VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 262: NĂM HI NINH THỨ 8 (ẤT MÃO, 1075)
Bắt đầu từ tháng 3 năm Hi Ninh thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa hạ, tháng tư, ngày Quý Hợi, Vương An Thạch tâu với Vua rằng: “Khiết Đan không đáng lo, Tiêu Hi đến đây chỉ là việc nhỏ, mà bệ hạ liên tục mở Thiên Chương, triệu tập các quan chấp chính, lại thu gom xe, trâu, lừa, la, mua nhiều cỏ và lương thực ở Hà Bắc, sự náo loạn hiện rõ ở vùng Giang, Hoài, thì Hà Bắc, Kinh Đông cũng không thể không biết, Khiết Đan sao lại không biết? Thần e rằng Khiết Đan sẽ lợi dụng cơ hội này để dò xét ta, đòi hỏi không ngừng.” Vua nói: “Hiện nay Trung Quốc chưa có cách nào đối phó với Khiết Đan, nên phải làm như vậy.” An Thạch nói: “Chính vì chưa có cách đối phó với Khiết Đan nên không nên làm như vậy. Phàm hạ mình để làm cho địch kiêu ngạo, có khả năng mà tỏ ra không có khả năng, là để dụ địch. Nay chưa muốn dụ địch, sao lại nên hạ mình để làm cho địch kiêu ngạo, tỏ ra không có khả năng? Hơn nữa, Khiết Đan là nước chia rẽ, sao có thể đại cử để gây hại cho ta? Hiện chưa muốn hành động, nên tạm thời giữ hòa hiếu.”
Vua nói: “Khiết Đan đâu dễ đối phó, với võ công của Sài Thế Tông, chiến thắng được là nhờ lúc đó Vua họ là Thụy Vương.” An Thạch nói: “Bệ hạ không phải là Thụy Vương, chúa Khiết Đan không phải là Sài Thế Tông, vậy bệ hạ sao lại lo lắng quá mức? Lo lắng quá mức thì sự nhụt chí sẽ lộ ra ngoài, làm nhụt chí Trung Quốc mà tăng khí thế của kẻ địch.” An Thạch lại nói: “Không nên thỏa mãn mọi yêu cầu của Tiêu Hi, thỏa mãn mọi yêu cầu thì hắn về sẽ được thưởng, như vậy là mở đường cho bề tôi Khiết Đan mưu tính Trung Quốc để cầu thưởng, không có lợi cho Trung Quốc.” Lại nói: “Kẻ địch mạnh thì thờ phụng, yếu thì thôn tính, ngang sức thì giao hảo. Nên giao hảo mà lại thờ phụng thì sẽ bị khinh nhờn, bị khinh nhờn mà không chịu nổi thì sẽ tranh chấp, tranh chấp thì sẽ gây họa, nên nói rằng tỏ ra yếu quá là cách để gây chiến.”
Tuy nhiên, mưu kế thực sự của An Thạch là chủ trương bỏ đất, dù lời đối đáp có vẻ như vậy, cuối cùng cũng không thực hiện được. Sách 《Văn kiến lục》 của Thiệu Bá Ôn chép: “Khiết Đan tranh chấp địa giới Hà Đông, Hàn Kỳ, Phú Bật, Văn Ngạn Bác đều tâu xin không nhượng bộ. Khi Vương An Thạch lại làm tể tướng, một mình nói ‘muốn lấy thì trước hết phải cho’, dùng bút vẽ bản đồ, sai Hàn Trấn nhượng hết, bỏ đất đai hơn năm trăm dặm từ đông sang tây. Hàn Trấn theo ý chỉ của An Thạch, so với Lưu Thầm, Lữ Đại Trung thật đáng hổ thẹn. Sách 《Long Xuyên biệt chí》 của Tô Thị cũng chép: An Thạch nói đất đai nhỏ bé không đáng tranh, triều đình đang bố trí các tướng ở Hà Bắc, sau này lấy lại không khó. Căn cứ vào đây, thì việc bỏ đất thực sự là mưu kế của An Thạch. 《Nhật lục》 ngày mùng 2 tháng 4 chép lời đối đáp, lại nói rằng không nên thỏa mãn mọi yêu cầu của Tiêu Hi, khác với ghi chép của Tô, Thiệu, nghi ngờ là Thái Biện sau này thêm vào, không phải lời đối đáp ngày đó, nay tạm giữ lại, nhưng ghi rõ mưu kế thực sự của An Thạch, để đời sau có thể tra cứu. 《Gia truyền》 của Lữ Huệ Khanh chép lời bàn của Huệ Khanh, cũng giống với An Thạch, nay chú thích vào ngày Bính Dần, Tiêu Hi vào từ biệt, hợp lại để khảo cứu.”
[2] Lại phong Mã quân phó đô chỉ huy sứ, Lợi Châu quan sát sứ Giả Quỳ làm Chiêu Tín quân lưu hậu, Phụng Nhật tả sương đô chỉ huy sứ, Triều Châu thứ sử Tôn Cát làm Bành Châu đoàn luyện sứ, Phụng Nhật tả sương đô chỉ huy sứ, Đạt Châu thứ sử Trương Trung làm Văn Châu đoàn luyện sứ. Quỳ và những người khác vì cứu hỏa ở Tam ty không kịp thời nên bị giáng chức, đến nay được phục chức.
[3] Ngày Giáp Tý, Vua phê: “Quân khí giám mới chế tạo quân khí, mẫu mã tuy nhiều nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng, triều đình thỉnh thoảng cần dùng nhưng phần lớn không có sẵn. Có thể lệnh cho tính toán xác định những vật dụng còn thiếu ở ba nơi thuộc Hà Bắc, chỉ chế tạo một số ít, những thứ vô dụng thì không được phung phí tài lực.”
[4] Lại phê: “Lưu Thầm cùng những người khác xem xét địa giới, vẽ bản đồ không kỹ lưỡng, hãy báo cáo chi tiết để trình lên.” Vua ban đầu rất giận Lưu Thầm, Vương An Thạch nói: “Bản đồ vẽ không rõ ràng, đó là lỗi của Lữ Đại Trung, Lưu Thầm không có tội.”
(Lời đối đáp của Vương An Thạch, theo thực lục là việc ngày mồng 2. 《Ngự tập》 nói là không kỹ lưỡng, thực lục nói là không đến mức xác thực, nay theo 《Ngự tập》. Trong sách thệ ước hai triều có tờ chiếu của Vua gửi cho Hàn Chẩn và những người khác, trong đó có một tờ liên quan đến Lưu Thầm, nay chú thích ở đây, cần xem xét thêm.
Tờ chiếu viết: “Hôm nay triều đình đã ban xuống văn bản, các khanh hãy trình cho Tiêu Hi xem, có thể đọc trước cho hắn nghe ý chỉ của thánh thượng về việc vẽ bản đồ, để hắn thuận theo mà tiếp nhận. Nay Tiêu Hi đã kiên quyết lấy dãy núi phân thủy làm ranh giới, các khanh nếu theo những điều sau đây mà phân tích rõ ràng từng việc, thì địch nhân tự nhiên không còn lời gì để tranh cãi, việc phân định biên giới sẽ được quyết định.
Một, đất Lý Phúc Man và ổ Ngoã Sằn, hiện đã chia cắt cho phương Bắc, chính là dãy núi phân thủy, không còn gì để tranh cãi.
Hai, trại Nhạn Môn, nay đã dời lùi các trạm ngựa Nghĩa Nhi và ba trạm nhỏ, đỉnh núi đó chính là dãy núi phân thủy, đã chia cắt, không còn gì để tranh cãi.
Ba, vùng Tây Kính, từ trạm thám sát thứ nhất đến thứ năm và dãy núi Bạch Thảo Phố, chính là dãy núi phân thủy.
Ban đầu triều đình ta lấy Trường Liên Thành làm ranh giới, thì dãy núi phân thủy là vùng đất gần bên trong, nay đã lấy thẳng dãy núi phân thủy từ Bạch Thảo, Viễn Thám, chiếu theo tường thành cổ mà chia cắt cho phương Bắc, tức là đã dùng dãy núi phân thủy để phân định xong, còn chỗ nào có dãy núi phân thủy nữa? Ta e rằng các khanh chưa hiểu ý này, còn nghi ngờ rằng Ngưu Đầu, Tuyết Sơn chiếu theo là dãy núi phân thủy, nên bảo vệ nhiều phía, khiến địch nhân sinh nghi. Xét theo ba lần văn thư quốc tín, ý của phương Bắc vốn không đến mức này, đều là do Lưu Thầm và những người khác mê muội nói bậy. Ngày 23 tháng 4.”
Xét: Ngày 23 tháng 4, Tiêu Hi không còn lý do ở lại kinh sư, ngày tháng này chắc chắn sai, hoặc là ngày mồng 2, hoặc là ngày mồng 3 tháng 4, tạm ghi lại. Trong sách thệ ước hai triều còn có hai tờ chiếu gửi cho Lưu Thầm[1], không rõ là năm tháng nào, nay tạm chú thích ở đây, cần xem xét kỹ hơn.
Một tờ viết: “Ngày 13 tháng này, giờ Thân, theo lời báo của Lý Thuấn Cử ghi lại tờ trình của Tiêu Tố và những người khác, đại ý nói rằng không thể để họ hòa hợp thương lượng, và nói rằng đã nhiều lần sai người đến bàn bạc, nhưng không được hồi đáp. Xét rằng ngày 12 tháng này đã có chỉ dụ của triều đình, lệnh các khanh nhanh chóng gặp gỡ, hòa hợp thương lượng, cho phép lấy khoảng giữa các trạm hai bên làm ranh giới. Các khanh hiện đang tuân theo chỉ dụ, thương lượng đúng đắn, đừng tin vào những kẻ tiểu nhân may mắn, nóng nảy, nông cạn, làm bậy, khiêu khích địch nhân, gây ra mối họa lớn. Việc quốc gia hệ trọng, không giống việc nhỏ, nếu vì thế mà gây ra chuyện, đừng nói triều đình không có lời răn dạy trước, đến lúc đó, các khanh một mình e rằng không gánh nổi trách nhiệm.” Gửi Lưu Thầm và những người khác.
Tờ thứ hai viết: “Lý Chiêu Hồi và những người khác là võ tướng thô lỗ, không lượng được thể thống quốc gia, một mực cậy mạnh làm càn, rất bất tiện, nên nghiêm khắc răn dạy, lệnh mỗi lần gặp Tiêu Tố và người của họ, phải giữ lễ độ, lời nói ôn hòa cẩn trọng, tiếp đón bằng lòng vui vẻ, thì dù địch nhân muốn lấn át ta, cũng phải giảm bớt một nửa. Những viên chức mà Tiêu Tố sai đến bàn bạc, các khanh cũng nên tiếp đãi tử tế, đừng để mất thể diện, nhục mạ, chỉ cần mệnh quan tiếp đãi ưu ái, bày tiệc rượu, khiến họ vui lòng, thì mọi việc sẽ dễ dàng.” Gửi Lưu Thầm và những người khác.)
[5] Chiếu rằng: Thị dịch và trà trường ở Hi Hà lộ thuộc về Kinh lược ty, thuế muối rượu và khai mỏ thuộc về Đô chuyển vận ty của Tần Phượng lộ; nếu Đô chuyển vận ty thiếu tiền, cho phép mượn tiền lãi ròng từ Thị dịch của Kinh lược ty để ứng phó. Theo lời thỉnh cầu của Tri Hi Châu Cao Tuân Dụ và các quan.
[6] Vua bàn với Vương An Thạch về việc quản lý tài chính. An Thạch nói: “Chỉ cần xem xét kỹ lưỡng, không để kẻ tiểu nhân gây trở ngại, khiến người tài sẵn lòng hết sức phục vụ bệ hạ, thì việc tài chính hoàn toàn có thể quản lý được.” Vua nhắc lại lời của Tăng Hiếu Khoan, cho rằng để hai người cùng làm việc sẽ chỉ gây cản trở lẫn nhau, không bằng giao phó cho một người chuyên trách. An Thạch nói: “Nếu dùng lẫn kẻ tiểu nhân, thì chắc chắn sẽ gây rối cho người quân tử; nhưng nếu đều là người quân tử, thì dù có nhiều người cùng làm việc, cũng sẽ hỗ trợ nhau hoàn thành công việc.”
Lại bàn về việc ở Hà Bắc, An Thạch cho rằng chiêu mộ binh lính không bằng dùng dân binh, mua gạo không bằng phát triển nông nghiệp. Trước đây, khi An Thạch ở Giang Ninh, từng nói rằng binh lính ít, xin chiêu mộ thêm. Vì thế, Vua nhắc lại để hỏi, An Thạch nói: “Hiện nay quân Sương quả thật ít, quân Cấm cũng không nhiều, nhưng cần sớm huấn luyện dân binh, khi dân binh thành thục thì nên giảm việc chiêu mộ binh lính.”
Vua nói: “Quân Cấm toàn là kẻ vô lại đi đầu quân, không thể so với nông dân, thu nhận hết bọn vô lại rồi nuôi dưỡng hậu hĩnh, lại ban bổng lộc cao, tước vị trọng để nuôi dưỡng thủ lĩnh của chúng, đó chính là cách để ngăn chặn loạn lạc.” An Thạch nói: “Thần khi ở Hàn Lâm, từng bàn rằng quân Kình không thể bãi bỏ hoàn toàn, nhưng cần có dân binh để chế ngự. Nếu chỉ dựa vào quân Kình, thì họa loạn cuối đời Đường, Ngũ Đại sẽ lại hiện ra. Hơn nữa, quân Kình nhiều thì không đủ nuôi dưỡng, ít thì không đủ sử dụng, đó là lý do cần có dân binh.” Vua nói Tống Thủ Ước không thể tìm được, An Thạch nói: “Từ khi Thủ Ước chết, quân chế đã dần lỏng lẻo.”
Vua nói: “Chỉ vì Giá Quỳ làm cho lỏng lẻo.” An Thạch nói: “Kẻ như Quỳ thì hưởng nhàn vui, kẻ như Thủ Ước thì lo lắng nguy hiểm, nên khuyên răn người như Thủ Ước, còn người như Quỳ thì nên trách phạt.” An Thạch lại nói: “Quân Phiên nên tổ chức theo thập ngũ, thiết lập cấp bậc, bộ phận, thì mới có thể sử dụng được. Nay một năm mất mùa, một lộ phải chi đến hai mươi tám vạn để cứu tế, nhưng số đinh tráng, già yếu, có ngựa hay không, đều không dám kiểm tra thực tế, không biết dùng quân Phiên này để làm gì. Có người cho rằng phải đợi năm được mùa mới kiểm tra được, thần cho rằng lúc cứu tế chính là thời điểm thích hợp để kiểm tra.” Ngô Sung cho rằng ngồi bàn thì dễ, làm thì khó.
Vua nói: “Việc này có gì khó, chỉ là biên tướng không chịu làm mà thôi.”
[7] Ngày hôm đó, mùng 3 tháng 4. Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lý Trần Mục kiêm Giám sát ngự sử, Đại Lý tự thừa Thái Thừa Hi cải làm Thái tử trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lý hành. Thừa Hi là người Lâm Xuyên. 《Thực lục》 chép việc này vào ngày 23 tháng 4. Xét theo tờ tấu nghị của Thừa Hi xin thôi chức Ngự sử, nói rằng vào ngày mùng 3 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 8 nhập đài, đến ngày mùng 3 tháng 4 năm thứ 10 là đủ hai năm, hợp mãn một nhiệm kỳ, ngày tháng rất rõ ràng, 《Thực lục》 chép nhầm. Chỉ có Trần Mục không có gì để khảo chứng, nên đều chuyển vào ngày mùng 3 tháng 4, bỏ đi phần chép ngày 23 tháng 4.
[8] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu giảm 16 viên quan nhũng của Tướng tác giám. Sau đó lại tăng thêm một viên Chủ bạ, hai viên Giám tu sứ thần của Bát tác ty.
[9] Ngày Bính Dần, sứ giả nước Liêu là Tiêu Hi cùng đoàn từ biệt tại điện Tử Thần, bày tiệc ở điện Thùy Củng. Thư đáp lại chúa Liêu viết: “Hai triều kế tục hòa hảo, đã sáu kỷ đến nay, việc theo lệ cũ, tình nghĩa lâu dài. Vừa nhận chỉ dụ của sứ giả, bàn về biên giới, đã ước định với quan lại, cùng nhau biện luận chính sự. Nên giữ nguyên biên giới cũ, chờ phân định rõ ràng, nhưng sứ giả chưa thông, quân đội đã tập trung trước, xâm phạm đồn bảo, bắn chết tuần binh. Hành động này thể hiện sự tranh chấp, không phải là hòa nghị. Đến việc muốn ngồi riêng giữa, thay đổi vị trí của bề tôi; bố trí chỗ ngồi ngang hàng, lại khó xử với chủ khách[2]. Nhiều lần lý lẽ bị bác, mới chịu đối thoại. Vả lại, địa giới tiếp giáp ba châu[3], tình hình không giống nhau, lại đưa ra lời nói thiên lệch về Tây Kinh, đòi bao gồm cả các trại đề phòng. Nhiều lần đòi văn bản, nhưng không có bằng chứng; muốn cùng xem xét, lại không được chấp thuận. Chức trách trái ngược, dẫn đến chậm trễ. Lo rằng quan lại hiểu sai chỉ dụ, không phải là ý đồ của quốc gia. Nay sai sứ giả đến, lại gửi thư hỏi, tặng thêm lễ vật, thể hiện tình hữu hảo. Nhưng bàn về việc xâm phạm biên giới, lại bỏ qua bằng chứng rõ ràng; kể lại ý kiến của biên thần, lại trách cứ việc báo cáo chậm trễ. Nhận thức sâu sắc về vấn đề, nhiều điều chưa thông suốt. Nhớ lại lời thề cùng trời đất quỷ thần, giữ gìn cương thổ tổ tiên, mỗi bên đều bảo toàn sinh linh. Không tiếc vàng lụa hàng vạn, há tham đất đai vài tấc? Chỉ muốn biện luận, để không xâm phạm, nhưng sứ giả ở lại, nhất định đòi phân chia theo sông. Xu phủ truyền lệnh, định dùng quân đội di chuyển, há phải lời hẹn ước nhiều năm, lại vì việc nhỏ mà thay đổi. Đã xem xét bản đồ, vạch rõ ranh giới, lại sai quan lại, sửa lại biên giới. Mong ngài thông suốt, hiểu rõ sự việc.”
Đây là lời của Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh. Ban đầu, Tiêu Tố, Lương Dĩnh đã cùng Lưu Thầm, Lữ Đại Trung hội nghị về địa giới, lâu không quyết định, nên lại sai Tiêu Hi đến, lệnh cho Hàn Chẩn, Vương Sư Ước tiếp đón. Tiêu Hi vừa đưa quốc thư, lại xuất trình một tờ trát của nước mình, đại ý như lời Tiêu Tố, Lương Dĩnh, lại trách Lưu Thầm chậm trễ. Thực lục chép: Triều đình đã sai Lưu Thầm, Sĩ Nguyên xử lý biên giới, Lưu Thầm vì bệnh không đến ngay, lại lệnh Lữ Đại Trung thay Sĩ Nguyên. Theo sách Lữ Đại Trung, Lưu Thầm ngày 7 tháng 6 đến Thái Nguyên, ngày 13 tháng 9 cùng Sĩ Nguyên gặp Lương Dĩnh, Tiêu Tố ở Đại Hoàng Bình, ngày 2 tháng 11 mới lệnh Lữ Đại Trung thay Sĩ Nguyên. Sách kia chê Lưu Thầm chậm trễ, là vì việc biên giới xảy ra sau khi gặp mặt tháng 9, không phải trước khi gặp mặt. Lưu Thầm không đến ngay, nay bỏ đi.
Hàn Chẩn cùng đoàn ngày ngày tranh luận với Tiêu Hi, Tiêu Hi chỉ khăng khăng lấy phân thủy lĩnh làm giới, nhưng cũng không nói rõ phân thủy lĩnh ở đâu. Chiếu dụ rằng hai triều hòa hảo lâu năm, nay đã sai biên thần xem xét, nhưng vẫn lo Lưu Thầm báo cáo chưa đầy đủ, đã đổi sai Hàn Chẩn cùng Trương Thành Nhất đi ngựa trạm đến biên giới, hội đàm thương lượng. Lệnh Tiêu Hi về báo, Tiêu Hi không nhận mệnh. Lại sai nội thị Lý Hiến mang chiếu chỉ cho xem, hứa lấy Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh làm giới, và dời các trạm tuần xa biên giới vào trong. Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh, năm Trị Bình thứ 2 Khiết Đan từng đặt trạm ở đây, người biên giới vì bị xâm phạm nên phá hủy, sau không đến nữa, đến nay cho phép đặt trạm ở chỗ cũ, nhưng Tiêu Hi vẫn không nghe, vẫn giữ ý kiến như cũ.
Nhà Vua bất đắc dĩ, bàn việc trước hết cử Thẩm Quát đi báo đáp, Thẩm Quát nhận lệnh đi hồi tạ vào ngày Quý Sửu tháng 3 (21 tháng 3).
