xét thấy lúc này đã có quy mô đặt tướng. Ngày 24 tháng 8 có thể tra cứu.
[68] Ngày Giáp Dần, Vua bảo các quan phụ chính rằng: “Những việc biên phòng mà các khanh dâng lên, trước hãy chọn ra mười bốn việc có thể thi hành được[5], lại bàn với Viện Xu mật, e rằng còn có việc chưa xét hết.” Sau đó, hai phủ hợp tấu xin thi hành mười bốn việc.
Thứ nhất, các quan sứ thần lớn nhỏ từng lập công xuất trận mà chưa được thăng chức, nếu có nhiều công trạng hoặc một lần lập công xuất sắc, cùng những người nổi tiếng thì xếp hạng nhất, còn lại xếp hạng nhì, xin chỉ thăng dụng, xét tài năng thực tế.
Thứ hai, các quan sứ thần đang nghỉ việc, quân viên bị giáng cấp dưới sáu mươi tuổi, võ nghệ trung bình, tinh thần không suy, cho phép nộp đơn tự tiến cử, quan địa phương khảo nghiệm, nếu có thể chiến đấu thì bảo đảm tâu lên.
Thứ ba, lệnh cho các ty An phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Sát phỏng thẩm định tài năng, mưu lược của các tướng dưới quyền, xem xét khả năng ứng phó lúc nguy cấp, trong đó người có tài nhưng đang giữ chức vụ thấp thì có thể thăng chức, hoặc đổi chỗ người đang giữ chức quan trọng với người đang giữ chức nhàn; văn thần có dũng lược có thể làm tướng, không phân biệt lộ, đều bí mật tâu lên.
Thứ tư, gần đây ban xuống ba trăm độ điệp cho ty An phủ châu Định để chi phí huấn luyện nghĩa dũng, bảo giáp và mộ người do thám. Các châu quân biên giới nên theo lệ châu Định, cấp một số vốn sinh lãi, sai người dụ dỗ người phương Bắc biết việc nước họ, hoặc giữ người thân của họ, sai họ dò hỏi tên họ, tài năng, tính cách, số quân, võ nghệ mạnh yếu, nơi đóng quân, thành lũy lớn nhỏ, lương thực nhiều ít và đường xuất quân của các tướng lĩnh chủ chốt bên địch, dò cho chính xác, lần lượt tâu lên. Khi có thông tin đối chiếu chính xác, biên soạn thành sách để chuẩn bị sử dụng. Các quan biên giới không làm được, sai người đi do thám trước sau đều không có thông tin thực tế, sẽ bị giáng chức.
Thứ năm, ở Hà Dương đặt riêng năm đến bảy chỉ huy thủy quân, đóng thuyền tập trận để phòng địch vượt sông.
Thứ sáu, đã có kế hoạch phòng thủ kiên cố, nên có biện pháp thanh dã. Các huyện dựa vào số nghĩa dũng, bảo giáp và đinh khẩu, ghi vào sổ. Châu đó bí mật ước tính số người, đến lúc chia vào châu thành và huyện lớn, làm riêng một sổ, lệnh cho ty Nông tự theo điều ước tạo sổ đinh sản của Viện Xu mật trước đây, biên soạn thành một bộ.
Thứ bảy, phía tây thành Bắc Kinh có cát thấp, đã kiểm tra và định hạn tu sửa các cửa nước trên dưới, cầu chiến hộ cửa và tường dẫn hai bên chưa cao chắc, xem xét tăng cường, đặt lầu canh và đồ phòng thủ.
Thứ tám, phía nam sông lớn châu Vệ, gần kinh kỳ, là nơi trọng yếu phòng thủ, thành nhỏ, cùng thành Lê Dương cũng là nơi hiểm yếu, chưa thể bao bọc núi làm chỗ vững chắc, nên mở rộng tu sửa, lúc nguy cấp đóng quân phòng ngừa kẻ địch vượt qua.
Thứ chín, chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu xuất trận, giao cho sứ Sát phỏng cùng các ty An phủ các lộ xử lý việc phòng thủ và tâu lên.
