VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 268: NĂM HI NINH THỨ 8 (ẤT MÃO, 1075)
Từ tháng 8 năm Hi Ninh thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 9, ngày Canh Thân mùng một, sai Vương An Thạch kiêm chức Giám tu Quốc sử.
[2] Kiểm chính Trung thư Hình phòng công sự Vương Chấn, Trung thư Hộ phòng Tập học công sự Luyện Hanh Phủ, Trì châu Tư pháp Tham quân Tôn Ngạc cùng tu sửa quy chế khoa cử. Ngày 23 tháng 8, Ngạc biên soạn sách lệ công sứ.
[3] Chiếu rằng những người tử vong trong vòng 50 ngày sau khi bị thương trận, được xét ân điển theo lệ tử trận. Trước đây lấy 30 ngày làm hạn, lại có người xin lấy 100 ngày, đến nay theo luật định làm phép cho các lộ.
[4] Ngày Tân Dậu, chiếu hợp nhất lệnh thức và sắc thức của các ty trong nội vào sở Sắc lệnh của một ty.
[5] Đô đề cử Thị dịch ty xin mượn 10 vạn quan tiền phong trang của An phủ ty lộ Định Châu để mua lúa. Theo lời xin.
[6] Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng, người Khương ở phía tây núi Đào mưu nhân lúc mùa hạ thu hoạch xong sẽ vào cướp, quan phiên là Lý Kỳ Nhai đánh lui được, lại bắt được thủ cấp. Chiếu thăng Lý Kỳ Nhai một bậc, Lý Long La được hưởng lương bổng của chức Nội điện Sùng ban, những người khác thăng bậc có khác nhau.
[7] Chiếu cho Nội điện Thừa chế Phùng Sĩ An đi tìm thầy thuốc. Trước đây, Thẩm quan Tây viện sai Sĩ An giám sát trấn Bản Kiều, châu Mật, khi dẫn vào yết kiến, Vua thấy ông bệnh không đảm đương được việc nên có lệnh này.
[8] Ngày Nhâm Tuất, chiếu cho phủ Đại Danh, châu Định, châu Thiền mỗi nơi chuẩn bị 20.000 con ngựa, một loại cỏ đậu phong trang, phủ Đại Danh giao cho Ty Nông tự, châu Thiền giao cho Đô đề cử Thị dịch ty lo liệu, đều hạn trong 2 năm phải đủ.
[9] Quyền Quần mục Phán quan Hàn Tông Sư làm chức Thái hà Bát phát Thôi cương, thăng một chức, vì ông theo hầu cha là Hàn Giang đi xin từ chức.
[10] Ngày Giáp Tý, Trung thư tâu rằng: “Nghe tin các châu quân Thâm, Kỳ, Vĩnh Ninh có sông Hồ Lô, Hô Đà, Sa Hà, Tân Hà nước lũ dâng cao, thường xuyên phá vỡ bờ đê. Cần tu sửa đê điều và nạo vét các chỗ bồi lắng, xin cho Ngoại đô thủy giám thừa và Thủy lợi ty kiểm tra tính toán thi hành, trước hết phải báo cáo vật liệu và công sức cần thiết, đồng thời lệnh cho Chuyển vận ty khảo sát số ruộng dân bị ngập lụt rồi tâu lên.” Vua đồng ý. Việc này được thêm vào theo《Hội yếu》, ngày 7 và 14[1], cùng ngày 19 tháng 6, cần xem xét thêm.
[11] Tướng thứ 19 của Hà Bắc là Dương Vạn tự nhận có công đánh giặc Man nhưng không đúng sự thật[2], Xu mật viện xin trị tội. Vua phê chuẩn đặc cách tha tội.
[12] Ngày Ất Sửu, ban thưởng cho Đô đại đề cử giáo doanh trận, Phó đô chỉ huy sứ Bộ quân Dương Toại, Đồng đề cử, Phó đô thừa chỉ Xu mật viện Trương Thành Nhất, Nhập nội áp ban Lý Hiến mỗi người 100 lượng bạc và 100 tấm lụa; Tham nghị công sự, Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự Vương Chấn, Quản câu Quốc tử giám thừa Quách Phùng Nguyên, Tướng quan Hạ Nguyên Tượng, Phó tướng Tang Cảnh, cùng các bộ tướng trở xuống đến Chỉ huy sứ, Mã bộ quân đều được ban thưởng bạc, lụa và tiền đặc chi theo thứ bậc. Trước đó, ngày Mậu Ngọ tháng 8, đã tổ chức duyệt binh lớn tám quân ở phía nam thành tại Kinh Gia Pha, sau khi xong việc, dỡ trại rút quân, nên có ban thưởng này. Mậu Ngọ là ngày 29 tháng 8.
[13] Phó sứ Tả tàng khố Tây Kinh Vương Giám tâu rằng, khu vực gần kinh thành thuộc Khai Phong phủ có nhiều đất chăn nuôi và ruộng bồi, nên trồng nhiều cây du và liễu, so với việc cho thuê ruộng sẽ thu được lợi nhuận gấp đôi. Vua đồng ý, và lệnh cho Vương Giám cùng Phó sứ Tả tàng khố Hoắc Thuấn Cử đảm nhiệm việc này.
[14] Chiếu lệnh cho các tướng quan ở Khai Phong phủ và các lộ chọn trong binh lính dưới quyền năm người giỏi bắn cung gần và xa đều trúng đích để về kinh. Các giám ty ở phủ và năm lộ cũng chọn thí nghĩa dũng, bảo giáp theo cách này, và cấp tiền lộ phí.
[15] Chiếu lệnh từ nay các sứ thần làm việc tại Ngự dược viện đủ năm năm thì được thăng một chức, và không bị gián đoạn trong việc khảo xét.
[16] Ngày Bính Dần, Biệt thí sở tâu rằng, các vũ cử tiến sĩ Tống Thăng cùng sáu người khác có tài bắn cung nỏ xuất chúng, nhưng phần sách nghĩa lại ở hạng dưới, chưa dám loại bỏ. Chiếu rằng đợi đến khi thi Điện thí, những người thi vũ cử sẽ được dẫn trình tài bắn cung ngựa. Từ đó, những người có tài bắn cung nỏ xuất chúng, dù phần sách nghĩa không đạt chuẩn, đều được báo danh, lập thành pháp lệnh.
[17] Chiếu bãi bỏ năm nghìn quân Mã giám, lấy hai nghìn người trong số đó lập thành bốn chỉ huy Quảng Cố, chuyên thuộc Tu hoàn kinh thành sở, đặt doanh trại ở bốn góc kinh thành; ba nghìn người còn lại tăng thêm sáu chỉ huy Bảo Trung thuộc phủ Khai Phong, đặt doanh trại ở các huyện Trần Lưu, Ung Khâu, Tương Ấp. Đợi khi việc tu sửa kinh thành hoàn tất, các chỉ huy Bảo Trung mới lập sẽ lập tức điều động sáp nhập, vẫn thuộc Bộ quân ty, nếu không có lệnh tuyên triệu, không được sai khiến. Ngày 21 tháng 8, bắt đầu tu sửa kinh thành.