Khi ấy, Xu mật viện tâu: “Các quan biên giới của triều ta hiện dùng các chứng cứ về Trường Liên Thành và Lục Phiền Lĩnh làm ranh giới, có 60 công văn, phần nhiều là phía Bắc nói về việc bắt giặc hoặc giao tranh ở các cửa ải, trạm canh, đều ở phía bắc Trường Liên Thành và Lục Phiền Lĩnh[4], trong đó có công văn của Thuận Nghĩa quân năm Trọng Hi thứ 2 (năm Trọng Hi thứ 2 tức năm Minh Đạo thứ 2).
Ngày 18 tháng 3, công văn nói rằng phía Nam đưa đến những tên giặc Trương Phụng Viễn bắt được ở trên đỉnh núi phân thủy tại Trường Liên Thành phía sau núi, không hợp lệ vượt biên giới, đã xử theo pháp luật. Lại có công văn của Thuận Nghĩa quân năm Thanh Ninh thứ 9 (sử hai triều gọi năm Thanh Ninh thứ 9 là năm Trị Bình thứ 4, sai. Năm Thanh Ninh thứ 9 tức năm Gia Hựu thứ 7).
Tháng 10, công văn nói về việc bắt được tên giặc cướp bò của chủ hộ Bạch Hữu ở huyện Quách, châu Đại của phía Nam, đã chỉ đỉnh núi phân thủy tại Trường Liên Thành làm ranh giới, và nói Bạch Hữu là chủ hộ ở huyện Quách, châu Đại, rõ ràng không lấy Trường Thành cổ và đỉnh núi phân thủy gần đó làm ranh giới.
Năm Trị Bình thứ 2, khi dời các trạm canh phía Bắc, không có việc xâm phạm địa giới.
Nay thánh chỉ chỉ vì hai triều đã thông hòa lâu năm, nên cho phép tu sửa lại các công trình cũ ở phía nam Trường Liên Thành và Lục Phiền Lĩnh, đã là việc nhún nhường để giữ hòa khí. Nay Hi lại chỉ đỉnh núi phân thủy làm ranh giới, nhưng các núi non nơi đó đều có nước chảy phân chia, đều gọi là núi phân thủy. Trước đây, Tiêu Tố và những người khác đưa ra ba văn bản chứng cứ, ngoại trừ hai trại Đại Thạch và Nghĩa Hưng Dã đã bị phía Bắc xâm phạm, không thuộc phạm vi xử lý năm Trị Bình, hiện không lấy Trường Liên Thành làm ranh giới, còn trại Tây Hình dựa vào văn bản của Trương Khánh, nói rằng trên đỉnh núi phân thủy có gò đất, nhưng nơi chỉ định lại không có gò đất.
Hơn nữa, văn bản của Trương Khánh chỉ rằng từ trại Nhạn Môn đến quân Giả Lỗ phía Bắc là 11 dặm, nay từ trại Nhạn Môn đến Trường Liên Thành khoảng 8-9 dặm, từ Trường Liên Thành đến quân Giả Lỗ khoảng 2 dặm, lại chứng minh được Trường Liên Thành là ranh giới.
Hơn nữa, Thẩm và những người khác đã từng gửi công văn cho Tố, yêu cầu chỉ rõ tên núi nào là núi phân thủy, Tố trả lời công văn, chỉ nói: ‘Tên núi, địa lý, ranh giới dọc biên giới, phía Nam đủ biết, sao lại phải hỏi qua văn bản?’ Rõ ràng là không chỉ định rõ nơi nào.
Nay Hi đưa ra, giống như Tố, hoàn toàn không có văn bản chứng cứ. Muốn lệnh cho Thẩm Quát và những người khác khi đến Bắc triều, đem các văn bản chứng cứ hiện có, trình bày rõ ràng với Bắc triều.”
Chiếu rằng: “Quốc gia với Khiết Đan thông hòa đã lâu, không muốn vì việc nhỏ nơi biên giới mà làm tổn hại đại cục hòa hảo. Đã cho phép tu sửa lại các công trình cũ ở nơi dựng trạm canh năm Trị Bình, cốt sao giữ được hòa khí, không cần bàn luận có chứng cứ hay không[5], nếu không chỉ định rõ nơi phân thủy, e rằng khi kiểm tra sẽ khó phân định.
Một, đất Lý Phúc Man, cho phép lấy nơi đào hào hiện tại làm núi phân thủy làm ranh giới.
Hai, trong Thủy Cốc, trạm Nghĩa Nhi Mã và ba trạm nhỏ, dời về phía nam, lấy đỉnh núi phân thủy nơi đặt trạm mới làm ranh giới. Một, từ địa phương trại Tây Hình, lấy đỉnh núi phân thủy của năm trạm thám thính xa (thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm) và trạm Bạch Thảo, nối về phía tây đến Trường Thành cổ làm ranh giới[6].
Ba, đất Hoàng Ngôi Sơn, đã từng được triều Nhân Tông cử quan cùng với quan lại phía Bắc đặt mốc bốn phía ngoài đất canh tác bị xâm phạm của Niếp Tái Hữu và những người khác. Cùng với miếu Thiên Trì, công văn của Thuận Nghĩa quân nói rằng địa lý thuộc về quân Ninh Hóa, không có gì để bàn.
Bốn, đất Ngoã Sằn Ổ, trước đây hai bên chưa bàn xong, nay đã chỉ huy Hàn Chẩn và những người khác cùng kiểm tra, lấy núi phân thủy làm ranh giới.”
Nhà Vua sai sứ giả mang thư báo cho Hi[7], Hi bèn từ biệt ra đi, Quát đợi Hi đi rồi mới lên đường. Theo lệ cũ, sứ giả lưu lại kinh đô không quá 10 ngày, Hi đến vào ngày Canh Tý tháng 3 (8 tháng 3), sau khi vào từ biệt, vẫn không đi, tranh luận với Chẩn và những người khác đến tận đêm khuya, lưu lại kinh đô gần một tháng.
(《Thực lục》 chép: Hi đến vào ngày Canh Tý tháng 3. Ngày Mậu Thìn quá hạn, không chịu đi. Canh Tý là ngày 8 tháng 3; Mậu Thìn là ngày 7 tháng 4. Trên chữ Mậu Thìn đáng lẽ phải có việc tháng này, vì Hi vào từ biệt ngày Bính Dần tháng 4 (5 tháng 4), qua một ngày là Mậu Thìn, vẫn không chịu đi, không biết cuối cùng dùng ngày nào. 《Chính sử Thần Tông – Khiết Đan ngoại truyền》 chép: Hi lưu lại kinh đô gần một tháng mới đi.)
Xét: Ngày Mậu Thìn tháng 3, Tiêu Hi vào triều yết kiến, đến ngày Đinh Mão tháng 4 vẫn chưa ra về, vừa đúng 29 ngày, đây chính là điều mà truyện chép là gần một tháng. Truyện dựa theo thực lục, nhưng không rõ ngày ra về cụ thể, vậy nên chỗ chép “gần một tháng” cũng chưa chính xác, cần xét lại.
Trong bài văn bia mộ của Trương Phương Bình chép: Khi Tiêu Hi sắp từ biệt, nằm ỳ ở dịch trạm không chịu dậy, Trương Phương Bình nói với Ngô Sung rằng: “Hi không chịu đi ngay, hãy sai người chủ trì mỗi ngày đưa đồ cúng tế mà không hỏi han, lại sai quan lại biên giới đem việc này thông báo cho phía địch là được.” Sung nghe theo lời ấy, Hi liền ra về ngay hôm đó. Văn bia mộ tóm tắt, Hi tự thấy việc biên giới đã như ý nên mới đi.
Truyện của Trương Thăng chép: Tiêu Hi bàn việc địa giới bị bẽ mặt, nằm ở dịch trạm Đô Đình không dám về. Thăng mỗi ngày đưa đồ ăn, tiếp đãi theo lễ thường, quá hạn mà còn cố ý lưu lại, nên ngăn chặn ngay. Hi dần nản chí, bèn ra về. Hi đạt được điều mình muốn rồi về, chỗ chép “bị bẽ mặt” và “nản chí”, chỉ là lời nói ngoài mặt mà thôi.
Phạm Dục viết hành trạng của Tiết Hướng: Triều đình sai Lưu Thầm, Lý Thuấn Cử đi sứ Hà Đông, bàn việc địa giới với địch, nhưng địch đem quân nặng áp sát biên giới, Hướng dâng mật tấu xin cho Thầm giả bệnh hoãn lại, để làm hao mòn quân địch. Vua ngầm dùng kế của Hướng, quân địch đóng lâu hết lương, bèn rút đi, nhưng các đại thần lại có người trách Thầm về việc hoãn lại, kế của Hướng quả là sâu xa vậy. Việc này cần xét lại.
Hàn Tông Vũ chép việc cũ của cha mình là Hàn Trăn: Năm thứ 6, người phương Bắc sai sứ Tiêu Hi đến bàn việc địa giới, lấy ông làm quan tiếp đãi. Ông ngầm dò biết Hi muốn lên điện tâu việc, xin Vua quyết định, liền sai thái giám gần gũi tâu lên, Thần Tông nói: “Cứ để hắn đến.” Ông lại sai tâu: “Triều đình từ trước đến nay bàn việc với người phương Bắc, đều giao cho bề tôi, nếu có sai sót cũng dễ sửa đổi; lại sợ Hi không chịu thôi, làm phiền thánh thính, đến lúc đó khó mà ngăn chặn.” Hi lên điện, quả nhiên như lời ông nói.
Đến dịch trạm, Thần Tông lại sai ngự y Lý Thuấn Cử trước mặt Vua dùng bút son vẽ một bản đồ cho Hi xem, y theo đó mà phân chia. Thuấn Cử ban đầu không bàn với ông, vội đưa bản đồ ra, chưa kịp giải thích rõ, ông liếc Thuấn Cử, sai tả hữu ngầm bảo giấu đi. Hi đã đòi xem, ông nói: “Lời ngự y nói, là bàn việc với tôi.” Rồi nhân từ cửa bên xin tâu việc, tường thuật việc biên giới, hình thế núi sông tỉ mỉ đều liên quan đến lợi hại, không thể dễ dàng cho phép. Thần Tông nói: “Khanh nói rất phải, Trẫm suy nghĩ ban đầu chưa đến mức ấy.”
Việc địa giới lâu không quyết định, Thần Tông sai thái giám Lưu Duy Giản đem bút phê trách ông rằng: “Việc biên giới, Trẫm hỏi ý Văn Ngạn Bác, Tăng Công Lượng, đều cho rằng nam bắc thông hảo trăm năm, nhân dân hai nước được nghỉ ngơi, nếu có yêu cầu gì, nên tùy nghi ứng phó. Triều đình đã cho phép, mà khanh vẫn cố chấp không chịu, nếu người phương Bắc sinh sự, gia tộc khanh có giữ được không?” Ông vẽ rõ: “Người phương Bắc tham lam không chán, các triều trước thường lo ứng phó quá vội, khiến họ đạt được mưu đồ xảo trá, thần không dám vì gia tộc mà làm hỏng việc nước.”
Vua thấy ông trung thành, lại sai Duy Giản dùng lời ôn tồn vỗ về, lại ban cho một chiếc áo lông chồn của Vua. Ban đầu, Hi vì không đạt được yêu cầu, cố ý kéo dài, quá hạn không về, triều đình lo lắng. Ông dâng mật tấu: “Nay áo mùa hạ sắp đến, xin từ thánh chỉ sai hậu uyển theo chế độ người phương Bắc may áo hạ ban cho, tỏ ý không thúc bách.” Vua rất mừng. Sau khi ban áo, Hi liền cáo từ.
Việc này khác với các sách khác, ghi chép thêm để tham khảo. Tập của Lữ Huệ Khanh có hai bức thư hồi đáp nước Đại Liêu, bức thư hồi đáp tháng 3 năm thứ 7 có sáu câu dưới chữ “Cụ đạt bản quốc” khác với thực lục, nay cũng ghi chép thêm ở đây. Hai bức thư hồi đáp nước Đại Liêu: Nhục nhận sứ chỉ, đến đưa thư tín, kể rõ sự hòa hiếu của hai nước, như nghĩa một nhà. Vốn biết nước láng giềng quý báu, rất hợp tín nghĩa. Riêng bàn về bề tôi biên giới, từng vượt qua sự phòng thủ của bưu dịch. Muốn cho dời đổi, để khôi phục như cũ. Kính nghĩ hai triều, cai trị vạn phương, há coi trọng lợi một thước đất, mà khinh thường niềm vui nhiều đời? Huống chi trong phạm vi biên giới, hình thế có thể chỉ rõ; trong các châu, sổ sách đều còn. Nên sai quan lại, mỗi bên xem xét lại. Nếu việc từ xưa, khó mà chiều theo; hoặc thực có xâm phạm, sao tiếc sửa đổi? Lại nữa mỗi năm sai quan, bảo tuân theo lời thề. Nếu có việc mới xảy ra, chỉ là chuyện nhỏ nơi biên giới, đã nhờ sứ về báo rõ cho nước mình.
Từ nay về sau, những việc như thế này, chỉ cần giao cho quan lại địa phương xử lý, không cần phiền đến sứ thần đi lại, để giữ gìn tình hữu nghị giữa hai nước, cũng như giải tỏa nghi ngờ của dân chúng. Thời tiết ấm áp đang đến, xin hãy bảo trọng. Bỗng nhiên có sứ giả quý giá đến, mang theo thư từ hoa mỹ, xem thấy sự chăm chỉ trong việc truyền đạt ý chỉ, càng thấu hiểu tấm lòng hòa hiếu với láng giềng. Kính nghe tin tức về sức khỏe, mong ngài luôn được phúc lành. Thời tiết ấm áp đang đến, xin hãy bảo trọng.
Lại có bản thảo của Trung thư, Xu mật viện định báo cáo với sứ thần quốc tín. Phần dưới đây do Tham tri chính sự viết, tấu rằng: Quán bạn sở trình: “Theo chỉ thị của Xu mật viện, mở ra để trả lời sứ thần quốc tín của Đại Liêu là Tiêu Hi mang đến văn thư về việc xử lý biên giới, trong đó có các vấn đề cụ thể, vâng theo thánh chỉ: ‘Hai nước đã hòa hiếu lâu năm, nay Bắc triều hoàng đế cử sứ thần mang thư đến, muốn giao cho quan lại biên giới cùng xem xét. Triều đình ta trước đây tuy đã căn cứ vào tấu chương của Lưu Thầm, nhưng vẫn lo chưa hiểu rõ, nay đổi sai Hàn Chẩn, Trương Thành Nhất đi ngựa trạm đến hội đàm với quan lại Bắc triều[8], cùng xem xét ý chỉ trong thư là ‘cùng xem xét’, thân hành đến địa phương, hòa hiếu thương lượng, nhanh chóng kết thúc việc này, xin Quán bạn sở ghi chép lại và gửi cho Bắc triều quốc tín sở, khi đến Bắc triều, trình bày việc này.’ Bản sở mời Tiêu Hi đến, trao lại thánh chỉ và chỉ thị, nhưng Hi không chịu nhận, cũng không chịu từ biệt, xin chỉ thị.”
Xem xét thư của Bắc triều, nói rằng “sớm giao cho quan lại biên giới, cùng xem xét, sắp xếp lại đồn binh, để trở lại như cũ”. Đã vâng thánh chỉ sai Hàn Chẩn cùng quan lại Bắc triều, cùng xem xét ý chỉ trong thư là ‘xem xét’, nhanh chóng kết thúc. Triều đình vì Tiêu Hi chưa hiểu ý chỉ kết thúc, không chịu nhận, lại sai sứ thần mang thánh chỉ và chỉ thị: “Đất đai ở Đại châu, tuy rõ ràng, nhưng vì hai nước đã hòa hiếu lâu năm, không muốn vì việc nhỏ ở biên giới mà làm tổn hại tình hữu nghị, tất cả đồn binh dời đi từ năm Trị Bình thứ hai, đã chỉ thị cho quan lại biên giới cho phép Bắc triều ở Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh nam sửa lại theo vị trí cũ. Triều đình ta đã dời các đồn thám thính xa vào trong. Những nơi cần dựng pháo đài, đào hào, phân định biên giới nam bắc, nay sai Hàn Chẩn đến địa phương hội đàm với quan lại Bắc triều, cùng chỉ định và phân chia.” Tiêu Hi vẫn không chịu nhận thánh chỉ và văn thư, cũng không chịu từ biệt, xin chỉ thị.
Xu mật viện xem xét lại, quan lại biên giới triều đình ta đã căn cứ vào chứng cứ, lấy Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh làm biên giới, công văn tổng cộng 60 đạo, trong đó nhiều lần Bắc triều nói về việc bắt giặc hoặc giao thiệp ở các cửa ải, đồn binh. Vì các cửa ải, đồn binh này đều nằm ở phía bắc Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh, trong đó có công văn của Thuận Nghĩa quân ngày 18 tháng 3 năm Trọng Hi thứ 2 nói rằng, Nam triều đưa đến việc bắt giặc Trương Phụng Viễn ở trên đỉnh núi phân thủy phía sau Trường Liên Thành, không hợp lệ vượt biên giới, đã xử theo pháp luật. Và công văn của Thuận Nghĩa quân tháng 10 năm Thanh Ninh thứ 9, đạo này bắt được giặc cướp trâu của chủ hộ Bạch Hữu Ngưu ở huyện Quách, châu Đại của Nam triều. Vì việc bắt giặc, giao thiệp đều ở phía bắc Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh, lại chỉ Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh làm biên giới, và nói Bạch Hữu là chủ hộ ở huyện Quách, châu Đại, từ đó cho thấy từ lâu đã lấy Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh làm biên giới, không phải lấy cổ trường thành và đỉnh núi phân thủy gần đó làm biên giới, sự việc rõ ràng.
Việc dời đồn binh Bắc triều năm Trị Bình thứ 2 không xâm phạm biên giới. Nay thánh chỉ chỉ vì hai nước đã hòa hiếu lâu năm[9], nên muốn ở phía nam Trường Liên Thành, Lục Phiền Lĩnh sửa lại theo vị trí cũ, tức là lúc đó Tiêu Quát dời đồn binh, nay đã được như cũ. Và ý trong thư quốc thư là “sắp xếp lại đồn binh, để trở lại như cũ”, không có gì không được chấp thuận, đã là sự hòa hiếu sâu sắc. Nay Tiêu Hi lại chỉ đỉnh núi phân thủy làm biên giới, vì nơi nào trên núi có nước chảy phân chia, đều gọi là phân thủy.
Trước đây, Tiêu Tố và những người khác đã cầm ba văn bản chiếu cứ, trừ hai trại Đại Thạch và Nghĩa Hưng Dã đã bị Bắc giới xâm lấn, không thuộc về năm Trị Bình, hiện không lấy Trường Liên Thành làm giới hạn, không thể xử lý. Còn trại Tây Hình dựa vào văn bản của Trương Khánh làm căn cứ, chỉ ra nơi đó hiện không có gò đất. Lưu Thầm và những người khác muốn cùng Tiêu Tố và những người khác kiểm tra, nhưng họ không chịu đi. Hơn nữa, trong văn bản mà Trương Khánh mang theo có nói rằng địa phận trại Nhạn Môn đến quân Già Lỗ của Bắc giới[10]khoảng 2 dặm, cũng chứng minh rõ ràng rằng Trường Liên Thành là giới hạn.
Hơn nữa, Lưu Thầm và những người khác đã từng gửi công văn cho Tiêu Tố và những người khác, yêu cầu chỉ định tên núi nào là phân thủy, Tiêu Tố và những người khác trả lời rằng: “Dọc theo biên giới, tên núi, địa lý, nơi giới hạn, châu giới phía Nam biên giới đủ để tự biết, nếu có nghi ngờ, nên cho phép hỏi thăm, sao lại phải gửi công văn để hỏi?”
Hơn nữa, văn bản của Trương Phụng Viễn nói rằng Trường Liên Thành là phân thủy lĩnh của hai giới, nhưng không chỉ định rõ nơi nào, nay Tiêu Hi lấy phân thủy lĩnh làm giới hạn, giống như Tiêu Tố và những người khác đã cầm, hoàn toàn không có văn bản chứng minh, rõ ràng là khó có thể tuân theo. Muốn lệnh cho Thẩm Quát và những người khác khi đến Bắc triều, đem các văn bản chứng minh mà các quan biên giới trước đây của triều đình đã dùng, trình bày rõ ràng với Bắc triều, để họ biết rõ đầu đuôi.
Sau đó tiến trình, vâng theo thánh chỉ: “Kiểm tra các văn bản chứng minh trước đây, tuy rằng đều hợp lý lấy Trường Liên Thành và Lục Phiền Lĩnh làm giới hạn, rất rõ ràng, nhưng nói lấy phân thủy lĩnh làm giới hạn thì không có chứng cứ và không chỉ định tên núi. Vì hai triều đã thông hảo lâu năm, cuối cùng không muốn vì những việc nhỏ ở biên giới mà làm tổn hại đến tình hữu nghị lớn, đã cho phép sửa chữa lại các trạm được xây dựng từ năm Trị Bình, cố gắng hòa giải, không cần bàn đến việc có chứng cứ hay không. Nếu không chỉ định rõ nơi phân thủy theo từng địa danh, thì khi kiểm tra sẽ khó phân định.