Thứ mười, xem xét mở rộng hào thành và tăng cường xây dựng thành huyện, vì thành lớn mà người ít hoặc thành nhỏ mà người đông, theo phép đều không thể giữ được, nên trước hết tính toán số hộ khẩu trong châu, trừ số người bảo vệ huyện trại ra, còn bao nhiêu người bảo vệ châu; binh dân trừ số lên thành ra trận ra, có thể chứa được bao nhiêu; nếu có thêm người từ nơi khác đến, chứa không hết thì mở rộng, không để quá lớn, dẫn đến khó phòng thủ. Việc tăng cường xây dựng thành huyện, cần các châu quân phối hợp với nhau, vì bốn lộ súy phủ phân quản các châu quân, thế lực nên liên kết như mạng lưới, khi giặc đến, có thể hỗ trợ nhau, phối hợp tác chiến, kiên cố phòng thủ và xuất chiến, đều hợp thời cơ, khiến địch lo sợ cả trước lẫn sau, thế lực tự tan rã, xây dựng như vậy thì không uổng công sức.
Mười một, khi có cảnh báo, thanh dã phòng địch, dân chúng chở lương thực, củi, gia súc vào thành luỹ, cùng tích trữ đồ phòng thủ và phân chia bộ phận. Trong lúc vội vàng, thường lo không có cách xử lý, nên tính toán nhà cửa công tư và đất trống, phân phối cho dân ở và sắp xếp đồ đạc, nếu có người không đủ sức, quan phủ thuê người chở, gửi, cấp phát. Những việc như vậy, nên bàn bạc trước về việc phòng thủ, nghiên cứu pháp chế xưa nay, cân nhắc tình hình, trình bày điều kiện lên triều đình. Mười hai, nên biết rõ đường đi lại của địch, chiếm địa lợi trước để đặt doanh trại, đào hào rãnh, dùng lợi dụ dỗ, khiến chúng phải đi theo. Và những nơi có thể đặt phục binh, nên biết trước địa hình cao thấp, dòng nước chảy về đâu, như chặn hoặc khơi dòng nước nào có thể tràn vào nơi nào, nếu sợ địch dùng, thì phòng thủ hoặc tránh ở đâu, đều phải bàn bạc vẽ bản đồ trình lên.
Mười ba, đất Hà Bắc sản xuất có hạn, từ kinh đô chuyển tiền của đi mua nhiều, làm giá cả tăng cao, mà chi phí đã nhiều. Nên cấp một triệu thạch gạo tẻ để dự trữ, hàng năm trong kho Biện cấp phát ứng phó; lại lệnh Kinh Đông chuyển vận ty căn cứ số tiền thừa từ thuế hoặc tiền lãi rượu, mua thóc, đậu nhỏ ở các châu quân có đường thủy, tính toán thuyền xe, bộ binh chở về Hà Bắc, phân phát đến các nơi tích trữ. Và ở Kinh Tây lộ dọc sông Thái, cũng cấp tiền mua, tính toán chở về kinh nhập kho Biện, chỉ tính tiền mua, phí vận chuyển, so với giá mua thường bình ở địa phương không đắt thì mua, giảm số lượng mua ở biên giới, có thể hạ giá hàng hóa, tích trữ nhiều lương thực, để giảm gánh nặng biên cương. Việc mua bán ở Kinh Đông Tây lộ, giao cho quan chuyên trách xem xét thực hiện. Chiếu đều thi hành. Mười bốn, việc đặt thủy quân ở Hà Dương không thực hiện, lại lệnh Xu mật viện ở Đăng châu tăng chiêu binh thuyền chiến đao ngư, tập hợp luyện tập, chuẩn bị sai phái.
[69] Chiếu rằng đã chọn sai sứ thần dạy quân ngựa, tất cả các việc nghệ thuật cần dạy, nên lệnh cho Tăng Hiếu Khoan, Trương Thành cùng với Hác Chất, Cổ Quỳ nhanh chóng xem xét định đoạt rồi tâu lên. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 quyển 73, ngày 19 tháng 9 năm thứ 7, tờ chiếu tay. Việc dạy quân ngựa bắt đầu từ đây. 《Thực lục》 không ghi chép, nay bổ sung ghi lại. Từ ngày Canh Ngọ tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10 về sau, đến ngày Mậu Thân tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6, đều nên tham khảo.
[70] Chiếu đặt một viên quan câu đương công sự ở Kinh lược ty Hà Đông, đợi khi việc biên giới yên ổn thì giảm bỏ, theo lời xin của Kinh lược sứ Lưu Tường. Tường lại xin cấp 20 vạn quan tiền để sửa chữa các thành gần biên giới và quân khí, chiếu cho Sát phỏng ty xem xét rồi tâu lên.