[18] Ngự sử Thái Thừa Hi tâu: “Nghe nói gần đây triều đình có ý định xây dựng thành mới, dư luận bên ngoài xôn xao, cho rằng mỗi ngày huy động vạn binh, hao tốn tiền của không ít. Thần nghe xưa kia thành quách hào lũy là để phòng thủ, lại có câu: ‘Vương công đặt hiểm để giữ nước, lấy thành quách làm vững chắc, nhưng đạo đức có chỗ không thể đặt được.’ Đây là lời của người bình thường, chứ không phải dành cho bậc minh quân. Với đức độ của bệ hạ, đâu chỉ vững như thành vàng hào sôi, mà lại lo xa như vậy, dư luận bàn tán, thần không hiểu nổi. Hơn nữa, thành ngoài từ thời tổ tông truyền lại đến nay, đã lâu ngày tháng, đất đai chắc chắn, tuy thô sơ nhưng vẫn còn nguyên vẹn, cần gì phải xây cao đào sâu, dựng lầu canh để phòng thủ biên cương? Cây cam đường nơi Thiệu Bá nghỉ ngơi còn không chặt bỏ, quy mô của tổ tông lại càng nên thận trọng khi phá dỡ. Thần nghĩ bệ hạ không muốn làm nản lòng bề tôi hăng hái, nên tạm nghe theo ý kiến của họ mà thôi. Lại nghe nói chiêu mộ quân Quảng Cố chỉ huy. Năm nay Giang, Hoài đại hạn, vùng kinh kỳ có nạn châu chấu, lúa má không được mùa, chỉ có kho quân lương ở kinh sư tạm đủ chi dùng. Nay lại phiền phức chiêu mộ, hao tốn lương thực, hơn nữa vừa khởi công, các nha môn đều đòi hỏi, động là phải ứng phó, đây lại là sự hao tổn không nhỏ. Kính xin tạm thời bãi bỏ. Nếu bệ hạ cho rằng mệnh lệnh đã ban ra khó thu hồi, thì xin quy định từng bước nhỏ, dần dần tăng cường tu sửa, không cần dồn sức làm ngay để tránh hao phí.” Việc này căn cứ theo tấu nghị của Thừa Hi mà ghi chép thêm. Năm thứ tám, hai vùng Hà, Thiểm Tây, Giang Nam, Hoài, Chiết đói kém, Kinh Đông có nạn châu chấu, vậy thì Thừa Hi tất là tâu lên vào năm thứ tám.
[19] Lại xuống chiếu cho Ty Nông tự, ở các châu quân ven biển và gần biển thuộc Hà Đông nơi nào được mùa, dùng ba mươi vạn quan tiền để mua lương thảo dự trữ.
[20] Lại xuống chiếu: Sông Sa ở Vệ châu đã khơi thông, lệnh cho Trình Phưởng và những người khác khảo sát, đặt các cửa cống trên dưới. Ngày mồng 7 tháng này, lại ngày 19 tháng 6 bắt đầu khơi thông, lại ngày mồng 5 tháng này.
[21] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu từ mùa xuân năm sau, yến tiệc không dùng múa đội, lệnh cho tông thất từ chức quận trở lên phải đến dự.
[22] Ngày Mậu Thìn, phong Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Thứ sử Phong châu là Trọng Lai tập phong tước Ngụy Quốc công. Trọng Lai là con ai? Xét sách 《Tống sử·Tông thất truyền》 chép, Trọng Lai là cháu đích trưởng của Hán Cung Hiến vương Nguyên Tá, con của Tông Lập.
[23] Ngày Canh Ngọ, bổ dụng Lại Thừa Vũ, người huyện Tướng Lạc, châu Nam Kiếm, giỏi kỹ thuật sử dụng giáo, làm Tam ban Phụng chức, sung chức Tuần kiểm lộ Phúc Kiến. Vì Thừa Vũ đã dẫn em cháu bắt giết giặc Ngô Duẫn có công.
[24] Trung thư, Xu mật viện tâu: Giặc người Lão ở châu Du là Cúc Nãng Nhị, Mộc Cầm, Mộc Đẩu cùng hơn 20 tộc khác xâm phạm biên giới, xin ban sắc dụ giao cho Hùng Bản. Bèn hạ chiếu: Người Di phạm biên giới nếu tự quy phục sẽ được miễn tội, người chủ mưu tự bắt giết lẫn nhau cũng theo quy định này, đồng thời bàn việc ban ân.
[25] Hạ chiếu bãi bỏ việc tăng quân Sùng Vũ ở lộ Hà Bắc Đông. Đặt ty đúc tiền ở châu Dân, lệnh cho Tri châu Hi châu là Cao Tuân Dụ và Chuyển vận phó sứ là Trương Mục Chi đứng đầu. Vì Tuân Dụ tâu: “Ty Uy Viễn đúc tiền Chiết Nhị tốn ít công mà lợi nhiều. Nay mỏ sắt ở châu Dân phát hiện nhiều, nếu tăng thêm một ty, mỗi năm có thể thu được 40 vạn quan tiền.” Nên ra lệnh đặt ty. Lại sai Tả ban Điện trực là Mạnh Chương tuyển quân phối ở hai lộ Tần Phượng, Vĩnh Hưng sung việc công, lấy 500 người làm định mức. Nếu không đủ thì tuyển thêm ở lộ lân cận. Sau đó Tuân Dụ tâu: Lộ này không có thợ mỏ, xin điều từ các châu Thương, Quắc đến ứng phó. Theo lời tâu. Sau đó ban tên ty là Thao Sơn. Việc thợ mỏ là ngày 18 tháng 11; tên ty là việc tháng 5 năm thứ 9, nay chép chung.
[26] Bãi bỏ ty Kế toán của Tam ty, theo lời thỉnh cầu của Hàn Giáng. Ty này được đặt lần đầu vào ngày Canh Thìn tháng 10 năm thứ 7.
[27] Ngày Tân Mùi, Vương An Thạch tâu: “Con trai thần là Bàng vâng chiếu soạn tiến bản nghĩa của kinh thi, thần cho rằng cần phải chuẩn bị để bệ hạ ngự lãm, nên từng câu từng chữ đều qua tay thần, mới dám tâu lên. Khi thiết lập quan chức và cơ quan để sửa đổi, thần cho rằng văn từ và nghĩa lý nên cùng bàn bạc với mọi người, nên không dám cố chấp ý kiến riêng của mình. Sau khi vâng chiếu ban hành, các học giả cho rằng vẫn còn chỗ chưa ổn. Thần nghĩ bệ hạ muốn dùng kinh thuật để đào tạo nhân tài, mà thần được giao phụ trách việc này, nếu trong sự hiểu biết của thần còn có chỗ chưa thấu đáo, thì khó mà làm ngơ. Tất cả các thiên đã được cơ quan kinh điển sửa đổi, thần xin ghi chép lại bản cũ và bản mới để tiến trình. Trong đó, dù là bản cũ, nay cũng có chút sửa đổi, và trong bản mới có luận giải ngắn gọn về lý do nên bỏ hay giữ lại. Nếu hợp ý bệ hạ, xin ban chỉ dụ. Phần tựa kinh thi dùng bản giải của Lữ Thăng Khanh, còn nghĩa kinh thi vẫn theo bản cũ mà ban hành.” Chiếu cho Vương An Thạch cùng chỉnh sửa bản giải tựa kinh thi của Lữ Thăng Khanh để tâu lên. Ngày 17 tháng 6, cần xem xét. Lữ Thăng Khanh bị cách chức Quốc tử, vào ngày 23 tháng 7.
[28] Vương An Thạch lại tâu: “Thần kính vâng chiếu chỉ, tội làm trái ý, thần ngu muội không dám trốn tránh. Nhưng bệ hạ đã ban ân cho Huệ Khanh và những người khác, mà bỏ đi phần giải thích của họ, thần ngu muội không dám yên lòng. Nếu cho rằng lời giải thích của họ có sai sót, bắt thần phải chỉnh sửa thêm, thần đâu dám không vâng lời thánh huấn!” Đoạn này được thêm vào dựa trên tấu chương của Vương An Thạch. Huệ Khanh nói: “Thần cũng nên bị cách chức.” Đây là để biện minh cho việc này. Việc ban ân diễn ra vào ngày 21 tháng 6, việc sửa đổi phần giải tựa hoàn thành vào ngày 24 tháng 12.