Một, đất Lý Phúc Man, cho phép lấy phân thủy lĩnh ở nơi đang đào hào làm giới hạn.
Hai, trong thung lũng Thủy Cốc, trạm Nghĩa Nhi Mã và ba trạm nhỏ, di chuyển về phía Nam, lấy đỉnh núi của trạm mới xây làm phân thủy lĩnh.
Ba, từ địa phận trại Tây Hình, lấy đỉnh núi của các trạm thám sát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm và trạm Bạch Thảo làm phân thủy lĩnh, nối về phía Tây đến phân thủy lĩnh trên Trường Thành cổ.
Bốn, địa phận Hoàng Ngôi Sơn, đã từng được chỉ huy từ thời Nhân Tông, sai quan cùng với quan lại Bắc triều đã đánh dấu bốn phía ngoài đất canh tác của Niếp Tái Hữu và những người khác. Và miếu Thiên Trì, quân Thuận Nghĩa gửi công văn nói rằng địa lý thuộc về quân Ninh Hóa, không có gì để bàn.
Năm, địa phận Ngoã Sằn Ổ, trước đây hai bên chưa thương lượng xong, nay đã chỉ huy Hàn Chẩn và những người khác cùng kiểm tra, lấy phân thủy lĩnh làm giới hạn. Đã chỉ huy Hàn Chẩn và những người khác đi đến hội đàm với quan được cử của Bắc triều, theo từng việc mà phân định kết thúc. Những nơi có dân cư trong khu vực cần phân định, thì chỉ huy di chuyển họ đến nơi gần hơn, giao cho quán bạn sở ghi chép lại và gửi cho quốc thư Bắc triều, chờ đến Bắc triều trình bày rõ.”
Tập còn có tiến trình thụ chỉ và đối đáp với quốc thư sứ của quán bạn: Muốn lệnh cho quán bạn Hàn Chẩn và những người khác mời Tiêu Hi dự tiệc, nói với triều đình rằng Lâm Nha nhiều lần không chịu nhận thánh chỉ và tráp tử của quán bạn, khi từ biệt khó mà ép buộc. Lại sợ làm chậm trễ tình hữu nghị với Bắc triều, đã cử Thẩm Quát và Lý Bình làm quốc thư sứ, mang thư đến gặp hoàng đế Bắc triều, nói rõ ý định thay đổi quan chức để thương lượng. Nếu Lâm Nha muốn ở lại, cũng xin tùy ý, nhân dịp nói rõ với Hi rằng triều đình thay đổi quan chức vì Lưu Thầm và những người khác đã tự xem xét các văn bản trước đây, giữ vững lý lẽ, tranh luận với Tố, Dĩnh và những người khác, khiến họ khó xoay chuyển, nên phải cử người khác để có thể thương lượng thuận lợi. Nay Bắc giới nếu bàn về chứng cứ văn bản, hồ sơ đều ở Xu Mật, có thể xem xét.
Chỉ như trong văn bản của Trương Khánh nói rằng phía Bắc đến quân Già Lỗ và phân thủy lĩnh có gò đất, Bắc triều còn có chứng cứ gì rõ ràng hơn? Chỉ vì hoàng đế triều đình ta quý trọng tình hữu nghị hai triều, không muốn từ chối. Nếu muốn phân định một ít đất đai, nếu không ảnh hưởng đến triều đình ta, cũng không tiếc, nên phải cử quan đến đó thương lượng.
Nay giới hạn lớn như vậy, nếu bảo triều đình ta trực tiếp ra lệnh, lấy phân thủy lĩnh làm giới hạn, bao gồm nhiều trại và dân cư, thì phải phân định từ đâu, điều này khiến triều đình ta khó mà tuân theo. Xem thư của hoàng đế Bắc triều, cũng biết triều đình ta khó ra lệnh ngay, nên cử quan biên giới xem xét, hơn nữa hoàng đế Bắc triều cũng quý trọng minh ước, chắc chắn không muốn làm những việc không thể tuân theo, dễ dàng làm đổ vỡ tình hữu nghị, nên cử sứ giả đến nói rõ ý này, xem Hi trả lời thế nào.
Lại tiện nói với Lâm Nha rằng việc này nay đã xong, nhưng lại bị người khác đến giải quyết, vậy đối với Lâm Nha thế nào? Hôm nay phải nói rõ hết, cả đoàn người đều không có kế sách gì hay, không chỉ dừng lại ở việc này, mà còn khiến hai triều tranh chấp, e rằng đối với Lâm Nha cũng không ổn thỏa, xin hãy suy nghĩ kỹ lại.
Nếu Hi nói rằng chỉ vì trong thánh chỉ và trát tử không có lệnh rõ ràng, nên khó mà nhận lời, thì hãy nói thẳng xem triều đình cần chỉ thị rõ ràng như thế nào. Nếu triều đình muốn cắt một phần đất đai, cũng phải có danh nghĩa mới được, nên tạm thời để địa phương bàn bạc kết thúc. Nếu ngay trên văn bản mà cắt đứt, sau này đến nơi đó, lại vì việc của bản triều mà không thể ứng phó, việc sẽ khó thành, nên khó mà nói rõ trên văn bản.
Nếu bản triều kiên quyết không cho, chỉ cần sai Thầm đi, sao phải đổi quan khác? Ý này cũng có thể thấy. Đợi Hi chịu nhượng bộ, thì nói rằng nếu như vậy, có thể báo với Trung thư, Xu mật viện, thử thêm vào trát tử nội dung như việc dời phủ trại thời Trị Bình, cho phép tu sửa lại như cũ, như vậy để Lâm Nha về có bằng chứng xác thực. Tuy rằng Chẩn và mọi người bàn như vậy, nhưng chưa biết triều đình có đồng ý không? Phần còn lại, lệnh cho Hàn Chẩn tùy lúc xem ý Hi mà đối đáp.
Tập còn có bức thư sửa lại gửi nước Đại Liêu: “Hai triều kết hảo, đã sáu kỷ, việc theo lệ cũ, tình nghĩa lâu dài. Vừa nhận chỉ dụ, bàn về biên giới, đã ước với quan lại, cùng nhau biện chính. Nên giữ nguyên cương giới cũ, đợi sự thật phân minh, nhưng sứ giả chưa thông, quân đội đã tập trung, xâm phạm đồn bảo, bắn chết tuần binh. Hành động tranh chấp, không phải hòa nghị. Đến mức muốn ngồi giữa một mình, vị trí đổi khác với bề tôi; bày tiệc ngang dọc, chỗ ngồi khó xử giữa chủ khách. Nhiều lần lý khuất, mới chịu đàm phán. Vả lại đất tiếp giáp ba châu, tình thế không giống nhau, lại nêu lời nói thiên lệch về Tây Kinh, đòi chiếm các trại biên giới. Nhiều lần đòi văn bằng, không có chứng cứ; muốn cùng xem xét, lại không được chấp thuận. Việc quan trái ngược, dẫn đến chậm trễ. Ngờ rằng quan lại hiểu sai chỉ dụ, không phải ý đồ của nước bạn.
Nay lại sai sứ giả, gửi thư hỏi, tăng thêm lễ vật, tỏ rõ thiện chí. Nhưng bàn việc xâm lấn biên giới, bỏ qua bằng chứng rõ ràng; kể lời bàn của biên thần, chỉ trách việc báo cáo chậm trễ. Sâu sắc nhận ra vấn đề, nhiều điều không thông suốt. Lại nghĩ rằng hợp với ý trời đất quỷ thần, cùng lập lời thề; giữ gìn cương thổ tổ tiên, mỗi bên bảo toàn sinh mệnh. Không tiếc vàng lụa hàng vạn, há tham đất đai vài tấc? Chỉ muốn biện luận, để không xâm phạm, nhưng sứ giả ở lại, nhất định đòi phân chia ranh giới. Xu phủ truyền lệnh, thường lấy cớ xuất binh mà dời đổi, há mong hòa ước, lại thay đổi tình cảm! Đã xem xét bản đồ, vạch rõ ranh giới, lại lệnh quan lại, sửa đổi cương giới. Mong rằng minh quân, thấu hiểu rõ ràng. Đang mùa nóng nực, xin giữ gìn sức khỏe.” Bức thư này giống với sách thực lục, chỉ có câu “há mong hòa ước, lại thay đổi tình cảm” đổi từ tám chữ thành mười bốn chữ.
Tập còn có chiếu gửi tể thần Hàn Giáng: “Theo lời chỉ sử Vương Tuyên của Hàn Chẩn báo lại, nói rằng tù trưởng phương Bắc rất muốn gây chuyện, biến cố bất ngờ, thực khó lường. Xét từ khi triều đình giảng hòa với phương Bắc thời Cảnh Đức, đến nay đã hơn bảy mươi năm. Một phương Hà Bắc, người không biết chiến tranh, quân bị yếu kém, tài chính trống rỗng, lại thêm năm nay hạn hán, dân chúng ly tán, nếu dùng binh lính, lấy gì chống đỡ? Các khanh cùng nắm quốc sự, cùng chung vinh nhục, đại kế an nguy, nên lo tính trước, bàn bạc phương lược thắng địch, nên ngày đêm bàn bạc, để củng cố xã tắc. Gửi Hàn Giáng.”
(Gia truyền của Huệ Khanh chép: Lúc đó, sứ phương Bắc đến đòi đất.)
Sau đó, có tin tình báo nói rằng Khiết Đan có ý đồ phá vỡ hiệp ước và xâm lược. Hoàng đế ban chiếu cho Hàn Giáng và các quan bàn bạc về phương sách phòng thủ. Lữ Huệ Khanh nói: “Việc phòng thủ chưa thể vội vàng tiến hành, đợi khi thiên hạ có biến cố bất ngờ, chính sự cần phải bình tĩnh xử lý. Hiện tại, kẻ địch cũng chưa chắc đã đến mức đó. Giả sử chúng gây sự, với sức mạnh của Trung Quốc, gấp thì gấp ứng phó, chậm thì chậm ứng phó, không lo thiếu binh lực và tài chính. Nhưng hiện tại may mắn là chưa xảy ra, nên dần dần chuẩn bị.”
(Câu “gấp thì gấp ứng phó, chậm thì chậm ứng phó” gần giống với lời đối đáp của Vương An Thạch vào ngày Mậu Ngọ tháng 11 năm thứ 6.)
Hoàng đế muốn đáp ứng yêu cầu của họ, Lữ Huệ Khanh nói: “Họ rất vô lễ, nay cần phải giải thích rằng việc này vốn không phải do ta xâm phạm, chỉ vì quan hệ hòa hiếu lâu dài, không muốn tranh cãi sâu, nên mới đồng ý. Nếu họ vẫn không thỏa mãn, thì trên dưới đều tức giận, bức bách rồi mới hành động, bất đắc dĩ mới khởi binh, khiến kẻ địch bất ngờ. Nếu chúng dấy binh xâm lược sâu, cũng không phải là kế sách lâu dài, Trung Quốc cũng không lo không thể phòng thủ.”
Hoàng đế nói: “Năm Cảnh Đức, chỉ vì không thể phòng thủ. Việc phía Tây năm Khánh Lịch cũng như vậy.” Lữ Huệ Khanh nói: “Thần xem thế nước hiện nay, tuy chưa thể chinh phạt, nhưng so với thời Cảnh Đức, Khánh Lịch, thì chắc chắn có thể phòng thủ. Nay Tiêu Hi dùng thái độ hung hăng đến uy hiếp nước ta, rồi chiếm đất, về nước ắt được trọng thưởng, thì người nước họ ai chẳng muốn gây sự để xâm phạm ta! Đã chiếm Hà Đông, lại lấy Quan Nam, thiên hạ rộng lớn, há có thể tự lập được sao?”
Hoàng đế nói: “Không cho, ắt phải dùng binh.” Lữ Huệ Khanh nói: “Từ chối cũng không được, vội vàng đồng ý cũng không xong, ‘quá thì cũng như không đủ’. Theo phép Xuân Thu, việc nhượng bộ cho rợ phương Bắc không phải là một lần là đủ. Nay hãy cử sứ giả đồng ý sửa chữa các đồn bảo thời Trị Bình, họ cũng không thể từ chối, chỉ cần qua lại thêm một năm nữa, đủ thời gian chuẩn bị. Cần gì phải vội vàng giải quyết ngay?”
Hoàng đế nói: “Đột nhiên xảy ra chuyện thì sao, ai có thể đảm bảo không có chuyện gì khác?” Lữ Huệ Khanh nói: “Chưa từng nghe nước lớn ngàn dặm lại sợ người. Khiết Đan tuy phía Đông có Liêu, phía Tây có Hạ Quốc, không phải không muốn chiếm, nhưng không làm được. Đổng Chiêm ở cạnh Hạ Quốc, cũng không thể chiếm. Bởi vì chiếm nước người, người cũng muốn chiếm nước mình, kẻ địch há không nghĩ đến lợi hại? Trận Thiền Uyên, nghe nói Định Châu chỉ có hai ba vạn quân, Thiền Châu có hai vạn quân, nên kẻ địch mới dám như vậy. Nay ta có hai mươi vạn quân chính quy, lại có bảo giáp, e rằng chúng không dám xâm lược sâu.”
Ngô Sung nói: “Chu Thế Tông chỉ với một đạo quân nhỏ mà vẫn có thể chống lại được.”
Vua nói: “Các nước thời Ngũ Đại chỉ là bọn trộm cướp lớn mà thôi, nên không đáng tiếc. Nay khởi sự, phải làm sao cho vạn toàn, há có thể không lo sợ?” Huệ Khanh nói: “Điều này đúng vậy. Nhưng ví như người giàu tự yêu quý mạng sống của mình, còn người nghèo thì không như vậy. Chưa chắc nước nhỏ đã không mất, chỉ cần tính toán lợi hại mà thôi. Vì thiên hạ, không thể quá nhút nhát yếu đuối.”
Vua nói: “Khiết Đan có gì đáng sợ, nhưng ai có thể lo việc dùng binh?” Huệ Khanh nói: “Bệ hạ có thể khiến dân chúng trong thiên hạ cho rằng Khiết Đan có thể đánh được, e rằng ắt sẽ có người dám vì Bệ hạ mà dùng binh. Bệ hạ bình thường lo liệu việc đời thấy xa hàng trăm năm, người khác không làm được, còn đối với việc đối phó với kẻ địch, thực là đã vượt qua mức độ thánh nhân.” Vương An Thạch nói: “Bệ hạ hôm qua nói Chu Thế Tông nhờ Vua Ngủ (Thụy Vương) không lo việc nước nên mới thắng được. Nhưng Vua Ngủ như thế, cũng chỉ chiếm được ba cửa ải mà thôi. Việc chính sự của Bệ hạ ngày nay, há lại có thể so sánh ngược lại với Vua Ngủ, sao đến nỗi phải sợ họ ngay? Lập nước ắt phải có thế lực, nếu thế lực bị người khác dò xét, thì không thể lập được. Dù có cố gắng xây dựng đồn bảo như thời Trị Bình, cũng chưa chắc đã dấy binh.”
Vua nói: “Việc này đã nhiều lần bàn với Lữ Huệ Khanh, như thế thì không cần phải sợ.” Huệ Khanh nói: “Khởi đầu bằng dương thường kết thúc bằng âm, khiến kẻ địch ban đầu không có ý dùng binh, ví như hai người tranh cãi, vốn không có ý đánh nhau, nhưng qua lại lời nói, rồi dẫn đến đánh nhau.” An Thạch nói: “Đúng như vậy, nhưng triều đình chỉ cần tu chỉnh chính sự mà thôi.”
Vua nói: “Trong 《Chu Lễ》, Tư Mã dạy phép đánh trận, chỉ có ngồi đứng, tiến lui, nhanh chậm, thưa dày, mà không nói đến phép bày trận, là sao vậy?” Huệ Khanh nói: “Giữa mùa xuân dạy tập trận, phân biệt cách dùng trống, chuông, khánh, mõ; giữa mùa hạ dạy đóng quân, phân biệt cách dùng cung tên; giữa mùa thu dạy trị binh, phân biệt cách dùng cờ hiệu. Tai nghe tiếng trống, mắt nhìn cờ hiệu, lại biết hiệu lệnh cùng ngồi đứng, tiến lui, nhanh chậm, thưa dày, e rằng đời sau không thể thêm gì nữa. Còn như phép bày trận, thấy trong 《Xuân Thu》 thì có trận Ngư Lệ, trận Nga Quán, hẳn là tùy thời mà làm.”
Vua nói: “Trong 《Chu Lễ》, ngũ, lưỡng, tốt, lữ, sư, quân, chỉ là phép tổ chức quân đội.” Huệ Khanh nói: “Đây là điều không thể thay đổi. Hàn Tín, Lý Tĩnh, những người giỏi dùng binh đời sau, cũng chỉ noi theo Tôn Vũ, mà Tôn Vũ thì noi theo Hoàng Đế, Thái Công, ông nói: ‘Toàn quân là trên hết, phá quân là thứ yếu; toàn lữ là trên hết, phá lữ là thứ yếu; toàn tốt là trên hết, phá tốt là thứ yếu; toàn ngũ là trên hết, phá ngũ là thứ yếu.’ Theo thứ tự để nói rõ điều không thể thay đổi. Nay chế tạo doanh trận, nên cố gắng phù hợp với điều này, không nên thay đổi điều này để theo doanh trận.” An Thạch nói: “Phép quân thành tựu ở tốt, nhưng dùng xe thì phải một quân mới được. Nhưng phép điều khiển quân đã bỏ lâu rồi, nếu dùng quan để chiêu mộ người tập luyện, ắt sẽ có người tinh thông việc này.”
Vua nói: “Người xưa ngồi chiếu dùng mâm đậu, ngày nay ngồi ghế dùng bát đĩa, tùy thời mà khác, xe chưa chắc đã tiện như ngựa.” An Thạch nói: “Trên ngựa dùng cung tên không bằng xe.” Huệ Khanh nói: “Tướng chỉ huy bảy mươi lăm người, ba người ngồi trên xe, không chỉ dùng cung tên, mà còn đứng cao để chỉ huy. Nay nếu dùng xe chiến bằng do Quân khí giám chế tạo, rất tiện lợi.” An Thạch nói: “Gần đây Tào Tụng, Luyện Định chế tạo quân khí rất tốt.” Huệ Khanh nói: “Quản Trọng chỉ với nước Tề nhỏ bé, thiếu binh giáp, dùng kích để chuộc tội, binh giáp mới đủ. Với tài lực của thiên hạ ngày nay, chế tạo binh giáp vốn không khó, chỉ cần triều đình không thúc ép là có thể làm được.”
Vua nói: “Kỹ thuật đánh trận của Tề, quân dũng cảm của Ngụy, quân tinh nhuệ của Tần, kỷ luật của Uy Văn. Nay thiên hạ có cả quân chúng của Tần, Tấn, Tề, Ngụy, đối phó với Khiết Đan không quá khó.”
(Thẩm Quát có bản tấu trình nhập quốc ngày Ất Mão và biệt lục, ghi chép việc Tiêu Hi không chịu tập nghi thức và việc từ biệt triều đình rất chi tiết, cần tham khảo để tu chỉnh riêng, nay phụ chú vào ngày 5 tháng 4 năm Bính Thân, Hùng Châu gửi công văn sang Trác Châu. Lại có đoạn về Vua Ngủ, ngày Giáp Tý tháng 5 năm thứ 6, Vương An Thạch đã từng nói về việc này, có thể tham khảo.)
[10] Tiêu Hi lại đến, Vua sai Nội cung phụng quan, Câu đương Nội đông môn ty là Bùi Dục ban chiếu thư cho Hàn Kỳ, Phú Bật, Văn Ngạn Bác, Tăng Công Lượng, nói rằng: “Triều đình thông hảo với phương Bắc đã gần tám mươi năm, gần đây sinh sự ngày càng nhiều. Đất đai vùng Đại Bắc vốn đã có phân định rõ ràng, nhưng họ lại gây hấn, ngang ngược đến tranh biện. Trẫm đã ra lệnh cho quan lại cùng đi xem xét, tuy sổ sách rất rõ ràng, nhưng họ vẫn dùng lời lẽ xảo trá không chịu phục. Nay sứ giả ngang ngược lại đến, ý định nhất định phải đòi được. Trẫm vì trọng lời thề ước của tổ tiên, nên tạm nhẫn nhịn, nhưng lòng tham của địch không biết chán, e rằng chưa dừng lại, nếu chẳng may xảy ra chuyện gì, thì biết xử trí ra sao? Việc lớn thời xưa, ắt phải hỏi ý các bậc lão thần. Các khanh vốn mang lòng trung nghĩa, từng làm tể tướng qua ba triều, tuy thân ở ngoài, nhưng lòng chẳng lúc nào không nghĩ đến triều đình. Hãy bí mật trình bày những điều cốt yếu về cách đối đãi và phương lược phòng bị, Trẫm sẽ tự xem xét.”