[71] Kiểm chính trung thư ngũ phòng công sự Lý Thừa Chi tâu: “Văn tự sổ sách của Tam ty gần như bị đốt cháy hết, các lại dịch ở ngoài nhân đó mà giấu giếm, hủy bỏ các án kiểm. Xin hạ lệnh cho các lộ, tất cả các án kiểm văn tự từ năm Hi Ninh thứ 5 về sau, giao cho các châu huyện lập tức giám sát, bắt các lại dịch kiểm tra lấy, niêm phong cất vào giá các, kê rõ số lượng rồi báo lên Ty đề cử trướng. Các lại dịch, căn cứ vào các văn tự sổ sách và sổ sách gốc mà mình quản lý, mở ra kiểm tra, thu thập các danh mục, hạn trong ba ngày. Các phán sứ tính toán tỷ lệ, cùng với tình hình ngọn lửa trước sau, báo lên Trung thư xem xét, thu hồi và số lượng bị cháy, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà thưởng phạt; nếu dám giấu giếm hoặc cố ý hủy bỏ, lập tức cho kiểm tra, báo lên, cho phép người khác tố cáo, kẻ phạm tội bị xử theo luật vi chế, tình tiết nặng thì bị thích chữ và đày đi, người tố cáo được thưởng 300 ngàn tiền.” Đều theo lời tâu.
[72] Chiếu rằng: “Tam ty điểm kiểm biên soạn sổ sách văn tự, liệt kê số lượng thất lạc và việc thu hồi không đủ, đều phải tâu lên Trung thư hoặc Xu mật viện, giao xuống các ty kiểm tra ghi chép rồi báo cáo, trong ngoài đều phải tấu trình. Việc liên quan đến Tam ty chưa được báo cáo; cùng các nơi nhận chỉ huy của Tam ty để khám xét việc, chưa tâu trình; dù đã tâu trình nhưng chưa thi hành chỉ huy, phải kết thúc trong vòng: hạn trong năm ngày phải tâu lên Trung thư hoặc Xu mật viện, nguyên văn tâu trình Tam ty thì phải tâu trình Tam ty ngay. Những việc trên đều lệnh cho bản ty lập sổ quản lý, dám có giấu giếm, sẽ bị xử tội vi chế. Những việc đang thi hành, nếu chưa thấy điều lệ, đều phải xem xét nghị bàn rồi thi hành. Nếu việc lớn, phải tâu lên Trung thư hoặc Xu mật viện. Các việc do Tam ty bị cháy, văn án không đầy đủ, dám lừa dối để chiếm đoạt tài sản công tư và tăng giảm công tội, sẽ bị xử tội vi chế, nếu tính tang vật nặng sẽ bị xử tội uổng pháp.”
[73] Ngày Ất Mão, Tri chế cáo, Trực học sĩ viện Chương Đôn được quyền phát khiển Tam ty sứ, chiếu cho Đôn tuyển cử phán quan, không làm lệ. Tam ty bị cháy, Đôn lúc đó đang làm Phán quân khí giám, liền dẫn binh sĩ dưới quyền đi cứu, Vua lên lầu hỏi ai là người cứu hỏa, tả hữu trả lời là Đôn, Vua vui mừng.
[74] Chiếu rằng: “Tướng tác giám kiểm kế nền móng Tam ty, phân bố sửa chữa, trừ Phó sứ, Phán quan không đặt ngoài đường, còn lại sửa như cũ. Mua nhà dân, mở rộng đất đai. Gỗ dùng, lệnh cho Hi Hà chặt vận chuyển, giao cho Đô chuyển vận sứ Hùng Bản, Đề điểm hình ngục Trịnh Dân Hiến quản câu.”
[75] Chiếu cho quyền Tam ty sứ, Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc học sĩ Nguyên Cương bãi chức Thị độc học sĩ, cách chức Tam ty sứ; Diêm thiết phó sứ, Hộ bộ lang trung Trương Vấn làm Tri châu Quắc; Phán quan, Kim bộ lang trung Lý Đoan Khanh, Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lí Hàn Trung Ngạn làm Thông phán quân, đều giáng một chức; Hộ bộ phó sứ, Thái thường thiếu khanh Giả Xương Hoành, Độ chi phó sứ, Hình bộ lang trung Tôn Thản, cùng các Phán quan, Kiểm pháp, Đề cử trướng, Câu viện… tổng cộng mười hai người, đều phạt ba mươi cân đồng; Chế trí Vĩnh Hưng Tần Phượng lộ giao tử, Ty phong lang trung Tống Địch, Giám Tam ty môn, Nội thị điện đầu Lý Thế Lương, đều bị tước hai chức và cách chức. Ban đầu, Địch đến Tam ty bẩm báo công việc, nhưng người đi theo để lửa cháy ở sảnh cũ của Diêm thiết, khiến Tam ty bị cháy, nên Địch bị cách chức. Cương và những người khác, cùng các quan chịu trách nhiệm cứu hỏa, đều bị lệnh cho Ngự sử đài điều tra tội trạng và tâu lên.