[29] Lữ Huệ Khanh vì việc của Thăng Khanh xin từ chức. Sau khi lại nhận chức, ông càng không hòa hợp với An Thạch, bèn ở lại tâu với Vua rằng: “Thần nghĩ rằng khi An Thạch ở Giang Ninh, trong lòng có điều nghi ngờ, nên vội vàng đến như vậy. Khi đến nơi, chắc hẳn là bệ hạ đã tuyên dụ và từng mượn nhật lục của thần để xem, sau đó mới hiểu ra. Hai ngày trước, Dư Trung và Diệp Đường Ý đến nói với thần rằng An Thạch giận thần vì đã sửa nghĩa thơ của ông ta. Trung và những người khác trước đây cùng thần tiến trình, An Thạch cho rằng họ đã quên, lúc đó chỉ tiến trình phần tựa thơ, nay chỉ dùng nghĩa cũ. Thần nghĩ rằng chưa rõ ràng, bèn sai Thăng Khanh đến hỏi, quả nhiên đúng như vậy. Thăng Khanh nói: ‘Anh tôi cùng tướng công sửa định rồi tiến trình.’ An Thạch giận dữ nói: ‘An Thạch viết văn lẽ nào như thế? Anh ngươi cũng không đến nỗi như vậy, đây là việc của Tằng Mân, ngay cả huấn hỗ cũng không biết.’ Thần rất lấy làm lạ, nhưng không hiểu ý giận dữ của ông ta, chắc hẳn là có người gièm pha. Anh em thần đối với An Thạch, bệ hạ đã rõ. Thần lấy việc phụng dưỡng cha mẹ để phụng sự bệ hạ, ngoài ra chỉ khâm phục một mình An Thạch mà thôi. Thần làm quan thuộc, An Thạch cũng tôn trọng lễ nghĩa với thần, không đối xử như với người khác, đến mức tranh luận kịch liệt cũng chưa từng giận dữ. Gần đây bàn việc thị dịch biểu địch, thần cho rằng phép thường bình đang dần ổn định. Lại thêm phép này, Lữ Gia Vấn chắc không thể xử lý được, nên thần đã tranh luận với ông ta để trì hoãn việc này. Khi sắp tâu lên, bệ hạ quả nhiên hỏi, thần không dám không nói. Nhưng An Thạch chưa chắc đã giận vì việc này, chỉ là có người gièm pha mà thôi.”
Việc thị dịch biểu địch xảy ra vào ngày 19 tháng 4 nhuận. Vua hỏi: “Có phải Luyện Hanh Phủ không?” Huệ Khanh đáp: “Đó cũng là một người, chắc có người xúi giục.” Vua hỏi: “Có phải Trương Ngạc không?” Huệ Khanh đáp: “Không phải. Gia Vấn và Ngạc không đến mức như vậy.” Vua hỏi: “Hanh Phủ sao lại đến nỗi này?” Huệ Khanh đáp: “Hanh Phủ nhiều lần muốn bệ hạ triệu kiến, thần thấy ông ta ham tiến thân quá nhanh, từng viết thư cho Đặng Oản rằng: ‘Nếu Hanh Phủ được gặp, thì trị nước thời Đường, Ngu, Tam Đại không khó đạt được.’ Không biết sao lại có thể đạt được như vậy? Nên thần không dám tâu lên triều đình. Sau đó, Oản tiến cử ông ta. Thần tiến trình, chỉ nói rằng ông ta muốn được gặp bệ hạ mà thôi. Thần bình thường tiến cử người với bệ hạ, thường nói nhẹ nhàng. Bệ hạ lấy thân mình làm chuẩn mực, nặng nhẹ không phụ thuộc vào lời người khác, thần đâu dám nói quá lời khi tiến cử? Hanh Phủ nghe vậy, giận thần không khen ngợi, mà em thần ở giảng diên, bệ hạ cũng từng hỏi về Hanh Phủ, em thần nói không biết rõ về ông ta. Đại để những lời Thừa Hi nói, đều là do Hanh Phủ xúi giục.
Thần tuy không giỏi, nhưng cũng hiểu sơ lược đạo lý tính mệnh, An Thạch tuy không hiểu thần, thần cũng không so đo với ông ta, văn chương danh tiếng, thần càng không để ý. Huống chi nghĩa kinh điển, dù thánh nhân cũng không thể hiểu hết, không có chỗ nào không thể thêm bớt, trước đây vì An Thạch đã đi, thần căn cứ lý lẽ tu chỉnh, không dám sửa đổi nhiều. Không ngờ ông ta giận dữ đến vậy. Nếu bệ hạ có việc bốn phương, thần nguyện sẵn sàng phụng mệnh.”
[30] Vua lại giữ Huệ Khanh lại nói: “Khanh hãy yên tâm.” Nhưng bàn luận càng không hợp, Huệ Khanh càng không yên lòng, hơn một tháng sau mới dâng tờ tấu lên Vua, đọc rằng: “Thần thấy tờ tấu của Vương An Thạch, xin dùng lời giải của Lữ Thăng Khanh cho phần tựa Kinh Thi, và Kinh Thi nghĩa vẫn theo bản cũ mà ban hành. Những chỗ sửa đổi nhỏ thì theo chỉ dụ trước. Vâng thánh chỉ, sai An Thạch cùng với lời giải phần tựa Kinh Thi sửa đổi rồi dâng lên. An Thạch nói: ‘Ở bản mới đã bàn sơ qua lý do nên bỏ hay giữ, nhưng chưa được ban ra. Thần không biết vì sao. Đến như việc dùng Kinh Thi nghĩa do Vương Bàng dâng lên, thì từng chữ đều qua tay ông ấy, mà việc đặt quan lập cục để sửa đổi, văn từ nghĩa lý nên cùng bàn với mọi người, nên không dám cố chấp ý mình là đúng. Đã vâng chiếu ban hành, học giả đều cho rằng chỗ sửa chưa ổn, cho rằng bệ hạ muốn dùng kinh thuật để đào tạo nhân tài, mà chức trách của thần, nếu thấy chỗ nào chưa thỏa đáng, thì khó mà làm ngơ.’ Thần không hiểu lời lẽ đó.
Thần nghĩ, triều đình lúc đầu lập Kinh Cục, sai thần cùng Vương Bàng soạn, mà An Thạch làm chủ trì việc xét định, đều do bệ hạ quyết định, không phải do ai đề xuất. Nếu cho rằng nghĩa cũ không thể sửa, thì không hiểu việc đặt quan lập cục để làm gì? Nếu cần thêm bớt, thì từ việc soạn thảo, thảo luận, sửa chữa, trau chuốt, đều có thứ tự. Còn Kinh Thi nghĩa, lúc đầu thần vâng lời bệ hạ, cho rằng văn cũ quá sơ sài, người học mới không hiểu, nay sửa định, nên thêm chi tiết. Đến những chỗ bàn luận nhiều về khuyên răn, không phải việc của người học, nên bớt đi, và giải thích phần tựa. Nhưng không hề sai ai chú giải văn từ, ai chú giải nghĩa lý. Vì vậy từ khi lập Kinh Cục, trước hết các quan kiểm thảo phân định chương mục, đại để lấy giảng nghĩa làm gốc, những chỗ sửa chữa, đều theo thánh chỉ. Soạn thảo xong, thần liền sắp xếp lại, đầu tiên giải thích phần đại tự và hai thiên Nam, tổng cộng năm quyển, mỗi khi xong vài thiên, liền gửi An Thạch xét định. Một câu một chữ nếu chưa ổn, đều được sửa lại, rồi bảo thần sửa theo ý An Thạch, sau đó mới chép lại, An Thạch tự tay viết tên thần rồi dâng lên. Vậy thì Kinh Thi nghĩa do Vương Bàng dâng lên, dù từng chữ qua tay An Thạch, không hiểu sao lại thế?