[11] Hàn Kỳ tâu rằng:
[12] Thần tuổi già nhiều bệnh, tâm lực hao mòn, ngày ngày chỉ muốn xin được nghỉ ngơi, giữ gìn tuổi già. Không ngờ bệ hạ vì phương Bắc sinh sự, lo lắng phòng bị, lại nhớ đến kẻ cô ngu này, ân cần hỏi han, dám không gắng hết sức tàn, đáp lại lời hỏi của bệ hạ.
[13] Thần trộm nghĩ, Khiết Đan xưng hùng phương Bắc, chống lại Trung Quốc đã hơn một trăm bảy mươi năm. Từ khi nhà Hậu Tấn cắt đất, chiếm cả đất Hán, thêm cả các rợ phương ngoài, càng thêm kiêu ngạo. Thời tổ tiên, họ thường xuyên nam tiến, gây ra bao nhiêu tàn bạo. Lúc đó, há chẳng muốn dốc hết sức thiên hạ để đọ sức với họ sao? Nhưng cuối cùng vì thương xót sinh linh, nên nhún nhường giảng hòa. Phàm việc gì ở biên giới, đều lấy việc khoe khoang gây hấn làm điều cấm kỵ. Nhờ vậy, trong bảy mươi năm, dân hai bên biên giới đều yên ổn làm ăn, đến già chết cũng không biết đến việc binh đao. Đó là ân huệ lớn lao không gì sánh được.
[14] Thần thấy trong những năm gần đây, triều đình hành xử dường như không coi kẻ địch lớn là điều đáng lo. Kẻ địch vốn có thế lực hùng mạnh lâu năm, chưa từng khuất phục trước ta, một khi thấy tình hình sinh nghi, ắt sẽ cho rằng ta có ý đồ khôi phục vùng Yến Nam. Dù nghe nói chủ của chúng nhu nhược và mê tín Phật giáo, nhưng lẽ nào không có những tông thất cường thịnh cùng các mưu thần, mưu sĩ dẫn dắt thuyết “tiên phát chế nhân”, tạo nên mối họa này? Vì vậy, chúng nhiều lần cử sứ giả ngang ngược, lấy danh nghĩa tranh chấp địa giới để dò xét cách ta ứng phó ra sao. Nguyên nhân khiến chúng sinh nghi, thần xin trình bày đại lược như sau:
[15] Cao Ly thần phục Khiết Đan, đã lâu không triều cống triều đình, gần đây từ Chiết Lộ sai người chiêu dụ mà đến. Hơn nữa, Cao Ly là nước nhỏ, làm sao đương nổi sự hùng mạnh của Khiết Đan? Dù có đến hay không, quốc gia cũng chẳng được lợi hay mất mát gì, nhưng Khiết Đan biết chuyện, sẽ cho rằng triều đình đang mưu đồ chống lại chúng. Đây là điều khiến Khiết Đan nghi ngờ.
[16] Ở phía tây Cổ Vị thuộc Tần Châu, các bộ tộc Thổ Phồn sống rải rác trong núi rừng, không có quân trưởng thống nhất, tự cung tự cấp bằng nghề nông và chăn nuôi, chưa từng gây họa cho biên giới. Gần đây nghe nói cưỡng ép chiếm đất, lập ra Hi Hà Lộ, giết hại hàng vạn người già trẻ, tốn kém không ít. Mà Hà Châu có người nói đất thuộc về Đổng Chiên, tức là con rể của Khiết Đan, đã sợ việc mở rộng đất đai không dừng, lẽ nào không đi tố cáo? Khiết Đan nghe tin, ắt sẽ cho rằng sắp đến lượt mình. Đây lại là điều khiến Khiết Đan nghi ngờ.
[17] Vùng biên giới phía bắc gần Tây Sơn, địa thế dần cao, không thể làm nơi đắp đê. Gần đây nghe nói sai quan đem quân trồng khắp cây du liễu, mong chúng lớn lên để ngăn chặn kỵ binh địch. Nhưng việc này khởi đầu từ biên giới, không ai là không biết, giống như sách “Khánh Lịch mạn thư” từng nói: “Dựng đê phòng, chặn đường hiểm”, chẳng khác gì. Nhưng điều này đâu đủ để coi là kiên cố, chỉ khiến Khiết Đan thêm nghi ngờ.
[18] Nghĩa dũng và dân binh ở Hà Sóc đã được tổ chức lâu năm, quen thuộc với mọi việc, tướng hiệu chỉnh tề, huấn luyện tinh nhuệ, nhưng đột nhiên lại tổ chức thành Bảo Giáp, gây nên sự hỗn loạn khắp nơi. Những người Nghĩa dũng cũ, mười phần bỏ đi bảy, có người được chuyển vào Bảo Giáp, có người được thả về làm ruộng, chỉ được cái hư danh tăng số lượng, phá vỡ phép tắc hữu dụng đã có. Đây lại là điều khiến Khiết Đan thêm nghi ngờ.
[19] Từ khi họ đến để phân định địa giới, các châu quận dọc biên giới Hà Sóc và các châu quận gần bên trong đều sai quan đi kiểm tra, tu sửa thành lũy, đào hào rãnh. Công việc tu sửa và mở rộng thành trì ở các châu Triệu, Ký và Bắc Kinh rất nhiều, các loại địch lâu, chiến bằng đều được tu bổ và tăng cường, các dụng cụ phòng thủ đều được chuẩn bị đầy đủ. Ở các nơi, binh khí và trang thiết bị đều nhiều lần sai quan đi kiểm tra, sắp xếp và bày biện, việc này diễn ra nhiều lần. Lại còn lập các đô tác viện ở nhiều nơi, ban bố mẫu mới, mở rộng việc chế tạo, ở các nơi như châu Thiền còn chế tạo chiến xa. Những việc này đều là điều mọi người đều thấy, gián điệp dễ dàng nhìn thấy. Hơn nữa, kẻ địch chưa có động tác gì, họ không hề bị tổn hại chút nào, mà ta đã hao tổn tài lực, tự làm mình suy yếu trước, điều này lại càng khiến Khiết Đan nghi ngờ.
[20] Gần đây lại lập ra 37 tướng ở Hà Bắc, mỗi tướng chuyên quản việc quân sự, các châu huyện không được can thiệp. Châu Hùng là nơi kiểm soát vùng biên giới xa xôi cũng đặt tướng đồn trú. Các vật dụng tùy thân của quân lính, có thứ đã bắt lính tự chuẩn bị, có thứ bắt doanh trại tăng cường, có thứ do quan phủ chế tạo cấp phát, thậm chí còn đăng ký trước xe ngựa, lừa, la của các hộ giàu có để chuẩn bị đi theo, rõ ràng là sắp xếp thứ tự xuất chinh, không thể che giấu được. Điều này lại càng khiến Khiết Đan nghi ngờ sâu sắc hơn.
[21] Bắc triều vốn là nước địch, nếu như vậy, thì tích tụ nghi ngờ dẫn đến sự việc, không thể không như thế, cũng là họ khéo tự mưu tính vậy. Nay sứ giả ngang ngược lại đến, ban đầu tỏ ra kiêu ngạo, để dò xét triều đình. Huống chi vùng Đại Bắc và Hùng Châu vốn có ranh giới xác định, nếu khoan dung mà nhượng bộ, thực sự lo rằng lòng họ không biết chán, dần dần không ngừng, đúng như lời chiếu của Thánh thượng đã nói, quả thật không thể nhượng bộ; hoặc vì thế mà không cho, họ bèn vin vào đó cho là mình đúng, dù chưa hành động lớn, thế tất sẽ dần dần quấy nhiễu các vùng biên giới, cuối cùng làm hỏng hòa ước. Vì sự việc có nhân duyên dẫn đến như vậy, nên phiền đến chiếu chỉ sáng suốt hỏi về việc đối đãi và phòng bị. Tự nghĩ mình già nua, ngày đêm suy nghĩ, biết dùng kế sách gì để giúp Thánh thượng. Tuy nhiên, thần nghe nói chưa đến lúc mà nói là hấp tấp, đến lúc mà không nói là giấu giếm. Thần trước đây từng nói việc phát tiền Thanh Miêu là không tiện, mà những người nói lại thường buông lời vu khống, nếu không nhờ sự sáng suốt của Bệ hạ, suýt nữa bị giết. Từ khi thi hành tân pháp, dù trong đó có những điều không hợp lòng người, thực sự tránh hiềm nghi không dám bàn luận thêm. Nay được chiếu chỉ hỏi, việc liên quan đến an nguy quốc gia, đến lúc nói mà giấu giếm, là đại bất trung, tội không thể tha thứ.
[22] Thần từng trộm tính toán, ban đầu những người bàn mưu cho bệ hạ, hẳn nói rằng: “Từ thời tổ tông đến nay, kỷ cương pháp độ phần nhiều theo lối cũ, giản lược, không thay đổi thì không được. Cái gốc trị nước, trước hết phải có phương pháp làm giàu mạnh, tích trữ tiền của, lúa gạo, đặt quân trong dân, thì có thể đánh dẹp bốn phương, khôi phục toàn bộ cương thổ cũ của nhà Đường, sau đó mới chế định lễ nhạc, để văn minh thái bình.” Vì thế ban đầu phát tiền Thanh Miêu, bắt dân chịu lãi, lợi nhuận thu được lại dùng làm vốn, chỉ cốt thu nhiều, hàng năm tăng thêm vốn, không có số nhất định. Lại có phép Miễn Dịch, từ hộ trên đến hộ dưới, đều bắt lần lượt nộp tiền, mộ người đi làm dịch. Trước đây hộ trên phải đảm nhận việc nặng nề ở nha môn, nên trong số đó thường có người bị phá sản, nay hộ trên mỗi năm nộp tiền không quá ba mươi quan, yên ổn vô sự, mà bắt hộ dưới vốn không phải làm dịch phải năm nào cũng nộp tiền, như thế là hại hộ dưới mà lợi hộ trên, dù có trăm phương cứu chữa, rốt cuộc cũng không phải là phép hay. Lại trong tiền dịch, mỗi năm còn phải nộp thêm tiền Khoan Thặng để phòng việc khác, đó gọi là phương pháp làm giàu nước vậy.
Hơn nữa, nông dân nộp thuế hạ, thu, mỗi năm hai lần, nộp không đúng hạn mới bị xử phạt, nay nộp tiền Thanh Miêu và tiền dịch, đã là tăng thuế, nếu quá hạn, cũng theo phép hai thuế mà xử phạt, như thế là một hộ trong một năm, thường phải chịu sáu lần xử phạt, dân không khỏi kinh sợ. Gặp phải năm mất mùa, thì nợ nần quan phủ, lưu lạc mất nghiệp, đã rõ ràng như thế, ai dám nói ra! Lại đặt ra Ty Thị Dịch trong ngoài, thu hết hàng hóa của thương nhân trong thiên hạ, quan phủ tự thu lợi, lấy việc thu lợi làm công, tơ hào cũng không bỏ sót, tiểu thương và dân nghèo không còn đường làm ăn. Thêm vào đó, chế độ mới ban ra hàng ngày, thay đổi không ngừng, quan lại các châu huyện mờ mịt không thể nhớ hết, chỉ cần vi phạm chút ít, đều bị xử tội đồ, dù có được ân xá giảm tội, khi thôi chức cũng không được tha. Các ty Giám sát đốc thúc trách nhiệm, lấy sự khắc nghiệt làm sáng suốt, phép tắc sổ sách hà khắc hơn cả việc tố giác tiền thuế, nên giữa các châu huyện, quan lại lo sợ, ngày qua ngày, chỉ mong thoát tội là may.
[23] Nông dân là gốc rễ của quốc gia; thương nhân là người có thể mang lại của cải cho đất nước; quan lại là người giúp triều đình giáo hóa dân chúng. Nay nông dân oán than nơi ruộng đồng, thương nhân than thở trên đường đi, quan lại thì không yên tâm với chức vụ của mình, e rằng bệ hạ không thể biết hết được. Muốn chống lại bốn phương để xây dựng thái bình, nhưng trước hết lại làm lung lay gốc rễ của đất nước, khiến lòng dân ly tán oán hận, từ xưa đến nay chưa từng nghe ai có thể thành công như vậy. Đây là sai lầm lớn của những người bàn mưu đầu tiên cho bệ hạ. Bệ hạ có lòng nhân của Vua Nghiêu, trí tuệ của Vua Thuấn, biết được sai lầm của mình, có thể sửa đổi không tiếc, đó là đức lớn của bậc thánh nhân.
[24] Lại nữa, những kẻ thích tiến thân hiện nay, không nghĩ đến lợi hại của quốc gia, chỉ nói rằng việc biên giới sắp xảy ra, có thể mưu cầu giàu sang. Những người dâng kế sách để can gián bệ hạ, ắt sẽ nói: “Thế lực của kẻ địch đã suy yếu, chỉ là bên ngoài tỏ ra kiêu ngạo mà thôi. Với sự thần thánh văn võ của bệ hạ, nếu chọn tướng lĩnh dẫn đại quân tiến sâu vào địch cảnh, thì đất U Kế có thể thu phục ngay lập tức.” Đây lại là điều chưa suy nghĩ kỹ. Nay Hà Sóc nhiều năm bị thiên tai, sức dân đã kiệt quệ; các châu quận ven biển và gần biên giới thiếu thốn lương thực; tướng quan mới được tuyển chọn đều thô bạo; bảo giáp mới điểm danh, chưa được huấn luyện. Nếu đem trọng binh đóng dưới thành kiên cố, đường lương không đủ, kẻ địch từ bốn phía đến cứu viện, bị đánh cả trước lẫn sau, muốn rút lui cũng không được, thì tướng lĩnh sẽ làm thế nào? Đây là lý do mà dù có danh tướng lão luyện như Tào Bân, Mễ Tín thời Thái Tông, vẫn phải chịu thất bại ở Kỳ Câu.
[25] Thần ngu, nay vì bệ hạ tính kế, cho rằng nên sai sứ đi báo đáp, hậu đãi lễ vật, tỏ rõ lòng tin lớn, đạt đến sự chân thành, nói rõ việc triều đình từ trước đến nay làm là để tu bổ phòng bị thường lệ, việc thông hảo với Bắc triều đã lâu, từ xưa chưa từng có, há có ý gì khác, chỉ sợ bị gián điệp hiểu lầm mà thôi. Vả lại, cương thổ vốn đã định, nên giữ như biên giới cũ, xin lệnh cho quan lại biên giới rút khỏi những vùng đất bị xâm chiếm gần đây, không thể lấy cớ này để gây sự, muốn phá hoại mối quan hệ hòa hảo nhiều đời của tổ tiên, hãy mãi mãi giữ vững lòng tin và ước hẹn, hai bên dứt bỏ mọi nghi ngờ. Mong bệ hạ xem xét những việc mà Khiết Đan nghi ngờ, như các tướng quan, nhân đó mà bãi bỏ, để giải tỏa sự nghi ngờ của họ. Nếu may mà họ nghe theo, thì có thể kéo dài thời gian, bệ hạ càng thêm nuôi dưỡng dân chúng, yêu quý sức lực, chọn người hiền tài, xa lánh kẻ gian nịnh, trọng dụng người trung trực, khiến thiên hạ vui lòng phục tùng, biên phòng ngày càng được tu bổ, dưới biên giới có thừa lương thực, trong kho có dư tiền của, đợi khi kẻ địch thực sự có dấu hiệu suy yếu và loạn lạc, sau đó mới ra tay uy vũ, khôi phục lại cương thổ cũ, thỏa lòng bất bình của kẻ trung nghĩa, rửa sạch mối hận nhiều đời của tổ tiên, công đức của bệ hạ sẽ rực rỡ như mặt trời chiếu sáng vô cùng vậy.
Nếu họ không chịu phục, quyết tâm phá vỡ ước hẹn, thì hãy lệnh cho các châu Hà Bắc đào hào sâu, đắp lũy cao, đủ để tự vệ, nếu kẻ địch thực sự đến xâm lược, quân đội tại chỗ có thể tùy cơ ứng biến đánh đuổi, tướng lớn giữ vững thế trận để toàn thắng. Họ đến ta đi, một thắng một bại, là chuyện thường của nhà binh, không thể đoán trước được, tức là không biết đến khi nào mới được nghỉ ngơi. Còn về phép thanh dã, thì khó mà thực hiện triệt để, vì lúc sự cấp bách, không thể bắt cả một vùng dân chúng đem hết trâu ngựa, lương thực vào thành quách, vì đến lúc đó, có người sẽ vào núi lánh nạn, có người sẽ đưa cả gia đình vượt sông, có người sẽ để lại người trông coi nhà cửa, có người sẽ vào thành quách gần đó, nên để cho dân chúng tự do hành động, mới đảm bảo an toàn, chứ không thể căn cứ vào bản đồ mà quyết định trước, bắt họ phải vào thành quách mà ở, dù có mệnh lệnh nghiêm khắc, họ cũng sẽ không tuân theo. Thời tổ tiên, nhiều lần bị người phương Bắc quấy nhiễu, dân làng tránh giặc, cũng đều như vậy, mong triều đình không cần phải xử lý từng việc một.
[26] Thần từng phụng sự ba triều, mười năm làm phụ tá tướng quốc, chức vụ đã đến cực phẩm, trở về vinh quang nơi quê nhà, vạn sự đều đã đủ đầy, tuổi gần bảy mươi, bệnh tật trong người, thường nghĩ đến việc xin cáo lão về hưu, để giữ trọn vẹn từ đầu đến cuối. Nhân dịp được bệ hạ hỏi đến, nên dám dâng lời hết lòng, không phải vì ghen ghét người tài, cũng không phải vì cầu tiến, chỉ dùng lòng thành để tự tin. Nay người trong thiên hạ dần không dám dâng lời thẳng thắn, thần thực không nỡ phụ ơn tri ngộ của các triều trước, vẫn mong dùng lời ngu muội để thức tỉnh thánh tâm, vì phúc lớn của tông miếu xã tắc, mong bệ hạ xét kỹ, ban cho sự tin tưởng, không chỉ là may mắn lớn cho thần già này, mà còn là phúc lớn cho thiên hạ.
[27] Bật tâu:
[28] Thần vốn kém tài năng, lại được ở trong hai phủ, trước đây lúc còn tráng niên, tinh lực còn không bằng người, nay tuổi già bệnh tật, khí lực suy yếu, sao đủ để đối đáp những câu hỏi về đại chính. Nhưng thần thực không có ý kiến riêng, nay chỉ xin kể lại những điều mọi người truyền tụng, ghi chép lại để tấu lên, mong bệ hạ sáng suốt xem xét và chọn lựa.
[29] Thần trong năm sáu năm gần đây, nghe nói các nơi như Tuy Châu, La Ngột Thành, Hi Hà, Thần, Cẩm, Nhung, Lô, Giao Chỉ đều bàn việc dùng binh, chỉ có Giao Chỉ tạm dừng, còn các nơi khác đều có tiến đánh, hoặc thắng lợi, hoặc thất bại, đều lan truyền khắp thiên hạ. Còn Tuy Châu, La Ngột Thành, Hi Hà mới bắt đầu khởi sự, đã có tin đồn rằng triều đình sau này ắt sẽ khôi phục Linh Hạ, bình định Hạ Lan, rồi lại có tin đồn lớn rằng có người dâng kế sách bình định Yên, lời đồn này càng thịnh hành. Người phương Bắc ắt đã biết được và liên tiếp dò xét. Họ lại nghe triều đình tu sửa khí giáp, luyện tập binh sĩ, xây dựng thêm thành lũy, tích trữ lương thảo, lại thêm việc chiêu dụ Cao Ly làm viện binh chế ngự, gần đây lại phân bố 37 tướng ở Hà Bắc[11], việc duyệt binh càng gấp, tin đồn lan truyền lâu ngày, cơ sự phối hợp, đây là lý do khiến kẻ địch gây hấn trước, tạo ra việc xâm phạm biên giới phía Bắc, mà không chịu dừng lại.
Còn kế sách bình định Hạ Lan, bình định Yên, hư thực không thể biết, nhưng lời đồn đã nhiều và lâu, muôn người một lời, ai còn biện bạch được? Giả sử có người biện bạch, người phương xa làm sao tin được? Nay mối họa đã thành, phía Bắc các nơi đóng quân ở biên giới, tranh chấp hơn năm chưa giải quyết, sứ giả phương Bắc lại đến, việc thuộc về triều đình. Đây là trách nhiệm của quan biên cương, mà triều đình tự đảm nhận, thì e rằng khó mà kéo dài, phải quyết định ngay, nếu trái ý họ thì binh lập tức nổi lên mà họa đến nhanh, nếu thuận theo thì Hà Đông biên giới hẹp, họa tuy chậm mà lâu dài, rất bất tiện. Thần cho rằng không bằng giao hết cho quan biên cương, lệnh họ căn cứ vào bản đồ địa giới từ trước đến nay, để họ hết sức tranh luận với nhau. Nhưng người phương Bắc không phải không biết mình sai lý, chỉ là cố ý gây sự, dấy binh đao, dùng khí thế áp đảo ta, dùng thế lực lấn át ta, là muốn cướp đoạt những việc ta làm nhiều năm nay. Họ không dám vô cớ đột ngột gây ra việc này, thực sự có nguyên nhân khiến họ đến, mong bệ hạ suy xét kỹ, không nên một mực cho rằng kẻ địch gây hấn phá hoại minh ước.
