VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 265: NĂM HI NINH THỨ 8 (ẤT MÃO, 1075)
Bắt đầu từ tháng 6 năm Hi Ninh thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 6, ngày Tân Mão (mùng một), Vua phê: “Nghe nói Hoài Nam hạn hán nghiêm trọng, hãy lệnh cho Ty Chuyển vận cử các quan châu quân đến cầu đảo tại các danh sơn và đền linh thiêng.”
[2] Ban cho Ty Chuyển vận lộ Hà Bắc Tây 20 vạn quan tiền. Do Phán quan Lý Tắc tâu rằng lộ này miễn thuế nhiều nên thiếu hụt lương thực cấp cho các quân.
[3] Chiếu phạt Phò mã Đô úy Vương Thân 30 cân đồng. Vì trước đây ông đã từng vì việc đến nhà Mục Thân gặp Triệu Thế Cư nói chuyện, tuy đã được giảm tội, nhưng vẫn đặc cách phạt.
[4] Ngày Quý Tỵ (mồng 3), Thái tử Trung doãn, Quán các Hiệu khám, quyền Giám sát Ngự sử Lý hành Từ Hi làm Tập hiền Hiệu lý, Kiểm chính Trung thư Lễ phòng công sự, Đề cử Nghĩa dũng, Bảo giáp hai châu Tương, Tích. Trước đây Hi tranh luận với Phạm Bách Lộc về việc Lý Sĩ Ninh dùng yêu thuật mê hoặc người, chiếu cho Tăng Hiếu Khoan, Trương Hổ tra xét chưa xong thì Hi đã được thăng chức.
[5] Quyền Phát khiển Kinh lược sứ Hi Hà là Cao Tuân Dụ tâu: “Châu Đào chưa xây thành và đặt quan lại, những người mới quy phụ cũng nên có chế độ thống trị để họ dần quen với pháp luật nhà Hán.” Chiếu lấy Sùng nghi Phó sứ Triệu Thuần Trung làm Kiềm hạt Hán Phiên châu Đào, miễn đi tuần; Hoàng thành sứ Bao Thuận làm Đô Tuần kiểm sứ Phiên bộ các châu Thanh Đường, Dân, Đào; Tuần kiểm sứ Dân châu, Thanh Đường là Trần Nghĩa Phương, Tuần kiểm sứ Cung tiễn thủ là Đổng Hành Khiêm kiêm Tuần kiểm sứ Phiên bộ châu Đào, cùng quản lý Phiên bộ. Lấy 200 người Dũng cảm Phiên bộ có ngựa châu Đào, 200 người Cung tiễn thủ trại (Quảng Hòa) Xuyên châu Dân, thêm quân Phiên Lạc hợp thành 500 người, thuộc quyền Thuần Trung, Nghĩa Phương, Hành Khiêm, đặt trụ sở tại châu Dân, mỗi năm cấp 1000 quan tiền công dụng để chi dùng khao thưởng.
[6] Nội tàng khố tâu: “Châu Sở, Hào vận 3000 tấm lụa, vốn là số lượng nộp hàng năm của bản khố, Tam ty lại xin gửi nộp vào Tả tàng khố. Xin chiếu cho Tam ty tuân thủ điều chế, không được gửi nộp vào các khố khác.” Vua phê: “Những tiền lụa thượng cung thuộc lộ phân nội khố, Tam ty không được lấy danh nghĩa khác chuyển gửi, làm thiếu hụt định mức năm.”
[7] Ngày Giáp Ngọ, sai Trứ tác tá lang là Ông Trọng Thông lo việc muối ở Hoài, Chiết.
[8] Xuống chiếu cho Y quan sứ và Phó sứ của Viện Hàn lâm đều 5 năm một lần khảo xét. Y quan phó sứ trở lên, trước kia không có phép khảo xét, phó sứ gặp khi ban ơn thì đổi làm chính sứ, đến nay đặt ra phép này, để thăng lên các chức sứ, phó sứ của các ty thuộc Đông ban, vẫn kiêm chức y quan sứ, phó sứ như cũ, phó sứ thăng đến chức Quân khí khố phó sứ thì mới thăng làm y quan sứ.
[9] Pháp tự tâu rằng, Tam ban tá chức là Nam Thế Cảnh phạm tội tự ý lấy trộm của công khi làm giám chủ, lúc không có chức vụ thì phạm tội, khi có chức vụ thì việc phát giác, mệnh cho xử theo tội chuộc. Xuống chiếu cho Thế Cảnh bị cách chức, đình chỉ 3 kỳ, từ nay những trường hợp tương tự, do Xu mật viện xin chỉ.
[10] Ngày Mậu Tuất, Long đồ các đãi chế, Đồng quần mục sứ, kiêm Đồng phán Quân khí giám là Tăng Hiếu Khoan thôi chức Quân khí giám. Hiếu Khoan xin từ chức để phụng dưỡng cha mẹ, chiếu miễn chức Quần mục sứ[1], nhưng Hiếu Khoan muốn giữ chức Quần mục ty, nên theo lời xin. Sau đó xuống chiếu cho Hiếu Khoan vẫn tạm quyền Phát khiển Quân khí giám, đợi khi Thẩm Quát trở về thì thôi. Việc tạm quyền Phát khiển Quân khí giám, theo Ngự tập là việc tháng 11.
[11] Ban cho ty Thừa của Đô thủy giám 200 độ điệp để mua vật liệu làm đê.
[12] Ngày Kỷ Hợi, Đề cử Sùng phúc cung, Binh bộ viên ngoại lang, Trực Chiêu văn quán là Phó Nghiêu Dũ bị cách chức, truất một tư cách, đình chỉ. Phạm tội khi làm Tri Từ châu không nhận tờ cáo trạng của Chu Đường về việc Lý Phùng mưu phản, Pháp tự xử tội giảo, vì có tình tiết giảm nhẹ và đã thôi chức gặp lúc đại xá, nên đặc cách truất chức.
[13] Ngày Tân Sửu, Đô quan viên ngoại lang Lưu Sư Đán tâu: “Nay bản đồ Cửu vực được tu định từ năm Đại Trung Tường Phù thứ 6, đến nay đã hơn 60 năm, châu huyện có sự thay đổi, danh hiệu có sửa đổi, thứ bậc có thăng giáng, cùng với những di tích cổ được ghi chép có những điều không chính thống. Xin chọn người am hiểu địa lý để tu sửa lại, và giao cho Tam quán, Bí các san định.” Sau đó lại đặc mệnh Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Triệu Ngạn Nhược, cùng Huyện lệnh Hoạch Gia, Quán các hiệu khám Tăng Triệu san định, nhưng vẫn làm việc tại Bí các mà không lập cục riêng, Triệu Ngạn Nhược được miễn tham gia san định. Vua đồng ý[2]. Lại vì sách cũ không vẽ địa hình, khó gọi là bản đồ, nên đổi tên thành 《Cửu vực chí》.
[14] Chiếu rằng tông thất từ chức Đại tướng quân thăng lên chức Dao quận Thứ sử trở lên, không cần thăng làm Hoàn vệ quan. Theo lệ cũ, tông thất khi xét duyệt, thăng lên Dao quận Thứ sử trở lên thì không thăng làm Hoàn vệ quan, nhưng nếu được ban ân thì thăng thêm ba bậc. Thời Hi Ninh, sửa đổi pháp xét duyệt, thăng thêm một bậc Hoàn vệ quan, có lẽ do cơ quan phụ trách nhầm lẫn, đến nay mới sửa lại.
[15] Ngày Nhâm Dần, An phủ sứ Lộ Vĩnh Hưng quân La Chửng tâu: “Trước đây khi làm Phát vận sứ, đã chuẩn bị 1.850.000 quan tiền vàng bạc, lụa[3], xin cho Phát vận ty tâu lên và thúc giục bộ phận phụ trách chuyển về kinh.” Vua đồng ý.
[16] Ngày Giáp Thìn, phủ Khai Phong tâu: “Con cháu của Triệu Thế Cư cùng với người vú nuôi của họ quần áo rách nát, nhà cửa dột nát, mỗi lần đều phải tâu lên. Xin từ nay chỉ cần phủ Khai Phong giao xuống cơ quan phụ trách lo liệu.” Vua đồng ý.
[17] Ngày Ất Tỵ, Chuyển vận ty Lộ Phúc Kiến tâu: “Xin theo đề nghị của Thông phán Phúc Châu Phương Trân, khai thông các khe suối trong lộ.” Vua đồng ý, và hạ chiếu lấy tiền thừa từ thuế dịch để chi trả chi phí.
[18] Hàn Chẩn tâu xin được vào triều trình bày lợi hại, Vua bảo Vương An Thạch rằng: “Chẩn chỉ muốn vào kinh thôi, chắc không có gì quan trọng.” An Thạch nói: “E rằng có việc cần thấy tận mắt, nên phải trình bày trực tiếp.” Vua nói: “Trước đây Chẩn nhân sứ Bắc đến, liền nói địch tất sinh sự, sau đó có việc gì đâu? Chẩn chỉ giỏi khoa trương nói bậy thôi.”
[19] Ngày Bính Ngọ, xuống chiếu phạt Phán Đô thủy giám Lý Lập Chi, Thừa Vương Lệnh Đồ, Chủ bạ Lý Phủ, Câu đương công sự Trần Hữu Phủ mỗi người 20 cân đồng, Lập Chi ra làm Tri Thiểm châu; Phán giám trước là Vệ úy Thiếu khanh, Tri Thiểm châu Tống Xương Ngôn, Biện khẩu quan Đô quan Lang trung Vương Ngọc, Đô quan Viên ngoại Nhan Xử Cung, Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ Lưu Văn Ứng mỗi người giáng một chức, đổi Xương Ngôn làm Tri Đan châu. Tất cả đều vì tội đóng cửa sông Tư không đúng. Vương An Thạch lúc đầu bàn, Biện khẩu quan và Xương Ngôn cùng một bậc, nên cách một chức, Lập Chi và những người khác chỉ phạt đồng. Vua muốn cách chức Đô thủy của Lập Chi, cho làm Tri châu. Vương Khuê lại nói Xương Ngôn chuyên nhận chỉ thị đi xem xét, hình phạt nên nặng hơn. An Thạch nói: “Ngọc nói Xương Ngôn rõ ràng đã nói với mọi người rằng ý của chấp chính tất sẽ đóng cửa, Ngọc nhiều lần tranh cãi nhưng không được.” Vua nói: “Đã như vậy mà không tâu, lại do dự, sao gọi là giữ chức?” An Thạch nói: “Đó là lý do cùng phạt với Xương Ngôn. Nhưng Xương Ngôn thật sự nên phạt nặng hơn.” Bèn cách chức Tri Thiểm châu của Xương Ngôn, cho Lập Chi thay thế. Xem thêm ngày Ất Mùi tháng 4 nhuận.
[20] Đô thủy giám tâu rằng, sông Biện và sông Thái có thể đặt cống ở sông Đinh Tự để thông thuyền chở lương, Vua nghe theo. Lúc đó có chiếu mua gạo ở Kinh Tây chở về Hà Bắc để dự trữ, nhưng lo ngại thuyền chở trên sông Thái không thể đến được Hà Bắc, nên quan coi thủy lợi là Hầu Thúc Hiến và Lưu Cáp đề nghị rằng giữa sông Biện và sông Thái có sông Đinh Tự, có thể đào đê đặt cống, dẫn nước sông Biện vào sông Thái để thông thuyền chở lương, khi sông đào xong thì có thể vận chuyển được. Sách 《Hà cừ chí》 chép: Năm thứ 8, có chiếu chở gạo từ Kinh Tây về Hà Bắc, bấy giờ Hầu Thúc Hiến đề nghị đào đê đặt cống theo lối cũ, dẫn nước sông Biện vào sông Thái để thông thuyền chở lương, sông đào xong thì có thể vận chuyển được. Bản Chu thêm vào, nay theo đó. Ngày 27 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6 có thể tra cứu.
[21] Chiếu tăng thêm hai người được độ làm sư ở chùa Siêu Hóa thuộc phủ Hà Nam mỗi năm, và ban một áo cà sa. Vì có chỉ dụ rằng: “Chùa này là nơi có xá lợi của Phật Thích Ca, là nơi linh thiêng nhất trong kinh thành, gần đây hai lần cầu mưa đều được ứng nghiệm ngay, nghe nói mỗi năm chỉ độ một người làm sư, khá thiếu người tu sửa phụng thờ.”
[22] Ngày Đinh Mùi, Lữ Thăng Khanh, người cùng tu chỉnh kinh nghĩa, tâu rằng: “Nghĩa lý trong 《Chu Lễ》 và 《Thi Kinh》 đã tâu lên Thượng thư, có bản nghị của Vương Bàng dâng lên, xin đừng sửa đổi thêm nữa.” Vua nghe theo. Lúc đó Thăng Khanh tự ý sửa đổi nghĩa lý trong 《Thi Kinh》 của An Thạch và Bàng, khiến cả hai đều không vui, nên Thăng Khanh mới có lời tâu này, nhưng cũng không thể giải quyết được. Việc này căn cứ theo bản Mực chép ngày 12 tháng 9, bản Chu bỏ đi, nay chép vào đây. Nội dung chép ngày 12 tháng 9 cần xem xét kỹ hơn.
[23] Ban cho Triệu Tư Trung 50 khoảnh đất ở hai châu Hi và Hà, trong đó ban cho vợ ông là Bao thị và Du Long Thất mỗi người 5 khoảnh. Trước đó, Tư Trung xin quản lý bộ lạc phiên thuộc ở Hi, Hà, còn Bao thị xin mở quán rượu ở thành An Hương, nhưng Kinh lược ty cho là không được, nên ban đất để thay thế. Ngày 4 tháng 12 năm thứ 7 có thể tra cứu.
[24] Vương An Thạch bị bệnh, Vua sai ngự y đến thăm, không cho nhận lễ vật. Vương An Thạch bèn tâu với Vua, xin cho nhận. Vua nói: “Trẫm đã ban thưởng, không cần như vậy.” Vương An Thạch cố xin, Vua nói: “Cho ít thôi, đừng nhiều.” Vua bèn giữ Vương An Thạch lại, bảo rằng: “Lữ Huệ Khanh rất lấy làm lạ rằng khanh không biện bạch việc cho Thăng Khanh, nói rằng trước kia khanh bị người vu cáo, hắn đã hết sức biện bạch cho khanh, nay hắn bị người vu cáo, khanh không nói một lời. Trẫm đã nói với hắn, hết sức giải thích cho anh em khanh, lại nghi ngờ có kẻ tiểu nhân hãm hại. Trẫm hỏi là ai, hắn nói là người bên cạnh, dường như nghi ngờ Luyện Hanh Phủ. Sao lại nghi ngờ Luyện Hanh Phủ sâu sắc như vậy?”
Vương An Thạch nói: “Hanh Phủ, thần không dám bảo đảm. Nhưng anh em Huệ Khanh vô cớ ngăn trở và đè nén Hanh Phủ, thần khuyên họ đừng làm như vậy, sợ rằng sẽ bị hại ngược lại. Hanh Phủ hãm hại Huệ Khanh, thần không biết. Nhưng Hanh Phủ thực sự chưa thấy có lỗi gì, mà anh em Huệ Khanh lại dùng nhiều cách ghét bỏ, thực là quá đáng, đại để anh em Huệ Khanh thích suy đoán người khác sẽ làm điều gian ác.” Vua nói: “Hanh Phủ thực sự là người cơ cảnh. Ắt có kẻ tiểu nhân gièm pha xen vào giữa, tiểu nhân cần phải đuổi đi, không thì sẽ hại đến việc nước.” Vương An Thạch nói: “Không biết ai là tiểu nhân?” Vua nói: “Ắt là Tăng Mân.” Vương An Thạch nói: “Bệ hạ vì sao lại nghi ngờ như vậy?” Vua nói: “Đoán chắc là như thế, sửa xong kinh nghĩa, sẽ cho ra ngoài nhậm chức.” Vương An Thạch nói: “Tăng Mân có tài năng, theo lòng người cũng có thể làm Kiểm chính. Thần trước đã nói với Huệ Khanh, không muốn nghi ngờ quá như vậy, sợ rằng mọi sự ghét bỏ đều dồn vào, ắt sẽ liên lụy đến Huệ Khanh.” Vua lại nói: “Huệ Khanh tự cho mình là quá, nói: ‘Mong khanh đến cùng gắng sức lo việc thời sự, nhưng lại luôn cáo bệnh không làm việc, tích tụ việc lại giao cho thần, thần sợ rằng sau này sẽ dẫn đến đổ vỡ, thần sẽ phải chịu trách nhiệm.’ Lại nói: ‘Luyện Hanh Phủ vì anh em thần thuở nhỏ nghèo hèn, từng trải, biết rõ tình trạng của tiểu nhân, nên đặc biệt ghen ghét anh em thần.’ Nói rằng khanh không biết được sự thật giả của tiểu nhân, nên Hanh Phủ lợi dụng khi khanh tại chức.” Tăng Mân làm Kiểm thảo, vào ngày 7 tháng 5 năm thứ 7.
[25] Ngày Mậu Thân, Trung thư tâu: “Gần đây có chiếu vận chuyển một triệu hộc gạo đến Thiền Châu, Bắc Kinh, tính toán chi phí đường sá không ít, xin hàng năm cấp tiền mua muối gạo, gạo tẻ ở kinh thành tổng cộng sáu mươi vạn quan thạch, giao cho Đô đề cử Thị dịch ty mua bán. Ước lượng số lượng ruộng đất của dân, cấp trước tiền của, đến mùa thu hoạch, lệnh cho Thiền Châu, Bắc Kinh và các châu quân biên giới nhập gạo, lúa mạch, đóng kho, chờ khi có đủ. Khi giá cả đắt đỏ, cho phép Ty địch tiện tạm ngừng nhập trung, mượn đổi chi dùng, đợi năm được mùa bù lại. Những gì Thị dịch ty mua, nếu giá cao, lệnh cho từ từ tính toán.” Vua đồng ý.