[76] Chiếu rằng từ nay, khi gặp yến tiệc lớn, các Thân vương, Tông thất, Sứ tướng, Xu mật sứ phó, Tuyên huy sứ, Tam ty sứ, Phụ mã đô uý, đều được ban rượu và thức ăn ở màn ngoài cửa điện. Theo chế độ cũ, rượu được ban ở hành lang sau điện Tập Anh, thức ăn được ban ở sảnh Tứ thực, nhưng quyền phát khiển Tuyên huy viện Ngô Sung tâu rằng quá ồn ào, nên đổi lại.
[77] Ngày Bính Thìn, Tri chế cáo Thẩm Quát kiêm Phán quân khí giám, thay thế Chương Đôn.
[78] Tri châu Đồng, Độ chi lang trung Triệu Chiêm quản câu Thiểm Tây chế trí giao tử. Chiêm có mộ chí để khảo cứu. Ngày 18, Tống Địch chế trí, ngày 26 nói rằng không thể thực hiện.
[79] Tri châu Lộ, Hùng Vũ quân lưu hậu Quách Quỳ làm Tri phủ Thái Nguyên.
[80] Thanh Hải quân Tiết độ suy quan, Giám Ung châu Điền Nãi Kim Khanh Đặng Tịch được làm Trứ tác tá lang, vì năm đó thu được vàng trị giá mười vạn quan tiền. Năm năm sau, lại thu được vàng trị giá mười lăm vạn quan tiền, được thăng làm Thái thường bác sĩ. Khi đó, Kinh lược an phủ ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Khanh này sản xuất vàng rất nhiều, xin cho ty này cử hai sứ thần làm Giám áp, Tuần kiểm kiêm Giám khanh, và trước hết thăng một bậc. Khi mãn nhiệm, nếu không thiếu hụt chỉ tiêu, thì theo lệ của sứ thần trại Hoành Sơn. Lại xin tăng thêm ba trăm quân phòng thủ.” Được chấp thuận.
[81] Chiêu mộ dân lưu tán ở Kinh Tây để hưng công, cấp tiền lương, người già, trẻ nhỏ, bệnh tật thì tính theo đầu người mà cấp gạo.
[82] Đặt Thiên Khánh quán ở Hi Châu, mỗi năm cho hai đạo sĩ tu hành, cấp ba khoảnh đất thường trú.
[83] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho Chức phương viên ngoại lang, Quyền phát khiển Tử Châu lộ Chuyển vận phó sứ Lý Tủng được giữ chức Giám đương sai khiển; Quyền tri Lô Châu, Chức phương viên ngoại lang Lý Man bị cách chức; Binh mã kiềm hạt Tử Quỳ lộ, Văn tư sứ Trương Thừa Hữu, Cung bị khố phó sứ Tôn Trọng Đạt, mỗi người bị truất hai chức và cách chức. Vì tội để giặc Di ở Lô Châu quấy nhiễu biên giới mà không chống cự được. Ngày 6 tháng 4 năm thứ 6, bốn người cùng bị xét xử.
[84] Ngày Kỷ Mùi, chiếu rằng từ nay phái võ thần làm Tri châu quân, đều phải ban sắc.
[85] Chiếu cho các huyện thuộc phủ Khai Phong bị thiên tai mất mùa từ năm phần trở lên, tạm ngừng việc duyệt xét bảo giáp.
[86] Tuần kiểm đô giám Giới Hà, Cung bị khố phó sứ Quách Dần bị giáng một chức. Dần vâng chiếu tiến cử sứ thần Hữu ban điện trực Trương Lượng giỏi cung mã, nhưng Lượng tự nhận mình xuất thân từ lại tư, vốn không giỏi cung mã, nên bị trách phạt.
[87] Ngày Tân Dậu, Vua phê rằng: “Tiền và thóc trong kho thường bình ở các lộ, những năm gần đây tuy dùng phép Thanh miêu của Thiểm Tây mà sinh lợi không ít, nhưng hơn bảy phần đã phát ra cho dân. Nếu gặp lũ lụt, hạn hán cần cứu tế, hoặc khi triều đình cần dùng gấp, thì khó thu lại ngay. Nay các lộ đều bị thiên tai, kế hoạch năm tới rất đáng lo. Nếu không xử lý nhanh, e rằng các châu huyện không tính toán kỹ số tiền đã phát ra, tiếp tục phát không ngừng, dẫn đến thiếu hụt. Nên lập tức chỉ đạo các châu huyện ở các lộ, căn cứ vào số tiền thóc hiện có, thường để lại một nửa, mới được phát tiếp. Những hộ đã được miễn thuế, không được phát thêm.”