Lại soạn các quyển sau phần Bắc, Dung, Vệ, An Thạch lúc ở đây, có khi đã xem qua vài lần, đến khi về Giang Ninh, lại gửi đến xét định, chỗ nào cũng có chú thích. Từ đó về sau, thần thấy An Thạch rời Kinh Cục, mà nghĩa lại càng chi tiết, không muốn sửa văn cũ, chỉ giải thích phần tựa. Từ khi An Thạch về kinh, sai các quan kiểm thảo đem phần soạn tiếp trình lên An Thạch, còn lại, thần ở Trung thư cùng An Thạch đọc qua, đều có chỗ sửa, bản thảo Kinh Cục hẳn còn giữ, các quan kiểm thảo nay phần nhiều ở đây, đều có thể hỏi lại. Thần từ nhỏ chơi với An Thạch, mỗi khi bàn luận, đều cùng nhau sửa chữa, chưa từng có hiềm khích. Huống chi lúc này vâng chiếu soạn sách, muốn truyền lâu dài, nếu có thể sửa chữa thành sách hoàn chỉnh, sao lại phân biệt đây kia? Mà An Thạch lại cho rằng thần là tể tướng chủ trì việc này, nếu thấy chỗ nào chưa ổn, nên sửa lại, không nên chậm trễ. Rồi soạn chép dâng lên, được chỉ ban hành, in gần nghìn bản. Việc in Kinh Thi nghĩa là ngày 19 tháng 6.
Bỗng thấy Dư Trung, Diệp Đường Ý đến bảo thần, An Thạch giận Kinh Cục sửa nghĩa cũ phần hai thiên Nam, bảo đừng bán, phải bỏ đi. Thần cho rằng Trung nghe nhầm, bảo hỏi lại, vẫn như trước. Lại sai Thăng Khanh đến hỏi, An Thạch lại nổi giận, lời lẽ như Trung nghe được. Lúc đầu dâng nghĩa hai thiên Nam, bệ hạ đặc biệt mở điện, triệu tập hai phủ, An Thạch cùng thần đối diện đọc cho đến hết, bệ hạ khen ngợi, lời thánh còn ghi. An Thạch chưa già, sao lại quên, mà nói như vậy, ai chẳng kinh ngạc. Nhưng thần vẫn cho rằng An Thạch chỉ nhất thời không suy nghĩ. Nay An Thạch lại xin dùng bản cũ ban hành, nếu cho rằng chỗ nào chưa thỏa đáng, nên theo chỉ dụ trước mà sửa định, ai lại không muốn, sao lại do dự? Nếu cho rằng đều không đáng lấy, thì với tài năng của An Thạch, lúc lập Kinh Cục, phần Quốc phong trở về trước đã xem xét sửa chữa nhiều lần. Nếu văn từ đều không đáng lấy, sao lúc đó không thấy, mà đến nay lại nhờ ai phát hiện mới thấy?”
[31] Thần vốn quen thuộc với học thuyết của An Thạch, mỗi khi đọc văn chương, thần cho là đúng thì An Thạch cũng cho là đúng; nếu không, An Thạch sẽ phủ nhận. Học thuyết của An Thạch tuy ngày càng tiến bộ, nhưng từ mùa xuân năm ngoái đến mùa thu năm nay không thể đột nhiên thay đổi, mà lại cho rằng bệ hạ muốn dùng kinh thuật để đào tạo nhân tài, nên không thể không làm như vậy. Như vậy, những gì được coi là đúng trước đây, hôm nay lại chưa chắc đã đúng; những gì được coi là đúng hôm nay, ngày sau há có thể khẳng định được sao? An Thạch nắm quyền trong nước, tự nhận trách nhiệm về kinh thuật, muốn quyết định bỏ hay giữ, ai dám tranh cãi! Nhưng thần đã nhiều lần tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của việc này mà vẫn không thể hiểu được.“
Vua nói: “An Thạch không có ý gì khác. Kinh nghĩa chỉ có ba mươi chỗ huấn hỗ chưa ổn, nay không thay đổi nữa. Lời tựa chỉ dùng nghĩa cũ, cũng không sao.” Huệ Khanh nói: “An Thạch muốn cùng sửa lại lời tựa. Việc thiết lập cơ quan tu soạn không phải một ngày, nay đều không thể dùng được, mà lại được thăng chức và ban thưởng, về lý thì sao ổn được? Thần cũng nên bị cách chức.” Vua nói: “Làm gì có lý như vậy!” Huệ Khanh nói: “Nhưng dù triều đình không cách chức thần, thần còn mặt mũi nào nữa. An Thạch chắc chắn sẽ nói rằng để lưu truyền muôn đời, sợ làm lầm lạc học giả. Nghĩa lý trong 《Hồng Phạm》 có nhiều bản, 《Dịch》 cũng vậy, sau này có người cùng thần bàn bạc sửa lại khoảng ba mươi thiên, nay bản mới sửa đổi bán ở chợ chính là bản đó. Những tấu chương về quân thâu, nông điền, thường bình của Ty Chế trí điều lệ trước sau đều qua tay thần, sao đến hôm nay đột nhiên không dùng được, lại giao cho Luyện Hanh Phủ? Thần tuy không giỏi, nhưng há lại không bằng Hanh Phủ?” Vua nói: “Khanh không cần từ chức.” Huệ Khanh nói: “Thần há có thể ở lại vị trí này!“
Những điều trên đều được thêm vào từ gia truyền của Huệ Khanh. Tấu chương của Thái Thừa Hi hặc Thăng Khanh có thể tham khảo. Huệ Khanh còn có 《Nhật lục》 ghi chép đoạn này rất chi tiết, không khác gì gia truyền, nên không trích dẫn riêng. Trần Quán trong thư trả lời Lưu Hi Trọng viết: “《Nhật lục》 của Lữ Thái Uý chưa từng thấy, chỉ thấy trong tấu nghị của Uyển Khâu có đoạn tiến 《Nhật lục》. Từ khi ông ta và Kinh Thư bất hòa, đã tiến hai bức thư tay, lại tiến thêm bốn quyển 《Nhật lục》. Trong bốn quyển đó, đều kể lại công lao sau khi nắm quyền, tự chứng minh lòng trung thành. Vì thế, lời nói xấu của Kinh Thư không còn được Dụ Lăng tin tưởng, và Kinh Thư từ đó bị tội nặng. Tám mươi quyển sách của Chung Sơn chính là bắt chước bốn quyển đó mà viết. Hai bộ 《Lục》 tuy số quyển nhiều ít khác nhau, nhưng đều đạt được mục đích bày tỏ tâm ý. Người tự chứng minh lòng trung thành được thỏa nguyện trước; người tự chứng minh mình thánh thiện được thỏa nguyện sau. Nay tám mươi quyển sách lưu hành rộng rãi, đọc qua thì thấy hiệu quả rõ ràng, bốn quyển kia chưa cần đọc đã hiểu hết ý tứ.” Thư của Quán cần tham khảo thêm, tấu nghị của Huệ Khanh ở Uyển Khâu cũng chưa thấy.
[32] Chiếu rằng các quan văn vũ được bổ nhiệm điều động, không được dùng người thân thuộc trong phạm vi ngũ phục để thay thế. Trước đây, chỉ có quy định này áp dụng cho quan võ, đến nay thì áp dụng cả cho quan văn.
[33] Ngày Nhâm Thân, chiếu rằng các thành lũy ở các châu quân Hà Bắc chưa khởi công thì tạm dừng, căn cứ vào số gỗ dùng để làm lầu lũy, hạn trong ba năm phải tích trữ đủ, để phòng khi cần kíp, trước hết phải báo cáo chi phí công.
[34] Lại chiếu rằng Ty Chuyển vận Giang Nam Tây lộ phải tìm thợ làm đập, cấp lộ phí hậu hĩnh, và cấp lương ngựa cho đại tướng đến Ty Nông tự.
[35] Kiềm hạt Hoàn Khánh là Lương Tông Cát dâng lên chiến xa do mình chế tạo. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》.
[36] Thượng phê phó Hàn Chẩn: “Ngày mồng 6 tháng này, nhận được bản tấu của khanh về việc người phương Bắc gửi công văn, nói rằng khu vực quân Khả Lam đang canh giữ hào giới không phải là nơi phân định ranh giới ban đầu. Xét ý đồ của kẻ địch phương Bắc, chắc chắn là do khanh nhiều lần thúc giục họ mở hào hậu phía tây núi Lô Mao, nghi ngờ rằng ta còn có kế hoạch phân chia ranh giới, cho rằng ta giấu giếm không nói ra, may mà bàn luận chưa tới, nên họ muốn nhanh chóng kết thúc, nên lại tiếp tục xâm lấn tham lam, không chịu dừng lại. Tình hình địch như vậy, nếu không kiên trì giữ vững, không chỉ đất Thảo Thành Xuyên quyết không thể nhượng bộ, mà còn lo sợ sự xâm lấn sẽ ngày càng gia tăng, đòi hỏi những việc lớn, dẫn đến tranh chấp, khó giữ được minh ước. Khanh nên thể hiện ý chí kiên trì không thay đổi, may ra có thể ngăn chặn được sự tham lam gian trá. Trước đây đã có chỉ dụ, lệnh cho khanh tạm thời đưa gia quyến đến đó, nên nhanh chóng thi hành, để người phương Bắc biết rằng ta không ngại kéo dài.