Trước đó, Vua lệnh Trung thư xem xét chi phí vận chuyển gạo, Trung thư trình lên khoảng ba mươi bảy vạn quan. Vua lấy làm lạ về số tiền nhiều, nói: “Trước đây từng so sánh, sao lại tốn nhiều như vậy?” Vương An Thạch nói: “Đây là số ước lượng, nhưng chắc chắn cũng không ít, đợi so sánh lại số thực rồi trình lên.”
An Thạch nhân đó nói việc biểu địch, cho rằng không chỉ hàng năm vận chuyển một triệu hộc gạo, so với pháp lệnh hiện nay có thể tiết kiệm sáu bảy mươi vạn quan tiền, lại có thể kiểm soát giá nhập trung ở Hà Bắc. Hà Bắc sông lớn không có việc gì, các sông khác đã theo dòng, đất đai và ruộng bồi nhiều, hàng năm tăng thêm số lượng lúa gạo không ít. Khi giá lúa gạo đắt, ngừng mua thì dân không có chỗ bán, giá tự nhiên giảm. Như vậy tuy có danh là ngừng mua, nhưng thực tế phải có vật để mua. Ruộng bồi ở phủ giới hàng năm phải tăng thêm vài triệu hộc, lương thực của dân có hạn, giá cả hàng năm phải giảm, biểu địch chuyển đổi. Hà Bắc không chỉ thực biên, mà còn tránh tổn hại nông dân. Vua cho là phải.
Lữ Huệ Khanh nhật lục: Ngày 16 tháng 9 năm thứ 8, trình lên việc bãi bỏ vận chuyển gạo, lệnh Thị dịch ty biểu phóng văn tự, tôi nói: Ban đầu chỉ thấy ở kinh thành mua gạo giá tám mươi, Ty Nông tự mua chịu giá một trăm, lại ở Đông Nam đổi hộc giá tám mươi, tức là không được gạo giá tám mươi, lại dùng hai mươi văn đưa đến Hà Bắc, không quá một trăm văn mua một đấu sáu bảy phần gạo lúa, không đắt. Nhưng vốn muốn dùng vật ngoại lai đưa đến Hà Bắc, khiến trong quan có sẵn, thì giá hoà địch có thể giảm, không bị thương nhân thao túng. An Thạch muốn dùng gạo lúa đổi, vốn rất tốt, nhưng thuyền vận chuyển và binh lính cũng không dễ, cần nhiều thời gian sắp xếp, đợi mua được gạo lúa rồi, đổi gạo tẻ cũng không sao, là họ cần thẳng thắn thôi, cũng không sao. Nhưng sau khi đổi được gạo lúa, liền nói chuyển đổi được lãi một trăm vạn, toàn là nói bậy.
Trừ việc dùng gạo lúa đổi gạo tẻ là khác, cũng là từ nơi khác chở vật, từ Hoàng Hà đến Hà Bắc, trăm cách chuyển đổi được lợi, chỉ là việc mua bán của Thị dịch ty, can gì đến việc vận chuyển gạo! Vừa bàn bạc đã nổi giận. An Thạch đi rồi, là pháp lệnh ông ta lập ra, yêu quý như vậy, chỉ sợ ông ta không đến được. Nghe trong triều có người gọi tôi là “Hộ pháp thiện thần”, là ông ta đến xử lý, việc cần phải thay đổi hết. Chỉ như việc Thị dịch, Ngô An Trì sao hiểu hết được? Chỉ thấy Hàn Giáng, Phùng Kinh muốn phá việc này, tôi tính toán được khoảng một trăm ba mươi vạn quan lãi, nên mỗi lần khởi xướng, cần ông ta xem qua rồi mới làm, mới cho vào dán đất, không ai nói gì.
Từ khi Lữ Gia Vấn đến, nói xử lý không đúng, nói là không có ông ta không được. Tôi thấy An Thạch đến liền không quản được, mà nay cũng có hơn một trăm mười vạn quan lãi, những việc xử lý khác nếu không có đầu đuôi, tôi sao dám làm? Tôi cũng lượng sức mình, việc thường tâu lên Vua, một lúc hiểu hết, mới bắt đầu thi hành. Thấy An Thạch tâu việc, bệ hạ có trầm ngâm, giữa chừng An Thạch tự nói: “Ngươi đã như vậy, cần phải vô tâm mới được.” Nhưng không thấy có việc gì khác, chỉ là mặt tôi nhiều năm quen biết, cùng làm nhiều việc, cuối cùng lại như vậy? Án: Việc này là ngày 26 tháng 9 năm thứ 8, Huệ Khanh nói An Thạch muốn bãi việc vận chuyển gạo ở Hà Đông, mà thi hành pháp biểu phóng của Thị dịch ty, Huệ Khanh cho là không tiện. Lúc đầu lệnh vận chuyển gạo đến Hà Bắc, là việc ngày 18 tháng 6, không biết An Thạch bãi việc này, lại thi hành pháp biểu phóng của Thị dịch ty, chính xác là lúc nào? Nay phụ chú việc này, đợi xem xét thêm.
[26] Tam ty sứ Chương Đôn tâu: “Các viện muối ở Hà Bắc, Kinh Đông mất mát nhiều tiền quan. Các lộ đều thi hành chính sách độc quyền muối, chỉ có Hà Bắc, Kinh Đông không thi hành, quan phủ mất khoản thuế muối hàng năm, số tiền không nhỏ. Xin sai quan cùng Vương Tử Uyên đến các trường muối biển và các châu huyện sản xuất muối nhỏ, cùng với các quan chức đương nhiệm và hai lộ chuyển vận ty xem xét lợi hại rồi tâu lên.” Vua nghe theo. Lúc đó Vương Tử Uyên giữ chức gì cần phải tra cứu. Tháng 8 năm sau, pháp chế muối Hà Bắc mới được khôi phục như cũ. Vương Tử Uyên có lẽ là sứ mua lương, cần kiểm tra lại. Ngày 1 tháng 8 năm sau, Vua phê: “Pháp chế muối Hà Bắc nên nhanh chóng khôi phục như cũ”, bản Chu đưa vào đây, nay theo bản Mặc, vẫn phụ vào ngày này. Tóm lại, thực lục chép việc này cả hai đều sơ lược, cần phải tra cứu thêm.
Ghi chú: Tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, Lã Đào tâu: Năm Hi Ninh thứ 8, Chương Đôn làm Tam ty sứ dâng tấu, xin thi hành chính sách độc quyền muối ở Kinh Đông, Hà Bắc, trong tấu trạng viết: “Hà Bắc, Thiểm Tây đều là biên phòng, nay Thiểm Tây thi hành chính sách độc quyền muối, còn Hà Bắc lại không thi hành, đó là ân điển sai lầm nhất thời của tổ tông.” Vua ban chiếu theo lời xin của Chương Đôn, triệu Chu Cách, đề cử sự vụ muối Kinh Đông vào bàn, giao cho Trần Phác, Vương Tử Uyên xem xét. Văn Ngạn Bác tâu xin bãi bỏ. Thư của Tô Thức gửi Văn Ngạn Bác chép lời Chương Đôn bàn việc chính như Lã Đào nói, Thức nhân đó khuyên Ngạn Bác tâu xin bãi bỏ chính sách độc quyền muối. Như lời Lã Đào nói, thì quả nhiên Ngạn Bác đã tâu xin bãi bỏ chính sách độc quyền muối. Có thể tham khảo lời đối đáp của Trương Phương Bình tháng 11 năm Khánh Lịch thứ 6.
Thẩm Quát tự chí chép: Quát quyền phát khiển Tam ty sứ sự, ty Thị dịch muốn mỗi năm nộp 30 vạn quan tiền sao cho Tam ty, để xin thu thuế muối hai lộ Hà Bắc, Kinh Đông, muốn tự độc quyền bán. Quát cho rằng Thái Tổ từng ban sắc lệnh, Hà Bắc không được cấm muối. Trong niên hiệu Khánh Lịch, lại muốn quan phủ thu lợi, Nhân Tông lại ban chiếu bãi bỏ, đến nay còn khắc chiếu ở Vọng Thần các Bắc Kinh. Lời răn của tổ tông vẫn còn đó, mà trái lại thì không được. Sau đó, chuyển vận ty Kinh Đông cuối cùng dùng lời ấy, vùng Tề, Lỗ xôn xao, chủ ty bị cách chức vì tội. Ghi chú: Ngày 12 tháng 10 năm Hi Ninh thứ 8, Quát quyền phát khiển Tam ty sự, thực tế thay thế Chương Đôn. Đôn trước đó có đề nghị độc quyền, đã không thi hành, không rõ ty Thị dịch khi nào lại có đề nghị này, cần tra cứu. Ngày 19, Đôn lại bàn độc quyền muối Hà Đông. Thiệu Thánh, Tăng Bố nói… 《Thực hóa chí》 quyển 5: Hà Bắc trước đây cấm muối, năm Kiến Long thứ 4 mở rộng buôn bán, năm Khai Bảo thứ 3 mới bãi bỏ hoàn toàn chính sách độc quyền. Năm Hi Ninh thứ 8, Tam ty sứ Chương Đôn tâu: “Chỉ có Hà Bắc, Kinh Đông không thi hành chính sách độc quyền muối, quan phủ mất khoản thuế muối không nhỏ, xin sai quan cùng sứ mua lương Hà Bắc đến các trường muối biển và các châu huyện nấu muối nhỏ, cùng với các quan chức đương nhiệm và hai lộ chuyển vận ty xem xét lợi hại.” Vua nghe theo. Cái gọi là muối nhỏ, tức là muối giả. Bấy giờ ban chiếu cho Chu Cách, đề cử thuế muối Hà Bắc, Kinh Đông vào bàn, năm sau Vua ban chiếu cho Tam ty: Pháp chế muối Hà Bắc có thể khôi phục như cũ, để thương nhân không nghi ngờ, tổn thất khoản thuế.
[27] Đô đề cử thị dịch ty tâu rằng, châu Hán tích trệ trà đến 1.577 (Mã khuyển), không bằng thuê người vận chuyển, xin chọn quan đi khảo sát. Chiếu sai Đô quan lang trung Lưu Tá, Duy châu Đoàn luyện suy quan, Đô thủy giám Câu đương công sự Đỗ Thường đi xem xét lợi hại rồi tâu lên. Vương An Thạch ban đầu muốn sai Tá, nhưng vì Hàn Giáng ghét, nên xin dùng Thường. Sau đó, Vua lại lệnh cho Tá cùng Thường cùng đi.
[28] Chiếu rằng các sứ thần quản lý các trại phố ở biên giới phía bắc, nếu để địa giới bị thu hẹp hoặc cố tình để người ra vào trái phép, sẽ bị xét tội, không được miễn giảm dù đã thôi chức hoặc được ân xá; những người để địa giới bị thu hẹp, cùng với các quan thống hạt, phải báo lên. Vua nói với Vương An Thạch: “Việc biên giới Hà Bắc từ khi Tiêu Hi đi rồi trở nên chậm trễ.” An Thạch đáp: “Việc cần làm đúng, không cần gấp. Nếu làm gấp mà không đúng, chỉ hại việc, có ích gì cho kế hoạch biên giới!” Vua nói: “Việc phân chia tướng lĩnh ngày càng bị xói mòn, người ta thấy vậy thì càng lười biếng.” Lại nói về việc huấn luyện quân sĩ. An Thạch nói: “Trước đây đặt ra pháp huấn luyện, nếu thực hiện được, thưởng phạt nghiêm minh, thì dù quân không thuộc tướng lĩnh, sao lại không tinh nhuệ?” Vua nói: “Trách nhiệm phải khiến người ta có thể tránh được. Như việc tuyển binh lính yếu kém, lại không do Kiềm hạt, Đô giám quyết, Kiềm hạt, Đô giám bị trách cứ vô ích sao?” An Thạch nói: “Xưa nay việc tuyển binh phải do Giám ty, Tri châu và quan quân, nếu không đúng phép, từ Giám ty trở xuống bị trách phạt nghiêm, thì ai dám làm bừa? Hơn nữa, trách phạt đã nghiêm, thì trên dưới tự phải cố gắng, đâu dám tùy tiện nghe theo Giám ty, Tri châu? Nay chỉ giao cho tướng quan tự tuyển, tướng quan cũng chỉ là loại như Tri châu trước đây. Không lẽ làm Tri châu thì cẩu thả, làm tướng quan thì chân thành, có lý nào vậy? Nếu tướng quan trách nhiệm nặng, thì có thể chuyển sang làm Tri châu. Hơn nữa, nhân tài như nhau, nếu giao cho ba bốn người cùng chức, thì có thể có một người tuân pháp. Nếu nhân tài chưa biết, mà giao cho một người, nếu họ cẩu thả, ai sẽ biết họ có làm tốt không?”
An Thạch lại nói: “Pháp thưởng phạt huấn luyện tu năm trước, đến nay chưa thi hành, tại sao?” Vua nói: “Chưa xong, nên chưa thi hành.” Vua lại nói: “Dân binh cũng chưa xong.” An Thạch nói: “Dân binh biên giới dễ huấn luyện, khác với phủ giới, huấn luyện sơ sơ đã có thể dùng được. Biên giới không lo huấn luyện không thành, lúc chậm thì huấn luyện chậm, lúc gấp thì huấn luyện gấp, không lo không dùng được.” Vua lại nói: “Gần đây chi phí quá nhiều, thật khó khăn, tương lai e khó đáp ứng.” An Thạch nói: “Đúng vậy.” Pháp thưởng phạt huấn luyện tu năm trước, cần xem xét lại.
[29] Ngày Kỷ Dậu, chia mệnh cho các phụ thần cầu mưa.
[30] Lệnh cho Đồng quản cú ngoại đô thủy giám thừa là Trình Phưởng và Quyền tri đô thủy giám thừa là Lưu Cáp đứng ra đề cử việc khai quảng sông Cát. Ban đầu, Trình Phưởng và Lưu Cáp tâu rằng: “Dưới đê Vương Cung có dấu tích cũ của sông Cát, có thể khai quảng, lấy nước sông Hoàng Hà dẫn vào, chuyển vào sông Khô, hợp với sông Ngự, tức là đặt cửa cống ở đê Hoàng Hà để điều tiết, có năm lợi ích: Một là, Vương Cung vốn là nơi đê yếu, tránh được việc dòng sông thay đổi, không phải mở cửa sông mới; Hai là, thuyền vận tải từ Biện ra, đi qua sông Cát, tránh được nguy hiểm sóng gió trên sông lớn; Ba là, sông Cát chia một nhánh nước vào sông Ngự, khi sông lớn lên, sông Cát tự có giới hạn; Bốn là, khi sông Ngự lên, có cửa cống điều tiết, không lo bị lấp đầy; Năm là, thuyền vận tải từ Đức, Bác tránh được nguy hiểm hàng trăm dặm trên sông lớn. Việc khai sông cần 567.493 công, xin điều động một vạn binh lính, làm trong một tháng là xong.” Theo lời tâu, ban mệnh lệnh này. Văn Ngạn Bác có tờ tấu bàn luận, phụ lục vào cuối tháng 10 năm thứ 9, ngày 9 tháng 7 năm thứ 7, lại ngày 5 và 7 tháng 9 năm thứ 8, lại ngày 29 tháng 8 năm thứ 9, lại cuối tháng 10, lại ngày mùng một tháng 12 năm Quý Mùi, lại ngày 20 tháng 5 năm thứ 10 là ngày Canh Ngọ.
[31] Chiếu lệnh cho cơ quan tu định lệnh lộc của tông thất, vì không hợp lý, chưa được ban hành, giao cho cơ quan tường định sắc lệnh xem xét lại rồi tâu lên. Do đó, quan san định là Ngụy Nghi bị phạt 10 cân đồng, giao cho Thẩm quan đông viện, quan tường định là Thẩm Quát được đặc cách tha tội.
[32] Trung thư tâu rằng, muốn đem bản sao sách 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ Nghĩa》 giao cho Quốc Tử Giám khắc in để ban hành. Theo lời tâu.
[33] Chiếu cho các châu Pháp ty, Đương trực ty, Ty lí viện, Suy ty, Châu viện chuyên sai lại viên khám sự, ủy cho Đề cử ty xem xét, tùy nghi định số người. Pháp ty không quá ba người, Đương trực Suy khám ty không quá bốn người, mỗi tháng cấp tiền ăn dù nhiều cũng không quá mười hai nghìn, Pháp ty tập học không quá hai người, tiền ăn không quá năm nghìn, lấy tiền cắt giảm người làm việc và bãi bỏ tiền của Kỳ hộ trưởng, Tráng đinh để bù vào. Xét việc nhiều hay ít mà tăng giảm số người, theo lệ lại viên Chuyển vận ty thực hiện phép thưởng phạt. Ban đầu chỉ áp dụng ở Giang Ninh phủ, đến nay, Ty Nông tự xin thực hiện ở các châu. Lại lập phép thưởng phạt cho Pháp ty được quyền cử tội và thưởng phạt khi có sai phạm, bắt đầu từ nơi việc nhiều.
[34] Chiếu rằng dân biên giới cầm bán đất cho Bắc giới, xử theo luật giao dịch riêng, đều phải đi đày ở bản thành phía nam Hoàng Hà, cho phép người tố cáo, mỗi mẫu thưởng mười nghìn tiền; đất cầm bán bắt gia đình phạm nhân hoặc người lân cận chuộc lại, nếu gia đình phạm nhân không đủ tiền, quan phủ sẽ cho mượn, nếu đã có người Bắc ở thì quan phủ khéo léo đuổi đi. Người cầm mua đất của người Bắc, tiền không đòi lại, đất không được cày cấy, hai bên đều nộp thuế, lập phép khác với người Nam cầm bán đất. Trước đây, dân biên giới đem đất giao dịch với địch, lâu ngày biên giới không rõ, thường sinh sự. Thời Khánh Lịch, Giả Xương Triều từng ra quy định, sau nhiều lần nhắc lại, không thể cấm được, đến nay lại chế định thành luật.