(Tư Mã Quang trong 《Ký văn》 chép: Tô Duyễn nói: “Nội thị Lý Hiến vì giận Vương An Thạch (tức Giới Phủ) đã bãi bỏ việc nam chinh của mình, bèn tâu rằng tiền Thanh miêu hại dân. Vua dùng lời phê trong cung để bãi bỏ, nhưng An Thạch cố chấp không nghe. Trước đó, các châu huyện thu tiền Thanh miêu, sứ giả đốc thúc phải phát hết mới thôi, quan phủ không còn dự trữ. Đến nay, có chiếu để lại năm phần, đó là do Lý Hiến đề xuất.” Việc Thanh miêu chỉ phát một nửa[6], là do chỉ dụ ngày 26 tháng 9 năm thứ 7, giống với 《Ngự tập》 và 《Thực lục》. 《Ký văn》 chép có thể sai. Có lẽ Lý Hiến giận Vương An Thạch ngăn cản mình đi Hi Châu, nên mới nói thế. Lúc đó An Thạch đã rời chức, Vua nghe theo lời Hiến, Tô Duyễn nhầm tưởng là bãi bỏ việc nam chinh. Việc nam chinh là sự kiện thời An Thạch trở lại chức vụ. 《Bản chí》 chép: Vua nói với các đại thần: “Tiền thường bình phát ra thu lãi, bán thóc giá rẻ[7], mỗi thứ dùng một nửa, khiến hai việc như cán cân nương tựa nhau, không được thiên lệch, thì dân được hưởng lợi.” Bèn hạ chiếu về tiền thóc thường bình… Phần sau giống với lời phê trong 《Thực lục》, nhưng rất sơ lược, nay chú thích ở đây. Ngày 17, Vua dụ các đại thần… có thể tham khảo. Ngày 9 và 22 tháng giêng năm thứ 9, cùng ngày 7 tháng Nhuận Giêng năm Nguyên Phong thứ nhất[8] có thể tham khảo. “Thường để lại một nửa”, ngày 22 tháng giêng năm thứ 9 lại nhắc đến điều này, có lẽ việc Tư Mã Quang nghe “Lý Hiến đề xuất” thực ra là chỉ việc này.)
[88] Chiếu lập hai chỉ huy ở phủ Thành Đô và lộ Tử Châu, ba chỉ huy ở lộ Lợi Châu và lộ Quỳ Châu để huấn luyện quân đội. Lúc này, quân Đông đóng ở Xuyên Hạp đã phần lớn trở về doanh trại.
[89] Chiếu cấp 20 vạn quan tiền Chiết Nhị cho lộ Vĩnh Hưng Quân để chuyển giao cho Ty Chuyển Vận các lộ Tần Phượng mua lương thảo và làm vốn lưu thông tiền Giao Tử. Sau đó, vì tiền Giao Tử không có tiền thực, pháp lệnh không thể thi hành nên bãi bỏ. Sách mực ghi chép như vậy, sách son theo đó. Ngày 27 tháng giêng năm thứ 9[9], bãi bỏ lưu hành tiền Giao Tử. Ngày 26 tháng 6 năm nay, cùng ngày 18 và 21 tháng 9, ngày 29 tháng 2 năm thứ 8, ngày 27 tháng giêng năm thứ 9, đều nên tham khảo. 《Thực Hóa Chí》 chép: Đã lấy Bì Công Bật và Hùng Bổn phụ trách việc tiền Giao Tử[10], lại lấy 1 triệu quan tiền trong kho nội phủ[11] cho Tam Ty, sai lại viên Thị Dịch đi bốn lộ mua giấy phép muối, và Tam Ty lại lệnh cho lộ Tần Phượng, Vĩnh Hưng lấy 1,8 triệu làm hạn ngạch muối. Cùng với 《Triệu Chiêm Mộ Chí》 đều có thể tham khảo.
[90] Ngày Nhâm Tuất, ban tên Giản cho hoàng tử thứ năm.