Ngày trước, từ Hùng Châu có bản tấu về công văn của châu Trác phương Bắc, nói rằng: ‘Theo tờ trát của Xu mật viện, căn cứ vào bản tấu của Sơn Tây đô kiềm hạt ty[3], gần đây tuần tra khu vực cửa núi có địa điểm Song Tỉnh ở Thái Gia Khẩu, người phương Nam ngăn cản người phương Bắc qua lại, việc này đã được chuyển giao cho Xu mật viện.’ Xem xét công văn của phương Bắc này, chính là do trước đây căn cứ vào tin tức biên giới, triều đình phương Bắc cử quan đến kiểm tra, muốn tranh chấp việc biên giới. Công văn lần này chỉ là mở đầu. Sau này chắc chắn sẽ tiếp tục dồn dập, dần dần gia tăng áp lực.
Vì vậy, ngay từ đầu việc ứng phó, không thể không thận trọng. Khanh nên đến bản phòng lấy tài liệu xem xét kỹ lưỡng, đối chiếu với các văn bản trước sau, cùng các quan Xu mật bàn bạc, soạn thảo một bản công văn trả lời để tiến trình.”
Việc này căn cứ vào sách thệ ước hai triều, ngày 13 tháng 9 giờ Thân, có lời phê của Vua giao cho Hàn Chẩn, chưa rõ là năm thứ 8 hay năm thứ 9, vì ngày 28 tháng 7 năm thứ 8 có việc Song Tỉnh nên phụ chép vào đây. Ngày 13 tháng 9 năm thứ 8 cần xem xét kỹ hơn, cũng có thể lúc này Hàn Chẩn chưa chắc đã ở kinh đô. Ngày 15 tháng 6, Chẩn xin tấu việc, có thể lúc này đã vào kinh, cũng không thể biết chắc. Ngày 18 và 29 tháng 6, ngày 29 tháng 9 và ngày 13 này, cùng ngày mùng một tháng 10, và ngày 28 tháng 11, đều cần xem xét kỹ. Hàn Chẩn được bổ nhiệm làm Đô thừa vào ngày 24 tháng 12 năm thứ 8, ngày 13 tháng 9 này chưa chắc đã ở phòng Xu mật, cần kiểm tra kỹ hơn mới được.
[37] Ngày Quý Dậu, Tư nông tự tâu: “Các phường trường, bến đò trước đây chỉ dùng để bồi thường cho nha tiền. Từ khi pháp mộ dịch được thi hành, những người làm việc công chiếm dụng quá nhiều, phí tổn tăng cao, mười phần đã mất đi tám chín, nha tiền bị cắt giảm nhiều nhất. Không chỉ loại bỏ được nỗi khổ phá sản vì gánh nặng khó khăn, mà những khoản phụ phí theo lệ cũ cũng được chuyển sang do quan phủ cấp, vì vậy tiền từ các phường trường tự nhiên phải quy về quan phủ để bù đắp chi phí. Ngoài ra, các lộ có dùng quân viên, binh sĩ thay thế người đi phu, khi quân nhân thiếu thì phải thuê người, nhưng các quan ty phần nhiều không biết điều này, cho rằng đã giảm được người đi phu nên muốn cắt giảm số tiền phu dịch theo định mức cũ, cần phải có quy định ràng buộc.” Bèn hạ chiếu: Tiền mua phường trường phải để riêng, chỉ được dùng để bồi thường cho nha tiền trước khi có pháp mới và chi thưởng theo điều lệ, ngoài ra phải chi theo phép thường bình, không được dùng vào việc khác. Ai vi phạm sẽ bị phạt đi đày hai năm, dù đã thôi chức hay được ân xá cũng không được giảm tội. Những nơi dùng quân nhân thay người đi phu, cho phép chi trả tiền công ăn và các khoản thù lao cho người được thay thế, cũng phải để riêng. Tiền phường trường, lệnh cho Tư nông tự xuống các lộ mỗi năm nộp một trăm vạn quan vào thị dịch vụ để niêm phong, nhưng cho phép đổi thành vật phẩm chở về kinh. Bản chí cũng ghi như vậy, ngày 7 tháng 11 năm thứ 3 bắt đầu bán phường trường[4].
[38] Phán Đại Danh phủ Văn Ngạn Bác tâu: “Sông lớn tràn bờ, phá hủy ruộng của dân, nhiều nhất là sáu mươi thôn, hộ lên đến một vạn bảy nghìn; ít nhất là chín thôn, hộ đến bốn nghìn sáu trăm. Xin miễn thuế cho những hộ dân bị ngập nước.” Theo lời tâu, lại hạ chiếu cho Đô thủy giám xem xét việc các quan ty không tâu báo nguyên nhân để trình lên. Sau đó, bản giám tâu rằng chỉ có Bộc châu bị ngập nước nhẹ, đã tâu rồi, còn lại các nơi khác đều không có. “Sau đó, bản giám tâu”, theo bản Chu mà thêm vào, bản mới cũng không có. Giữ lại đoạn này để thấy rõ sự việc ngày đó, vì vậy không nên bỏ. Ngày mùng 5 tháng giêng, Trung thư có nói, có thể tham khảo.
[39] Ngày Giáp Tuất, triều đình ra chiếu chỉ cho con trai của Tống Thủ Ước, nguyên là Phó đô chỉ huy sứ Bộ quân, là Tống Kỳ, hiện giữ chức Tây đầu cung phụng quan, được điều động đến kinh đô nhận nhiệm vụ. Từ nay, những người giữ chức Cáp môn sứ trở lên nếu qua đời trong vòng 10 năm, gia đình được phép xin cho một người thân như em trai, cháu trai hoặc con cháu được bổ nhiệm. Quy định này bắt đầu từ Tống Thủ Ước.
[40] Lại có chiếu chỉ thay thế quân Sương ở các trại thuộc châu Hãn, châu Đại bằng quân Cấm. Lý Thừa Chi, Sát phỏng sứ lộ Hà Đông, tâu rằng quân Sương ở vùng biên giới xa xôi thường phạm nhiều sai phạm.
[41] Trịnh Dân Hiến, Đề cử doanh điền lộ Tần Phượng, tâu rằng: “Lý Sĩ Lương, quản lý trường cỏ kho của châu Hi, đã lập kế hoạch khai khẩn ruộng đất ở quân Thông Viễn, xin cho tính toán thuế ruộng để chiêu mộ người đến canh tác.” Triều đình đồng ý và lệnh cho Trịnh Dân Hiến làm Đề cử, Lý Sĩ Lương làm Quản câu.
[42] Cùng ngày, giặc Man hơn 700 người cướp phá động Cổ Vạn. Theo tấu trình ngày 11 tháng 11.
[43] Ngày Ất Hợi, triều đình ra chiếu chỉ lập bài vị thờ 7 vị thần tại Thái miếu: Tư mệnh, Hộ, Xấm, Trung lựu, Môn, Lệ, Hành. Đây là theo đề nghị của Thái thường tự.
[44] Ngày Bính Tý, chiếu chỉ rằng các lộ phải rèn luyện dân binh Bảo giáp và đặt dưới quyền quản lý của Binh bộ. Tăng thêm một viên Đồng phán quan, hai viên Chủ bạ, mười viên Câu đương công sự quan, phân công quản lý các châu quân. Các chức vụ Đề cử quan cũ ở các châu quân đều bãi bỏ. Binh bộ Thư lệnh sử Vương Vận tâu rằng Bảo giáp là dân binh, không nên thuộc quyền Ty nông tự.