Nếu họ vạn nhất xâm lược, việc không thể tránh, ta giữ binh nghiêm ngặt để đối phó, đến thì đánh, đi thì phòng thủ, đây là điều cốt yếu phòng thủ biên cương của Trung Quốc từ xưa. Nếu triều đình vì tức giận mà muốn tiến sâu đánh dẹp, thần lo rằng vạn nhất có sai lầm, hậu quả không nhỏ, lại thêm việc liên kết với Tây Hạ tạo thế gọng kìm, thì triều đình sẽ phải lo lắng suốt ngày đêm. Việc đã đến nước này, biên cương báo động khẩn cấp, binh lương đều thiếu, khó khăn trong ứng phó, phải đề phòng bọn hung ác bốn phương ắt có kẻ đang chờ đợi, cho rằng quốc gia đang lo việc bên ngoài, sợ sức không đủ chế ngự mình, bèn tụ tập nổi dậy, như ong như nhím, việc sẽ ra sao? Thần mong bệ hạ lo nghĩ cho tông miếu xã tắc, thương xót sinh dân, chịu nhục nhịn nhục, tạm cầu yên ổn, đợi đến năm được mùa, người nghèo khó được cứu giúp, kẻ lưu vong dần trở về, dân tạm yên nghiệp, thuế má không thiếu, kho lẫm không trống, ân tín được ban bố, lòng người vững chắc, sau đó mới tính kế vạn toàn, tránh được sai lầm, đây là nguyện vọng của thiên hạ, cũng là chí nguyện của thần.
[30] Lại có tin đồn rằng bệ hạ quyết định thân chinh, trong ngoài càng thêm lo sợ, lòng tan vỡ, gan rụng rời. Bệ hạ tuy thông minh anh tuấn trời ban, ắt có kế sách thành công, nhưng thiên tử thời thái bình khác xa với vị quân chủ khai sáng nghiệp lớn, việc thể hoàn toàn khác biệt, càng không thể khinh suất hành động. Lại lo rằng triều đình chỉ làm ra vẻ, thực chất không có ý định thực sự, nếu sự việc như vậy, thì chính là ta dùng hư danh để dụ địch thực sự đến. Kẻ giương hư danh, ắt có sơ hở đáng lo; kẻ thực sự đến, ắt có mưu kế chu toàn. Lấy sơ hở đáng lo mà đối phó với mưu kế chu toàn, thành bại há chẳng rõ ràng sao? Giả sử tiến đánh thành công rồi trở về, giống Khiết Đan này vốn đã tự đại, huống hồ lại có nước Hạ, Thốc Tư La, Cao Ly, Nữ Chân Hắc Thủy, Đạt Đát cùng các nước phiên khác làm đồng minh, thế lực ắt khó tiêu diệt, khiến chúng không còn tàn dư, từ đó kết thành mối họa biên giới, mãi không dứt, đây hoàn toàn không phải là đạo lý trị nước lâu dài.
Thần trộm nghĩ, nhân dịp sứ giả ngang ngược đến, có thể chọn người đem những điều khiến họ nghi ngờ ta mà giảng giải rõ ràng rằng: “Triều đình những việc chuẩn bị quân sự, đều là việc thường của Trung Quốc, không phải muốn khởi binh đánh ngoài. Những nơi từng dùng binh, đều là các nước phiên nhỏ có lỗi, triều đình cần phải hỏi tội. Nếu hai nước lớn chúng ta, đã giao hảo hơn bảy mươi năm, vô cớ sao lại muốn phá hoại? E rằng có kẻ gian xảo xúi giục, bịa đặt gây hấn, hoặc họ nghe ta chỉnh đốn việc biên giới, liền nghi ta có ý đồ gì, ta biết được, há chẳng phải lo lắng chuẩn bị, từ đó hai bên nghi kỵ lẫn nhau, gây nên hiềm khích, dẫn đến sự việc ngày nay.” Triều đình còn có thể nói thêm nhiều điều, cứ nói hết, khiến họ hiểu rõ mà không còn nghi ngờ, đó cũng là một sự trợ giúp. Nếu sứ giả ngang ngược không nghe, liền phái sứ giả báo đáp đến trước mặt Liêu chủ, trình bày rõ ý này, may ra họ nghe theo, ắt có ích lợi. Bởi họ dựa nhiều vào sự ban tặng hàng năm của triều đình mới thành quốc kế, đã có lòng nương tựa, há chẳng muốn yên ổn? Chỉ vì mối nghi chưa giải, nên mới trở nên cứng đầu. Nếu giải thích rõ ràng, ắt họ sẽ quay lòng hướng về giáo hóa, mọi hiềm khích đều có thể xóa bỏ. Nếu cứ nghi kỵ lẫn nhau, hai lòng không thông, họa hoạn ngày càng sâu, ắt sẽ hối hận. Thần xem xét thời Xuân Thu đến Chiến Quốc, chư hầu đánh nhau, hai quân đã giao chiến, tên bay trên không, sứ giả chạy dưới đất, trong lúc đó biện luận giải thích, rồi cùng rút quân, lại kết minh ước, việc như vậy rất nhiều. Huống chi nay mối họa mới manh nha, quân chưa giao chiến, có thể dùng nhiều cách lý giải, may ra có thể thành công, so với dùng chiến tranh để quyết thắng bại, khác xa vạn lần.
[31] Hai việc này là nghi ngờ và phòng ngự quân Hung Nô, thần đều nghe được từ các cuộc thảo luận của mọi người, không phải do thần tự suy đoán, đều là những lý lẽ tất nhiên mà mọi người hiện nay đều biết và thấy rõ, chắc chắn khó có thể tìm được những kế sách kỳ lạ khác ngoài việc này. Thần đều mong bệ hạ vừa tìm kiếm vừa tham khảo rộng rãi, không nên chỉ nghe theo một phía, e rằng có người vì muốn hợp ý bệ hạ và sợ hãi những kẻ đang nắm quyền, không dám tâu lên sự thật, làm ảnh hưởng đến đại kế của quốc gia. Thần nay nói đến việc này vì nghe nói mùa xuân năm ngoái do hạn hán kéo dài, bệ hạ đặc biệt ban chiếu chỉ, cho phép mọi người thẳng thắn trình bày những được mất của triều chính, trong ngoài đều vui mừng, đều cho rằng thánh ý đã thực sự mở mang, nhưng sau đó nghe nói có rất nhiều người dâng sớ bàn luận, rồi bị giáng chức, bệ hạ không hề coi trọng chiếu chỉ kêu gọi mọi người thẳng thắn trình bày và khoan dung, ngược lại khiến họ phạm tội, từ đó các sĩ đại phu đều cẩn thận giữ mình, không dám nói ra những lời trung thực. Thần cho rằng tình hình dưới không thể thông lên trên là mối họa lớn nhất của triều chính, mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa, cân nhắc kỹ lưỡng, sớm khiến thiên hạ được hưởng ơn và triều đình không xảy ra việc gì, đó là điều may mắn lớn. Bản tấu này viết vội, lại muốn sự việc rõ ràng, không dám thêm chút văn hoa hay dẫn chứng cổ sự, chỉ thẳng thắn viết ra lợi hại mà thôi. Xưa tướng nước Sở là Tử Phản nói rằng nước Tống nhỏ bé còn có bề tôi không lừa dối người, huống chi là nước lớn Trung Nguyên, đã có hiềm khích với người phương Bắc, nay nếu không lấy thành tín đối đãi, e rằng không thể giải tỏa nghi ngờ. Kính mong bệ hạ đặc biệt xét tha.
[32] Ngạn Bác nói: “Tính tình của kẻ địch là tham lợi quên nghĩa, nhưng từ thời tổ tiên đã giao hảo với họ, dân chúng được yên ổn gần tám mươi năm, chưa từng xâm phạm. Chỉ có đầu niên hiệu Khánh Lịch, nhân lúc việc phía Tây của ta chưa yên, nên họ mới đòi hỏi, lúc đó lại lập thệ thư, cũng là nghĩa tìm kiếm minh ước xưa. Từ mấy năm trước, họ nhiều lần đến đòi đất Bạch Câu và yêu cầu dỡ bỏ nhà cửa.
Huống chi trong thệ thư đã ghi rõ đất Bạch Câu do Hùng Châu quản lý, hai triều đã tuân thủ lâu nay, lời thề đã thề trước trời đất thần linh, cáo với tông miếu xã tắc, nếu việc này mà thay đổi, thì lấy gì để hưởng quốc! Nay Tiêu Hi lại đến, lại quyết định giao lễ vật ở Bắc Đình Hùng Châu, ý họ muốn lấy Bắc Đình Hùng Châu làm biên giới. Xét lòng tham của họ, cũng là do đầu niên hiệu Khánh Lịch, việc phía Tây chưa yên, họ đến đòi đất Hoàng Ngôi, triều đình dễ dàng bỏ cho họ.
Nhưng Trung Quốc phòng thủ kẻ địch, lấy giữ chữ tín làm đầu, tất phải lấy thệ thư làm chứng, dù họ có lời lẽ xảo trá, cũng khó mà cướp được lý lẽ chính đáng. Thần lại lấy lẽ mà suy, việc vốn có nghịch thuận, lý vốn có cong thẳng, nếu kẻ địch không kể cong thẳng lợi hại, dám nảy lòng xâm phạm, triều đình vốn đã nghiêm ngặt trong việc chuẩn bị, đủ lương đủ quân, thành trì kiên cố, bảo toàn dân chúng, đánh thì thắng, giữ thì vững, chỉ có thế thôi. Đại để quân Trung Quốc, lợi thế ở chỗ làm chủ, lấy chủ đợi khách, lấy nhàn đợi mệt, lý tất thắng.
Thần nghĩ ý Thánh thượng coi trọng việc hành động, lời nói đầy triều, có thể có ý kiến khác, hoặc nói ra tay trước, ý muốn hành động nhẹ nhàng; hoặc nói nhân lúc họ chưa chuẩn bị, đánh úp lấy Yên Kế. Việc không xem xét kỹ, e rằng sẽ hối hận, không phải là kế vạn toàn của quân vương, kính mong Bệ hạ lưu ý xem xét kỹ. Nay triều đình phân bố tướng quan, chỉnh đốn khí giới, đã được rồi, nhưng tướng hiệu thiên tì, cần phải lựa chọn người. Lại nữa, Hà Sóc đói kém liên miên, nếu binh đao kéo dài chưa dứt, vật lực kiệt quệ, thì thành trì kiên cố cũng không giữ được, lo liệu trước thì sau không khó.”
(Ngạn Bác tự chú tập tháng 3 năm thứ 9. Xét: Ngạn Bác nói tháng 3 là đúng, còn năm thứ 9 thì nên là năm thứ 8.)
[33] Công Lượng nói: “Quốc gia dùng chính sách thông hòa để khống chế kẻ địch mạnh, tuy hàng năm phải cống nạp vàng bạc, nhưng được ngừng binh đao, cho dân nghỉ ngơi đã hơn bảy mươi năm. Gần đây nhiều lần gây ra mâu thuẫn, có lẽ là để tự bảo vệ, nếu không thì cũng là do mưu kế sai lầm. Vùng đất Đại Bắc, theo chiếu chỉ đã nói rõ, các quan lại xem xét sổ sách, bản đồ rất rõ ràng, nên dù muốn bao dung cũng sợ không có danh nghĩa, mà cho họ mà không có danh nghĩa thì lòng tham không đáy của họ sau này sẽ không thể thỏa mãn. Hơn nữa, tính tình của kẻ địch là sợ mạnh, khinh yếu, điều quan trọng là phải khống chế đúng cách.
Trước niên hiệu Gia Hựu, Tây Hạ khá tuân thủ lời thề ước. Năm Gia Hựu thứ nhất, họ tranh giành đất đai ở Lân Phủ, bắt giữ Quách Ân Vũ, giết Hoàng Đạo Nguyên, triều đình tạm thời bao dung, không một lời hỏi tội. Đến năm Trị Bình thứ hai, họ lại nhận nhầm Đồng Gia Bảo là đất của mình, giết hại hàng ngàn dân thuộc hộ và cung tiễn thủ, cướp đi hàng vạn trâu ngựa. Sau đó kiểm tra lại địa giới Đồng Gia Bảo, mới biết đó là đất của mười chín hộ dân sinh sống thời Nguyên Hạo hiến tặng, bèn hạ chiếu dụ. Phó sứ các ty là Vô Kị mang chiếu đến biên giới, bị cự tuyệt không nhận, triều đình không muốn trị tội nặng, chỉ sai Diên Châu gửi văn thư hỏi, họ liền đem quân vây đánh Đại Thuận Thành, Lượng Tộ trúng tên bỏ chạy.
Sau đó tuy có cử sứ đến cống nạp, nhưng vẫn nhiều lần xâm phạm biên giới, triều đình bèn hạ chiếu tạm ngừng cống nạp hàng năm, họ lại khẩn cầu, triều đình đối đãi như cũ, nhờ vậy họ phục tùng được tám chín năm. Thần nghĩ tình hình phương Bắc cũng không khác gì. Thần ngu muội, xin triều đình chọn người mưu lược đi sứ, nói rõ việc họ gây hấn, ý bao dung của Trung Quốc, còn về biên giới, đã xác minh rõ ràng, không thể xâm phạm, khiến chủ tướng địch hiểu rõ, không bị bọn thần tử tham công mê hoặc, ắt không dám manh nha ý định xâm phạm biên giới.
Hơn nữa, thế lực của Trung Quốc hiện nay khác hẳn thời Ung Hi, Cảnh Đức, quân đội Hà Bắc đã tăng gấp đôi, lại thêm dân binh, cùng với việc huấn luyện trận pháp phần nhiều do Thánh thượng quyết định, dùng thế này đối phó kẻ địch, không phải là không có chuẩn bị. Nhưng vẫn cần chọn lựa tướng soái, biên giới phía Bắc lâu không dùng binh, tuy có người tài, nhưng chưa được thử thách. Nếu chọn được tướng soái giỏi, giao phó một mặt trận, để họ tại chức lâu dài, xem cách bố trí, tài lược của họ, đủ dùng về sau. Có người nói quân lính Hà Bắc lâu ngày không đánh trận, thì quân Thiểm Tây, Hà Bắc gần đây có quân thắng trận, có thể ghi chép lại, để phòng khi cần điều động.
Nếu kẻ địch xâm phạm biên giới, xin trước hết cắt bỏ cống nạp hàng năm, dùng tướng giỏi, quân tinh nhuệ đối phó, đó cũng là lúc họ tự diệt vong. Thời Cảnh Đức, kỵ binh địch nam tiến, gặp quân thân chinh, liền vội vàng xin giảng hòa, nếu không phải Chân Tông thương xót họ thành khẩn đầu hàng, cho ngừng binh, thì họ đã bị diệt sạch. Huống chi thế phòng thủ hiện nay lại khác xưa, chỉ có đường Định Châu là then chốt, nếu lúc đầu kẻ địch xâm phạm, đừng đụng độ với khí thế mạnh mẽ của họ, đợi họ vào sâu trong lãnh thổ, mệt mỏi, dùng trọng binh đánh úp, ắt không thể không thắng. Nếu kẻ địch dám tiến sâu vào nội địa, thì thần cho rằng sông lớn hiểm trở, có thể thay thế vài lớp thành kiên cố, vài chục vạn quân tinh nhuệ, giặc đến bờ Bắc, trước mặt là sông lớn ngăn trở, sau lưng có trọng binh chặn đánh, tiến không được, lui không xong, quân triều đình lại bày cung nỏ mạnh ở bờ Nam chờ sẵn, đó là thế trăm trận trăm thắng. Hiện nay Trung Quốc đối đãi kẻ địch đã rất bao dung, nếu họ cứ gây sự mãi, không khiến họ biết sợ, thần e rằng khó mà khuất phục được. Quyền khống chế, đừng để bị đảo ngược, kẻ địch phương Bắc biết Trung Quốc không thể xâm phạm, mưu đồ gian trá cũng tự tiêu tan.”
Sử nhà Chu chép: Kỳ và những người khác đoán Thượng hoàng lo lắng về kẻ địch, nên chỉ sâu vào thời sự mà nói, tấu chương dâng lên không thể thi hành, kẻ địch cuối cùng cũng không động tĩnh. Nay theo bản mới, bỏ đi chiếu sai Bùi Dục ban cho Hàn Kỳ và ba người khác. Bản mực chép vào ngày Nhâm Thân, tháng mười, năm thứ bảy, và kèm theo tấu chương của Kỳ và những người khác. Xét chiếu thư có câu “sứ giả ngang ngược lại đến”, tức là Tiêu Hi lại đi sứ, vào ngày Canh Tý, mồng tám tháng ba, năm thứ tám vào chầu, không thể ngày mồng tám tháng mười, năm thứ bảy đã nói “sứ giả ngang ngược lại đến”. Bản mực đã sai, bản chu theo đó, nay dời vào tháng tư năm thứ tám, lúc Tiêu Hi đi, vẫn lấy việc Tiêu Hi lại đến đặt đầu, để chiếu thư và tấu chương không mâu thuẫn.
[34] Ngày Đinh Mão, chúa nước Liêu sai Vĩnh Châu quan sát sứ Gia Luật Cảnh Hi, Sùng Lộc thiếu khanh Hàn Sân, mẹ chúa sai Hoài Đức quân tiết độ sứ Gia Luật Đạt, Quảng Châu phòng ngự sứ Lưu Tòng Hữu đến chúc mừng lễ Đồng Thiên.
[35] Chiếu chỉ cho Quốc Tử Giám đuổi nội xá sinh Đào Lâm ra khỏi trường. Trước đây, Lữ Huệ Khanh tiến cử Lâm làm kiểm thảo ở sở Kinh Nghĩa. Mẹ Lâm bệnh, Lâm xin nghỉ về thăm. Nghe tin Vương An Thạch được triệu làm tướng, Lâm đi đường vòng đến gặp. An Thạch về triều tâu lên, nên bị đuổi. Sau đó, ngự sử Thái Thừa Hi lại tâu việc này, lại có chiếu chỉ phạt đánh ba roi. Vua hỏi An Thạch vì sao trước kia dùng Lâm, An Thạch đáp: “Ban đầu không thấy lỗi nên dùng, nay thấy có tội nên bãi, chính sự phải như vậy.” 《Nhật lục》 chép: Từ Tứ Châu đi ngược đến Lâm Hoài yết kiến ta. Không rõ quê quán của Lâm ở đâu, cần tra cứu thêm.
[36] Chiếu chỉ bãi bỏ châu thành huyện, bãi bỏ huyện thành trấn. Nếu kiêm quản binh lính hoặc huyện có trên một vạn hộ, trấn có trên một nghìn hộ, thì giao cho chuyển vận ty tiến cử tri huyện, giám trấn quan. Các trường hợp khác không phải mới bãi bỏ, đều do thuyên viện tuyển chọn bổ nhiệm.
[37] Ngày Mậu Thìn, ban ruộng hộ tuyệt ở Tây Kinh Chiêu Hiếu thiền viện, và miễn thuế dịch cho họ.
[38] Quản hạt Kinh Đông ứ điền Lý Hiếu Khoan tâu: “Xin đợi nước sông Phàn Sơn đến, mở bốn cửa đập dẫn nước vào ruộng, tạm ngừng vận chuyển đường thủy hai ba mươi ngày.” Vua đồng ý. Vì nước sông Phàn dâng cao và đục, có thể dùng để bồi ruộng.
[39] Ngày Quý Dậu, Vua phê: “Hi Hà lộ[12] thiếu hụt tiền lương, e ảnh hưởng đến kế hoạch biên phòng, nên nhanh chóng bàn cách giải quyết.” Bèn sai Duy Châu đoàn luyện suy quan Đỗ Thường đi khảo sát và xử lý, tăng thêm việc chiêu mộ cung tiễn thủ. Muốn giảm bớt quân đồn trú, giảm nhẹ gánh nặng biên cương. Sau đó lại có chiếu chỉ cùng Cao Tuân Dụ cắt giảm số lượng xây dựng.