[91] Chiếu cho các châu quân bị thiên tai ở Hà Bắc ngừng mua thóc, đồng thời lệnh cho Ty chuyển vận trình bày về số tiền lương hiện có và được ban tặng, xem có thiếu hụt gì không để tâu lên. Trước đó, Ty chuyển vận lộ Tần Phượng xin đặt giám ở Tà Cốc, phủ Phượng Tường để đúc tiền Chiết Nhị. Đô chuyển vận sứ Thái Diên Khánh tâu: “Huyện Mi, phủ Phượng Tường dùng đồng thiếc đúc tiền Chiết Nhị đều giòn xấu, nếu đúc tiền Đương Ngũ, Đương Thập thì có thể dùng được.” Chiếu đều bãi bỏ việc này. Việc này căn cứ theo quyển 6 《Thực hóa chí》, không rõ thời gian, vì bản chí này phụ theo lời tấu xin của Ngô Trung Phục, Bì Công Bật trước đó. Xét theo 《Thực lục》, tháng 8, ngày Mậu Thìn, chiếu bãi việc đúc tiền Chiết Nhị bằng đồng thanh giáp thiếc ở huyện Mi, phủ Phượng Tường, vì tiền đúc thành xâu liền vỡ. Nay gộp vào đây. Việc bãi đúc ở Tà Cốc, có lẽ đã thấy trước đó, nên giữ một bỏ một.
[92] Lúc bấy giờ, phép đúc tiền ở Quan Trung có nhiều tệ nạn, An phủ sứ lộ Vĩnh Hưng quân Ngô Trung Phục xin lấy 40 đồng tiền để mua một cân tiền xấu, mỏng, kém chất lượng, nhằm khiến dân chuyên dùng tiền lớn đúc theo mẫu tỉnh, nhưng tiền lớn lại ít, không đủ dùng, xin đem số tiền xấu mua được đổi hết sang đúc tiền lớn, còn tiền lớn tư nhân đang lưu hành thì lấy một đồng tiền đồng nhỏ để mua rồi đúc lại. Chuyển vận sứ các lộ Vĩnh Hưng quân Bì Công Bật xin mua hết tiền xấu, và không thực hiện việc đổi tiền sắt. Các cơ quan trước đây thu nhận tiền giả, xin trước tiên đổi đúc tại năm giám đúc tiền đồng của bản lộ, trong một năm có thể hoàn thành, lại xin đổi đúc số tiền xấu đã mua. Đô chuyển vận sứ lộ Tần Phượng Hùng Bản tâu: “Việc mua tiền xấu và cấm tiền lớn đang lưu hành cũ, đổi tiền đồng đều không tiện. Xin ban xuống mẫu tiền cho các nơi thuộc quyền, và cấm dùng tiền xấu, người vi phạm xử theo pháp luật. Không bỏ tiền đang lưu hành cũ[12], chọn tiền xấu trong kho quan, cùng với số đã mua đổi đúc, thay đổi mẫu một chút, làm thành ‘Hi Ninh Trọng Bảo’. Hiện nay tiền quan của bản lộ nhận tiền tư đã nhiều, tiền đúc theo mẫu tỉnh bỏ lâu ngày, trong trăm phần công tư chỉ còn một hai. Nay dù lấy 40 đồng đổi được một cân tiền giả, và một ngàn tiền đồng đổi một ngàn tiền sắt loại hai, nhưng thực chất một cân tiền sắt chỉ đáng một cân sắt, một ngàn tiền là sáu cân sắt, một cân sắt là 20 đồng tiền, mà đổi bằng một ngàn tiền đồng, quan mất nhiều lắm. Hơn nữa tiền nhiều, một năm chưa đổi đúc xong. Vả lại dân bán một ngàn tiền được 250 đồng tiền lớn loại hai, chỉ đổi được một nửa, lại cấm tiền lớn đang lưu hành, thì trong lúc dân bị thiên tai, số tiền họ có, bốn phần mất ba, lấy gì cứu giúp?”
Mọi người bàn luận không thống nhất, do đó, chiếu cho các ty xem xét lợi hại rồi tâu lên. Việc này căn cứ vào quyển 6 《Thực hóa chí》. So với sách thực lục ghi chép khá chi tiết[13], nên dùng. Ngày 11 tháng 12, ngày Giáp Tuất, Hùng Bản tâu, lại hạ lệnh cho các ty xem xét.