[35] Tam ty sứ Chương Đôn tâu: “Hai giám muối Vĩnh Lợi ở Hà Đông, thuế muối hàng năm theo định mức cũ là hơn 25 vạn quan. Từ khi cho phép thương nhân nộp lương thảo để đổi lấy giấy phép mua muối, lương thảo tăng nhiều, cấp giấy phép để chi trả muối. Thương nhân nhận được giấy phép trị giá 1.000 tiền, chỉ bán được 400-500 tiền, triều đình mất ngầm một khoản tiền, còn các cửa hàng thì thu lợi không ít. Lại thêm việc muối lậu không bị cấm, nên thuế muối hàng năm ngày càng giảm, nay chỉ còn hơn 10 vạn 4.000 quan. Nếu tính theo giá ảo của lương thảo, triều đình chỉ thu được hơn 5 vạn quan, so với mức cũ giảm 8 phần. Nay nếu theo lệ muối Giải, chiêu mộ thương nhân nộp tiền xin mua, hoặc để quan phủ tự bán, đồng thời nghiêm cấm buôn lậu, thì thuế muối hàng năm chắc chắn sẽ tăng nhiều, còn lương thảo ở biên giới thì dùng tiền mặt để mua.” Chiếu cho chuyển vận sứ Hà Đông là Phạm Tử Kỳ và Triệu Tử Kỷ xem xét, trình bày rõ điều khoản để tâu lên. Ngày 18, bàn việc độc quyền muối ở Hà Bắc, Kinh Đông, nay lại đến Hà Đông. 《Thực hóa chí》 chép lời của Đôn giống với 《Thực lục》, chỉ hơi văn hoa hơn, nay không chép riêng. 《Cửu triều thông lược》 chép: Tử Kỳ là cháu của Ung.
[36] Lý Thừa nói: “Hà Đông lộ tâu cử việc dạy và duyệt bảo giáp, nếu tuần kiểm là giám đương, chỉ xin cấp lương bổng theo chức giám đương.” Vương An Thạch nói: “E rằng nên thêm phụ cấp.” Vua nói: “Đúng. Tuy nhiên, Trần Thứ tiếc việc khởi đầu định lệ cũng là hợp lý. Số tuy ít, tích lũy lại thành nhiều. Những năm gần đây, có người đã nhận lương bổng, lại đòi theo lệ cấp giấy đi đường, như Cao Cư Giản đã nhận thêm phụ cấp của Hoàng thành ty, khi ra ngoài lại đòi giấy đi đường, cuối cùng không được cấp. Như Ngô Khuê ở ngoài lâu, cũng không được cấp giấy đi đường.” An Thạch nói: “Phàm việc tâu cử quan chức đều cần nhờ vào tài năng, mà việc ra vào chức vụ cần phải tốn kém chi phí đi lại, không bằng an cư giữ chức vụ cũ. Nếu để người tài lao khổ ở ngoài, mà chi phí lại không bằng kẻ bất tài an nhàn không tốn kém, thì ai chịu nhận tâu cử? Nay như Cao Cư Giản ở Hoàng thành ty lương hậu, không cấp giấy đi đường cũng được. Nhưng ông ta lao khổ ở ngoài, so với người chỉ ngồi yên ở Hoàng thành ty thì có khác, dù cấp giấy đi đường cũng không quá đáng. Như Ngô Khuê lương ít, lại từ những năm gần đây, các tiểu thần ra vào, ai nấy đều sợ hãi tuân thủ pháp luật, không dám nhận hối lộ, nếu lao khổ mà không được đãi ngộ, e rằng cũng không phải là chính sách tốt của bậc thánh. Lại như tuần kiểm Hà Đông, vừa được tuyển cử, lại có trách nhiệm dạy và duyệt bảo giáp, lại ở nơi đường xá khô khan, nếu không được thêm phụ cấp như các lộ khác, thì ai chịu nhận tâu cử? Hơn nữa, việc dùng tiền tiết kiệm chi phí, nên tính toán kỹ. Nay dùng dân binh thay binh sĩ, cung thủ, đã tiết kiệm được nhiều, thì việc cấp lương bổng cho tuần kiểm dù ít, cũng không đáng tiếc.”
[37] Ngày Tân Hợi, Lại bộ Thượng thư, Bình chương sự, Chiêu Văn quán Đại học sĩ Vương An Thạch được thăng làm Tả bộc xạ, kiêm Môn hạ Thị lang; Hữu Gián nghị Đại phu, Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh được thăng làm Cấp sự trung; Hữu Chánh ngôn, Thiên Chương các Đãi chế Vương Bàng được thăng làm Long Đồ các Trực học sĩ; Thái tử Trung doãn, Quán các Hiệu khám Lữ Thăng Khanh được thăng làm Trực Tập Hiền viện. Tất cả đều được ban ân điển vì đã hoàn thành việc biên soạn sách giải nghĩa về Kinh Thi, Kinh Thư và Chu Lễ. Vương An Thạch từ chối, nói: “Vương Bàng trước đây nhờ tiến sách mà từ chức Thái tử Trung doãn, Sùng Chính điện Thuyết thư được thăng làm Hữu Chánh ngôn, Thiên Chương các Đãi chế. Sau khi bị bệnh, không còn tham gia việc biên soạn kinh sách nữa. Nay lại được thăng chức này, thật là vô danh.” Vua nói: “Đặc biệt thăng Vương Bàng làm Đãi chế, thực sự là vì xét việc hỏi lời, Vương Bàng nên ở trong hàng thị tòng, không phải vì biên soạn sách. Nay thăng chức là để ghi nhận công lao biên soạn kinh nghĩa, khen ngợi hiền tài, thưởng công, mỗi việc có chỗ thi hành, không cần từ chối.” Lữ Huệ Khanh cũng từ chối chức Cấp sự trung, Vua nói: “Khanh đối với kinh nghĩa chắc chắn có nhiều đóng góp, lại việc biên soạn sách thăng chức vốn có lệ cũ.”
[38] Cùng ngày, trung sứ thúc giục Vương An Thạch và những người khác đến hậu điện tạ ơn, nói rằng Vua đang ngồi chờ, bèn vào yết kiến, từ chối chức vụ được thăng. Vua bảo Vương An Thạch: “Khanh biên soạn kinh nghĩa khác với biên soạn các sách khác, lại không chỉ vì khanh biên soạn kinh nghĩa có công, mà còn muốn lấy đạo đức của khanh để dẫn dắt sĩ đại phu trong thiên hạ, nên mới có sự thăng chức này, không cần từ chối.” Sau đó, Vương Bàng lại từ chối chức vụ được thăng, Vua muốn giữ nguyên mệnh lệnh, nhưng Lữ Huệ Khanh cho rằng Vương Bàng lấy cớ bệnh để tránh sủng ái, nên nghe theo, vì thế mối thù giữa Vương và Lữ càng sâu. Sử nhà Chu nói rằng lời của Lữ Huệ Khanh không có căn cứ, nên đã xóa đi, sửa lại rằng: Vương Bàng từ chối chức vụ được thăng, Vua muốn giữ nguyên mệnh lệnh, nhưng Vương An Thạch cũng kiên quyết từ chối, nên bãi bỏ mệnh lệnh đó. Nay theo sử nhà Mực. Ngày 12 tháng 9, Lữ Huệ Khanh nói: “Thần cũng nên bị cách chức.” Có thể tham khảo.
[39] Đông đầu Cung phụng quan Đổng Trung Lệnh vì bắt được Lý Phùng nên được thăng một chức.
[40] Ngày Nhâm Tử, Ty Chuyển vận Hà Đông tâu rằng: “Giặc cướp ở Kỳ, Minh là Lý Xương cùng đồng bọn trước sau nổi dậy 49 lần. Chỉ huy sứ châu Lộ là Điện thị ban Phi đái là Thôi Toàn ứng mộ, dẫn quân Tuyên Nghị là Lý Khánh cùng đồng bọn chém được thủ cấp.” Chiếu phong cho Toàn chức Tam ban tá chức, Khánh làm Tam ban sai sứ[4], những người còn lại thăng thưởng tùy theo mức độ.
[41] Chiếu rằng trong sắc lệnh về thời gian để tang năm đời, thêm vào phần chú thích về cháu đích tôn để tang ông nội: “Con trai đích tử chết, không có con trai thứ, sau đó cháu đích tôn mới chịu tang nặng, tức là cháu đích tôn được truyền tập tước phong, dù có con trai thứ, vẫn phải chịu tang nặng.”
[42] Trước đó, Đồng tri Thái thường lễ viện Lý Thanh Thần tâu: “Trong sắc lệnh về thời hạn năm tháng của năm loại tang phục, có chú thích rằng cháu đích tôn thay cha để chịu tang ông nội, gọi là thừa trọng. Đối với trường hợp thay cha chịu tang cho ông cố, ông cao tổ cũng như vậy.
Lại có chú thích rằng ông nội chịu tang cho cháu đích tôn: ‘Nếu có con đích thì không có cháu đích tôn.’ Lại trong lệnh phong tước có quy định: ‘Công, hầu, bá, tử, nam đều do con cháu đích truyền tập. Nếu không có con đích hoặc con đích phạm tội thì lập cháu đích tôn [5], nếu không có cháu đích tôn thì lần lượt lập em cùng mẹ với con đích, nếu không có em cùng mẹ thì lập con thứ, nếu không có con thứ thì lập em cùng mẹ với cháu đích tôn, nếu không có em cùng mẹ thì lập cháu thứ. Từ cháu tằng tôn trở xuống đều theo quy định này.’
Xét kỹ ý nghĩa của lễ và lệnh, rõ ràng là nếu con đích chết trước mà ông nội mất thì cháu đích tôn thay cha chịu tang, như vậy lễ đặt con thứ lên trước, không liên quan đến việc các chú còn sống hay đã mất, cháu đích tôn tự nhiên phải chịu tang ba năm, còn các con khác cũng chịu tang như tang cha. Nếu không có cháu đích tôn thay cha chịu tang cho ông nội, thì phải theo lệnh phong tước, căn cứ vào thứ tự xa gần của cháu đích tôn mà suy ra. Hơn nữa, việc truyền tước và thừa trọng, nghĩa lý phải thống nhất, lễ và lệnh đã quy định rõ ràng, vốn không có gì nghi ngờ.
Nhưng trong sắc lệnh về thời hạn năm tháng của năm loại tang phục lại không có điều khoản về việc lập cháu thứ thừa trọng, nên sĩ dân khắp nơi vẫn còn nghi ngờ về tang phục thay cha chịu tang cho ông nội, có khi không kịp bẩm báo lên triều đình, dẫn đến nhiều sai sót. Xin cho rằng nếu ông nội mất mà không có cháu đích tôn thừa trọng, thì theo điều khoản truyền tập trong lệnh phong tước, các con cháu khác mỗi người chịu tang theo bản phục của mình. Như vậy sẽ làm rõ cho thiên hạ biết về chế độ lễ nghi, ông nội được nối dõi, dòng dõi không bị đứt đoạn, đó là ân trạch của thánh vương.”
Triều đình giao xuống Lễ viện bàn, xin theo ý kiến của Thanh Thần. Sau đó, Trung thư tâu: “Xưa kia, khi phong kiến quốc ấp thì lập tông tử, nên theo Chu lễ, nếu con đích chết, dù còn các con khác, vẫn lập cháu đích tôn để thừa trọng, nhằm thống nhất gốc rễ, làm rõ nghĩa tôn ty. Còn theo Thương lễ thì nếu con đích chết, lập các con khác, nếu không có con khác thì mới lập cháu. Nay đã không lập tông tử, lại không thường xuyên phong kiến quốc ấp, nên việc cháu đích tôn chịu tang ông nội không nên chỉ dùng thuần Chu lễ.” Do đó có chiếu này.
[43] Chiếu cho các lộ Hoài Nam, Lưỡng Chiết, Giang Nam, Kinh Hồ chuyển vận ty báo cáo các châu quân bị hạn hán.
[44] Vua nói với Vương An Thạch: “Thẩm Quát tâu việc địa giới với Khiết Đan, dường như đã thương lượng xong, không biết thực sự có đúng như vậy không? Hay là họ sẽ không cử sứ giả đến nữa.” An Thạch đáp: “Khiết Đan vốn không có ý gì khác, thấy triều đình cho phép cử sứ giả đến mà không sợ hãi, thì chắc chắn họ sẽ không cử nữa.” Việc này theo ghi chép ngày 22, Quát đến Bắc Đình ngày 25 tháng 5, rời đi ngày 5 tháng 6, ở lại 11 ngày.
[45] Khi Quát mới đến Hùng Châu, quân địch ngăn biên giới không cho vào, đòi đất liên tục, nhiều lần đốt phá biên ải, tỏ ý quyết tâm. Quát ở lại Hùng Châu hơn 20 ngày, Tiêu Hi trở về, mới cho sứ giả vào. Quát viết di tấu, giao cho anh trai là Hùng Châu an phủ phó sứ Phi, đại ý nói: “Nếu thần không trở về, địch tất sẽ dốc toàn lực xâm lược. Khí giới và tài năng của địch đều không bằng Trung Quốc, chỉ dựa vào đông người và quen chịu khổ, không mang lương thực. Phương pháp chế ngự địch, chỉ cần tập trung quân ở Định Vũ, hợp binh lực Tây Sơn, để giữ Từ, Triệu. Sông Lê Dương hẹp và bờ gần, có thể dùng gậy chống qua, nên chia quân Thiền, Ngụy, để chặn cửa sông Bạch Mã. Hoài, Vệ củng cố thành lũy, để chặn đường. Địch không thể đi về phía tây, tất sẽ đi đường giữa đến cầu sông, thì phá đê Tề Cổ, Nguyên Vũ, Thiên Đài (Tề Cổ là tên đê, xem ngày Đinh Dậu tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 5), dùng nước nhấn chìm, dù trăm vạn quân cũng có thể biến thành cá. Sông Đường từ Tây Sơn chảy ra, dùng bao đất chặn lại, đợi quân địch rút về, phá bao để cắt đứt quân địch. Quân Trấn, Định đuổi theo sau, có thể tiêu diệt hoàn toàn.”
[46] Quát đến sân địch, địch phái Nam tể tướng Dương Ích Giới đến bàn với Quát. Quát lấy được mấy chục bản sổ sách về việc tranh chấp đất đai ở Xu mật viện, bảo các thuộc lại đọc thuộc. Đến lúc này, Ích Giới hỏi điều gì, Quát liền bảo thuộc lại đọc những sổ sách đã thuộc, Ích Giới không thể đối đáp được, lui về tìm hiểu. Hôm sau lại họp, Quát lại dùng sổ sách để đối đáp. Ích Giới nói: “Mấy dặm đất mà không chịu nhường, cuối cùng làm đổ vỡ quan hệ tốt đẹp, có lợi gì?”
Quát đáp: “Cái mà nước ta dựa vào là nghĩa. Vì thế quân đội chính nghĩa thì mạnh, phi nghĩa thì yếu. Năm trước quân phương Bắc đánh úp Thiền Uyên của ta, sông vỡ, tiên quân Chương Thánh hoàng đế của ta không dùng quân để đánh, mà dùng hòa ước lớn để hòa giải. Đầu niên hiệu Khánh Lịch, mới có việc tranh chấp Hoàng Ngôi. Ngày Canh Thìn tháng 12 năm Khánh Lịch thứ nhất, xâm chiếm đất canh tác của Tô Trực, cần xem xét. Tiên đế Nhân Tông của ta bèn đặt đồn Lâu Bản, đồn Lâu Bản, cần xem xét. Sách Vũ kinh biên phòng chép: Huyện Quách, châu Đại có trại Lâu Bản, phía tây đến trại Vân Nội châu Hãn 20 dặm, phía bắc đến địa giới Khiết Đan. Cho đến nay. Nay hoàng đế cai trị bốn bể, mấy dặm đất cằn cỗi có đáng kể gì? Điều mà quốc gia quan tâm là mệnh lệnh của tổ tông, quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Nay triều đình phương Bắc tham mấy tấc đất, bỏ đại tín của tiên quân, dùng uy hiếp dân chúng, điều này để lại chính nghĩa cho triều đình ta, chứ không phải là bất lợi cho triều đình ta.”
Tổng cộng họp sáu lần, kẻ địch vây quanh nghe có đến nghìn người, biết không thể lay chuyển được, bèn bỏ Hoàng Ngôi mà xin Thiên Trì. Quát nói: “Quát nhận mệnh về Hoàng Ngôi, không biết việc khác.” Đạt được thỏa thuận rồi về. Sách Thông lược chép: Sắp đến biên giới, dân chúng Yến đều bỏ phòng bị trở về cày cấy. Điều này căn cứ theo tự chí của Thẩm Quát, phụ lục sau ngày Nhâm Tý 21 tháng này[6], cần xem xét. Ngày Mậu Ngọ 26 tháng 3, Quát mới nhận mệnh, Hàn Chẩn nói thế, đã chú ở ngày đó, cần xem xét chung. Thẩm Quát tự có bản tấu nhập quốc Ất Mão và biệt lục chép việc đi sứ rất chi tiết, nay chọn lấy những chỗ biện luận về địa giới chú dưới tự chí của Quát. Những điều quan trọng cũng không ngoài tự chí của Quát, sợ lâu ngày không còn thấy biệt lục của Quát nữa, nên tạm giữ lại. Hai đoạn trước đã chú đầy đủ vào ngày 29 tháng 3 và ngày 5 tháng nhuận năm thứ 8.