[40] Chiếu bãi bỏ việc cấp ruộng để chiêu mộ người sung vào việc dịch, những người đã được chiêu mộ thì vẫn theo như cũ, còn những người bỏ trốn, chết hoặc bị thay thế thì không bổ sung. Trước đó, Vương An Thạch tâu với Vua rằng việc cấp ruộng chiêu mộ người làm dịch có hơn mười điều hại, Vua nói: “Nếu như vậy, ban đầu sao lại có nghị định này? Người bàn nghị chắc chắn nói đến lợi ích.” Hôm sau, kiểm tra lại nghị định ban đầu, thì là lời của Lý Thừa Chi nói rằng chiêu mộ cung thủ nên giống như chiêu mộ cung tiễn thủ thì tiện lợi, từ đó đặt ra pháp này, còn lại không có lợi ích gì. An Thạch nói: “Chỉ dùng ruộng để chiêu mộ cung tiễn thủ, đã không tiện bằng chiêu mộ cung thủ. Cung tiễn thủ tuy chọn người khỏe mạnh, nhưng lại lấy đủ từ một gia đình, nếu có thể là người khỏe mạnh thì không từ chối. Còn cung thủ thì chọn người khỏe mạnh từ khắp nơi, những người được chiêu mộ đều là người thực sự khỏe mạnh.” Vua bèn ra lệnh bãi bỏ pháp chiêu mộ người làm dịch bằng ruộng. Theo 《Thực lục》 thì việc này xảy ra vào ngày mùng 3 tháng 4, nay nhân việc bãi bỏ cấp ruộng chiêu mộ dịch mới chép lại. Ngày Giáp Thân 22 tháng 2, Vương Đình Lão có thể khảo cứu.
Vương Kinh công An Thạch khi nắm quyền, thấy việc lao dịch hại nông dân, mà những người nhàn rỗi không có việc làm, nên đề xuất nông dân đóng tiền để chiêu mộ người nhàn rỗi làm dịch, như vậy nông nghiệp và dịch vụ khác nhau, không cản trở lẫn nhau. Pháp này thi hành được mấy năm. Kinh công ra làm phán quan ở Kim Lăng, tiến cử Lữ Huệ Khanh làm Tham tri chính sự. Huệ Khanh nghe lời em là Ôn Khanh, cho rằng tiền dịch vẫn theo như cũ, mà cấp ruộng nhàn ở các lộ để chiêu mộ người làm dịch. Sau đó, ruộng nhàn ít, người làm dịch nhiều, không thể cân bằng được trong thiên hạ, đang lo pháp này không thể thi hành, thì Trung thừa Đặng Oản lại tâu: “Huệ Khanh có ý phá hoại, nên làm hỏng tân pháp.” Do đó, không thi hành lời của Ôn Khanh, mà vẫn theo như cũ cấp tiền chiêu mộ dịch. Việc này căn cứ theo 《Đông Hiên Lục》 của Ngụy Thái. Thái thực không biết sự thật, tạm ghi lại để chứng minh sai lầm. Ngày 24 tháng 5 năm thứ 7 ban đầu hạ chỉ huy, Tô Thức tấu nghị vào ngày mùng 6 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Vương Nham Tẩu bác tấu vào cuối tháng 3 năm thứ hai, nên cùng khảo cứu.
[41] Ngày Ất Hợi, Long đồ các Trực học sĩ, Quần mục sứ Lý Trung Sư quyền phát khiển Khai Phong phủ.
[42] Hữu Giám môn vệ Đại tướng quân Trọng Tiễn lĩnh chức Nhã Châu thứ sử, được ban chiếu chỉ: “Trọng Tiễn liêm khiết, tĩnh lặng, tu dưỡng thanh cao, ham học, biết phận, gần đây từng được triệu đối, có thể đặc cách thăng chức.” Nhật lục chép: Ngày 19, Vua nói: “Người tham gia mưu phản với Thế Cư là y nhân Lưu Dục từng xin được điều đến phủ Kỳ Vương, nhưng Kỳ Vương thấy hắn nhiều chuyện nên không cho. Hắn lại đến xin với Gia Vương, Trọng Tiễn nói người này nhiều chuyện, không nên ở trong phủ vương, nên mới thôi.” Vua nhân đó khen Trọng Tiễn liêm khiết, ham học, biết phận. Vương An Thạch nói: “Người như thế biết trung tín, ít ham muốn, có ích cho đời.” Vua nói: “Đúng vậy.” Nay phụ chép việc này. Ngày 4 tháng 3, Thế Cư và Lưu Dục bị bắt giam; ngày 21 tháng 4 nhuận, xét xử vụ án.
[43] Thái Thường Lễ viện tâu: “Đã tôn Hi Tổ làm thủy tổ của Thái miếu, lễ tế Đế vào mùa hạ, nên chính thức đặt ở vị trí hướng đông, xin từ nay lễ Đế và Hợp tế được định làm lễ thường.” Chiếu chỉ chuẩn y.
[44] Ngày Bính Tý, Kỳ Vương Hạo lại dâng tấu xin được ban tư đệ bên ngoài, chiếu chỉ trả lời không cho phép.
[45] Ngày Mậu Dần, Xu mật phó sứ, Hữu Gián nghị đại phu Ngô Sung được làm Kiểm hiệu Thái phó, Hành Công bộ Thị lang, Xu mật sứ. Vua phê: “Ngô Sung tham gia cơ chính lâu ngày, tận lực với chức vụ.” Nên có mệnh lệnh này.
[46] Đề cử Hà Bắc Tây lộ Địch tiện lương thảo, Kim bộ Viên ngoại lang Lữ Gia Vấn được làm Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự. Vua phê: “Hi Hà lộ hiện thiếu tiền và lương thực, mà việc điều động vật liệu xây dựng của Tướng tác quá nhiều. Nay việc tu sửa Tam ty sắp xong[13], việc xây dựng ở kinh sư cũng tạm ngừng bảy năm, đã không có nhu cầu cấp thiết, có thể tạm dừng việc mua sắm để giảm bớt chi phí biên giới.” Lúc đó, vật liệu tu sửa Tam ty đã đủ, nhưng quân Thông Viễn và phủ Phượng Tường nhiều năm qua còn nợ hơn 50 vạn cây gỗ chưa nộp, Trung thư xin miễn hết, và cho binh lính đang làm việc tiếp tục đi chặt gỗ, Vua đồng ý.
[47] Chiếu chỉ cho phủ Giang Ninh mượn tiền và gạo từ kho Thường bình để tu sửa thủy lợi nông điền, nếu hạn kỳ chưa đủ, gia hạn thêm một năm. Theo lời thỉnh cầu của Tể tướng Vương An Thạch.
[48] Đô đại đề cử Hoàng, Ngự đẳng hà công sự Trình Phưởng tâu: “Xin từ sông Hô Đà và sông Hồ Lô dẫn nước để bồi đắp và tưới tiêu cho vùng đất cằn cỗi ở hai hương Ngụy Công và Hiếu Nhân thuộc bờ nam sông Hô Đà, khoảng hơn 15.000 khoảnh, và từ cửa đạo Song Lăng thuộc quân Vĩnh Tĩnh dẫn nước sông để bồi đắp và tưới tiêu cho vùng đất cằn cỗi ở các thôn Khúc Điện thuộc bờ bắc, khoảng hơn 12.000 khoảnh, đều đợi sang năm sẽ khởi công.” Triều đình đồng ý. Ngày 25 tháng giêng có thể tra cứu. 《Hà cừ chí》 quyển thứ hai chép: Sông Hô Đà vốn là nước từ núi phía tây, chảy qua Chân Định, Thâm Châu, Càn Ninh rồi hợp lưu với sông Ngự. Năm Hi Ninh thứ nhất (1068), nước sông dâng cao tràn bờ, triều đình xuống chiếu cho Đô thủy giám và Ty chuyển vận Hà Bắc đôn đốc việc nạo vét. Năm thứ sáu (1073), Thâm Châu, Kỳ Châu và quân Vĩnh Ninh tu sửa sông mới. Tháng giêng năm thứ tám (1075), huy động 5.000 dân phu cùng với sông Hồ Lô để tăng cường việc trị thủy. Tháng tư, Trình Phưởng tâu: “Các việc dẫn nước tưới tiêu cho vùng đất cằn cỗi ở các hương Ngụy Công thuộc bờ nam, tổng cộng khoảng 15.000 khoảnh; vùng đất cằn cỗi ở các thôn Khúc Điện thuộc bờ bắc, tổng cộng khoảng 12.000 khoảnh.” Triều đình đồng ý.
Sang năm, Trình Phưởng dâng tâu về công lao bồi đắp ruộng, thăng Trương Thích làm Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ, Trương Thích làm Đại Lý tự thừa. Từ đó, thủy lợi ngày càng phát triển và dân chúng được hưởng lợi. 《Hà cừ chí》 quyển thứ ba lại chép: Tháng tư năm thứ tám (1075), Trình Phưởng tâu: “Lệnh huyện Tĩnh An thuộc Thâm Châu là Nhậm Diên đã kiểm tra và đạp sông Hô Đà bờ nam, dẫn nước vào sông cũ giữa hai đê, bồi đắp và tưới tiêu cho vùng đất cằn cỗi và mặn ở hai hương Ngụy Công và Hiếu Nhân thuộc bờ nam, khoảng hơn 15.000 khoảnh, xin sang năm sau khi thu hoạch xong lúa mạch, sẽ dẫn toàn bộ nước sông Hô Đà và sông Hồ Lô để bồi đắp và tưới tiêu.” Triều đình đồng ý.
[49] Tri Quảng Tín quân Địch Vịnh tâu: “Khiết Đan dời hai trạm Tân Mộc và Nội Thành thôn đến gần biên giới, muốn cho hai trạm Trương Qua thôn và Tân Hà khẩu thuộc quân ta cũng dời đến gần biên giới, đối diện với họ.” Triều đình xuống chiếu cho Ty an phủ dọc biên giới Hà Bắc cử quan đi khảo sát, nếu hoàn toàn thuộc đất phía nam thì đồng ý như lời tâu. Tri Hùng Châu Vương Đạo Cung tâu: “Bên kia biên giới thay đổi vị trí các trạm, đã gửi văn thư chất vấn, chưa dám lệnh phá dỡ lại.” Triều đình xuống chiếu đợi khi quân phòng thủ của Khiết Đan rút lui thì sẽ phá dỡ.
[50] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ tâu: “Đã dụ bảo các bộ tộc phiên, nhân đó xin vay lương, mỗi người xăm tên trại trên mu bàn tay, chọn làm ba hạng, ghi tên vào sổ.” Vua nghe theo.
[51] Xuống chiếu cho ty Quân đầu, khi trình diễn thí võ nghệ, nếu có năm người trở lên, hoặc việc hơi quan trọng, thì đều xin chỉ sai quan giám sát.
[52] Ty Nông tự tâu: “Dân chúng các châu huyện nhiều người bỏ tiền cúng, bán ruộng đất cho chùa chiền, giả mạo tên quan lại. Xin cho các nơi treo bảng dụ, cho phép trong trăm ngày tự khai báo, sửa lại làm của riêng, vẫn theo phép sổ sách mà nộp thuế dịch.” Vua nghe theo.
[53] Lệnh cho Chu Vĩnh Thanh, người mới được bổ làm Tri châu Đại, thay Trương Thành Nhất, cùng Hàn Chẩn phân định địa giới. Vua vì ty Thừa chỉ và các cửa còn thiếu quan, nên giữ lại Thành Nhất. Vĩnh Thanh vào chầu, tâu: “Biên giới không thể dễ dàng cho người, thần giữ đất, không muốn đi.” Vua bèn sai đi. Giữ lại Thành Nhất làm quan ty Thừa chỉ và các cửa, việc này căn cứ vào 《Ngự tập》. Ngày 28 tháng 6, Vĩnh Thanh trở về Đại châu. 《Cựu kỷ》 cũng chép Tri châu Đại Chu Vĩnh Thanh thay Trương Thành Nhất bàn việc biên giới. 《Tân kỷ》 bỏ đi.
[54] Vương An Thạch tâu với Vua: “Khiết Đan lớn mà không có mưu lược, nên có nhiều kẽ hở để lợi dụng, lại thống nhất các nước và người Yên làm một, là nước chia năm xẻ bảy.” Vua nói: “Trung Quốc gồm đất Yên, Tần, Sở, Việt vạn dặm, xưa nay những gì để thắng ngoại địch đều có cả. Nếu sửa sang chính sự hình pháp, thì Khiết Đan thực không đáng sợ.” An Thạch nói: “Trung Quốc như vật lớn, phải dùng sức mạnh lớn mà vận hành.” Lại bàn về binh dân, An Thạch nói: “Đã lấy dân làm lính, thì nên yêu quý được lòng dân. Như trước đây bệ hạ muốn lấy nghĩa dũng làm lính mộ, định giá trâu lừa, đó là điều rất không được lòng dân, việc an nguy có thể bắt đầu từ đó. Người xưa coi dân là quý, không thể không xem xét.” Vua giật mình nói: “Đúng vậy.” Việc định giá trâu lừa, xảy ra ngày Giáp Thân 21 tháng 12 năm thứ 10.
[55] Ngày đó, mồng 7 tháng 4. Trình bày việc so sánh số lượng ngựa, Xu mật viện muốn giữ lại chăn nuôi ngựa, lại muốn giữ lại ngựa chăn nuôi để chuẩn bị cho quân đội vận chuyển (ngựa và chó). Trung thư so sánh, mỗi năm dùng ba vạn quan để mua ngựa sinh ra từ chăn nuôi, số lượng đủ, và mỗi năm có thể tiết kiệm được năm mươi ba vạn quan tiền quan, lợi ích đất đai thuộc về dân, còn chưa tính đến số lượng. Mỗi năm chăn nuôi ngựa được hơn hai trăm con[14], ngựa không có màu sắc đều được phân phối cho quân đội, cũng chỉ hơn hai trăm con, mà Trung thư kế hoạch mua ngựa ở Hi Hà, chưa đầy mười tháng[15], so với trước đã tăng hơn chín mươi con. Vua ra lệnh cho Trung thư thi hành, nhưng Ngô Sung cố tranh luận, cho rằng: “Chăn nuôi ngựa không nên bỏ, nếu kẻ địch ngoại bang chống cự, không thể mua ngựa, Trung Quốc làm sao có được ngựa?”
Vua nói: “Dù vậy, chăn nuôi ngựa cũng không giúp được gì. Thời tổ tiên, chăn nuôi ngựa chỉ nuôi ngựa lớn, sau này sinh sản, việc này rõ ràng không có gì nghi ngờ.” Sung nói: “Trước đây ra lệnh nhận định lừa và trâu, Trung thư liền nói là gây phiền nhiễu. Nay Trung thư lại muốn tạm thời mua lừa để vận chuyển (ngựa và chó), chẳng phải là gây phiền nhiễu sao?” An Thạch nói: “Khi không có việc, không hỏi có lừa và trâu hay không, phải ra lệnh cho năm hộ hoặc mười hộ cùng nhận một con lừa hoặc trâu, không biết con trâu và lừa này giao cho ai làm chủ? Vả lại, những người không có lừa và trâu, phải bị phân phối đóng tiền, đó là lý do gây phiền nhiễu. Nay Trung thư tính toán, nếu gặp lúc cần lừa, dùng giá hiện tại hạng nhất tăng gấp đôi để mua lừa, sau khi việc xong sẽ không thu thêm một đồng nào. Tức là cứ ba năm một lần dùng binh, so với việc nuôi ngựa để dùng có thể tiết kiệm được bảy mươi vạn quan. Dùng giá hạng nhất tăng gấp đôi để mua lừa, giả sử thu mua, cũng không gây thiệt hại cho dân, đó là lý do dễ dàng hơn trong việc dự định.” Vua nói: “Việc này lợi hại rõ ràng, hơn nữa ngựa đều còn non, sao có thể vận chuyển (ngựa và chó) được.” Đã ghi chú ngày Giáp Thân tháng 12 năm thứ 7, nay sửa vào chính văn.
[56] An Thạch lại tâu với Vua rằng: “Năm ngoái xét việc miễn thuế, kho lẫm ở Đông Nam đều trống rỗng, đó không phải là kế sách hay. Đây là do Phùng Kinh cố ý làm vậy, giống như việc Tô Tần chôn cất cha mẹ hậu hĩ để tỏ lòng hiếu thảo.” Lại trình lên việc trước đây mượn vật dụng từ kho thường bình giao cho Ty chuyển vận để tu sửa thành hào, An Thạch nói: “Thần cho rằng nên tiết kiệm vật dụng từ kho thường bình để phòng khi cần kíp, không nên vội vàng chi tiêu như vậy.” Vua cho là phải, bèn hạ lệnh hủy bỏ chỉ dụ trước đó, trả lại độ điệp cho Tư nông. Chỉ dụ trước đó cần được xem xét lại. Ngày 18 tháng 4 nhuận, An Thạch lại nói về việc miễn thuế, có thể tham khảo thêm.
[57] Ngày Canh Thìn, Ty trà trường phủ Thành Đô và các lộ tâu rằng: “Trà từ huyện Danh Sơn, châu Nhã chuyển đến các nơi như Tần châu, Hi châu, xin cho quan trường mua hết, không cho phép thương nhân buôn bán.” Vua hạ chiếu cho phép thương nhân mua tại quan trường, mỗi con (Mã khuyển) nộp 1.000 tiền trường dẫn, chỉ định buôn bán tại các châu quân.
[58] Phó quân chủ người Thổ là Lý Mặc Tiển Giác được thụ chức Tam ban tá chức, Tuần kiểm bản tộc, tự nhận có công chiêu an các bộ người Thổ.
[59] Phán quan lộ Hà Bắc Đông là Lữ Ôn Khanh tâu rằng: “Xin cho lập sổ sách, huyện thông báo cho dân khai báo ruộng đất trong hộ từ trước đến nay bị bỏ sót, sẽ không bị trị tội, thuế má tích lũy nhiều năm cũng được miễn truy thu.” Vua đồng ý.
[60] Ty chuyển vận lộ Hà Bắc Tây tâu rằng: “Quân Bắc quá giới, bắt giữ tiết cấp tuần tra ngang là Đỗ Tân và những người khác ở trại phía bắc phủ Chân Định.” Vua phê rằng: “Đây là việc của Ty an phủ, Ty chuyển vận can dự làm gì? Hãy trình bày rõ ràng để tâu lên.”
[61] Quyền Ngự sử trung thừa Đặng Oản tâu: “Phụng chiếu xem xét thư từ trong nhà của Thế Cư, có những người thân thiết với Thế Cư thì sau khi tra xét sẽ bắt giữ. Bản đài đã xem xét thư từ trong nhà của Thế Cư, đều là những thư từ qua lại bình thường, số người không ít, chưa dám bắt giữ tất cả.” Chiếu rằng những người có tội theo pháp luật thì lập tức bắt giữ. Oản lại tâu: “Lý Phùng, Thế Cư và những người khác khởi ý đều do cầm theo sách đồ sấm và sách tà đạo để mê hoặc lẫn nhau. Xét kỹ biên chế sắc lệnh, cấm sách sấm, tuy phạt lưu đày ba ngàn dặm, nhưng nếu không vì việc gì vướng mắc thì không thể phát hiện được. Vì thế pháp lệnh chỉ là hình thức, người ta không biết sợ, nhà sĩ thứ cũng có người cất giữ truyền tụng, không cho là lạ. Xin hạ lệnh cho các lộ, tuyên bố rõ rằng ai thu giữ truyền bá sách đồ sấm thì lập tức đốt bỏ, hoặc tự nộp cho quan, quan sẽ đốt bỏ, quá hai tháng thì cho phép người tố cáo, thưởng hậu, kẻ phạm tội xử tử.” Chiếu giao cho Biên chế sở lập pháp để tâu lên. Sau đó lập pháp: Ai tư giữ sách đồ sấm và tư truyền tập thì cho phép người tố cáo, thưởng trăm ngàn tiền. Theo đó[16]. Oản lại tâu: “Thế Cư thu nạp kẻ xấu, bàn việc binh, cầm sách sấm, tìm hiểu thiên văn biến dị, dò xét việc tốt xấu của quốc gia, xuất nhập kết bè, nhiều năm nay, Tông chính không xét, giáo quan không có biểu hiện gì, tội của họ không thể không trị. Lại nữa, tông phủ rõ ràng có lệnh cấm cửa, nhưng Phùng và những người khác xuất nhập tự do, cửa cung không có sổ sách kiểm tra, nên trị tội các quan giám môn.” Lại tâu: “Trong văn tự của Thế Cư có một bộ sách về thuật công thủ, lấy được từ nội thần, Trương Tông Lễ từng làm việc ở Tam quán, đánh cắp bản in quan để lại, tuy đã được ân xá và bãi chức, nhưng xin đặc biệt lệnh bắt giữ sau khi tra xét.” Theo đó.
[62] Ngày Nhâm Ngọ, Tuyên huy Bắc viện sứ Trương Phương Bình làm Trung Thái Nhất cung sứ. Phương Bình vì lễ chúc mừng tiết Đồng Thiên xong, muốn xin một châu gần kinh, nên có sự bổ nhiệm này.
[63] Chiếu cho các quan kinh triều và người được tuyển chọn thi kinh sách, luật lệnh, đại nghĩa và xử án. Bậc thượng đẳng, Đại Lý bình sự Lương Tử Dã được ban cho đồng tiến sĩ xuất thân, hai người được thăng chức theo thứ tự, đều được bổ nhiệm tại triều; bậc trung đẳng có 47 người được bổ nhiệm tại triều; bậc hạ đẳng có 63 người đều được sai phái và bổ nhiệm chức vụ. Tử Dã là cháu của Lương Thích.
[64] Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh xin miễn việc năm ngày một lần đến giảng diên, được chấp thuận.