[93] Ngày Quý Hợi, ban chiếu cho các cơ quan An phủ, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục và Đề cử ty thuộc lộ Vĩnh Hưng quân phải báo cáo chi tiết về tình hình dân lưu tán và trộm cướp không đúng sự thật. Trước đó, các cơ quan An phủ v.v. tâu rằng: “Trong lộ này, hai vụ lúa mạch thu hoạch kém, dân thiếu ăn, dân lưu tán đã chiếm tám chín phần mười, trộm cướp hoành hành ngày càng nhiều.” Triều đình sai Hùng Bản điều tra, Hùng Bản tâu rằng không có việc trộm cướp lớn, nên mới có chiếu chỉ này.
[94] Quyền phát khiển Lưỡng Chiết chuyển vận phó sứ Trương Tịnh tâu: “Thể lượng quan ty thi hành phép muối có mười việc sai sót, trong đó ba việc do Lô Bỉnh phát hiện đã được điều tra, ngoài ra ở Việt Châu có việc mẹ giết con vì tiền thưởng giám sát muối; lại có các huyện ven biển, bắt người cùng bảo ở châu huyện khác, xin giao cho Lộ chuyển vận ty xét xử quan lại. Ty Diêm sự vi phạm pháp luật, hàng tháng so sánh lợi nhuận, trách phạt, giam cầm chuyên phó.” Chiếu cho Hoài Nam Tây Lộ chuyển vận ty xét Lô Bỉnh tâu lên. Sau đó tấu đến, Bỉnh phạm tội công, bị đánh sáu mươi trượng, được ân xá. Sai Tịnh thể lượng, vào ngày Bính Thìn tháng 5.
(《Lữ Huệ Khanh nhật lục》: Ngày 28 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 8, trình tấu việc Trương Tịnh xin tránh Lô Bỉnh, Vua nói: “Hắn xin chuyển đến Kinh Đông Tây một lộ, hoặc giải chức về kinh, chỉ là muốn triều đình biết.” Mọi người đều nói: “Đúng vậy.” Tôi nói: “Chỉ cần bệ hạ xem xét, sẽ thấy rõ. Lô Bỉnh oán hận chúng thần, đến mức khóc lóc trước mặt người khác.” Vương Khuê nói: “Hàn Giáng lúc đó muốn thay thế hắn.” Vua nói: “Bỉnh quả có việc quá đáng.”
Tôi nói: “Thẩm Quát vừa từ Chiết Trung về, chắc chắn đã tâu với bệ hạ những việc bên ngoài. Đoán xử hình danh một lần đến mấy nghìn người, đây là do Thẩm Quát ghi lại. Việc mẹ giết con ở Việt Châu là do Tạ Cảnh Ôn xử, Quát điều tra, giận Trương Tịnh thể lượng không đúng. Ngu Thái Ninh bàn việc Lô Bỉnh, chỉ ở Minh Châu có bảy tám việc vi phạm, tuy Bỉnh gửi văn thư cho Thái Ninh xét xử, nhưng Thái Ninh vừa tâu lên huyện về bảo giáp, Bỉnh ba ngày sau đến huyện Thái Ninh, tìm việc khác, liền bãi bỏ công việc của Thái Ninh, rõ ràng là giận vì việc tâu bày đó. Thái Ninh nói Bỉnh đặt ra quy chế cho châu huyện, các án muối đã xử đều phải tâu lên ty theo quy chế, có tâu theo quý, tháng, tuần, thời, hoặc ty có việc công, quan kiểm pháp điểm kiểm. Đến tội đồ, lưu, phối đều không điểm kiểm, người đã chết và bị lưu, phối đều truy thu tiền thưởng từ gia đình. Chỉ trong ngày 1 tháng 8 năm thứ 6, đã bắt giữ hơn trăm quan viên, xử phạt hơn tám trăm lại dịch, việc này đều có chứng cứ, nếu giao cho Bỉnh phân tích, chắc chắn không xong.
Nhưng chúng thần vì Bỉnh cũng thu được nhiều lợi nhuận, mà việc này đang khiến trong ngoài muốn phá hoại phép mới của triều đình, nên không thể không tạm bảo toàn hắn. Vì vậy chỉ trong việc thể lượng của Tịnh, chọn một việc so sánh chuyên phó hàng tháng để xét hắn. Nhưng Bỉnh một lộ thêm nhiều hình danh, rất không tốt, lại Bỉnh khoan dung tội hà khắc, nghiêm cấm việc buông tha, nên châu huyện tự nhiên hướng theo như vậy. Như Trương Tịnh tự nói thu được lợi nhuận nhiều như Bỉnh, chưa biết thực hư, nếu đúng là thật, mà không có việc vi phạm pháp luật như vậy, thì đáng khen.” Vua nói: “Nếu vậy thì phải thưởng.”