Biệt lục nhập quốc chép: Ngày 19 tháng nhuận 4, rời huyện Tân Thành. Ngày 23 tháng 5, đến đình Viễn núi Vĩnh An, quán bạn sứ Lâm Nhã, Tiết độ sứ quân Thủy Bình Gia Luật Thọ, Phó sứ Hữu gián nghị đại phu, Xu mật trực học sĩ Lương Dĩnh ngày 25 vào yết kiến. Ngày 27, vào trước trướng đi dự yến. Ngày 29, đến quán dự yến, sai Xu mật phó sứ Dương Ích Giới đứng chủ yến, rượu hai tuần, Ích Giới bảo người truyền lời có thánh chỉ, mời đứng dậy. Thần Quát liền rời chỗ ngồi, đứng trước trướng đối diện với Ích Giới, Thọ, Dĩnh. Ích Giới nói: “Vâng thánh chỉ, việc địa giới ba châu Uất, Ứng, Sóc trước đây, triều đình hai lần phái sứ giả đến Nam triều biện luận. Nay hai châu Uất, Ứng đã xong, chỉ còn một chỗ ở châu Sóc chưa xong, rốt cuộc khó dừng việc qua lại. Không rõ các khanh lúc rời Nam triều có ý chỉ gì để kết thúc?” Thần Quát đáp: “Việc địa giới Hà Đông đã xong, sai Quát đến để đáp lễ.” Ích Giới nói: “Chỉ hai châu Uất, Ứng đã xong, địa phận châu Sóc đều chưa xong.” Thần Quát đáp: “Quát chỉ được sai đến để đáp lễ, không dám dự vào việc này.” Ích Giới nói: “Nay là thánh chỉ hỏi, thị độc, quán sứ phải trả lời.” Thần Quát đáp: “Việc này tuy không phải chức trách, không dám dự vào, nhưng đã vâng thánh chỉ, biết điều gì không dám không trả lời. Trước đây biện luận việc địa giới ba châu, chỉ cần triều đình phương Bắc có chứng cứ rõ ràng, đều đã chia cắt cho triều đình phương Bắc, như núi Hoàng Ngôi, Thiên Trì, đều có chứng cứ rõ ràng, khó mà đáp ứng.”
Ích Giới và viên quán bạn là Lương Dĩnh đều nói rằng núi Hoàng Ngôi từ xưa vốn là đất đai của Bắc triều. Thần Quát đáp rằng: “Không rõ Bắc triều có văn tự gì làm bằng chứng?” Dĩnh nói: “Nam triều có bằng chứng gì?” Thần Quát đáp: “Nam triều thu được rất nhiều bằng chứng của Bắc triều, có bằng chứng từ mười năm trước[7], cũng có bằng chứng năm nay, có bằng chứng của châu huyện, cũng có bằng chứng từ thánh chỉ. Hãy nói về việc trước nhất, năm Trọng Hi thứ 11 đời Bắc triều, Bắc triều cử Giáo luyện sứ Vương Thủ Nguyên, Phó Tuần kiểm Trương Vĩnh, Cú ấn quan Tào Văn Tú, Nam triều cử Dương Vũ trại đô giám Trạch Điện trực[8], huyện lệnh Quách huyện Giáo luyện sứ Ngô Tiết cùng đi định đoạt, lấy chân núi Hoàng Ngôi làm giới, từ đó về sau quân Thuận Nghĩa nhiều lần có công văn, đều gọi chân núi Hoàng Ngôi là giới, há không rõ ràng sao!” Dĩnh nói: “Đây chỉ là định đoạt địa giới của Tô Trực, Niếp Tái Hữu, chứ không phải địa giới của hai triều. Địa giới hai triều vốn lấy núi Phân Thủy ở phía nam làm giới.” Thần Quát đáp: “Lúc đó trước hết vì Tô Trực, Niếp Tái Hữu xâm canh qua đất đai của Nam triều, nhiều lần xử lý phân xử. Năm Khang Định thứ hai, thánh chỉ của Nam triều, há có thể vì việc nhỏ nhặt của dân mà nhẹ dạ báo lên triều đình? Vì việc hòa hảo giữa hai triều là trọng đại, nên không xử lý nữa, chỉ căn cứ vào đất canh tác của Tô Trực, Niếp Tái Hữu mà dựng đống lửa làm giới vĩnh viễn, Bắc triều vì thế cử các quan lại trên cùng đi định đoạt. Nếu là đất đai của dân trong lãnh thổ Bắc triều, cần gì thánh chỉ của Nam triều và hai triều cử quan? Nay nếu nói rằng chỗ định chân núi Hoàng Ngôi[9] chỉ là địa giới của Tô Trực, Niếp Tái Hữu, đã không phải là địa giới của Nam triều, không rõ phía nam giáp với đất đai của ai?” Dĩnh và những người khác không nói gì.
Thần Lý Đào tâu: “Vừa qua, quốc thư và bạch trát của Bắc triều có nêu các việc như: Ngõa Diêu Ổ, Lý Phúc Man, Thủy Cốc, Nghĩa Nhi Mã Phố cùng ba tiểu phố, khu vực Tây Kinh, v.v. Nam triều tuy có văn thư xác minh rõ ràng, nhưng để trao đổi xác minh dấu vết giặc, hoặc bắt giữ và giao nộp quân nhân đào ngũ, đều dựa theo Trường Liên Thành, Lục Phiên Lĩnh, Quan Tử Khẩu Phố, đều không phải là nơi giáp ranh giữa hai triều. Căn cứ theo ranh giới cùng Nhạn Môn, Hồ Cốc Trại về phía đông một số trại, dưới thời trị bình đã phái phố phân[10], triều đình đã không bàn đến việc có hay không chứng cứ, cũng không xét nữa, và đã ứng phó đầy đủ các việc của Bắc triều. Còn Hoàng Ngôi Đại Sơn vốn có văn thư quy định ranh giới đến chân núi, Thiên Trì lại có điệp văn năm Khai Thái thứ 5 của quân Thuận Nghĩa[11], xác nhận thuộc địa phận quân Ninh Hóa, đã xác minh rõ ràng. Nay còn có gì để bàn nữa?”
Dĩnh lại nói: “Văn thư xác minh của Nam triều, khi ở Hà Đông, tôi thấy Lưu Thiếu Khanh đưa ra mấy bản xác minh, cũng khó làm bằng chứng, nên cố tình kéo dài.” Thần Lý Đào đáp: “Các học sĩ khi ở Hà Đông chỉ tranh luận việc nhỏ, có bao giờ bàn đến địa giới đâu?” Dĩnh lại nói: “Địa phận Thiên Trì vốn thuộc Bắc giới là rõ ràng. Nếu Thiên Trì Thần Đường không thuộc Bắc giới, sao lại có điệp văn của Bắc giới yêu cầu tu sửa?” Thần Lý Đào đáp: “Đã thuộc Bắc giới, sao lại là Nam triều tu sửa?” Thần Thẩm Quát lại nói: “Miếu vũ của Nam triều vốn là quân Thuận Nghĩa vượt giới quản lý, ví như Đại Châu nếu gửi điệp văn cho Sóc Châu, nói rằng huyện Thiện Dương bị hư hỏng, xin sửa chữa ngay, liệu có thể chiếm được huyện Thiện Dương không?” Dĩnh nói: “Huyện Thiện Dương bị hư hỏng, liên quan gì đến Đại Châu? Sao lại gửi điệp văn cho Sóc Châu sửa chữa? Có nghĩa lý gì?” Thần Thẩm Quát đáp: “Miếu Thiên Trì của Nam triều bị hư hỏng, liên quan gì đến Sóc Châu? Sao lại gửi điệp văn cho quân Ninh Hóa sửa chữa? Vốn là quân Thuận Nghĩa vượt giới quản lý, sao có thể làm bằng chứng?”
Dĩnh nói: “Nay địa phận ba châu Uất, Ứng, Sóc, Uất Châu và Ứng Châu đã xong, chỉ còn địa phận Sóc Châu chưa xác định ranh giới, Thị độc, Quán sứ sao đã nói về việc hồi tạ?” Thần Lý Đào đáp: “Bắc triều bàn mấy việc, có cái hợp lý, có cái không, cái hợp lý đã theo, cái không thì khó bàn, sao không hồi tạ!” Thần Thẩm Quát lại nói: “Hai triều hòa hảo bảy tám mươi năm, sứ giả qua lại là lẽ thường. Việc địa giới, Quát đây đâu dám dự vào? Vừa rồi vâng chỉ hỏi sứ giả, đã căn cứ lý lẽ thực tế trình bày, còn gì để bàn nữa?” Dĩnh lại nói: “Năm Khang Định thứ 2, trước khi chưa định ranh giới, lấy đâu làm giới?” Thần Thẩm Quát đáp: “Lấy trấn Lục Phiên làm giới.” Dĩnh nói: “Vốn lấy núi Hoàng Ngôi phân thủy làm giới, không rõ Nam triều lại lấy Lục Phiên Lĩnh làm giới, có văn thư nào chứng minh?” Thần Thẩm Quát đáp: “Nếu cần văn thư chứng minh của Nam triều, thì có đủ. Không rõ Bắc triều lấy phân thủy lĩnh làm giới, có văn thư nào chứng minh?” Dĩnh nói: “Ở đây văn thư không ít, Thị độc hãy đưa văn thư chứng minh của Nam triều ra!” Thần Thẩm Quát nói: “Xin hãy đưa văn thư chứng minh của Bắc triều ra!” Dĩnh và mọi người im lặng.
Thần Bình nói: “Xưa nay lấy Trường Liên Thành, Lục Phiên Lĩnh làm giới.” Dĩnh hỏi: “Có bằng chứng gì không?” Thần Bình đáp: “Xưa nay Trường Liên Thành, Lục Phiên Lĩnh một dải, Quan Tử Khẩu Phố[12] chính là nơi phân giới nam bắc. Trước sau các châu huyện Bắc triều giao nghiệm dấu vết giặc, trả lại quân nhân đào tẩu, văn thư rất nhiều, chính là nơi giới hạn. Nay Nam triều tuy có các văn thư này để chứng minh rõ ràng, nhưng chỉ là vì việc mà chỉ định phố phân giới, không phải là văn tự đặc biệt chỉ định thuộc Nam hay Bắc[13]. Nay bản triều không bàn đến có bằng chứng hay không, đã theo trong tờ trắng mà phân chia ứng phó Bắc triều xong xuôi. Hoàng Ngôi đặc biệt có văn tự hai triều sai quan lập định giới hạn, cùng với các công văn nhiều lần của Thuận Nghĩa Quân, đều chỉ rõ lấy chân núi Hoàng Ngôi Đại Sơn làm giới. Thiên Trì lại có công văn năm Khai Thái thứ 5 của Thuận Nghĩa Quân, chỉ rõ thuộc địa phận Ninh Hóa Quân, đều là văn tự Bắc triều, lý lẽ rõ ràng, sao có thể thay đổi?”
Dĩnh lại nói: “Vùng Tây Hình cũng có việc chưa xong. Từ các trạm thám sát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm và Bạch Thảo Phố phân chia, vì sao từ phía bắc về phía tây lại lấy núi Phân Thủy Lĩnh, lại chỉ Cổ Trường Thành ở đồng bằng làm giới?” Thần Quát đáp: “Chỗ này chính là Phân Thủy Lĩnh. Không lấy đây làm giới, thì lấy đâu làm giới?” Dĩnh nói: “Chỗ này đâu phải Phân Thủy Lĩnh? Phân Thủy Lĩnh từ đây quay về nam, xuống Bạch Thảo Phố nhìn Cổ Trường Thành, chỉ là đồng bằng, đâu có núi?” Thần Quát đáp: “Hay là học sĩ chưa từng thấy địa hình nơi đó, núi Phân Thủy Lĩnh đã rõ ràng, sao lại gọi là đồng bằng? Hơn nữa, phía nam Phân Thủy Lĩnh này đều là trại phố và phố của cung thủ Nam giới, chỉ có thể đi về phía nam, làm sao đi được nữa?” Dĩnh nói: “Tuy có phố, nhưng đều là Nam giới lấn qua phía bắc Phân Thủy Lĩnh dựng lên, đáng lẽ phải dỡ bỏ, sao lại lấy phố làm giới cứng[14]?” Thần Quát đáp: “Những phố này vốn ở phía nam Phân Thủy Lĩnh, Bắc triều vốn biết, lại có thánh chỉ Bắc triều chứng minh, sao không phải là giới cứng?” Dĩnh hỏi: “Thánh chỉ nói gì?” Thần Quát nói: “Trong thánh chỉ và tờ trát của Tiêu Lâm Nhã Lô nói rằng, Nam triều lấn qua phía bắc Phân Thủy Lĩnh, dựng ba phố nhỏ và phố ngựa Nghĩa Nhi, đều phải dỡ bỏ, dời về phía nam Phân Thủy Lĩnh. Sao không nói đến việc lấn qua Phân Thủy Lĩnh ở Thổ Đặng, Thạch Điệt, dựng phố và phố ngựa Nghĩa Nhi?” Dĩnh nói: “Phố Thổ Đặng, Thạch Điệt không ít, trong tờ trát sao có thể nói hết được nhiều phố như vậy?” Thần Quát đáp: “Nếu thực sự lấn qua phía bắc Phân Thủy Lĩnh, thì phải nói rõ, có gì không nói được? Vốn không liên quan đến Phân Thủy Lĩnh, nên không nói đến, cần gì phải bàn?
Nay hãy nói về Hoàng Ngôi Đại Sơn, Bắc triều còn có bằng chứng gì?” Quát tự chú: “Bắc giới Châu Trác nhiều lần gửi công văn bàn về việc chưa xong ở địa giới Tây Hình, nay Dĩnh tranh luận như vậy, thần Quát dùng lời này đáp lại, Dĩnh biết mình sai, từ đó về sau không còn nói đến Hoàng Ngôi Đại Sơn, Thiên Trì nữa.” Dĩnh nói: “Cả dải đông tây đều nên lấy Phân Thủy Lĩnh làm giới, sao Hoàng Ngôi Đại Sơn lại không lấy Phân Thủy Lĩnh làm giới?”
Thần Quát đáp rằng: “Dải đất đông tây đều lấy núi phân thủy làm giới hạn, có văn tự nào làm bằng chứng không?” Dĩnh nói: “Có văn tự của châu quân Nam triều đi qua làm bằng chứng.” Thần Quát nói: “Chỉ có văn tự ở phía đông trại Hồ Cốc, cũng chưa đủ làm bằng, liên quan gì đến núi lớn Hoàng Ngôi?” Dĩnh nói: “Đã có một chỗ lấy núi phân thủy làm giới hạn, thì đông tây đều phải lấy núi phân thủy làm giới hạn.” Thần Quát đáp: “Nếu một chỗ lấy núi phân thủy làm căn cứ, thì đều phải lấy núi phân thủy làm giới hạn, tức là phía tây đến quân Khả Lam, phía đông đến Đàn[15], Thuận, đều phải lấy núi phân thủy làm giới hạn. Như vậy sao được?” Dĩnh nói: “Tại sao lại nói đến Đàn, Thuận, có lý do gì không?” Thần Quát đáp: “Đã nói đông tây đều phải lấy núi phân thủy làm giới hạn, thì phải như vậy. Học sĩ vốn cũng biết là không được!” Thần Bình tiếp lời: “Thị độc chỉ nói ví dụ thôi.”
Dĩnh lại nói: “Thiên Trì Tử có bằng chứng gì?” Thần Quát đáp: “Có công văn năm Khai Thái thứ 5 của quân Thuận Nghĩa, địa lý thuộc quân Ninh Hóa, chỉ có bằng chứng này là rõ ràng nhất, còn lại có văn tự, không cần nói thêm.” Dĩnh nói: “Chỉ khăng khăng giữ văn tự này!” Thần Quát nói: “Văn tự này không giữ, thì giữ văn tự gì!” Dĩnh nói: “Văn tự này chỉ là sai lầm nhất thời của châu huyện, nếu quan lại lúc đó còn, chắc chắn không tha thứ.” Thần Quát đáp: “Chỉ cần không có văn tự thuận lợi, liền bảo là sai lầm thì thôi, sao được!” Dĩnh nói: “Đã là địa giới Nam triều, tại sao vương Ất Thất và một trăm bộ tộc Bắc giới lại ở đó chăn ngựa hơn nửa năm mà không ai đuổi đi?” Thần Quát nói: “Đã có công văn của quân Thuận Nghĩa nhận là đất Nam triều, thì dù ở đó năm trăm năm, cũng là người Bắc không nên xâm phạm đất Nam giới!” Thần Bình nói: “Những nơi tiếp giáp biên giới, lúc bình thường không có việc gì, người hai triều qua lại kiếm củi, chăn thả, có gì không được? Há lại vì tạm thời ở đó mà chiếm làm đất riêng?” Thần Quát lại nói: “Ví như nhà dân, ở đất người khác một đời, hai đời, nếu xuất trình được khế ước, cũng phải trả lại. Ở đó nửa năm sao đủ làm bằng! Nam triều chỉ giữ văn tự Bắc triều, đó mới là bằng chứng thực. Lúc đó dù không đuổi đi, cũng là người Bắc không nên xâm phạm, sau lại dỡ trạm, dựng mười tám đống lửa, bảy trạm, há lại không qua phát khiển!” Lúc đó có một người đội khăn xếp, tiến lên trợ giúp, Thần Bình nhận ra là Cao Tư Dụ, đô quản theo hầu Tiêu Hi hôm trước, Thần Bình liền nói: “Hãy để Thị độc, Bình nói chuyện với Xu mật cấp sự, quán bạn Lâm Nhã, học sĩ, không cần anh xen vào, hãy lui đi.” Tư Dụ liền lui.