[45] Chiếu chỉ cấp cho Hàn Kỳ, người tái nhiệm chức Tướng châu Tương, các khoản trợ cấp để giao cho gia đình ông.
[46] Ngày Đinh Sửu, Chuyển vận ty lộ Giang Nam Đông xin 3 đến 5 vạn thạch gạo để cứu đói dân nghèo. Chiếu chỉ rằng các lộ Hoài Nam Đông Tây, Lưỡng Chiết, Giang Nam Đông cùng để lại 15 vạn thạch gạo thượng cung để cấp cho các châu quân bị thiên tai.
[47] Ngày Mậu Dần, Nội tàng khố tâu: “Các giám ở châu Nhiêu, châu Trì, châu Giang từ năm Hi Ninh thứ 6 tăng số tiền đúc nhưng thường bị các ty mượn, nên hàng năm không đủ số lượng. Xin không cho các ty mượn nữa, các châu phải báo trước số tiền đúc.” Triều đình đồng ý.
[48] Ngày Tân Tỵ, sai chủ bạ Vương Cổ ở ty Nông tự xét tội tham nhũng của Trương Nhược Tế, nguyên thông phán ở Tú Châu, để tâu lên. Ngự sử trung thừa Đặng Oản tâu: “Nhược Tế trước làm tri huyện Hoa Đình, tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh và các em thân thiết với ông ta, nhờ Nhược Tế sai lại viên huyện là Vương Lợi Dụng mượn tiền của sáu nhà giàu có như Chu Tường, tổng cộng hơn bốn nghìn quan, để mua ruộng trong hạt, Lợi Dụng quản việc thu thuế ruộng, xin xử lý.” Vì thế có lệnh này. Ban đầu, Nhược Tế rời Hoa Đình, Đại Lý tự thừa Thượng Quan Cấp thay thế. Nhược Tế nhận hơn chín trăm lạng bạc của dân Ngô Tương, sau được Lưỡng Chiết chuyển vận phó sứ Vương Đình Lão tiến cử, làm thông phán Tú Châu. Nhược Tế nghi ngờ Cấp ở Hoa Đình phát giác việc xấu của mình, bèn bắt giam. Cấp chỉ bị kết tội sai người trái phép thay thế, vợ Cấp là Cao thị đến Đăng Văn viện kêu oan. Gặp lúc đề điểm hình ngục Lô Bỉnh cũng xét tội tham nhũng của Nhược Tế. Thí tướng tác giám chủ bạ Trịnh Ưng là cậu của Huệ Khanh. Nhược Tế cho Ưng năm vạn quan tiền vào kinh xin xỏ, lại ngầm sai người đốt hồ sơ cũ, giấu tội phạm pháp, chỉ bị kết tội nhận hối lộ, bị truất ba chức, cách chức, đưa đến Hoành Châu quản thúc. Cấp vẫn không ngừng kêu oan, bấy giờ Oản nhận lời, bèn hặc tội Huệ Khanh kết giao với Nhược Tế. Oản mượn việc của Nhược Tế để công kích Huệ Khanh, thực ra là ý của Vương Bàng. Ngày 26, Huệ Khanh tự biện bạch.
[49] Ty Nông tự tâu: “Ở các châu huyện có nhiều quan hộ, thường được giảm miễn tiền dịch, khiến dân hộ phải đóng góp quá nhiều, nếu không hạn chế, dân hộ lâu ngày sẽ không chịu nổi. Nay đang lập sổ sách, xin chiếu cho các huyện, trong mười phần tiền sản, nếu quan hộ chiếm một phần trở lên, thì quan hộ chỉ được giảm một phần tiền dịch, số được miễn dù nhiều cũng không quá hai mươi nghìn, những người có sản nghiệp ở hai châu hai huyện trở lên cũng tính chung.” Theo lời tâu. Ngày 7 tháng 8, bản mực đã ghi việc này, nay lại nhân Ty Nông kiến nghị nên ghi lại, không ngại lưu cả hai. Ngày Bính Thân tháng 8, nên khảo xét.
[50] Thượng phê: “Khám hội năm nay bán độ điệp tăng số lượng tiến trình.” Có ty tâu: “Từ năm Gia Hựu đến năm Trị Bình, tổng cộng 13 năm, cấp 78.000 độ điệp; chết và các sự cố, 86.000 người. Từ đầu năm Hi Ninh đến nay 8 năm, cấp 89.000 độ điệp; chết và các sự cố, 60.100 người. Năm nay từ tháng giêng đến tháng chín, cấp 5.281 độ điệp.”
[51] Ngày Quý Mùi, Độ chi viên ngoại lang, Bí các hiệu lý, Đề điểm Kinh Đông lộ hình ngục An Đào được bổ nhiệm làm Kiểm chính Trung thư Khổng mục phòng công sự. Đào qua cửa khuyết được ban đối, Vua vui lòng với lời nói của ông, nên lưu lại không cho đi.
[52] Trì châu Tư pháp tham quân Tôn Ngạc được bổ nhiệm làm Trung thư Lại phòng Tập học công sự. Ngày mùng một cùng tu sửa quy chế cống cử. Ngày 23 tháng 8 có thể khảo sát.
[53] Tri Ty Nông tự thừa Trang Công Nhạc tâu rằng, huyện Tường Phú nợ nhiều tiền Thanh miêu hoãn cấp, tri huyện Lý Hiếu Thuần xin trước hết được thay thế. Vua đồng ý. Tiền Thanh miêu hoãn cấp là loại gì?
[54] Đề cử xuất mại giải diêm Trương Cảnh Ôn tâu rằng, đất mặn ở 8 huyện Trần Lưu[5]có thể dẫn nước sông Hoàng, Biện để tưới bồi. Chiếu cho Đô đại đề cử Ứ điền ty xem xét tâu lên. Sau đó, Ứ điền ty tâu rằng đất này nên khởi công dẫn nước bồi đắp, bèn chiếu năm sau sai phu dịch.
[55] Trung thư tâu rằng, Trợ giáo Hàng Châu Tôn Lân xin mượn 5-7 vạn quan tiền Thị dịch vụ để mua lụa, so với việc Hàng Châu cấp tiền cho dân mua trước có thể tăng thêm hơn 10 vạn tấm. Chiếu cấp 4 vạn quan tiền Mạt diêm sao và 3 vạn quan tiền làm vốn, lại lấy Tướng tác giám chủ bạ Mai Tể cùng mua.
[56] Ngày Giáp Thân, triệu tập các phụ thần xem lúa ở vườn sau.
[57] Chiếu giáng Hoàng thành phó sứ, Hà Bắc đệ 22 phó tướng Tôn Quý một cấp. Vì tuyển quân dưới quyền không tinh nhuệ.
[58] Trung thư tâu rằng: “Đã bãi bỏ hai ty Giám mục ở Hà Nam và Hà Bắc, mười một giám ở Hà Bắc, giám Thái Nguyên ở Hà Đông, giám Đông Bình ở Kinh Đông. Số tiền và vật dụng của các giám bị bãi bỏ, ngoài việc cấp cho ty Đô đề cử Thị dịch làm vốn buôn trà, thì lệnh cho Tam ty hàng năm phải báo cáo số tiền cần ứng phó cho Hi Hà lộ, trình lên Trung thư xin chỉ để chi phối.” Vua đồng ý. Việc bãi bỏ giám Đông Bình vào ngày 4 tháng 2 năm thứ 7, bãi bỏ các giám Thái Nguyên vào ngày 16 tháng 4 nhuận năm nay.