[65] Ty chuyển vận Hồ Nam tâu rằng nước sông ở các châu Đàm, Hoành, Thiệu, Đạo dâng cao, làm hư hại nhà cửa công tư.
[66] Ngày Quý Mùi, Chế cáo, quyền phát khiển Tam ty sứ Chương Đôn được bổ nhiệm làm quyền Tam ty sứ.
[67] Tri châu Từ Châu, Tư huân lang trung Ngụy Hiếu Tiên được cử làm đồng đề cử các kho tàng tại kinh. Hiếu Tiên từng được đối đáp, trình bày rõ việc Phùng Kinh làm trở ngại chính sự, nên Vương An Thạch cho rằng có thể dùng, Vua cũng nói: “Hiếu Tiên là người hiếm có, trong triều ít có sĩ đại phu nào dụng tâm như vậy.” Ngày hôm sau, liền có mệnh lệnh này. Hiếu Tiên trước đây làm Trung thư đề điểm ngũ phòng công sự, Chủ khách lang trung tri châu Từ Châu, vào ngày Mậu Ngọ 22 tháng 7 năm thứ 7.
[68] Quyền đề điểm Hình ngục lộ Hà Bắc Đông, Giá bộ viên ngoại lang Phạm Tử Uyên, lại được bổ nhiệm làm đồng quản câu Ngoại đô thủy giám thừa, đô đại đề cử sông Hoàng Hà, để tránh việc thân thuộc với Chuyển vận phó sứ Trần Tri Kiệm. Không rõ Tri Kiệm có quan hệ thân thuộc gì với Tử Uyên. Theo mộ chí, Tri Kiệm từng bị cách chức vì nói việc nạo vét sông là không đúng, cần xem xét thêm.
[69] Vua phê: “Quân kỵ binh ở Hà Đông nhiều nhưng ngựa không đủ, làm trở ngại việc huấn luyện. Quân số không thể giảm ngay được, nếu không cấp ngựa thì cả vùng sẽ thiếu quân, khi có việc biên cương khẩn cấp nhỏ, lấy đâu mà điều động? Hơn nữa, tính toán hiện nay, tiết kiệm được không nhiều, có thể tạm giữ như cũ.” Trước đây, quân kỵ binh ở Hà Đông có hơn mười một nghìn con ngựa, hàng năm thay phiên nhau đi trấn giữ biên cương, số còn lại ở lại nội địa, thường mười năm một chu kỳ. Năm Hi Ninh thứ sáu, có người bàn rằng nuôi ngựa quan tốn nhiều lương thực, lại hao hụt nhiều, bèn ban chiếu: “Năm lộ chiêu mộ nghĩa dũng, bảo giáp nuôi ngựa, mỗi hộ một con, mỗi năm miễn thuế tiền chiết biến duyên nạp sáu nghìn năm trăm đồng. Hộ nào muốn nuôi hai con cũng được. Phủ Khai Phong không quá hai nghìn con, năm lộ mỗi nơi không quá năm nghìn con.” Do đó, Binh bộ xin cho Hà Đông nuôi ngựa, chính quân năm nghìn con, nghĩa dũng, bảo giáp năm nghìn con, tổng cộng một vạn con làm mức. Lúc đó, chính quân ở Hà Đông có chín nghìn năm trăm con ngựa, xin ngừng cấp bổ sung, dùng ngựa của nghĩa dũng, bảo giáp bù vào số thiếu, đợi khi số ngựa của chính quân không đủ năm nghìn con, thì mới dùng ngựa quan để bổ sung. Tấu lên, Vua sai Trung thư, Xu mật viện so sánh lợi hại rồi tâu lại.
Xu mật viện cho rằng: “Xe ngựa và vũ khí là kế lớn của quốc gia, không nên chỉ vì tiết kiệm chi phí nhất thời mà bàn bỏ hay giữ, hơn nữa nuôi một con ngựa quan mỗi năm tốn hai mươi bảy nghìn đồng, dân gian nuôi ngựa chỉ miễn thuế tiền chiết biến duyên nạp mười bốn nghìn bốn trăm đồng, vì tiền duyên nạp sáu nghìn năm trăm đồng đổi ra gạo, tính giá trị tương đương mười bốn nghìn bốn trăm đồng, còn lại đều do dân đóng, chắc chắn họ không muốn, không tránh khỏi bị ép buộc, lại lo việc chăn nuôi không đúng cách, có thể gây hư hỏng, lại không biết huấn luyện, khi cấp bách lấy gì mà dùng? Hơn nữa, giảm năm nghìn con ngựa quân, tức là sau này phải giảm chín nghìn chín trăm quân chính ngạch tự túc lương thực, lại giảm ba nghìn chín trăm bốn mươi con ngựa trong số ngựa đang cấp, không chỉ bất tiện cho dân tình, mà khi có việc biên phòng khẩn cấp lấy đâu mà ứng phó? Nếu triều đình tạm cho quân quan và dân binh đều không bỏ bê, huấn luyện lâu dài, ắt sẽ có thể dùng được, chỉ cần giữ số ngựa của các quân ngoài mức quy định, dần dần để dân gian tự nguyện nuôi dưỡng và tập luyện, không cần quy định số năm nghìn con, xét ra cũng hợp lý.”
Sau khi trao đổi thêm với Trung thư, Trung thư đại ý cho rằng: “Quan nuôi một con ngựa, tính theo giá trung bình, mỗi năm tốn hai mươi hai nghìn đồng, chiêu mộ dân nuôi ngựa, có thể tiết kiệm được hơn tám vạn quan tiền cỏ khô và lương thực cho quân. Hơn nữa, những nhà buôn bán cỏ đậu cũng không bị ép giá cao. Tính từ năm Hi Ninh thứ năm đến thứ sáu, ngựa quan chết gấp đôi ngựa bảo giáp, mà bảo giáp có ngựa thì có thể tập đánh trận cưỡi ngựa, bình thường có thể dùng để đuổi bắt trộm cướp, cả công lẫn tư đều có lợi.” Vua nghe theo ý kiến của Xu mật viện và ban chỉ như vậy, Trung thư không thể cãi lại. Bèn hạ chiếu cho nghĩa dũng, bảo giáp ở Hà Đông nuôi ngựa, lệnh cho Chuyển vận ty mỗi năm tính số tiền thực tế miễn thuế chiết biến duyên nạp, dùng tiền của Tam ty hoàn lại; quân kỵ binh ở Hà Đông vẫn được cấp bổ sung như cũ, đợi khi huấn luyện xong nghĩa dũng, bảo giáp sẽ có chỉ riêng.
Năm thứ sáu, việc chỉ huy nuôi ngựa của nghĩa dũng và bảo giáp cần xem xét ngày tháng. 《Binh chí》: Năm thứ tám, Binh bộ xin cấp 5.000 kỵ binh Hà Đông, 5.000 nghĩa dũng và bảo giáp, tổng cộng 10.000 con ngựa làm định mức. Lúc đó, Hà Đông có hơn 9.500 con ngựa chính quân, xin ngừng cấp phát, dùng ngựa của nghĩa dũng và bảo giáp để bù vào số thiếu, đợi đến khi số ngựa chính quân không đủ 5.000 con, sau đó mới cấp ngựa quan. Tấu lên, Vua xuống chiếu cho Trung thư và Xu mật viện xem xét lợi hại rồi tâu lên.
Xu mật viện cho rằng: “Xe ngựa và vũ khí là kế sách lớn của quốc gia, không nên vì tiết kiệm tạm thời mà bàn việc bãi bỏ. Hơn nữa, quan nuôi một con ngựa mỗi năm tốn 27.000 đồng, dân nuôi một con ngựa chỉ được miễn 6.500 đồng tiền chiết biến và duyên nạp, tính ra giá trị chiết khấu là 14.400 đồng, phần còn lại đều do dân chịu, chắc chắn họ không muốn.
Lại lo việc cung cấp cỏ khô không đủ, hoặc không biết điều chỉnh, khi cấp bách sẽ không có gì để dùng. Huống chi, giảm 5.000 con ngựa quân, tương lai sẽ phải giảm 9.900 quân chính ngạch tự túc lương thực, số ngựa được cấp hiện tại cũng sẽ giảm 3.940 con, không chỉ gây phiền nhiễu cho dân, mà việc phòng thủ biên giới lấy gì để chuẩn bị?”
Tranh luận với Trung thư lâu, Vương An Thạch nói: “Bệ hạ muốn huấn luyện nghĩa dũng và bảo giáp để có thể sử dụng, nên dùng để giảm bớt lính mộ, giảm nhẹ gánh nặng cho Hà Đông. Nay lại không cho họ nuôi ngựa, thì dân binh không có ngựa, không có ngựa thì tương lai lấy gì để dùng? Hơn nữa, chi phí nuôi 5.000 kỵ binh mộ có thể nuôi được 10.000 kỵ binh nghĩa dũng và bảo giáp, sau khi huấn luyện, tinh nhuệ sẽ vượt quá lính mộ, không kém gì. Vả lại, quan nuôi một con ngựa, tính theo giá trung bình, mỗi năm tốn 22.000 đồng, nếu mộ dân nuôi ngựa, có thể tiết kiệm được hơn 80.000 quan tiền cỏ khô và lương thực cho quan mỗi năm. Lại khiến những nhà buôn cỏ khô không thể trục lợi lớn.
Tính từ năm Hi Ninh thứ 5 đến thứ 6, ngựa quan chết gấp đôi so với ngựa bảo giáp, mà bảo giáp có ngựa thì có thể tập kỵ chiến, bình thường có thể dùng để đuổi bắt trộm cướp, cả công lẫn tư đều có lợi. Nếu muốn tạm giữ số ngựa kỵ binh, thì chi phí nuôi ngựa của nghĩa dũng và bảo giáp có thể do Tam ty đảm nhận, đợi một hai năm huấn luyện nghĩa dũng và bảo giáp thành thạo, thì kỵ binh sẽ có chỉ dụ riêng.” Vua nghe theo. Bèn xuống chiếu cho nghĩa dũng và bảo giáp Hà Đông nuôi ngựa, số tiền thực tế được miễn chiết biến và duyên nạp, sẽ do Tam ty bồi thường; kỵ binh Hà Đông tạm giữ nguyên, đợi khi nghĩa dũng và bảo giáp huấn luyện xong, sẽ có chỉ dụ riêng.
(Từ “Vương An Thạch nói: ‘Bệ hạ muốn huấn luyện nghĩa dũng'” đến “sẽ có chỉ dụ riêng”, bản chí đều dựa vào 《Nhật lục》. 《Nhật lục》 lại viết: So sánh việc nuôi ngựa của nghĩa dũng và bảo giáp Hà Đông, Xu mật viện kiểm tra kỹ, nên bỏ qua trạng của Tam ty, tự ý làm số liệu so sánh, muốn chứng minh việc nuôi ngựa của nghĩa dũng tiết kiệm không nhiều[17], Vua nói: “Xu mật viện binh phòng so sánh hoàn toàn không đúng.” Nhưng Vua muốn tạm giữ lệnh cũ cho binh sĩ nuôi ngựa, An Thạch nói: “Bệ hạ muốn huấn luyện nghĩa dũng và bảo giáp để có thể sử dụng, nên dùng để giảm bớt lính mộ, giảm nhẹ gánh nặng cho Hà Đông. Nay lại không cho bảo giáp và nghĩa dũng nuôi ngựa, thì dân binh không có ngựa, không có ngựa thì tương lai lấy gì để dùng?
Hơn nữa, chi phí nuôi 5.000 kỵ binh mộ có thể nuôi được 10.000 kỵ binh nghĩa dũng và bảo giáp, chi phí nuôi nghĩa dũng và bảo giáp khác với lính mộ. Sau khi huấn luyện, tinh nhuệ sẽ vượt quá lính mộ, không kém gì. Không hiểu sao lại không cho nghĩa dũng và bảo giáp nuôi ngựa? Nếu muốn tạm giữ số ngựa kỵ binh, thì chi phí nuôi ngựa của nghĩa dũng và bảo giáp có thể do Tam ty đảm nhận, đợi một hai năm huấn luyện nghĩa dũng và bảo giáp thành thạo, thì kỵ binh sẽ có chỉ dụ riêng.” Vua nói: “Tốt.” Ngày 6 tháng 7 năm Thiệu Thánh thứ ba, Trương Phó v.v… có thể tham khảo.)
[70] Quyền tri Khai Phong phủ Tư lục tham quân Chu Viêm tâu: “Vâng chiếu ở kinh miễn tiền hành, hộ nghèo giảm một vạn quan, đã giảm hơn một trăm sáu mươi hàng, vẫn theo lệ cung ứng. Gần đây có mười ba hàng như thợ nhuộm nguyện nộp lại tiền miễn hành, xin cho phép.” Vua theo, bèn hạ chiếu hộ nghèo giảm tiền không được quá nửa. Sau đó Vua phê: “Hôm qua theo lời Chu Viêm xin, trong số một vạn quan tiền miễn hành đã miễn, lại bắt nộp năm nghìn quan. Xét lại việc này chưa tiện, có thể xin chỉ dụ lần nữa.” Trung thư dâng trình, cuối cùng theo lời Chu Viêm tâu.
[71] Ban thưởng cho gia đình tù trưởng Ôn Tất Lỗ Dương năm trăm tấm lụa. Ôn Tất Lỗ Dương làm quan đến chức Thị cấm, tử trận ở Hà Châu, đáng được ân điển cho hai con nhưng không có con, nên ban thưởng như vậy.
[72] Ngày Giáp Thân, Kim bộ viên ngoại lang, Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự Lữ Gia Vấn kiêm chức Đề cử Thị dịch ty. Vương An Thạch tâu: “Gần đây, các đại tộc ở kinh sư phần nhiều chỉ mở kho cầm đồ, việc Thị dịch có hiệu quả ngăn chặn thế lực thôn tính, có thể thấy rõ phương hướng, nên sửa đổi pháp chế để đẩy họ vào khuôn khổ, khiến họ tuân theo lẽ công bằng.” Vua nói: “Việc cân bằng để không có người nghèo vốn là tốt, nhưng việc này khó thực hiện.” An Thạch nói: “Nhà Tần có thể thôn tính sáu nước, nhưng không thể ngăn chặn thế lực thôn tính, ngược lại còn xây đài cho bà góa họ Thanh. Từ thời Tần đến nay, chưa từng có biện pháp ngăn chặn thế lực thôn tính, dẫn đến tình trạng ngày nay. Thần cho rằng nếu có thể ngăn chặn thế lực thôn tính, việc quản lý tài chính sẽ thuận lợi, không lo thiếu tiền. Thần từng bàn rằng việc cấp lương thực nên phù hợp với chính sự, chính vì điều này.” Mấy ngày sau, Ngô An Trì xin từ chức Thị dịch, Vua không đồng ý. An Thạch nói: “Thần với Gia Vấn thân thiết không vì lý do gì khác, chỉ cùng bàn việc Thị dịch mà thôi. Nhưng ông ấy bị vu oan, thần vì tình thân đã khó biện minh, huống chi là con rể của thần, e rằng việc càng khó nói, xin chọn người khác.” Vua nhất định không đồng ý. Việc này căn cứ theo《Nhật lục》ngày 28. 《Thực lục》ghi ngày Giáp Thân[18]Thái thường bác sĩ, Bí các hiệu lý Trần Mục kiêm chức Giám sát ngự sử, Đại Lý tự thừa Thái Thừa Hi cải chức Thái tử trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lý hành, nay dời vào ngày 3 tháng 4, bỏ đoạn này không ghi.
[73] Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Vương Chiêu Tự kiêm chức Cáp môn thông sự xá nhân. Chiêu Tự tự tâu rằng giữ chức ở Cáp môn đã 53 năm, già yếu, xin được miễn nhiệm chức Điểm kiểm Cáp môn bộ thư và Đề điểm thừa thụ, đặc cách thăng chức.
[74] Quyền Tam ty sứ Chương Đôn xin định lại điều lệ của Nha ty và danh sách các tướng quân bị chiếm dụng. Vua đồng ý.
[75] Ban cấp 500 độ điệp cho tăng sĩ, cải tạo đất liền ven biển phía đông nam Bảo Châu thành ruộng nước. Theo đề nghị của Hà Bắc duyên biên an phủ phó sứ Trầm Phi. Phi lại xin 5 vạn quan tiền để thu lãi thưởng cho người do thám, Vua ban 1 vạn quan.
[76] Kinh lược ty Hi Hà lộ tâu: “Đạt Khắc Bác, bộ lạc Tích Đan ở phía sau núi Mã Hàm, đã thuyết phục Triệu Thuần Trung cùng mẹ, vợ đến hàng, lại dụ dỗ thủ lĩnh Ba Lăng ở châu Thao đến ở phía bắc thành châu Dân, từ đó hình thành chợ phiên. Hơn nữa, Đạt Khắc Bác có chí hướng quy thuận, gia quyến cũng bị Quỷ Chương giết hại, xin bổ nhiệm một chức hạ ban gần thành, sung chức Tuần kiểm Ba Lăng, chuyên quản lý việc buôn bán của người phiên ở khu vực Ba Lăng.” Chiếu bổ nhiệm Đạt Khắc Bác làm Tam ban Sai sứ, Tuần kiểm Ba Lăng.
[77] Tặng mẹ đẻ của Đoàn luyện sứ châu Thiệu là Tông Tẫn, bà Hoàng Phủ thị, tước Vĩnh Hòa huyện Thái quân, làm Vĩnh Gia quận Thái phu nhân. Do có chỉ dụ: “Hoàng Phủ thị có thể theo lệ của mẹ Tông Viện mà tặng làm Quận phu nhân.” Lệ của Tông Viện, cần tra cứu. Bản kỷ chép ngày Giáp Thân: Lịch Phụng Nguyên mới làm xong, ban hành trong thiên hạ. Theo thực lục, sự việc này xảy ra vào ngày Nhâm Dần tháng 4 nhuận, nay theo thực lục.
[78] Ngày Bính Tuất, Hoàng thành sứ, Thứ sử Trung Châu, Kiềm hạt Quảng Nam Tây lộ Thạch Giám được bổ nhiệm làm Vệ úy Thiếu khanh, Trực Chiêu Văn quán, Tri Tuyên Châu. Giám vốn là quan võ, đến đây tự xin trở lại làm quan văn, Vua thấy ông có công nên ưu ái thăng chức. Trước đây, Giám được bổ làm Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ vào ngày 2 tháng 8 năm thứ 7. Chưa đầy nửa năm, lại đổi sang Tây lộ vào ngày 28 tháng giêng năm thứ 8. Ban đầu, Vua muốn giao cho Giám việc tập hợp và huấn luyện các đội bảo giáp ở các động, nhưng nghĩ rằng nếu triều đình cử đi thì Lưu Di tất sẽ ghen ghét, nên bảo Di giao việc cho Giám. Sau đó, Di cố ý không muốn Giám đến, bèn tâu: “Giám là người Ung Châu, nay làm Kiềm hạt bản lộ không tiện, vì người các động thích gây chuyện để kích động triều đình ban thưởng.” Vua bảo Vương An Thạch: “Giám không đến mức đó, nhưng người biên giới quả thật hay gây chuyện.” An Thạch nói: “Biết gây chuyện thì cũng biết dẹp chuyện. Nếu triều đình không biết cách kiểm soát, họ sẽ dám gây chuyện để nhận thưởng. Nếu triều đình biết cách kiểm soát, khiến họ gây khó dễ thì không thể trốn tội, dẹp khó dễ thì được thưởng, lo gì họ hay gây chuyện.” Vì thế, Vua lại điều Giám về Đông lộ vào ngày 22 tháng này. Giám chưa biết mệnh lệnh thay đổi, nên xin về làm quan văn, Vua đồng ý. Việc Vua bàn với Vương An Thạch về chuyện Giám là ngày 19 tháng này, ba ngày sau thì có lệnh bổ nhiệm Giám làm Tri Tuyên Châu. Giám xin trở lại làm quan văn, vẫn xưng là Kiềm hạt Quảng Tây, chứng tỏ ông chưa biết mình được điều về Quảng Đông. Việc ông xin như vậy chắc là do Lưu Di không ưa Giám.
[79] Tư Nông tự xin cử quan cùng Phát vận ty cắt giảm chi phí thừa, Vua đồng ý. Vua phê: “Đề cử Tu tạo sở trong cung là Trương Mậu Tắc được cử đi, Trương Nhược Thủy đang nghỉ, việc tu sửa nội thành có thể giao cho Tống Dụng Thần đang quản lý.”
[80] Ngày Đinh Hợi, Trứ tác tá lang Trương Uyển được cử làm Đồng đề cử Thường bình sự Kinh Hồ Bắc lộ, Tham quân Binh tào phủ Thái Nguyên là Phạm Thang được bổ làm Hiệu thư Sùng Văn viện. Uyển và Thang từng theo Vương Thiều, đến đây Thiều tiến cử tài năng của họ, Vua triệu vào đối đáp rồi bổ nhiệm.