Sau đó, thần Quát lại nói: “Như núi Hoàng Ngôi, Thiên Trì Tử, không chỉ có những chứng cứ đã trình bày trước đây, mà khi sứ thần Tiêu Hỗ, Ngô Trạm đến, còn có thánh chỉ của Bắc triều. Hiện nay đã dựng phong đài, cắm cọc tiêu, đào hào, xây dựng đồn trại, thì cứ theo như cũ, dân Bắc triều cũng cứ theo như cũ, không xâm chiếm lẫn nhau, như vậy chẳng phải rõ ràng sao!” Dĩnh nói: “Đây là thánh chỉ do Tiêu Hỗ, Ngô Trạm truyền đạt, đã bị giáng chức rồi. Văn bản này sao có thể dùng được?” Thần Quát nói: “Đây là thánh chỉ của Bắc triều, học sĩ sao lại nói không dùng được?” Dĩnh nói: “Đây là do Tiêu Hỗ, Ngô Trạm nhận lầm thánh chỉ, đã bị xử phạt rồi.”
Thần Quát nói: “Văn thư của quân Thuận Nghĩa nói rằng châu huyện sai lầm, không qua triều đình xử lý, không dùng được, nay thánh chỉ lại nói là sai, sao lại sai nhiều như vậy? Sau này nếu có thêm chứng cứ, chỉ cần học sĩ nói là sai thì thôi sao? Còn bàn luận gì nữa? Quát chúng tôi đến đây để tạ ơn, cũng khó tranh cãi với học sĩ.” Thần Quát không nói gì thêm, lùi lại đứng. Dĩnh lại nói: “Trước đây Bắc triều xử lý năm vùng đất, ba vùng đã xong, nếu chỉ còn hai vùng này, việc nhỏ thế này, sao không xử lý cho xong? Không biết hai vùng này vốn có phải là vùng cần xử lý hay không?” Thần Quát đáp: “Thiên Trì Tử vốn không phải là vùng cần xử lý.”
Quát tự chú thích: “Hy vọng Dĩnh trả lời, liền dẫn ra đoạn văn trong trát tử của Gia Luật Vinh bỏ qua Thiên Trì Tử để trả lời, nhưng Dĩnh không hỏi. Thêm nữa, trong trát tử của Tiêu Lâm Nhã cũng chỉ nói lấy chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới.” Dĩnh trầm ngâm suy nghĩ, thần Quát liền nói: “Lại định nói là sai sao?” Dĩnh lại nói nhiều lý lẽ, nhưng đại thể đều không có chứng cứ. Ích Giới liếc mắt ra hiệu cho Dĩnh dừng lại. Thần Quát đợi ông ta nói xong, nói: “Học sĩ nói thêm ngàn lý lẽ cũng vô ích, cần phải có văn bản chính xác. Nam triều không có nhiều lời, núi Hoàng Ngôi chỉ có tám chữ: ‘Chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới’, Thiên Trì Tử chỉ có sáu chữ: ‘Đất thuộc Ninh Hóa quân’, ngoài ra thần không biết, không còn gì để bàn luận.” Thần Quát lại lùi lại đứng, Ích Giới nói: “Nay thánh chỉ hỏi, làm sao tâu lại?” Thần Quát đáp: “Xin báo với Xu mật cấp sự tâu lại, Quát chúng tôi đến đây chỉ để tạ ơn, không có thánh chỉ khác. Nay bàn việc công, nếu là việc phân định địa giới, đã trình bày đầy đủ. Bản triều chỉ giữ hai câu chính xác: ‘Chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới’ và ‘Đất thuộc Ninh Hóa quân’.”
Ích Giới liền quay sang Thọ, Dĩnh: “Như vậy thôi.” Rồi cùng chắp tay ngồi xuống, uống ba tuần rượu, Ích Giới lại nói: “Việc hòa hảo giữa hai triều rất quan trọng, thị độc, quán sứ nên sớm kết thúc cho tốt.” Thần Quát đáp: “Có gì chưa kết thúc? Đạo lý của Nam triều đã trình bày, ngoài ra thần không dám can thiệp.” Dĩnh vẫn giữ ý định lấp liếm, lại nhắc lại lời trước, thần Quát đáp: “Hai triều hòa hảo đã bảy tám mươi năm, xưa nay chưa từng có. Trước đây vào cõi, thấy hai triều nông tang thịnh vượng, dân giàu có, đó là đức lớn của tổ tông hai triều, sao có thể vì việc nhỏ nơi biên giới mà làm tổn hại đại cục hòa hảo? Chỉ là lý khó đáp ứng, không phải chiếm đoạt.”
Ích Giới nói: “Hai triều hòa hảo, dân được hưởng phúc, thị độc, quán sứ nên hiểu ý triều đình, sớm kết thúc, để tránh việc qua lại.”
Thần Bình đối rằng: “Kế tục hòa hảo, dân chúng được nghỉ ngơi, sinh linh được ban ơn, quả thật như lời của Xu mật cấp sự.” Thần Quát nói: “Chỉ vì Nam triều xét rõ phân minh, khó mà đối phó, việc cũng không do sứ giả quyết định.” Thần Bình nói: “Việc được mất đất đai này không liên quan đến tổn ích của hai triều.” Dĩnh nói: “Bắc triều có văn bản xét rõ, nhưng Thị độc, Quán sứ cứ khăng khăng nói chỉ là hồi tạ, không chịu thương lượng, đoán rằng dâng tư trình cũng chẳng ích gì.” Thần Quát nói: “Nam triều chỉ giữ được ‘chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới’ và ‘đất đai thuộc Ninh Hóa quân’, ngoài ra thần không biết, cũng không cần chỉ bảo.”
Dĩnh lại nói: “Như Xích Nê Giao, Đoạn Gia Bảo cũng có việc chưa xong, vào năm Trọng Hi thứ 12, dân chúng Thạch Đình Trực xử lý việc biên giới, Xích Nê Giao gần phía nam có đất đai, chỉ là Thị độc, Quán sứ không chịu thương lượng, chưa dâng tư trình.” Ích Giới nói: “Tạm lấy chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới, chưa rõ đất đai phía đông tây của Thạch Đình Trực sẽ xử lý thế nào?” Thần Quát đáp: “Nếu dẫn văn bản tranh chấp đất đai của Thạch Đình Trực, tức là đã xác định chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới, đất đai phía đông tây tự có bằng chứng.”
(Quát tự chú rằng: “Năm Trọng Hi thứ 12, Thuận Nghĩa quân từng gửi điệp đến Đại Châu xử lý việc đất đai của Thạch Đình Trực, trong điệp nói: Phải xác định chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới. Ý muốn trước nhận chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới, rồi hướng thẳng về phía đông, chiếm đất phía nam cổ Trường Thành dài hơn 30 dặm, đông tây rất dài. Thần Quát nói như vậy tức là đã xác định chân núi Hoàng Ngôi làm ranh giới, đất đai phía đông tây tự có Mãi Mã Thành và cổ Trường Thành làm giới hạn. Thần Quát nói tự có bằng chứng khác.”)
Ích Giới hiểu rõ, không nói thêm.
Dĩnh thấy mình lý kém, liền vội nói rằng núi Hoàng Ngôi phải lấy đỉnh phân thủy làm ranh giới, và bàn về Xích Nê Giao, Đoàn Gia Bảo. Thần Quát không trả lời thêm, sau sáu tuần rượu, đứng dậy tạ ơn xong, trình bày sự việc, rồi từ biệt Ích Giới. Ngày mùng một tháng 6, đến nơi yến tiệc ngang, Mã Thượng Thọ nói với Thần Quát: “Thị độc đã ghi chép đầy đủ thánh chỉ của Nam triều, đã báo lên Xu mật viện.”
Ngày mùng một tháng 6, trong yến tiệc ngang, sau hai tuần rượu, Áp yến Gia Luật Vựng sai Cao Tư Dụ truyền lời rằng: “Hoàng đế sai Dương Phó xu truyền tuyên.” Thần Quát và Thần Bình đều đứng dậy trước trướng, một lúc lâu, Dương Ích Giới đến nói: “Hoàng đế truyền tuyên: Hôm nay Xu mật viện và Trung thư cùng trình lên thánh chỉ của các khanh từ Nam triều, ngoài việc sẽ có văn thư trả lời sau, những việc đã làm trước đó đều đã báo cáo, không có việc gì chưa báo. Tiêu Hi không chịu từ biệt triều đình, chỉ vì công việc chưa xong, phải ở lại đó để bàn bạc cho xong. Việc Tiêu Hi dựa cột không chịu xuống thềm, sẽ được hỏi rõ. Ngoài ra, việc núi Hoàng Ngôi và Thiên Trì chưa xong, các khanh phải mang thánh chỉ của Nam triều đến để bàn bạc. Nếu việc này không xong, chắc chắn sẽ không ngừng qua lại.”
Thần Quát và Thần Bình đáp: “Kính xét thánh chỉ, Nam triều chỉ nghe báo cáo, sợ Thần Quát và Thần Bình che giấu. Việc Tiêu Hi dựa cột, sẽ được hỏi rõ. Thấy rõ ý thánh thượng coi trọng hòa hảo, đợi Quát về Nam triều, sẽ báo cáo đầy đủ.” Thần Bình nói: “Trên tiếp nhận thánh dụ, đủ thấy coi trọng hòa hảo, nhưng từ việc hỏi rõ Tiêu Hi trở lên, xin tuyên dụ Bình, sẽ báo cáo đầy đủ về Nam triều. Việc núi Hoàng Ngôi và Thiên Trì, Bắc triều nói chưa xong, sứ thần dù nghe cũng không dám báo cáo.” Ích Giới nói: “Rốt cuộc là không chịu bàn bạc. Không biết ngoài việc này, Hoàng đế Nam triều còn có ý chỉ gì?” Thần Bình đáp: “Nếu được bổn triều chỉ huy đến bàn bạc, há dám không bàn?”
Dĩnh lại nói: “Đất đai ba châu Uất, Ứng, Sóc, hai châu đã xong, chỉ còn đất Sóc châu ở Hoàng Ngôi, Thiên Trì chưa xong, huống chi đó là đất đai lâu nay của triều đình, nay phải giải quyết xong.” Thần Bình nói: “Nhưng Nam triều căn cứ vào chứng cứ rõ ràng. Chỉ sợ biên thần Bắc triều sinh sự cầu công, làm mê hoặc triều đình, xin Xu mật cấp sự và chấp chính đại thần Bắc triều suy nghĩ, hai triều Nam Bắc thông hảo bảy tám mươi năm, tình huynh đệ chú cháu như vậy, không biết việc nhỏ này có đáng phải tranh cãi không?” Ích Giới nói: “Việc nhỏ thì đúng vậy.”
Thần Bình lại nói: “Xin Xu mật tâu lên Hoàng đế, việc bàn luận ở Bắc giới này là việc nhà nước của hai Hoàng đế, hoặc sợ quần thần trong ngoài vì đã khởi xướng bàn luận, không dám tự dừng. Mong Hoàng đế tự quyết đoán, sớm chỉ huy giải quyết thì tốt.” Ích Giới nói: “Việc này đều là ý thánh thượng.” Dĩnh nói: “Lại nói là công việc không phải ý thánh thượng.” Thần Bình đáp: “Bình nghĩ rằng sợ quần thần bàn luận không quyết, xin đặc biệt xuất phát từ quyết đoán của thánh thượng. Mấy khi nào không phải ý thánh thượng? Đang nói chuyện, liền bắt lấy một hai chữ để bắt bẻ sứ thần, về lý không thể.” Dĩnh nói: “Chẳng lẽ Quán sứ sai?” Thần Bình nói: “Bình không sai, là học sĩ sai.” Dĩnh nói: “Những việc công này (nhật sát) Tiểu thần.” Bình lại nói: “Đã nói là việc nhỏ, đến đây cũng nên giải quyết xong.”
Ích Giới nói: “Việc phân định địa giới chưa xong, Thị độc và Quán sứ phải mang theo thánh chỉ của Nam triều đến. Việc này cần phải giải quyết xong, nay là thánh chỉ hỏi, không được giấu giếm. Huống chi trước đây trong văn thư đều nói sai người đến thẩm tra và thương nghị, đồng thời yêu cầu mang theo văn bản chứng cứ đến Bắc triều để biện luận, nhất định phải mang theo văn bản chứng cứ.” Thần Quát đáp: “Nam triều nguyên sai thẩm tra thương nghị, sau đổi thành hồi tạ, đã nhiều lần có công văn báo cáo. Văn bản chứng cứ của Bắc triều trước đây đã nhận được, sau đổi thành hồi tạ, triều đình đã lấy lại hết. Nay đến chỉ là hồi tạ.”
Ích Giới lại nói: “Thị độc và Quán sứ tuy dùng hồi tạ, nhưng sau khi rời Nam triều, Bắc triều lại có văn thư gửi đến, nói rằng địa giới ở Hoàng Ngôi Đại Sơn và các nơi khác chưa xong, tạm lệnh sứ giả thẩm tra thương nghị, e rằng đến cửa ải sẽ từ chối không chịu thương lượng. Sau khi văn thư đến, Nam triều có chỉ thị khác.” Thần Quát đáp: “Không biết Bắc triều có văn thư gửi đến, sau khi đến Hùng Châu, nhận được thánh chỉ của triều đình, trong đó nói rằng theo tấu của Hùng Châu về văn thư của Trác Châu, Bắc triều muốn lệnh Quát thẩm tra thương nghị, sau đó mặt nhận thánh chỉ, Thẩm Quát nguyên chỉ là hồi tạ, đã khởi hành đi rồi, khó có thể lệnh thương nghị nữa, và có trát gửi Hùng Châu lệnh điệp Trác Châu thông báo, không biết đã thấy văn thư này chưa?” Ích Giới nói: “Cũng đã thấy.”
Quát nói: “Đây chính là thánh chỉ, còn gì phải giấu giếm? Huống chi hai triều thông hảo, quan lại Nam triều đến Bắc triều, cũng như quan lại Bắc triều, há dám đối với thánh chỉ không thành thực? Việc địa giới đã là công việc đã xong, thật không cần phải bàn luận thêm. Hoàng Ngôi Đại Sơn, Thiên Trì Tử đều có chứng cứ rõ ràng, đã trình bày đầy đủ, nay sứ giả còn dám can dự vào việc khác sao?”
Áp yến Gia Luật Vựng lệnh Cao Tư Dụ nói: “Thiên Trì Tử vốn là nơi Ất Thất Vương đóng trại, nếu là đất của Nam triều, sao Ất Thất Vương lại ở đó?” Thần Quát đáp: “Văn bản địa giới của Nam triều rõ ràng, Ất Thất Vương không nên vượt biên giới đóng trại, lại có chứng cứ, há có thể không căn cứ vào văn bản, chỉ căn cứ vào lời nói sao?”
Vựng lại nói: “Văn bản có trước, Ất Thất Vương đóng trại có sau, nay nên dùng chứng cứ trước, không biết có nên dùng chứng cứ sau không?” Thần đáp[16]: “Nếu muốn dùng chứng cứ sau, thì việc xây dựng nhà cửa của triều đình lại có sau. Nếu lấy chứng cứ trước, thì văn bản của triều đình có trước. Cả hai đều là Nam triều có lý, còn gì phải bàn luận!” Dĩnh lại nói: “Hãy cho hỏi Thiên Trì Thần Đường rốt cuộc là đất của Bắc triều hay Nam triều?”
Thần Quát đáp: “Là đất của Nam triều, học sĩ sao không biết?” Dĩnh nói: “Đã là đất của Nam triều, sao lại yêu cầu Bắc triều gửi văn thư tu sửa?” Thần Bình đáp: “Hôm qua đã từng tư vấn, đã là đất của Bắc triều, sao lại gửi văn thư yêu cầu Nam triều tu sửa?”
Dĩnh lại nói: “Như thánh chỉ mà Ngô Trạm truyền đạt, đã là sai lầm. Mọi người đều đã bị xử lý rồi. Há có thể lấy làm bằng cứ?” Thần Quát đáp: “Bắc triều tự xử lý Tiêu Hỗ, Ngô Trạm, Quát làm sao biết được? Chỉ căn cứ vào thánh chỉ. Huống chi thánh chỉ trên đã bao nhiêu năm rồi? Nay mới nói là sai, không thể làm được!” Ích Giới nói: “Việc nhỏ này, Bắc triều chỉ muốn sớm giải quyết, chỉ vì Nam triều chưa chịu giải quyết.” Thần Quát đáp: “Nam triều muốn sớm giải quyết, nên đã nhường nhiều đất đai, còn gì chưa xong?”
Ích Giới lại nói: “Thị độc và Quán sứ cũng nên sớm giải quyết.” Thần Quát đáp: “Việc thông hảo là việc tốt, cả thiên hạ đều muốn sớm giải quyết, sao chỉ riêng sứ giả? Sự việc rõ ràng, Bắc triều nói là chưa xong, thuộc về Bắc triều. Sứ giả chỉ trình bày lý lẽ, xong hay chưa xong, Quát làm sao dám biết?” Ích Giới nói: “Đúng vậy. Thị độc làm sao quyết định được việc triều đình! Chỉ sợ có mang theo thánh chỉ khác?” Thần Quát đáp: “Thật không có thánh chỉ nào khác.” Vựng và Dĩnh chỉ lặp lại lời nói trước đây.
Thần Quát nói: “Những lời này đã nhiều lần được trình bày, đều không có bằng chứng, triều đình ta chỉ căn cứ vào văn bản, không có gì để bàn thêm.” Ích Giới và Dĩnh cùng nói: “Lần này thánh chỉ chỉ sợ Thị độc, Quán sứ mang việc khác đến. Thị độc, Quán sứ chỉ là để hồi tạ, không có thánh chỉ gì khác. Chỉ cần trả lời như vậy có được không?” Thần Quát đáp: “Chỉ cần như vậy.” Lương Dĩnh vẫn còn lộn xộn chưa dứt, Thần Quát bèn lùi lại đứng, chắp tay chào Ích Giới, Ích Giới cũng chắp tay chào rồi lui, bọn thần bèn cùng ngồi xuống. Lúc này đối đáp qua lại khoảng một giờ, lời lẽ lặp đi lặp lại, không ghi chép đầy đủ, đại ý chỉ như vậy. Rượu uống ba tuần, Dĩnh lại nói: “Bắc triều có rất nhiều văn bản chứng cứ, nhưng Thị độc không chịu bàn bạc, nên không dám trình lên.” Thần Quát biết Dĩnh không có văn bản nào khác, đây chỉ là lời nói vòng vo, bèn đáp: “Học sĩ nói như vậy, ắt là có văn bản khác, xin hãy giữ kỹ.”