[59] Ngày Ất Dậu, Lữ Huệ Khanh tâu rằng: “Thần vì có việc riêng nên xin nghỉ ở nhà, Tể thần Vương An Thạch sai viên lại đường đem tờ tâu của Ngự sử trung thừa Đặng Oản cho thần xem, nói rằng thần trong thời gian để tang đã kết giao với Trương Nhược Tế để tham nhũng, đã được chỉ đưa cho Vương Cổ điều tra, tâu lên sự thật. Thần nay xin trình bày rõ các việc mà Đặng Oản đã nêu, xin được xem xét kỹ. Việc ở ngoài thì lệnh cho quan được sai điều tra theo chỉ đã có; việc ở trong thì lệnh cho Trung thư giao xuống các ty, mỗi việc theo như thần đã tâu, trình bày rõ nguyên do, sắp xếp ngày tháng để tấu lên, để thần khỏi bị vu cáo lâu ngày. Và xin hạ lệnh cho Đặng Oản phải trình bày rõ thời gian mượn tiền và nguyên do kết thân mật thiết, lại xét xem thời gian thần ở các châu huyện Lưỡng Chiết có phù hợp không, thì việc vu cáo sẽ tự lộ ra.” Vua sai Từ Hi, Phùng Tông Đạo cùng Vương Cổ điều tra rồi tâu lên.
[60] Ban đầu, Huệ Khanh dâng sớ lên biện luận với An Thạch về việc sửa đổi kinh nghĩa, xin từ chức, nhân đó đưa ra những điểm bất đồng trước sau với An Thạch. Ví như việc quan đề cử Lưỡng Chiết là Vương Tử Kinh cùng em trai là Tử Thiều, người đang giữ chức Tri huyện Ngô thuộc Tô Châu, ở Tú Châu mua gỗ để chôn cất cha nhưng bị tố cáo mua hụt giá. Chuyển vận sứ Vương Đình Lão và Trương Tịnh tấu hặc việc này. Pháp tự xử Tử Thiều tội tư, phạt 60 trượng, còn Hình phòng cho rằng Đình Lão và Tịnh tấu hặc vi pháp. An Thạch ra lệnh Tử Thiều phải chấp hành án, nhưng lại bỏ qua tội không giám sát của Tử Kinh, rồi dâng sớ xin xét lại việc Đình Lão và Tịnh. Huệ Khanh cho rằng án xử Tử Thiều quá nhẹ, còn Tử Kinh cùng em trai đồng mưu chôn cất cha, sao có thể bị tội không giám sát?
Chuyển vận ty nên tấu hặc, không có lý do để khám xét. An Thạch muốn thêm diêm sao mà bỏ giao tử, bãi bỏ việc vận chuyển gạo ở Hà Bắc mà thi hành phép thị dịch biểu phóng, Huệ Khanh đều cho là không tiện. Việc bãi giao tử vào ngày 27 tháng giêng năm thứ 9, bãi vận chuyển gạo thì vào ngày 18 tháng 6 năm thứ 8, có thể tra cứu.
Huệ Khanh lại nói: “Bệ hạ đặt hai phủ đại thần, nay Ngô Sung tuy có chút khác biệt, nhưng chỉ là kế tự bảo vệ mà thôi. Vương Khuê là người rất tốt, Vương Thiều lại như thế, nếu thần không tranh luận, thì việc thiên hạ ai sẽ phân xử? Các quan kiểm chính, đường hậu soạn thảo văn bản đều không bàn bạc với thần. Thần từng triệu Trương An Quốc đến, dạy rằng nhà Vua giao việc thiên hạ cho trung thư, trung thư giao cho năm phòng, nhà Vua làm sao xem hết văn bản? Tội nặng nhẹ đều dựa vào trung thư mà thôi.
Như việc của Vương Tử Kinh, thay đổi tình tiết, sao có thể tiện lợi? Nếu tâu lên, trên tất sẽ trị tội quan kiểm chính, không muốn làm mất lòng tướng công, nên chưa dám làm. An Thạch bình thường không như vậy, chỉ từ khi trở lại, ý kiến bất đồng, lại thường không ủng hộ thần, không báo cáo, sợ mang tiếng bè phái, nên tạm trình bày ý kiến, để biết thần không dám làm bừa việc của bệ hạ, mà thần ở chức vụ này cũng có chỗ không giữ được.”
Vua lại nói: “Việc kinh nghĩa chắc không có gì, khanh không cần từ chức.” Huệ Khanh nói: “Thần vốn không có ý dính dáng thế sự, gặp bệ hạ thánh minh, muốn lập công nghiệp, thực lòng muốn hết sức, đợi pháp độ chỉnh tề. Mà bệ hạ một ngày kia hùng dũng có chí bốn phương, để An Thạch ở trong, thần ở ngoài, tạm có thành tựu, mới xin nghỉ ngơi, nay đã thế rồi, có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn. Xin bệ hạ đừng dùng binh. An Thạch thường nói dùng binh phải nghiêm ngặt danh phận, khiến dù người có chí cũng không dám nói ra, thì việc sẽ quy về một mối. Ý An Thạch không chỉ vì quân đội, vì nước cũng muốn như vậy. Thiên hạ tức là kẻ địch, dù có thể cấm người gần nói, nhưng thiên hạ thì sao?
Đến như Tạ Cảnh Ôn (Cảnh Ôn nhận chức phát vận ngày 18 tháng 5 Mậu Dần, nhận chức tướng tác ngày 11 tháng 7 Tân Mùi) không chịu làm phát vận sứ, mà nhận sai khiển ở kinh; Lô Bỉnh phạm nhiều tội, lại được làm phát vận sứ (Bỉnh nhận chức phát vận ngày 9 tháng 7); Vương Tử Kinh có tội chưa xét, lại được làm đề cử quan Hoài Nam (Tử Kinh nhận chức đề cử Hoài Nam ngày 11 tháng 8 Canh Tý, không ghi vào Trường Biên); Giáp Vĩ nói việc thủy lợi không ra gì, thần hết sức xin bãi chức, nay lại triệu về; nghĩa thương không nên đặt mà muốn đặt, phép thường bình không nên đổi mà muốn đổi; thái học thượng xá sinh Phương Thông (Phương Thông, người Hưng Hóa, ngày 13 tháng 10 nhuận năm Đại Quan thứ nhất bị Vu Chẩn hặc tội), An Thạch từng khen văn chương của hắn, mà Cố Tương (Cố Tương, người Khai Phong, ngày 16 tháng 10 được miễn giải) lại là học trò của hắn, đến trước mặt Vua mới hỏi thần với Thông có quan hệ gì, mà ân lệ đến nay chưa thi hành; người được tuyển làm quan thường bình, thường được đổi làm đề cử, chỉ có Tăng Mân vẫn giữ tên quản câu, lại không đổi chức, chính vì thần mà thôi.”
Vua nói: “Nghe Thăng Khanh xin tiến cử An Thạch, cho rằng có công phục tướng.” Huệ Khanh nói: “Thăng Khanh cương trực tự giữ, lý ắt không có, có thể hỏi thần minh. Vả lại bệ hạ đề bạt ở kinh diên, còn có thể tiến cử, dù tham lợi, sao đến thế!”
Vua nói: “Đây là người khác nói, không phải An Thạch.” Huệ Khanh nói: “An Thạch thường nói với bệ hạ về mở đóng thông tắc, cho rằng giữ lòng nghi ngờ thì mở miệng cho kẻ gièm pha; giữ ý không quyết thì mở cửa cho kẻ xấu. An Thạch lại không hiểu việc này, khiến người ta nói ra, từ xưa chỉ có việc nhà Vua cách biệt với bề tôi, tình cảm khó thông, nên nghe lời gièm pha. An Thạch còn nghe lời gièm pha, mỗi ngày chỉ bị Lữ Gia Vấn, Luyện Hanh Phủ mấy người vây quanh[6]. Luyện Hanh Phủ một mực giữ Vương Bàng, Lữ Gia Vấn vừa đi khỏi, liền giữ An Thạch, người khác không dám nói gì. Hôm trước An Thạch mới đến, thần xin từ chức, bệ hạ cho rằng An Thạch không nghi ngờ chăng? Thần vẫn cho là không phải. Đến khi thần lại xin từ chức, bệ hạ nói: ‘An Thạch không quên khanh chăng?’ Thần ba lần cho rằng không có. Nay thấy An Thạch như vậy, mới biết thánh ý thông suốt mọi việc, lại là thần em trai không nghĩ đến thế. Trước sau gặp bệ hạ, mười phần phải giữ lại một hai phần không nói hết, thần nhiều lần nói, ắt là bệ hạ có chỗ thấy khác, nên xin nghỉ.”