Ngày 9 tháng 7 năm thứ 8, Lô Bỉnh từ Hoài Đông đề hình được bổ làm Phát vận phó sứ, Tịnh lúc đó đang làm Lưỡng Chiết vận phó, nên xin tránh. Ngày 25 tháng 10, vì việc của Trương Nhược Tế, Trịnh Ưng mà bãi chức. Nay phụ chú lời Huệ Khanh ở đây ngày 28 tháng 9 năm thứ 7, cần tra cứu thêm. Việc của Ngu Thái Ninh, nên cùng tra cứu.)
[95] Chiếu cho Trung thư, Xu mật viện trình bày số lượng ân điển ban cho dân nghĩa dũng được điều động trong nhiều năm ở Thiểm Tây, Hà Bắc, Hà Đông. Số lượng cuối cùng là bao nhiêu?
[96] Chiếu cho Tam ban viện, các sứ thần trong và ngoài nếu có người bắn được cung lực tám đấu trở lên, thạo cưỡi ngựa và sử dụng vũ khí, thì người trong ban được phép nộp đơn xin thi thông qua bản ban[14], đợi khi đủ mười người thì chuyển đến quân đầu dẫn kiến ty để khảo nghiệm, sẽ được dẫn kiến[15]; các sứ thần ở ngoài nộp đơn thông qua bản châu quân, giao cho tri châu, thông phán, binh quan cùng khảo nghiệm[16], nếu đạt tiêu chuẩn[17], trước tiên báo lên.
[97] Tháng này, đặt trại Đãng Xương thuộc châu Dân[18].
[98] Chiếu cho các quan chức từ Lưỡng chế trở lên, nếu có công việc cần cùng tâu lên, thì cho phép cùng lên điện.
- chữ 'thượng' nguyên bản thiếu, theo bản trong các sách bổ sung ↵
- Một nửa giảm giá bán ra, chữ 'bán' nguyên là 'mua', theo bản trong các sách sửa lại. ↵
- mà các nơi chỉ truyền phép thiêu tỉnh, chữ 'chỉ' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung ↵
- 'Quan' nguyên là 'Quản', theo các bản và quyển 245, tháng 6 năm Hi Ninh thứ 6, ngày Giáp Thân sửa lại. ↵
- trong 《Tống hội yếu》 binh chương 28, mục 13 không có ba chữ 'mười bốn việc', nghi là thừa ↵
- Chữ 'bán' (nửa) nguyên bản viết là 'niên' (năm), căn cứ vào các bản khác và văn cảnh sửa lại. ↵
- Chữ 'thiếu' (bán) nguyên bản viết là 'địch' (mua), căn cứ vào các bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'chính' (Giêng) nguyên bản viết là 'ngũ' (năm), căn cứ vào các bản khác và quyển 287, ngày Nhâm Ngọ tháng Nhuận Giêng năm Nguyên Phong thứ nhất sửa lại. ↵
- Nguyên bản ghi 'tháng ba', căn cứ vào các bản khác và quyển 272, ngày Giáp Thân tháng giêng năm Hi Ninh thứ 9 sửa lại ↵
- Nguyên bản thiếu chữ 'dĩ', căn cứ vào các bản khác và 《Tống Sử》 quyển 181 《Thực Hóa Chí》, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 76 bổ sung ↵
- Các sách khác ghi là 2 triệu ↵
- Không bỏ tiền đang lưu hành cũ, chữ 'bỏ' dưới nguyên có thêm chữ 'hết', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 76, Tiết Hướng đốc trí Thiểm Tây diêm sao mà bỏ. ↵
- So với sách thực lục ghi chép khá chi tiết, chữ 'so' nguyên là chữ 'đây', theo sách trên mà sửa. ↵
- 'nộp đơn' hai chữ nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 tuyển cử 25/10 bổ sung ↵
- 'sẽ được dẫn kiến' trong sách trên có thêm năm chữ 'nếu lời trình không sai' và chữ 'nghị' dưới chữ 'đương', chỗ này nghi là thiếu ↵
- 'nộp đơn' hai chữ nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- trong sách trên dưới chữ 'cách' có thêm bốn chữ 'chưa được phái đi', chỗ này nghi là thiếu ↵
- 'châu' nguyên bản viết là 'xuyên', theo bản khác sửa. Xét: trại Đãng Xương thuộc châu Dân, xem 《Tống sử》 quyển 87 địa lý chí, 《Cửu vực chí》 quyển 3 ↵