Rượu xong, trên ngựa Dĩnh lại nói chuyện núi Hoàng Ngôi, lời lẽ rất nhiều, Thần ban đầu không đáp, đợi Dĩnh nói xong mới bảo: “Không cần nói nhiều như vậy, nếu có văn bản tốt, chỉ cần một câu. Học sĩ mỗi lần nói về núi Hoàng Ngôi, đều không nhắc đến chữ ‘chân’, nhưng trong văn bản luôn có chữ ‘chân’. Trước đây trong công văn của quân Thuận Nghĩa tuy có bỏ sót chữ ‘chân’, nhưng sau nhiều lần xử lý, năm nay khi Tiêu Lâm Nhã đến, trong tờ trình đã thừa nhận rồi, học sĩ hẳn phải biết. Giả sử bỏ chữ ‘chân’ cũng không sao, như trong công văn của quân Thuận Nghĩa ngày 18 tháng 7 năm Trọng Hi thứ 12 có viết: ‘Từ Lục Phiền Lĩnh thẳng về phía nam, đến núi Hoàng Ngôi 40 dặm.’ Chỗ này không có chữ ‘chân’, xin thử từ Lục Phiền Lĩnh thẳng về phía nam, đo đạc 40 dặm, xem đến được chỗ nào của núi Hoàng Ngôi? Lại nói ‘Từ Đoạn Gia Bảo về phía tây nam đến núi Hoàng Ngôi 30 dặm’, cũng không có chữ ‘chân’, xin thử đo đạc xem đến được chỗ nào? Giả sử bỏ chữ ‘chân’ chỉ đo đạc địa lý, cũng chỉ đo được đến chân núi, huống chi nguyên văn có chữ ‘chân’. Quát còn nhớ như Tiêu Lâm Nhã mang đến tờ trình xử lý phía nam và phía bắc thế nào, học sĩ sao không nói đến?”
Dĩnh nói: “Đây là chỗ tiếp giới giữa hai trại Lâu Bản và Vân Nội, việc này tạm gác lại, chưa xử lý, ở đây còn có chứng cứ khác.” Bèn nói sang chuyện khác, Thần Quát vội ngăn lại: “Xin đừng nói chuyện khác, hãy xử lý xong ranh giới trại Lâu Bản và Vân Nội, xem trong tờ trình viết: ‘Từ trại Lâu Bản về phía tây nam đến phía nam núi Hoàng Ngôi làm ranh giới.’ Không biết từ phía tây nam trại Lâu Bản đến đâu là núi Hoàng Ngôi? Hay là ở phía đông bắc? Học sĩ hãy xem xét kỹ, đây là văn bản chứng cứ do Bắc triều tự viện dẫn.” Tờ trình dẫn lời của Trương Khánh viết: ‘Từ trại Lâu Bản về phía tây nam đến trại Vân Nội, lấy phía nam núi Hoàng Ngôi làm ranh giới.’ Núi Hoàng Ngôi lại ở phía đông bắc trại Lâu Bản, Dĩnh đã biết trong tờ trình dẫn chứng sai, nên trước sau đều không nhắc đến đoạn này, Thần Quát hỏi Dĩnh, Dĩnh tự biết lý kém, chỉ tìm cách tránh né, không chịu nhận. Dĩnh nói: “Việc này đợi có văn bản khác trình lên, ở đây còn có chứng cứ khác!” Thần Quát bèn cười nói: “Học sĩ nhiều lần ở Hà Đông biện luận về địa giới, nhưng đã bị Tiêu Lâm Nhã xử lý xong. Học sĩ còn tranh luận làm gì nữa, đành chịu thôi. Học sĩ lúc ở Hà Đông nên xử lý xong, nay đã bị Tiêu Lâm Nhã xử lý rồi, học sĩ mới định làm việc trên hai mảnh đất này, e là muộn rồi.” Dĩnh nói: “Là sao? Dĩnh lại tranh công sao?” Thần Quát lại nói: “Học sĩ là danh thần Bắc triều, Quát ở Nam triều đã nghe danh lâu, việc hôm nay chính là dịp giúp triều đình, sớm xử lý xong thì tốt.” Dĩnh chỉ cảm ơn, nhưng lời lẽ vẫn lặp đi lặp lại.
Thần Quát đáp rằng: “Quát say rồi, không kịp nói hết mọi điều, mong ngài đừng trách.” Vừa lúc qua một con suối nhỏ, thần Quát cùng Gia Luật Thọ đi trước, Dĩnh chưa qua được, thần Quát thúc ngựa đi trước, Dĩnh không kịp nói chuyện, Dĩnh liền cười quay lại nói với thần Bình rằng: “Thị độc chỉ chọn chỗ tiện lợi mà nói, chỗ không tiện thì đổ tại say rồi.” Đến trước trướng, trên ngựa chào nhau rồi giải tán.
Lúc ấy đối đáp qua lại, trên ngựa đi khoảng hơn mười dặm mới giải tán. Ngày mồng 2, lúc bắn cung, Dĩnh lại quay lại nói với thần Bình rằng: “Việc địa giới hôm qua nói, Uất, Ứng hai châu đã xong, chỉ còn địa phận Hoàng Ngôi, Thiên Trì ở Sóc Châu làm sao giải quyết?” Thần Bình đáp: “Việc này tuy nhỏ, nhưng cũng không thể bàn bạc. Chỉ cần Bắc triều hoàng đế ra lệnh giải quyết là xong ngay.”
Dĩnh lại nói: “Thiên Trì vốn là đất của Nam triều, từ trước đến nay đồn bốt đặt ở đâu? Sao đến thời Tô Kiềm hạt mới dời đồn bốt về phía bắc?” Thần Quát đáp: “Trong đất của mình, gần phía bắc, tiện đâu dời đó, có gì không được?” Dĩnh nói: “Trong đất của mình dựng đồn bốt, sao lại dẫn nhiều quân lính làm gì?” Thần Quát đáp: “Lúc ấy có quân lính hay không, Quát không biết. Nếu thực sự dẫn quân lính đi, ắt là sợ Bắc giới ngăn cản vô lý. Tướng quan đến biên giới xa xôi dẫn theo quân lính cũng là chuyện thường.” Thần Bình nói: “Trong đất của mình đào hào có gì không được? Đã đào hào dựng đồn thì cần nhân công, không biết lúc ấy là dẫn quân lính hay sai phu dịch? Vì lúc ấy là dẫn phu dịch, sao hôm nay lại coi là quân lính hung dữ?”
Dĩnh lại nói mãi, thần Quát đáp: “Lần này Quát phụng mệnh đến đáp lễ, vốn là để truyền đạt tình hữu nghị hai triều, hội họp theo lễ chưa xong, lại tranh cãi với học sĩ! Xin ngài xem kỹ văn kiện, không cần như vậy.” Dĩnh lại nói: “Núi Hoàng Ngôi vốn chỉ để phân định địa giới của Tô Trực, thị độc nay lại muốn làm địa giới hai triều, như vậy thì làm sao dựa vào văn kiện?” Thần Quát đáp: “Văn kiện chỉ rõ chân núi Hoàng Ngôi là giới, còn không dùng, thì dùng văn kiện gì?”
Dĩnh nói: “Đã nhiều lần nghe nói văn kiện phân định đất đai của Tô Trực, Niếp Tái Hữu ghi ‘Bắc đến Trương Gia Trang’, nếu ban đầu là phân định địa giới hai triều, sao lại nói ‘Bắc đến’ như vậy? Rõ ràng chỉ là phân định ruộng đất của Niếp Tái Hữu, sao lại coi là địa giới hai triều?” Thần Quát đáp: “Xin học sĩ nhớ kỹ văn kiện gốc, để Quát nói rõ cho ngài. Nếu nói đến chữ ‘Bắc đến’, thì Nam triều rất có lý. Xin học sĩ tự nhớ, để Quát tâu lên. Văn kiện phân định ghi ‘Đông đến Mãi Mã Thành, Nam đến chân núi Hoàng Ngôi làm giới, Tây đến Tiêu Gia Trại, Bắc đến Trương Gia Trang giáp giới.’ Trong bốn hướng, sao chỉ riêng hướng Bắc có chữ ‘giáp giới’? Nếu chỉ hướng Bắc là ‘giáp giới’, thì hướng Đông, Nam, Tây không phải của Nam triều, thì là đất của ai?”
Dĩnh nói: “Thị độc nói đất của Tô Trực, phía Bắc mới là đất Bắc triều, như vậy có văn kiện nào chứng minh?” Thần Quát nói: “Quát không nói vậy, trong bốn hướng đó là đất Nam triều cắt cho Tô Trực năm Khang Định thứ hai, phía Bắc là giới cũ của Bắc giới, phía Đông, Nam, Tây đều là giới hiện nay của Nam triều.” Dĩnh nói: “Có văn kiện nào chứng minh?” Thần Quát nói: “Cần gì thêm văn kiện!” Dĩnh nói: “Bản triều tự có chứng cứ, chưa kịp tâu lên hết.” Thần Quát nói: “Đây là văn kiện phân định chính thức của hai triều, chỉ sợ còn có văn kiện khác, cũng không thể thay đổi được!”
Ngày mồng 4, trong tiệc đêm ở quán dịch, sau vài tuần rượu, Dĩnh lại nói chuyện Hoàng Ngôi, Thiên Trì với Thọ, rồi quay lại nói với thần Bình: “Quán sứ, thị độc chắc cũng nên bàn bạc với họ.” Thần Bình nói: “Chỉ vì không phụng chỉ triều đình bàn bạc, sao dám đến đây bàn bạc? Học sĩ từng trải ắt cũng hiểu.” Lại nói: “Thiên Trì ngoài năm Khai Thái thứ 5, còn có chứng cứ gì nữa?” Thần Bình nói: “Có.” Thần Bình liền nhìn thần Quát, thần Quát đáp: “Còn có văn kiện, chỉ cần mấy văn kiện này rõ ràng, không cần thêm văn kiện khác. Như Thiên Trì, ngày 12 tháng 2 năm Thái Bình thứ 4, có tờ trình về việc chặt một cây thiêm mộc ở phía Tây Bắc Thiên Trì, qua Hoành Lĩnh, cây thiêm mộc cách giới Nam khoảng ba dặm. Những văn kiện như vậy rất nhiều, chỉ cần một văn kiện dùng được, còn lại cần gì viện dẫn?” Dĩnh nghe kỹ, liền nói vài câu tiếng Phiên với Cao Tư Dụ bên cạnh, như có ý cùng ghi nhớ.
Thần Bình lại nói: “Nam triều chiếu cứ có, nay xin tạm trình bày những điều đã ghi chép.” Dĩnh lại quay sang Thần Bình nói: “Trước đây Thị độc nói rằng, Hoàng Ngôi Đại Sơn, Thiên Trì Tử từng có quốc tín sứ Bắc triều mang theo thánh chỉ đến định giới cương, sao lại nói không biết quốc tín sứ là ai? Dĩnh quên mất rồi, thử nói xem.” Thần Quát đáp: “Là Tiêu Hỗ, Ngô Trạm. Đã nhiều lần cùng học sĩ bàn luận, sao lại quên được?” Dĩnh nói: “Tiêu Hỗ, Ngô Trạm mang theo thánh chỉ, không biết là có văn bản hay chỉ là lời nói? Tiêu Hỗ, Ngô Trạm đến đây chỉ là lời nói, không có văn bản.” Lương Dĩnh trước đây khi bàn luận, có lẽ là không nhớ rõ, nên nói sai thánh chỉ, nay chắc là đã đi tìm lại hồ sơ, thấy rằng chỉ là lời nói, nên muốn phủ nhận thánh chỉ này, chi tiết ở phần sau.
Thần Quát đáp: “Là thánh chỉ truyền miệng.” Dĩnh nói: “Như vậy có bằng chứng gì? Tiêu Hỗ, Ngô Trạm đang ở đây, lúc đó làm gì có thánh chỉ?” Thần Quát đáp: “Đây là thánh chỉ của Bắc triều, học sĩ sao lại nói có bằng chứng gì? Học sĩ hôm trước trong hai lần yến tiệc, đã hai lần đối đáp với chế sứ và mọi người, nói rằng ‘Tiêu Hỗ, Ngô Trạm đã truyền sai thánh chỉ, trên dưới một đoàn người đều đã bị xử phạt.’ Quát cùng học sĩ bàn luận, không dưới hai ba mươi lần, sao hôm nay lại đi tìm sách vở, lại nói rằng làm gì có thánh chỉ!”
Dĩnh nói: “Trên dưới một đoàn người đều bị xử phạt, không phải nói Tiêu Cát, lúc nào nói xử phạt Tiêu Hỗ, Ngô Trạm?” Thần Quát đáp: “Tiêu Cát nào vậy? Là địa giới cũ thời Trị Bình nhượng cho Bắc triều từ lâu rồi, sao lần này lại có liên quan, nói đến Tiêu Cát? Lần này từ đầu chỉ bàn về Hoàng Ngôi Đại Sơn, Thiên Trì Tử, sao lại nói xử phạt Tiêu Cát? Có liên quan gì?” Dĩnh nói: “Dĩnh chưa từng nói xử phạt Tiêu Hỗ, Ngô Trạm.” Thần Quát nói: “Học sĩ đã nói với chế sứ và mọi người hai ba mươi lần, lời còn bên tai, sao lại chối được? Hơn nữa việc này có bằng chứng, lúc đó Tiêu Hỗ, Ngô Trạm tuy chỉ truyền miệng thánh chỉ, nhưng Nam triều lại có thánh chỉ, trát tử, ghi rõ lời của Tiêu Hỗ, Ngô Trạm, đã chỉ huy các nơi giữ địa giới, cũng xin Bắc triều theo chỉ huy này, biên thần không được xâm phạm. Trát tử này là Tiêu Hỗ, Ngô Trạm tự mang về. Hơn nữa Bắc triều đã có văn bản xử phạt gửi đến biên giới, biên giới các nơi đều có công văn thông báo, sao chối được?”
Dĩnh nói: “Ở đây không thấy có văn bản.” Thần Quát chỉ cười mà không đáp, Dĩnh cũng không cố tranh cãi, có vẻ xấu hổ, rượu uống đến chén thứ mười bốn, Thần Quát đều từ chối. Dĩnh cố giữ lại, nhất quyết nói chỉ mười chén. Thần Bình cười bảo Dĩnh: “Không phải trước mặt Thị độc dùng hạt dẻ đếm rất rõ ràng, vòng rượu này chẳng lẽ còn muốn chối?” Thọ, Dĩnh cùng cười.
Thần Quát nhìn Thần Bình nói: “Các học sĩ trước sau biện luận ngôn từ rất hay, học sĩ không sai, học sĩ đối với sứ giả Nam triều phải biện luận như vậy mới đúng. Khi bàn luận kín với triều đình, tất nhiên phải dựa vào lý lẽ, trình bày sự việc trước sau, học sĩ lẽ nào không hiểu? Ngôn từ cần phải như vậy mới không sai.” Dĩnh nói: “Không như vậy, cần phải xử lý cho đúng sự thật, đâu phải cưỡng từ! Dĩnh nói Bắc triều có rất nhiều văn bản chứng cứ, chỉ là thị độc, quán sứ chưa thấy, sau khi xem sẽ biết không sai.”
Thần Quát đáp: “Trong tờ tráp của Tiêu Lâm Nhã mang đến, Thiên Trì Tử không có một văn bản chứng cứ nào, Hoàng Ngôi Đại Sơn chỉ dẫn hai chứng cứ: một là phía nam Lâu Bản Trại làm giới, đã trình bày trước đây, hoàn toàn không liên quan; hai là nói Thuận Nghĩa Quân từng gửi công văn cho Đại Châu, yêu cầu tuần tra vùng Hoàng Ngôi Sơn, bảo Đại Châu thông báo cho dân chúng biết. Đại Châu hồi âm chỉ nói đã thông báo cho dân chúng, không biết văn bản này có tác dụng gì? Có phải cho rằng Đại Châu không xử lý? Như gần đây, văn bản Bắc triều nói năm nay nhận lễ ở Vĩnh An Sơn, nhưng quán xá lại cách Vĩnh An Sơn tám chín mươi dặm, lẽ nào phải nhận lễ trên đỉnh Vĩnh An Sơn? Quân nhân mã Thuận Nghĩa Quân tuần tra dưới chân Hoàng Ngôi Đại Sơn, gọi là ‘vùng Hoàng Ngôi Đại Sơn’, có gì không được? Cũng không phải tuần tra trên đỉnh Hoàng Ngôi Đại Sơn, Đại Châu cần gì phải xử lý? Đã nói Bắc triều có nhiều chứng cứ, sao trong tờ tráp chỉ nói hai điều này, hẳn là hai điều này là quan trọng nhất. Quan trọng nhất còn như vậy, những điều khác không cần nói cũng rõ.” Dĩnh nói: “Không phải vậy, trong tờ tráp chỉ nêu hai điều, ở đây còn nhiều văn bản, chỉ là thị độc không xử lý, không muốn đưa ra. Văn bản chứng cứ của Nam triều thế nào? Thị độc hẳn đã mang đến. Nếu thấy văn bản chính xác của Nam triều, triều đình sẽ bàn bạc.” Thần Quát đáp: “Văn bản đều ở triều đình, Quát không phải chức trách, không mang theo.”