[81] Bãi chức Trứ tác tá lang Lâm Đán, không cho coi việc ở Tiến tấu viện, vì Tri thông tiến ngân đài ty Trần Dịch tâu rằng: “Đán trước làm quan ở đài, vì tâu việc không đúng sự thật nên bị giáng chức, xin cho làm việc khác”. Ngày 16 tháng 5, Vương An Thạch nói… có thể khảo cứu.
[82] Đô đề cử thị dịch ty Giả Xương Hoành tâu rằng: “Vàng bạc châu báu không phải là thứ cần thiết cho ăn mặc, chỉ nên cấm việc xa xỉ vượt quá mức. Nếu có ai làm hư hỏng, theo luật cũ thì bị xử tử, như vậy là quá nặng; nếu treo thưởng hậu để khuyến khích, thì lại là cấm quá chặt. Nay sắc lệnh mới chỉ xử phạt những kẻ dùng vàng bạc làm đồ trang sức, như vậy là luật cũ đã bị sửa đổi, việc làm hư hỏng vàng bạc hẳn đã không còn bị cấm. Nhưng dân chúng vẫn theo luật cũ, chưa dám dùng thông thường. Đã lệnh cho bản ty đúc vàng bạc thành lá để bán.” Vua phê: “Việc bán lá vàng ở Thị dịch vụ nên bãi bỏ, những thứ đã làm xong thì cho đổi ở hậu uyển.” Vua lại phê: “Tiền thị lệ, theo điều khoản cũ không có thuế vật, vậy thương nhân có phải nộp hay không?” Trước đây, thuyền bè vào kinh thành, các lại dịch thường nhân đó làm điều gian trá, đòi tiền hối lộ, gây khó khăn, mà số thuế nộp vào quan chỉ được ba bốn phần mười. Vì thế, có ty xin tính số tiền hối lộ đã đòi, giảm thuế năm sáu phần để làm lương cho lại dịch, còn lại dịch nào đòi hối lộ trên trăm tiền thì đều bị xử tội phối, thuế nộp vào quan được tám phần mười, đều là vì có thuế vật mới thu. Đến nay, Vua nghi ngờ rằng những thứ không có thuế vật cũng bị thu tiền thị lệ, nên hỏi Trung thư.
[83] Ban cho Hi Hà 20 vạn quan tiền Kinh sao, Hà Châu 10 vạn quan. Lại lấy 20 vạn quan tiền Chiết hộc của Giang Nam Đông lộ ban cho Hà Bắc Tây lộ Chuyển vận ty, để làm vốn thu mua.
[84] Sắc cho Đỗ Thường lấy các khoản tiền dùng của hai kho Tùy quân và Phiên bộ năm ngoái ở Kinh lược an phủ ty Hi Hà lộ, cùng các khoản tiền trợ giúp công sứ, cùng với Cao Tuân Dụ bí mật tính toán số tiền cần dùng và số tiền cần cắt giảm rồi tâu lên. Vì Tuân Dụ xin tạm bãi việc Thị dịch ở Vĩnh Hưng và các nơi khác, Hi Châu, Thông Viễn quân, và giao cho Kinh lược ty quản lý, cùng với việc lấy lợi nhuận ròng của trường trà Thị dịch năm ngoái về Kinh lược ty, nếu không được thì xin sắc cho các ty căn cứ vào số tiền cần dùng trong một năm của bản lộ mà chi rõ ràng từ kho Phong trang.
[85] Ngày Mậu Tý, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Cao Công Hội và Cao Công Kỷ đều được bổ làm Cáp môn Thông sự Xá nhân.
[86] Ty Nông tự tâu rằng, Đề điểm Kinh Tây Nam lộ Hình ngục Trương Phục Lễ định việc tu sửa sông Đặng Ngải ở châu Hứa không hợp lý, chiếu cho Đô thủy giám thừa Lưu Cáp đi xem xét rồi tâu lên. Lại xin mượn 3.000 độ điệp và 1.000 sắc tử y, cho các lộ Nha tiền được mua để bù đắp các khoản khó khăn nặng nề, theo thứ bậc, đều được chấp thuận.
[87] Sát phỏng sứ Hà Bắc là Thẩm Quát và Tăng Hiếu Khoan dâng số người giữ thành, chiếu theo định của Hiếu Khoan, lệnh cho Quân khí giám ước định số lượng khí giới phòng thành tăng gấp đôi để chuẩn bị.
[88] Ngày Kỷ Sửu, Vua phê: “Pháp giáo duyệt và quy chế thưởng phạt, đã trực tiếp dụ Tăng Hiếu Khoan sửa đổi đại ý, có thể giao cho, lệnh lấy chỉ để xét định riêng. Sai Tả tàng khố sứ Hạ Nguyên Tượng cùng xét định.” Không rõ xét định việc gì riêng, việc này có thể liên quan đến trận đồ ngày 16 tháng 2 và ngày 9 tháng 5, cần xem xét kỹ hơn.
[89] Thượng phê: “Cục Trảm mã đao có không ít người thợ, chế tạo toàn là vũ khí. Trước đây, khi Đông tác phường và Tây tác phường chưa dời đi, có vài trăm quân Thượng cấm đặt trạm canh gác. Có thể sai một trăm người chia làm hai trạm, lấy danh nghĩa phòng hỏa, phân chia khu vực canh gác.” Trước đó, Cục Trảm mã đao có việc giết tác đầu và giám quan, vì việc làm khổ cực, lại có tiết cấp cấm quân bị bắt buộc đi làm, không phải do tự nguyện, nên không kìm được phẫn nộ mà gây loạn. Vương An Thạch thường cùng các đồng liêu tâu lên Vua, cho rằng nên nới lỏng một chút. Đến lúc này, mọi người đều tâu việc này lên Vua, Vua cho là không thể, vì thế việc này dừng lại, cũng coi như xong. An Thạch nói: “Phàm sai người làm việc, phải để họ tự nguyện thì mới lâu dài được.” Vua nói: “Nếu theo giá thị trường thì tốn nhiều tiền, lấy đâu ra tiền mà cấp cho?” An Thạch nói: “Cấp lương theo việc làm, đó là cách để thu hút thợ thuyền. Cấp lương theo việc làm, thu hút được họ thì không có lý do bắt ép họ làm. Hơn nữa, lấy tài sản của thiên hạ để cung cấp cho nhu cầu của thiên hạ, nếu biết cách quản lý thì lo gì không đủ, mà lại keo kiệt ở chỗ này! Nếu giá thuê ở kinh đô quá cao, thì như ở Tín Châu chẳng hạn, sắt rất tốt, thợ rất giỏi, trước đây thấy đồ họ làm rất tinh xảo, mà hỏi ra giá thuê lại rất rẻ, sao không xuống Tín Châu đặt làm?” Việc này theo《Nhật lục》ngày 17 tháng 4, nay phụ chép vào đây. An Thạch trước đây khi còn làm tướng cũng nhiều lần nói việc này, nên kiểm tra chép thêm. Ngày 1 tháng 5 năm [Thiên Hy] thứ 6, bắt đầu đặt Cục Trảm mã đao. Hai chương của Thái Thừa Hi, phụ chép vào ngày 17 tháng 5 năm này.
[90] Chiếu đặc miễn cho chín tiến sĩ Hà Châu là Mai Đôn và những người khác không phải thi lại trong kỳ thi văn sau này, vì Đôn và những người khác tự tâu rằng từ khi thu phục đến nay chưa được hưởng ân, xin theo lệ của Hi Châu.
[91] Chiếu cho phép phi tần cứ ba năm được tâu xin một lần cho người thân cùng tông hoặc khác họ có quan hệ huyết thống được bổ nhiệm chức vụ. Trước đây, phi tần xin việc không có quy định, nên lập ra chế độ này. Chí đồng.
[92] Chiếu cho Sa Uyển giám thuộc vào Quần mục ty, còn lại tám giám và hai giám mục ty ở Hà Nam, Hà Bắc đều bị bãi bỏ. Do Trung thư, Xu mật viện tâu rằng: “Mười hai giám ở Hà Nam, Hà Bắc, từ năm Hi Ninh thứ hai đến năm thứ năm, mỗi năm xuất được 1.640 con ngựa, trong đó chỉ có 264 con có thể cấp cho kỵ binh, còn lại chỉ đủ cấp cho trạm ngựa. Hai giám mục ty mỗi năm tốn chi phí và chiếm đất chăn thả, ước tính tiền thuê đất tổng cộng là 539.638 quan, nhưng số ngựa thu được chỉ đáng giá 36.496 quan, lợi không bù được hại.” Vì thế bãi bỏ, lấy tiền thuê đất chăn thả cấp cho Thị dịch vụ làm vốn buôn trà, số còn lại gửi vào sổ Thường bình để lấy lãi, dùng để mua ngựa.
Ngày 25 tháng 4 năm thứ sáu, Văn Ngạn Bác, Thái Đĩnh v.v… Ngô Xung Khanh, Thái Tử Chính làm Xu mật phó sứ, tâu xin bãi bỏ hai giám mục ty ở Hà Nam, Hà Bắc. Văn Lộ công làm Xu mật sứ, cho rằng không nên. Nguyên Hậu Chi làm Hàn lâm học sĩ, cùng Tăng Hiếu Khoan nhận chiếu xem xét kỹ. Hậu Chi tính toán lương của quan lại, binh lính và đất chăn thả có thể canh tác, nên tâu rằng hai giám mỗi năm tốn 560.000 quan, số ngựa sinh ra chỉ cần 30.000 quan là có thể mua được.
Chiếu bãi bỏ tất cả các giám ngựa trong thiên hạ, chỉ giữ lại Sa Uyển giám, chọn ngựa có thể dùng cho quân đội đều đưa về Sa Uyển giám, loại thứ hai cấp cho trạm dịch, loại thứ ba bán đi, đất chăn thả cho dân thuê, giao cho Chuyển vận ty thu số tiền tiết kiệm được mỗi năm là 530.000 quan về Thị dịch vụ. Ngựa đã cấp cho các quân, thì phải cấp cỏ, thóc và lương thực cho người hầu, chi phí rất lớn; ngựa từ các giám đưa về Sa Uyển chỉ còn hơn 4.000 con, trên đường đi chết gần một nửa, ngựa quốc gia hết ở đây. Đó là mùa đông năm Hi Ninh thứ tám. Điều này căn cứ theo《Tư Mã Quang ký văn》, cần xem xét thêm.
Quyển thứ sáu《Binh chí》: Ngày 25 tháng 4 năm thứ sáu, Quần mục chế trí sứ Văn Ngạn Bác tâu: “Có người bàn giao đất chăn thả cho dân để thu thuế, phân tán ngựa quốc gia cho dân để đòi sinh sản, không tiện.” Bèn chiếu cho Nguyên Ráng, Thái Xác so sánh lợi hại rồi tâu lên. Do đó, Trung thư, Xu mật viện tâu: “Mười hai giám ở Hà Nam, Hà Bắc, từ năm Hi Ninh thứ hai đến năm thứ năm, mỗi năm xuất được 1.640 con ngựa, trong đó chỉ có 264 con có thể cấp cho kỵ binh, còn lại chỉ đủ cấp cho trạm dịch. Hai giám mục ty mỗi năm tốn chi phí và chiếm đất chăn thả, ước tính tiền thuê đất tổng cộng là 539.630 quan, nhưng số ngựa thu được chỉ đáng giá 36.496 quan. Chín giám còn lại có hơn 30.000 con ngựa, nếu không thay đổi chế độ, thì ngày nào cũng có ngựa chết.” Vì thế chiếu cho Sa Uyển giám thuộc vào Quần mục ty[19], bãi bỏ tám giám, hợp nhất hai giám mục ty, chia ngựa tốt cho các giám, còn lại bán đi, thu tiền thuê đất, cấp cho Thị dịch vụ làm vốn buôn trà, số còn lại gửi vào sổ Thường bình, lấy lãi để mua ngựa; 5.000 binh lính của các giám ngựa, lập thành Quảng Cố, Bảo Trung chỉ huy, sửa chữa hoàn thành kinh thành.
Ban đầu, muốn bãi bỏ các giám mục, Xu mật viện Văn Ngạn Bác, Ngô Sung cố tranh, cho rằng: “Giám mục không nên bãi bỏ, nếu ngoại địch kháng cự, không thể mua ngựa, thì Trung Quốc làm sao có ngựa? Chỉ sợ pháp chế không tốt, nên thay đổi pháp chế[20].” Vương An Thạch nói: “Trước đây sai Lưu Hàng thay đổi pháp chế, người ta đã biết trước là không có hiệu quả, không phải đến bây giờ mới biết. Xu mật viện giao cho người khác lập pháp chế chăn nuôi, các ty không được can dự, thực hiện một năm, tốn 530.000 quan, chỉ được 30.000 quan. Nay muốn thay đổi pháp chế, e rằng lại như Lưu Hàng. Hơn nữa, việc so sánh lợi hại hiện nay, chỉ tính đến việc tiết kiệm chi phí của nhà nước mà thôi, lợi hại của dân chưa nói hết. Như việc ngựa phá hoại mùa màng, đất bỏ hoang không cày cấy, đó mới là lợi hại của dân.” Vua nói: “Dù vậy, chăn nuôi ngựa cũng không có ích gì.” Vì thế cuối cùng bãi bỏ. Xét: Việc bãi bỏ các giám mục thực sự diễn ra vào ngày 28 tháng 4 năm thứ tám, dù Trung thư, Xu mật viện tâu là từ năm thứ hai đến năm thứ năm, có lẽ là so sánh số ngựa năm thứ năm. Bản chí ghi việc này vào năm thứ sáu là sai. Đã ghi năm thứ sáu bãi bỏ các giám mục, tiếp theo lại ghi năm thứ bảy bãi bỏ Đông Bình giám ở Vận Châu, giao đất cho dân, sau đó bãi bỏ năm giám ở Cao Dương, Chân Định, Thái Nguyên, Đại Danh, Định Châu, theo lệ Đông Bình. Năm thứ tám, lấy tài sản từ việc bãi bỏ các giám làm vốn cho Thị dịch vụ, còn lại cấp cho Hi Hà làm chi phí hàng năm. Tháng 12 v.v…, ghi chép lộn xộn như vậy, nay không theo. Ngày 6 tháng 7 năm Thiệu Thánh thứ ba, Trương Phó v.v… có thể tham khảo.
[93] Chiếu rằng lương thảo dự trữ ở Bắc Kinh, Thiền Châu, Định Châu, lệnh cho Tam ty hàng tháng báo cáo số lượng hiện có và số còn thiếu. Vua phê: “Đại Châu hiện đang phân định biên giới với người phương Bắc, nhưng việc đất Thủy Cốc vẫn chưa giải quyết xong. Nay Hàn Chẩn tâu đã định ngày gặp Tiêu Tố, Lương Dĩnh ở Tây Hình. Vì việc đất Thủy Cốc chưa xong, e rằng không thể bỏ qua mà không theo thứ tự, nên lệnh cho y theo chiếu chỉ đã ban để bàn bạc, đợi khi việc xong sẽ tiếp tục đi về phía tây để phân định.”
[94] Trước đó, Vua phê rằng: “Nghe nói các hộ thượng đẳng ở Hà Bắc, Hà Đông đến nay vẫn không ngừng di chuyển, có lẽ do cùng hộ hạ đứng ra bảo lãnh xin tiền lương thực từ kho thường bình, người trong bảo gần đây vì thiếu ăn, phần lớn đã bỏ trốn, sợ rằng sau này sẽ bị truy thu riêng dưới hộ, nên đều trốn tránh, nên lệnh cho các nơi xem xét rồi tâu lên.” Lúc đó là ngày Đinh Dậu tháng 11 năm thứ 7. Hôm đó, Vương An Thạch đem tờ tâu xin các lộ xem xét tình hình dâng lên, chỉ có Châu Từ, Châu Tương nói rằng có hộ thượng đẳng di chuyển, phần lớn do thiên tai mất mùa thiếu ăn, hoặc vì chia nhà giảm khẩu, ban đầu không phải do ôm nợ tiền lương thực của hộ hạ, các nơi khác đều nói không có. An Thạch bèn tâu Vua: “Châu Từ, Châu Tương nói hộ thượng đẳng có bỏ trốn, cũng e chưa chắc thật, vì trong tờ tâu nói rằng hoặc do chia nhà giảm khẩu, sao có thể gọi là bỏ trốn? Không biết lúc đó ai đã nói với bệ hạ điều này, sao không nêu rõ tên họ, để họ phân tích xem nơi nào có việc này.” Vua nói: “Quên mất là ai nói rồi.” An Thạch nói: “Họ đã nói ra, ắt có sự thật. Nếu có sự thật, tức là châu huyện và giám ty phải điều tra việc che giấu lừa dối; nếu không có sự thật, thì người vu cáo như vậy, giữ lại có ích gì! Bệ hạ muốn mắt sáng tai thông, mà dung túng bọn này, chỉ là tự che mắt mình thôi.” Vua nói: “Như Ngô Trung Phục, đã xử lý rồi.” An Thạch nói: “Hai chế đoạt một chức quan, sao đủ để trừng trị kẻ gian! Việc thiên hạ như nấu canh, bỏ một nắm lửa, lại đổ một gáo nước, thì canh làm sao chín được.”
Thần Tông lo cho dân đến thế, mà lời Vương An Thạch lại như vậy, nên ghi chép đầy đủ. Dời lời phê ngày 3 tháng 11 năm ngoái kèm theo đây, để dễ xem xét. Việc Ngô Trung Phục bị giáng chức, vào ngày 7 tháng 2 năm nay, bản Chu vào ngày 3 tháng 11 năm thứ 7 đã xóa đi, bản Mực dán thêm rằng xem xét thấy không có ai di chuyển, đã tâu xong, bản mới lại giữ lại. Chỗ nói “đã tâu xong”, tức là lời Vương An Thạch vậy.
- Trong sách thệ ước hai triều còn có hai tờ chiếu gửi cho Lưu Thầm, chữ 'phó' nguyên bản là 'phụ', theo các bản và văn dưới sửa lại. ↵
- Chỗ ngồi khó xử với chủ khách, chữ 'lại' trong sách Lữ Huệ Khanh và Tống hội yếu viết là 'đặc biệt'. ↵
- Chữ 'châu' nguyên bản viết là 'xuyên', căn cứ theo chú thích của Lý Đào và Tống hội yếu sửa lại. ↵
- đều ở phía bắc Trường Liên Thành và Lục Phiền Lĩnh 'phía bắc' nguyên văn là 'địa', căn cứ theo chú thích của Lý Đào và 《Trị tích thống loại》 quyển 16 về việc bàn luận địa giới với Khiết Đan thời Thần Tông mà sửa. ↵
- không cần bàn luận có chứng cứ hay không 'bàn luận' hai chữ nguyên văn thiếu, căn cứ theo hai sách trên mà bổ sung. ↵
- nối về phía tây đến Trường Thành cổ làm ranh giới 'trường' dưới nguyên văn thừa chữ 'liên', căn cứ theo hai sách trên mà bỏ. ↵
- nhà Vua sai sứ giả mang thư báo cho Hi 'thư báo' hai chữ nguyên văn thiếu, căn cứ theo 《Trị tích thống loại》 mà bổ sung. ↵
- Bắc triều sai quan lại 'sai' nguyên là 'tấu', theo văn cảnh sửa ↵
- Nay thánh chỉ chỉ vì hai nước đã hòa hiếu lâu năm 'hai nước' nguyên là 'hai chỗ', theo các bản và văn cảnh sửa ↵
- Theo văn trên, nghi ngờ rằng thiếu '11 dặm, nay trại Nhạn Môn đến Trường Liên Thành khoảng 8-9 dặm, Trường Liên Thành đến quân Già Lỗ' 21 chữ. ↵
- Gần đây lại phân bố 37 tướng ở Hà Bắc, chữ 'Thất' nguyên bản là 'Lục', căn cứ theo bản trong các và văn trên sửa lại. Xét: 'Thất', trong 《Trị tích thống loại》 quyển 16, phần nghị luận về địa giới với Khiết Đan thời Thần Tông cũng viết là 'Lục'. ↵
- Hi Hà lộ nguyên bản chép là 'Tây Hà lộ', theo bản trong các kho sửa lại. ↵
- Chữ 'tất' nguyên bản viết là 'quân', theo bản khác sửa lại. ↵
- chữ 'mục' nguyên là 'thu', theo bản các sửa lại ↵
- chữ 'thập' trên nguyên có chữ 'phản', theo bản các bỏ ↵
- Theo văn bản, nghi ngờ hai chữ 'theo đó' nên ở dưới câu 'kẻ phạm tội xử tử'. ↵
- 'tiết kiệm' nguyên là 'chi phí', theo bản các sửa. ↵
- 《Thực lục》ngày Giáp Thân, chữ 'thư' nguyên là 'cựu', căn cứ theo văn trên sửa lại. ↵
- Chiếu cho Sa Uyển giám thuộc vào Quần mục ty, chữ 'Sa' nguyên bản thiếu, căn cứ theo văn trên bổ sung. ↵
- Chỉ sợ pháp chế không tốt, nên thay đổi pháp chế, chữ 'Pháp' nguyên bản là 'khứ', căn cứ theo các bản khác và bản hoạt tự sửa. ↵