Thần Quát thấy lời Dĩnh nói triều đình sẽ bàn bạc, ngôn từ có vẻ ôn hòa, bèn nói với Dĩnh: “Hai triều hòa hảo bảy tám mươi năm, việc này lý lẽ đã rõ ràng, chi bằng sớm kết thúc, để giữ hòa hảo, mỗi bên giữ lấy đạo lý thì tốt.” Dĩnh nói: “Nam Bắc hòa hảo vốn là việc tốt, nay giải quyết xong biên giới, sẽ tốt hơn trước. Trước đây biên giới thường có tranh chấp nhỏ, chỉ vì biên giới Hà Đông xử lý hơn ba mươi năm, đến nay chưa xong, nên thường có tranh chấp. Nếu lần này giải quyết xong biên giới Hà Đông, sau này biên giới sẽ không còn việc gì, hòa hảo sẽ tốt hơn trước.” Rượu sắp xong, Dĩnh nói: “Hai ba ngày nay, triều đình có một cuộc bàn bạc tốt. Việc nhỏ này, thị độc, quán sứ nên sớm kết thúc thì tốt.” Thần Quát thấy lời nói có vẻ ôn hòa, bèn đáp: “Công việc đã xong mười phần, chỉ cần Bắc triều nói xong là xong.”
Biệt lục lại chép rằng: Thư biểu ty, Điện trung thừa, tri Ung Khâu huyện sự Vương Thuần dâng trạng tâu rằng: Ngày 29 tháng 5, hoàng đế Bắc triều cùng hoàng tử đều thay đổi y phục đến trước trướng, xưng là Thái sư và Tiểu Thái úy lần lượt đến. Hoàng đế đến trước trướng nơi Thị độc an nghỉ, Thư biểu ty Vương Thuần, Bào Hãn, chức viên Trương Lí, Ngự trù Lý Hồi, Chỉ sử Vương Tuyên cùng chào hỏi hoàng đế, rồi ngồi xuống đất, lúc đó hoàng tử cũng có mặt. Uống trà xong, Vương Thuần nói với hoàng đế: “Hôm nay trời mát, Thái sư có thể uống một hai chén rượu Kinh.” Hoàng đế nói: “Tốt.” Rồi bày rượu và trái cây lần lượt. Hoàng đế trước tiên hỏi: “Việc địa giới xử lý thế nào rồi?” Trương Lí đáp: “Việc địa giới đã xong, Tiêu Lâm Nhã đã nhận văn thư phân định, không còn gì chưa xong.”
Hoàng đế nói: “Hoàng Ngôi, Thiên Trì vốn là đất đai của Bắc triều, trước đây do Tô Kiềm hạt cưỡng chiếm, nay chỉ muốn khôi phục như cũ.” Trương Lí nói: “Năm Khang Định, hai triều đã từng định đoạt xong việc tranh chấp đất đai của Tô Trực.” Bào Hãn nói: “Nhớ rằng Bắc triều từng sai Giáo luyện sứ Vương Thủ Nguyên, Phó Tuần kiểm Trương Vĩnh, Câu ấn quan Tào Văn Tú hội bàn, Nam triều Dương Vũ trại Đô giám Trạch Văn Tú, Quách huyện lệnh Giáo luyện sứ Ngô Tiết chỉ huy phân định đất đai của Tô Trực, đã lấy chân núi Hoàng Ngôi làm giới, việc này rất rõ ràng.” Trương Lí nói: “Thiên Trì, Nam triều có điệp năm Khai Thái thứ 5 của Thuận Nghĩa quân, nói rằng đất thuộc Ninh Hóa quân, cũng là căn cứ xác thực.”
Hoàng đế lại nói: “Thiên Trì vốn là đất của Nam triều, sao lại dựng lều bên trái miếu Thiên Trì?” Trương Lí lại nói: “Cũng là xây dựng trên đất của mình, có gì không được!” Bào Hãn liền giơ tay nói với hoàng đế: “Bắc triều đến bàn năm chỗ đất, Nam triều đã ứng phó ba chỗ, hai chỗ này đã định đoạt xong, lại có văn thư làm căn cứ xác thực, quyết không thể ứng phó. Hoàng đế Bắc triều cần hiểu ý của hoàng đế Nam triều, thế là xong.” Hoàng đế lại nói: “Chỗ đất này, ta từng đến tận nơi.” Rồi chỉ vẽ chỗ dựng lều. Bào Hãn, Trương Lí cùng chỉ Lý Hồi nói với hoàng đế: “Lý Tư đồ lâu năm ở Hà Đông, biết rõ chi tiết.” Hoàng đế hỏi Lý Hồi: “
Tiêu Củ Cách Thái bảo đã đến chưa?” Hồi đáp: “Hôm nay chưa đến.” Tiêu Củ Cách Thái bảo chính là Tiêu Ái Lục trạch.
Hoàng đế nói: “Ba châu Hà Đông ở biên giới, Tả tàng rất rõ thứ tự, núi Hoàng Ngôi có một số việc tranh chấp, vì sao chưa xong?” Đáp rằng: “Nghe nói Tiêu Lâm Nhã hôm qua đến thương lượng đã xong, không còn chỗ nào tranh chấp nữa, đã đưa văn thư qua, Thái sư hẳn đã xem thấy trên đó đều xong cả rồi.”
Hoàng đế nói: “Chỉ vì chưa thấy nói đến núi Hoàng Ngôi là đường phân thủy.” Đáp rằng: “Phía bắc thuộc trại Dương Vũ, châu Đại, từ năm Khang Định thứ 2 và năm Gia Hựu thứ 2, hai lần hai triều cử sứ sai quan thương lượng, đã định đoạt xong xuôi, chắc chắn khó nói lại. Đường phân thủy lấy chân núi phía bắc núi Hoàng Ngôi làm giới, làm sao thay đổi được!” Lúc đó có hoàng tử ngồi xuống nói: “Chân núi phía bắc núi Hoàng Ngôi có đối chiếu với Thủy Cốc, Bạch Thảo Phố không?” Đáp rằng: “Hoàn toàn không liên quan gì. Thủy Cốc ở phía bắc trại Nhạn Môn, chân núi phía bắc núi Hoàng Ngôi ở phía tây trại Dương Vũ, cách nhau rất xa, hoàn toàn không đối chiếu được.”
Hoàng tử lại nói: “Có đối chiếu với Thiên Trì không?” Đáp rằng: “Càng xa hơn nữa.” Hoàng tử lại nói: “Thiên Trì vốn thuộc về triều đình ta, từ trước đến nay lấy Hoành Lĩnh làm giới, nay cần phải giữ nguyên như cũ.” Đáp rằng: “Nếu Bắc triều lại muốn lấy Hoành Lĩnh làm giới, nhưng Hoành Lĩnh ở phía bắc thôn Lãnh Tuyền hơn 7 dặm, trên đó có Trường Thành. Trước đây vì dân Bắc triều là Đỗ Tái Vinh lén vượt qua phía nam Hoành Lĩnh, chiếm đóng thôn Lãnh Tuyền, triều đình ta vì Bắc triều cử sứ Quốc tín nói ‘là hộ dân Bắc triều’, nên tạm cho ở lại như cũ, vì hòa hảo hàng năm, không đuổi đi, chỉ lập giới đến tại Thiên Trì. Nếu muốn lấy Hoành Lĩnh làm giới, phải dời thôn Lãnh Tuyền đi mới được.” Hoàng tử nói: “Không phải vậy. Hoành Lĩnh ở phía tây nam Thiên Trì, bị Nam triều chiếm đoạt. Thiên Trì của Bắc triều há lại chiếm thôn Lãnh Tuyền sao?” Đáp rằng: “Phía tây nam không có Hoành Lĩnh, trừ Hoành Lĩnh ở Trường Thành cũ.” Không trả lời được, nói: “Nếu nói phía tây nam gần đó, chỉ có một ngọn núi nhỏ dưới Xa Đạo Ổ, cao không quá 2 trượng, dài không quá 70-80 bước, há có thể coi là biên giới? Hoàn toàn không phải vậy.”
Lại có trạng của Vương Thuần, ty Thư biểu: Ngày mồng 3 tháng này, giờ Ngọ, có Tiêu Thái úy, tên là Hô Đồ Khắc Đài, người hầu trước trướng Thái hậu Bắc triều; một người đội khăn, mặc áo lông lạc đà, xưng họ Lưu, gọi là Tư đồ; một người xõa tóc, là Hỗn Tử Thái bảo đến hôm qua, đều là người của Hoàng đế Bắc triều, mang một bình rượu đến trướng của Thuần, mời Lý Hồi ngự trù, Bào Hãn thư biểu, Trương Lí chức viên, nói: “Hôm qua hầu hạ không dễ, hôm nay không có việc gì, đặc biệt đến mời uống rượu ngon.”
Lâu lâu, Tiêu Thái úy hỏi: “Việc địa giới thế nào? Nghe nói những việc khác đều xong cả, chỉ còn hai chỗ là núi Hoàng Ngôi lớn và Thiên Trì chưa xong, nếu sớm xong thì rất tốt.” Lý đáp: “Núi Hoàng Ngôi lớn có việc năm Khang Định thứ hai, vì Tô Trực và Niếp Tái Hữu xâm canh đất đai của Nam triều, lúc đó Nam triều Nhân Tông và Bắc triều Hưng Tông đều đã sai quan định đoạt, lập riêng cột mốc giới hạn. Thiên Trì cũng có văn thư qua lại giữa hai triều, xác minh rõ ràng, đã xong từ nhiều năm, còn có việc gì chưa xong?”
Người Bắc vẫn chưa hiểu, Thuần liền vẽ hình thế địa hình rõ ràng nói với người Bắc: “Dưới núi Hoàng Ngôi, phía bắc thung lũng Thánh Phật, từ lâu đã lấy núi Lục Phiên làm giới hạn, sau vì người Bắc giới là Niếp Tái Hữu và Tô Trực xâm canh qua đất Nam triều, Nam triều Nhân Tông vì hòa hảo nhiều năm, không muốn tranh chấp. Lúc đó hai triều đều sai quan cùng nhau lập lại địa giới, phía đông đến thành Mãi Mã, phía tây đến trại Tiêu Gia, phía nam đến chân núi bắc núi Hoàng Ngôi lớn làm giới hạn. Đất Thiên Trì, trước đây lấy núi Đại Hoành gần Bắc làm giới hạn, vì người Bắc giới là Đỗ Tái Vinh xâm canh qua sông Lãnh Tuyền, sau này định đoạt, chỉ lập giới hạn gần phía bắc đền Thiên Trì, đã xong từ nhiều năm, không còn gì để bàn, và có văn thư của hai triều cùng công văn của quân Thuận Nghĩa Bắc triều gửi đến, nói đất đền Thiên Trì thuộc quân Ninh Hóa Nam triều, xác minh rất rõ ràng, hoàng đế Nam triều chắc chắn không muốn thay đổi.” Người bị tóc lại hỏi: “Thật sự có văn thư xác minh không?” Thuần đáp: “Đây là việc công của hai triều, nếu không có văn thư làm bằng chứng, ai dám nói bừa!” Lại nói nhỏ: “Hôm qua đến là quan Thái sư, rất được triều đình tin tưởng, bảo tôi hỏi thư biểu, nếu có văn thư, sứ phó quốc tín sao không mang đến xem qua cho xong?” Thuần đáp: “Nam triều đã xong việc ứng phó Bắc triều, không còn gì để bàn, nay chỉ sai sứ phó đến đáp lễ, không mang theo văn thư. Bắc triều tự có văn thư qua lại năm đó để xác minh, cần gì thêm văn thư Nam triều? Chỉ cần Thái sư tự đi xem, chắc chắn không sai.” Uống xong đứng dậy.
Lại theo hành lý hồi trạng: Ngày mồng 6 tháng này rời quán Tân Thiêm, trên đường có người phía Bắc là Mã Hiệp Tư đồ đuổi theo sau, chào hỏi rằng: “Ở dưới cửa khuyết lâu ngày không dễ, nay về đi, thật là việc mừng vui lớn.” Đáp rằng: “Còn có việc mừng vui gì nữa? Chỉ là được đoàn người ngựa an lạc trở về.”
Hiệp lại nói: “Được hai triều lại kết thân hảo. Vì mấy việc biên giới này, thật là phiền não. Trước đây Tướng công Tiêu, Học sĩ Lương ở biên giới Đại Châu đã lâu ngày, chưa từng bàn bạc xong xuôi việc gì, triều đình tìm đến chỉ ba ngày chạy ngựa đến trước xe, thật chịu không ít phiền não. Sau đó Tiêu Lâm Nhã lại sang Nam triều về, tuy mang văn thư đến, nói rằng địa giới các trại phía đông Đại Châu đã xong, không tranh cãi nữa. Chỉ còn hai nơi là núi Hoàng Ngôi lớn và Thiên Trì chưa xong, lại định sai Tiêu Lâm Nhã sang Nam triều bàn bạc, nhưng vì Nam triều có sứ giả đến, chỉ đợi bàn bạc xong thứ tự, sẽ cho qua.
Hoàng đế thấy Thị độc, Quán sứ nói rõ đạo lý, thật là rõ ràng, rất vui mừng; Thái hậu cũng rất vui, bảo với hoàng đế: Nam triều thật là chiều theo, nước ta cũng có chút việc nhỏ, cũng đừng làm ra vẻ xấu. Triều đình hỏi Tướng công Tiêu, Học sĩ Lương lúc bàn bạc, xem ý Nam triều thế nào, có chịu hay không, cứ từ từ tâu lên? Chỉ nói rằng quan chức Nam triều đến không chịu bàn bạc, chỉ tranh cãi việc ngồi chỗ nào, chưa xong việc biên giới nhỏ, sao Tiêu Lâm Nhã đi rồi lại bỏ mấy trại phía đông.
Nay Thẩm Thị độc, Lý Quán sứ đến nói rõ sự lý, rõ ràng là hai người có việc giấu giếm không tâu lên triều đình, như thế ba lần bắt phân tích, lại hỏi Tiêu Lâm Nhã một lần, biên giới Nam triều thật không chịu bàn bạc. Tiêu Lâm Nhã tâu lại: Nam triều nếu không chịu bàn bạc, sao lại mang văn thư trả lời về? Không biết quan chức biên giới gặp nhau, bàn bạc thế nào?”
Hiệp lại nói: “Với Tả tàng Đại Châu qua lại rất quen, sau không dám nói bừa, thật là như vậy. Nay hoàng đế Bắc triều cũng rất nghĩ ngợi, thấy Thị độc, Quán sứ nhiều lần nói hoàng đế Nam triều coi trọng tình hữu hảo, rất chiều theo Bắc triều, nên cũng nhớ lại tình hữu hảo năm xưa, không đòi núi Hoàng Ngôi lớn phân thủy lĩnh nữa, chỉ lấy Thiên Trì làm giới. Việc này rất nhỏ, chắc Thị độc, Quán sứ thấy rồi, rất vui mừng!” Đáp rằng: “Tướng công Tiêu, Học sĩ Lương ở biên giới Đại Châu nhiều lần gặp nhau, thật chỉ tranh cãi việc nhỏ nhặt, chưa từng bàn bạc xong xuôi địa giới! Bắc triều hỏi là phải. Núi Hoàng Ngôi lớn và Thiên Trì Ninh Hóa quân là địa giới rõ ràng của Nam triều, nhiều lần hai triều sai quan định đoạt xong xuôi, khó thay đổi. Nay Bắc triều chỉ trong hồi điệp nói việc Thiên Trì, tự triều đình không biết thế nào, sứ phó có gì vui mừng!”
Hiệp lại nói: “Chớ vội chạy ngựa báo bình an, lúc đi có tâu việc này lên triều đình không?” Đáp rằng: “Chỉ theo thường lệ tấu bình an, không tâu việc gì.”
Hiệp lại nói: “Lần này Quốc tín sứ phó có việc tốt. Các nơi điểm tập nhiều binh mã, chưa từng cho làm việc gì. Lại hai năm mùa màng kém, dân chúng rất khó khăn, nay hoàng đế vui mừng, mới ra lệnh giải tán. Cả nước trên dưới đều vui mừng. Ngày mồng 5, sứ phó lên đường, hôm sau quần thần cùng vào chúc mừng biên giới không tranh cãi, hai triều lại kết tình hữu hảo, rất vững chắc. Chớ có biết không?” Đáp rằng: “Không biết.”
[47] Ngày Quý Sửu, Ty Cối kế của Tam ty dâng lên mẫu biểu kế toán cho một châu và một lộ, còn lại các châu khác trong thiên hạ sẽ đợi khi các kho tàng ở kinh đô hoàn thành sổ sách rồi mới biên soạn tiếp, được chấp thuận. Lấy 10 vạn quan tiền Chiết nhị từ Giám Phụ dân ở Huệ Châu để cho Ty Thị dịch ở Quảng Châu vay làm vốn. Việc này theo đề nghị của Ty Đô đề cử Thị dịch, và hạn trong 3 năm phải hoàn trả.
[48] Chiếu cho Ty Chuyển vận Kinh Đông Tây lộ điều tra việc Lữ Thăng Khanh khắc chữ trên núi Thái Sơn, xem có phải là bia do tổ tông ngự chế hay không rồi tâu lên. Thái Thừa Hi tâu rằng trên núi Thái Sơn có bia do tổ tông ngự chế, Thăng Khanh đã khắc đá lên đó, nên mới ra lệnh xác minh. Sau đó, Ty Chuyển vận tâu rằng chỗ khắc không phải là bia ngự chế, việc này mới thôi. Trước đó, Vương An Thạch cũng nói về Thăng Khanh: “Trước đây đem bản bia đến, chữ trên đá phần nhiều bị hư hỏng, chắc là bia cổ.” Vua nói: “Thăng Khanh không có ý gì khác, nhưng bia cổ thì khắc làm gì! Đại để là người trẻ chưa từng trải việc mà thôi.” Thừa Hi làm Ngự sử, liền tâu rằng Thăng Khanh học vấn sai lầm, không đáng dạy Quốc tử, lại cậy thế Huệ Khanh, xây dựng phe đảng, kiêu ngạo phạm pháp, lộng quyền khinh nhờn bề trên. Tờ tâu đưa xuống Trung thư, Thăng Khanh vội tự biện bạch, Huệ Khanh cũng cáo bệnh nằm nhà, những điều Thừa Hi tâu phần lớn bị bỏ qua, chỉ ra lệnh điều tra việc khắc tên trên bia ngự chế là thật hay giả. Hơn một tháng sau, mới bãi chức Quản cú Quốc tử giám của Thăng Khanh. Việc bãi chức Quốc tử vào ngày 23 tháng 7, sự việc này căn cứ theo tấu nghị của Thừa Hi mà ghi chép.
[49] Chiếu cho con cháu của Triệu Thế Cư và nhũ mẫu của họ được mở rộng nhà cửa nơi ở, miễn việc khóa cửa phòng ốc.
[50] Ngày Giáp Dần, chiếu rằng hai lộ Lưỡng Chiết và Hoài Đông thiếu mưa, lệnh cho Vương Cổ, người đang xem xét phép dịch ở Hoài Đông, nhân tiện điều tra các châu quân bị thiên tai cần cứu tế rồi tâu lên. Cổ là con của Tĩnh, lúc này đang làm Chủ bạ Ty Nông. Việc này có thể thấy vào ngày 24 tháng 7.
[51] Vương An Thạch dâng lên bài tựa sách 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ Nghĩa》, chiếu giao cho Quốc tử giám đặt ở đầu bộ 《Tam Kinh Nghĩa Giải》.
[52] Trước đó, An Thạch soạn bài tựa sách, ca ngợi đức của Vua, so sánh với Văn Vương. Vua phê rằng: “Được khanh dâng lên ba bài tựa kinh nghĩa, nêu rõ ý lớn của thánh nhân làm kinh, còn gì hơn nữa! Nhưng kỳ vọng vào Trẫm, sao quá đáng vậy! Nghĩa trách nhiệm khó khăn, khanh vốn nên ghi chép truyền bá khắp nơi, để lại cho đời sau, khiến người có học vấn xem xét những gì Trẫm học biết và việc làm thực tế, thấy sự bất đức nặng nề, sao kể xiết! E rằng không phải là nghĩa vì trên vì đức. Những lời quá lời, nên nhanh chóng xóa bỏ, sửa lại cho đúng, để giao cho các cơ quan sớm ban hành kịp thời.” Khi dâng lên, Vua nói: “So sánh Trẫm với Văn Vương, e rằng thiên hạ và đời sau sẽ cười. Lời khanh nên làm gương cho người, e rằng như vậy không đúng.” An Thạch nói: “Ca ngợi đức của bệ hạ, so sánh với Văn Vương, thực không hổ thẹn.” Vua nói: “Quan Thư là thơ của Văn Vương, đều là đức lớn của Văn Vương. Nhà Chu đời đời tu đức, không ai bằng Văn Vương, Trẫm sao dám so sánh! Huống chi như câu ‘trắc giáng đình chỉ’, Trẫm há không biết mình không làm được sao? Nên sửa lại, chỉ cần nói rõ nghĩa giải kinh là đủ.” An Thạch nói: “Bệ hạ tuy chưa thể làm mọi việc như vậy, nhưng bệ hạ trong việc thăng giáng, há có tư tâm yêu ghét sao? Đó chính là sự ngay thẳng.”
Sau đó, An Thạch tấu: “Thần kính vâng chiếu chỉ, vì bài tựa ba kinh nghĩa thần dâng có lời quá lời, nên nhanh chóng xóa bỏ. Thần tuy đã từng tâu bày, cho rằng văn tự nên như vậy. Lại vâng thánh huấn nhiều lần, chỉ nên thuật lại ý giải kinh, không cần quá ca ngợi. Kính nghĩ đức lớn của bệ hạ đến mức hoàn thiện, cảm hóa khắp bốn biển, không phải do bút mực của thần có thể thêm bớt. Nhưng nhân việc mà tuyên dương, là chức trách của bề tôi. Thành thật mà nói, không sợ lời nói không đủ, không ngại gần với nịnh hót, mà thánh ý trên lại luôn khiêm tốn, thần dám không vâng chiếu chỉ, mong để xứng với tấm lòng không tranh không khoe của Nghiêu, Vũ.” Bèn sửa lại dâng lên, Vua mới ban hành. Ngày 12 tháng 9, An Thạch nói như vậy.
Trần Quán bàn rằng: An Thạch lúc đầu dâng bài tựa ba kinh nghĩa, ca ngợi hết lời thần khảo, Vua bảo An Thạch sửa lại, đó là đức khiêm tốn của thánh nhân. An Thạch lui về ghi chép việc này, lại giả mạo lời khiêm tốn của thần khảo rằng: “So sánh Trẫm với Văn Vương, e rằng thiên hạ và đời sau sẽ cười.” Lại nói: “Lời khanh nên làm gương cho người.” Than ôi! Lời nói làm gương cho thiên hạ, đó là việc của thánh nhân. Lời An Thạch, tự cho là có thể làm gương cho thiên hạ, mà nói thần khảo so sánh với Văn Vương, thì thiên hạ và đời sau sẽ cười. Phỉ báng tông miếu, thật quá đáng. Những lời giả mạo khiêm tốn của thần khảo, đều dùng ý này. Có câu “Trẫm ngu muội”, có câu “Trẫm tài lực kém cỏi”, có câu “Trẫm tự xét chưa có một chút nào so sánh được với Hán Tuyên Đế”. Những lời như vậy, sự vu khống không phải một. Những người yêu Vua nghe mà rơi nước mắt, há chỉ một người sao! Huống chi cuối đời Hi Ninh, thần khảo đã đuổi Đặng Oản, sau đó cách chức An Thạch, tự nắm quyền uy, thăng giáng quần thần, phần nhiều theo công luận. Những người An Thạch đuổi, không ai không được triệu lại, nên An Thạch đặc biệt cho rằng việc thăng giáng của thần khảo là sai, mà giả mạo thánh huấn ghi vào văn tự, để giải tỏa khí bất mãn.
[53] Thượng cùng Vương An Thạch bàn về việc quan viên không nghiêm túc, An Thạch nói: “Chấn động trăm dặm, mới có thể không mất chén rượu.” Thượng nói: “Những kẻ tạo ra lời đồn pháp lệnh bất tiện, chỉ là quan viên. Triều đình chỉ thấy quan viên rối ren, mà tình hình dân chúng thuận tiện với pháp luật mới không có cách nào thông lên được.” An Thạch nói: “Đúng như vậy, đây là lý do cần có người làm tai mắt.” Việc này theo《Nhật lục》ngày 24.
[54] Ngày Ất Mão, Tuyên chính sứ, Gia Châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Trương Nhược Thủy bị bãi chức phó đô tri, đổi làm Diệu Châu quan sát sứ, vẫn giữ chức đề cử tứ viên uyển. Nhược Thủy vì bệnh xin từ chức.
[55] Đề điểm hình ngục lộ Lưỡng Chiết Triều Đoan Ngạn tâu rằng, Thường Châu vi pháp cấp đất quan cho Tưởng Thấu. Thấu là anh họ xa của con rể Du Hi Đán, nguyên là phó chuyển vận sứ lộ Lưỡng Chiết. Chiếu cho chuyển vận ty xét tội tâu lên. Sau đó bị tội gì, cần tra cứu. Hoặc bản Chu đã bỏ, bản mới cũng bỏ.
[56] Ngày Bính Thìn, Chiêu Hóa tiết độ sứ, Khang Quốc công Thừa Hiển mất, là con của Thân Vương Đức Văn. Thượng thân đến viếng, truy tặng Thái úy, Lạc Bình quận vương.
[57] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho quyền đề điểm hình ngục lộ Tần Phụng là Trịnh Dân Hiến, xem xét việc lộ Hi Hà dùng tiền mặt, trà, bạc, lụa để tăng mua, trà, bạc, lụa đều định giá bình thường, không làm thiệt hại cho cung tiễn thủ, nếu có gì bất tiện, tâu lên đầy đủ.
[58] Thượng phê: “Dân đói Hà Đông chạy sang Kinh Tây, trong đó có nhiều người ăn xin trên đường, gầy yếu không giữ được sáng tối. Các quan chẩn tế là Trình Chi Tài nên lệnh cho đi nhanh.”
[59] Ngày Mậu Ngọ, chiếu rằng: “Những người làm việc ở các lộ được bổ nhiệm bằng cách thi kỹ năng, giao cho đề cử ty kiểm tra, những người già yếu bệnh tật lâu ngày không thể dạy dỗ được, tuyển người thay thế. Cung thủ mỗi năm kiểm tra một lần, mỗi mười người cấp một ngàn tiền, đặt bạc để thưởng cho người có võ nghệ xuất sắc.”
[60] Chiếu cho phán đô thủy giám Hầu Thúc Hiến giảm thời gian khảo khám hai năm, thừa Lưu Cáp một năm, điện trực Lưu Vĩnh Niên hai năm. Vì có công khai cửa Ti Gia.
[61] Chiếu rằng: “Đất có thể canh tác ở quân Khả Lam, Hỏa Sơn, nếu còn dư sau khi cấp cho các xạ thủ cung tên di chuyển, thì thêm vào các trại Tây Hình. Đất công chưa canh tác mà có thể canh tác được, thì dần dần tăng thêm việc chiêu mộ xạ thủ cung tên.” Lúc đó, Hà Đông phân chia địa giới với địch, có xạ thủ cung tên phải di chuyển, nên lấy đất hoang cấp cho họ.
[62] Tư đồ, kiêm Thị trung, phán Tương Châu Hàn Kỳ mất, thọ 68 tuổi. Đêm trước đó, sao lớn rơi xuống trị sở châu, ngựa trong chuồng đều kinh hãi. Vua nghe tin báo, ngừng triều ba ngày, tổ chức tang lễ ở vườn sau, sai Câu đương Ngự dược viện Lý Thuấn Cử đặc biệt ban cho gia đình ông 2.500 lạng bạc và 2.500 tấm lụa, lại sai Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc lo việc tang lễ, cử Tri An Dương huyện Lã Cảnh Dương và Tương Châu Quan sát phán quan Trần An Dân chuyên trách việc tang lễ, cho phép nấu rượu tại mộ để chi dùng, cho phép giữ lại thêm lại dịch và binh lính, sai Đồng tri Lễ viện Lý Thanh Thần đến tế lễ, đối xử rất hậu với gia đình ông. Vua tự soạn văn bia, ghi lại đại tiết của Hàn Kỳ, lại khắc đầu bia là “Lưỡng triều cố mệnh định sách nguyên huân chi bi”, đặt thụy là Trung Hiến, tặng chức Thượng thư lệnh, được phối hưởng ở miếu Anh Tông. Ban đầu, các chấp chính trình lên việc tặng quan cho Hàn Kỳ, Vương Khuê nói Lữ Di Giản được tặng Thái sư, Trung thư lệnh. Vương An Thạch nói: “Hàn Kỳ nhận di chiếu lập tiên đế, không thể so với Lữ Di Giản.” Cho rằng nên đặc biệt tặng, nên tặng Thượng thư lệnh. Hàn Kỳ xứng đáng được gia ân lễ, Vua ngay hôm đó phê chuẩn, không thiếu sót gì.
[63] Thái Nguyên phủ Tẩu mã thừa thụ Nhạc Sĩ Tuyên tâu: “Địa giới ty Hàn Chẩn, Chu Vĩnh Thanh hiện đang ở Thái Nguyên phủ. Nếu Chẩn, Vĩnh Thanh đến Đại châu, thần xin cùng đi, hoặc cho thần đi trước.” Vua phê: “Địa giới ở Đại châu và các nơi khác đã xem xét xong, cũng không còn gì để bàn thêm, nên lập tức chỉ huy Vĩnh Thanh trở về Đại châu.” Việc này theo 《Ngự tập》 ngày 28 tháng 6. Xét: Vĩnh Thanh nhận mệnh ngày 17 tháng 4, bản truyện chép: “Vĩnh Thanh không muốn đi, nhưng bị ép phải đi. Sau lại sai Lý Bình cùng đi. Vĩnh Thanh dâng sớ trình bày lợi hại, xin về vì mẹ bệnh.” Xét ngày 18 tháng 7 năm đó mới sai Lý Bình cùng phân định, lúc này Vĩnh Thanh đã về Đại châu rồi. Bản truyện có vẻ sai lầm, cần xem xét lại.
[64] Chiếu rằng những người quy minh được bổ làm Đô giám hoặc Giám đương chưa trải qua một nhiệm kỳ, không được bổ làm việc khác.
[65] Ngày Kỷ Mùi, các quan chấp chính trình lên số quân, Vua bảo Vương An Thạch: “Việc hợp doanh nếu không quyết đoán mà làm thì cũng không xong, mọi người đều trách khanh, Trịnh Hiệp dâng thư cũng nói vậy.” Cần xem xét lại số quân để ghi chép đầy đủ.
[66] Mùa hạ năm đó, người Lạo ở Nam Châu làm phản. Triều đình xuống chiếu cho Đô chuyển vận sứ Tần Phượng lộ là Hùng Bản đến Quỳ Lộ làm nhiệm vụ thể lượng an phủ, kinh chế giặc Lạo ở Du Châu. Việc này căn cứ theo truyện của Hùng Bản. Thực lục không ghi chép việc này, mà đến ngày 7 tháng 8 mới chép: Sát phỏng Quỳ Châu lộ là Hùng Bản tâu rằng, kinh chế giặc Lạo, xin sai Kiềm hạt Tần Phượng lộ là Giả Xương Ngôn chiêu mộ binh sĩ để sử dụng. Chỉ nói là “Sát phỏng”, mà không nói là “Thể lượng an phủ”. Xét: Ngự tập ngày 11 tháng 7 sai Dương Vạn sung vào ty Thể lượng an phủ Quỳ Châu, chờ lệnh sai phái. Lại ngày 12 tháng 7 đổi sai Lưu Tòng Cát thay Vương Chấn, chiêu mộ người đến Quỳ Châu lộ thể lượng an phủ dưới quyền Hùng Bản chờ lệnh sai phái. Như vậy thì Hùng Bản nhận mệnh thể lượng an phủ là rõ ràng, hoặc kiêm luôn chức sát phỏng. Nay căn cứ theo truyện của Hùng Bản, chép vào cuối tháng 6. Tân lục và Cựu lục đều sơ lược, việc này cần xem xét kỹ hơn. 《Hùng Bản tập》 thiên Ký hiểm cũng chép: Tháng 7, tại Thông Viễn quân nhận sắc, sung chức Thể lượng an phủ Quỳ Châu lộ, kinh chế giặc Lạo ở Du Châu.
- Chiếu miễn Quần mục ty: 'Quần mục ty' là tên cơ quan chứ không phải tên chức vụ, chức vụ của Tăng Hiếu Khoan là Quần mục sứ, nghi ngờ chữ 'ty' ở đây là sai. ↵
- Triệu Ngạn Nhược được miễn san định, Vua đồng ý. Ghi chú: Câu trên nói mệnh Triệu Ngạn Nhược san định, câu này lại nói miễn san định, trước sau mâu thuẫn, có lẽ sử sách có chỗ sai sót. Lại nữa, 'Vua đồng ý' ở đây khó hiểu, nghi ngờ nên đặt ở câu 'Tam quán, Bí các san định' phía trên. ↵
- Chuẩn bị 1.850.000 quan tiền vàng bạc, lụa. Ghi chú: Chữ 'lụa' phía dưới nguyên có thêm chữ 'quan', căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà bỏ đi. ↵
- Chiếu phong Toàn Tam ban tá chức, Tam ban sai sứ: Tam ban sai sứ thấp hơn Tam ban tá chức, không thể cùng lúc phong hai chức này, căn cứ vào văn bản, nghi ngờ chữ 'Tam ban sai sứ' phía trên thiếu chữ 'Khánh'. ↵
- Nếu không có con đích hoặc con đích bị bệnh thì lập cháu đích tôn, chữ 'lệ' trong các bản khác chép là 'tật', có lẽ đúng là vậy ↵
- Phụ lục sau ngày Nhâm Tý 21 tháng này 'Nhất', các bản và bản hoạt tự chép là 'Nhị'. ↵
- Có bằng chứng từ mười năm trước, chữ 'Diệc' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác và văn bản dưới bổ sung. ↵
- Trạch Điện trực, chữ 'Trực' nguyên bản là 'Chân', căn cứ vào các bản khác sửa. ↵
- Chân núi Hoàng Ngôi, chữ 'Cước' nguyên bản là 'Khước', căn cứ vào các bản khác và bản hoạt tự sửa. ↵
- 'dưới' nguyên bản là 'không', theo bản hoạt tự sửa ↵
- 'có' nguyên bản là 'tự', theo bản các sửa ↵
- Quan Tử Khẩu Phố, chữ 'Quan' nguyên bản là 'Khai', theo bản trong các kho và văn trên sửa lại. ↵
- Không phải là văn tự đặc biệt chỉ định thuộc Nam hay Bắc, chữ 'thuộc Bắc' nguyên bản là 'triều', theo các bản sửa lại. ↵
- Sao lại lấy phố làm giới cứng, chữ 'làm' nguyên bản là 'nam', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Đàn nguyên là 'Thiền', căn cứ vào 《Liêu sử》 quyển 41, 《Địa lý chí》 sửa lại. Sau đây cũng vậy. ↵
- Theo văn lệ trên dưới, chữ 'Thần' thiếu chữ 'Quát'. ↵