Vua nói: “Khanh thực có bệnh chăng?” Huệ Khanh nói: “Thực có bệnh.” Vua lệnh đưa tờ tâu đến trung thư.
Huệ Khanh đang xin nghỉ, tiếp đó dâng tấu chương của Đặng Oản, chưa đầy mười ngày, Huệ Khanh bị cách chức. Huệ Khanh xin nghỉ vì tranh cãi với Vương An Thạch về việc sửa đổi kinh nghĩa, xin từ chức nhưng chưa được chấp thuận, bèn kể tội của An Thạch, xin nghỉ. Vua bèn đồng ý.
(Sách thực lục không chép việc này, nay lấy gia truyền chép thêm sau phần Huệ Khanh tự biện giải. Từ câu “há đến nỗi như thế”[7] trở xuống, lại lấy nhật lục của Huệ Khanh chép thêm vào, tổng cộng 276 chữ, điều này cho thấy tình trạng kẻ tiểu nhân ly hợp, không thể bỏ được.
Lại chép trong nhật lục: Ngày 24 tháng 8, trình lên việc hình phòng tâu về việc Lưỡng Chiết chuyển vận ty điều tra Vương Tử Kinh, Tử Thiều không đúng, Vua nói: “Như thế, tức là chuyển vận ty không nên điều tra.” Tôi nói: “Thần trước đây căn cứ vào việc trích xuất các tình tiết trong án, có thể thấy Tử Kinh, Tử Thiều không có tình tiết đáng tha, chuyển vận ty không có lý do đáng giận[8].” Vương Tử Thiều, ban đầu Tử Kinh ra lệnh sai người mua ván, há chỉ hỏi Tử Thiều? Một nhà mua ván để chôn cha, không ai không biết.
Lại từ ngày mồng 9 tháng giêng năm Hi Ninh thứ 6 xuống huyện mua ván, chủ ván không có nhà, chỉ lấy từ người trông coi, mãi đến tháng 8 năm thứ 7 chủ ván trở về, nói rằng “tấm ván này đáng giá ba bốn chục quan tiền”, người buôn mới đến huyện kiện, xin xét xử. Huyện sai hai người buôn, định giá ba mươi quan, bắt người buôn trong huyện cam kết bồi thường.
Đến tháng 11, người buôn trong huyện đến châu trình đơn, lại là trước đã sai Lưu người buôn xuống huyện mua ván. Tri châu xét xử, nói tấm ván này chỉ đáng giá mười lăm quan. Tôi nói: “Mãi đến khi suy viện xét hỏi mới nói người buôn trong huyện có hiềm khích. Châu xuống huyện mua, nên định giá cao, tức là việc này lúc đó ồn ào là có thể biết. Điều luật vốn cho phép điều tra, tức là điều tra không có gì không thể biết. Trước đây gặp Vương An Thạch, An Thạch quả nhiên nói Trương Tịnh nói An Thạch cùng thần ở ty điều lệ, ghét Tử Thiều, nên mới như thế. Không biết lúc ở ty điều lệ ghét Tử Thiều là vì sao? Ghét Tử Thiều, vốn là do phê ra, bên ngoài giữ danh chính trực, bên trong ôm lòng bè phái gian tà. Cách chức đài quan can hệ gì đến người khác! Phàm trong lòng có điều nghi ngờ, tức là không được chính đáng. Thần bèn hỏi An Thạch, trước đây Tử Thiều vì không chôn cha, bị Trương Thương Anh nói, bèn bãi chức vận phán Hồ Nam, làm tri huyện Cao Bưu, không biết nịnh ai? Như thế, Trương Tịnh cũng là người hiểu chuyện, há chịu nói với người khác rằng ta nịnh chấp chính? Như thế không đáng tin.” Vua nói: “E rằng không có việc đó.” An Thạch nói: “Lời Tử Thiều vốn không đáng tin, trước đây thấy Lữ Huệ Khanh muốn cách chức Vương Tử Kinh.” Tôi nói: “Vốn không muốn cách chức Vương Tử Kinh, chỉ nói không nên điều tra chuyển vận ty.”
Vua nói: “Tử Thiều đúng là đáng tội, Tử Kinh không biết, chuyển vận ty không nên không xem án.” Thạch lại nói: “Chuyển vận ty không nên điều tra việc Tử Thiều ở huyện Côn Sơn, xin cách chức không đúng.” Tôi nói: “Quả có lời quá đáng, nhưng Tử Thiều làm tri huyện lại sai người dưới quyền làm khố tử thanh miêu, quả là không đúng.” Thạch nói: “Không có điều luật nào cấm sai người dưới quyền[9].” Tôi nói: “Người dưới quyền vốn được thuê ba quan tiền, người làm việc vốn được thuê bốn quan tiền, tự nhiên không nên sai giả. Nếu sai thư lại hương thôn làm khố tử thanh miêu, há phải mỗi việc đều có điều luật cấm mới là vi phạm.”
Vua nói: “Khố tử là chức sai khiển ưu đãi, đến nơi không nên sai người dưới quyền. Nhưng việc mua ván thì Tử Kinh không biết.” Vương Khuê nói: “Hãy cho phân tích.” Vua nói: “Tốt.” Tôi nói: “Bản phòng nói Vương Tử Thiều nên xin chỉ.” Vua nói: “Tử Thiều việc này quả là không đúng.” Thạch nói: “Đã được ân xá.”
Xét: Vương Tử Thiều bị khiển trách làm Tri huyện Thượng Nguyên vào ngày 22 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 3, đến ngày 26 tháng 8 năm thứ 5 được bổ làm Hồ Nam Vận phán, ngày 6 tháng 10 lại bị khiển trách làm Tri Cao Bưu, sau đổi làm Nghi Hưng, rồi đổi làm Thường Thục, đến ngày 22 tháng 7 năm thứ 9 mới được bổ làm Đề cử Chiết nạp các lộ Vĩnh Hưng. Không rõ ngày mùng 9 tháng giêng năm thứ 6 xuống huyện mua ván là huyện nào? Vì đã ủy cho Chiết Tào điều tra, nên có lẽ là Châu Thường hoặc Châu Tô. Vương An Thạch lại nói là Côn Sơn, không nói là Thường Thục, không rõ vì sao? E rằng do truyền sai, cần xem xét kỹ hơn.
Lại có ghi trong《Nhật lục》: Ngày 16 tháng 9, khi trình lên các việc tranh luận trước sau với An Thạch, tôi nói: “Chỉ như việc Vương Tử Kinh, lúc đầu xử Vương Tử Thiều theo án, Vương Tử Kinh lệnh cho Đại Lý tự không thu tội không phát giác[10]. Tôi nói với quan đường hậu, Vương Tử Kinh cùng anh em bàn mua ván để chôn cha, từ tháng giêng năm Hi Ninh thứ 6 mua ván, đến tháng 11 năm sau người hành nghề vẫn đòi bồi thường tiền, nhưng chỉ thu tội không phát giác, đã là nhẹ về tình lý, lại còn lệnh bỏ qua. Lại nữa, Vương Tử Thiều nhờ quan viên xuống huyện mua vật, khiến người ta phải bồi thường tiền, xử như vậy, có phải là quá nhẹ không? Không nên họp tại sảnh để bàn, không biết quan đường hậu đi nơi khác nói gì?” An Thạch không bàn luận thêm, bèn nổi giận nói: “Trương Tịnh, Vương Đình Lão điều tra không đúng, cần phải đưa lên xét hỏi, bắt tên này nghỉ một năm mà vẫn được thêm lương, không biết người chịu đựng khổ cực, tự mình không thể quản được.” Khi đưa lên, An Thạch xin xét hỏi, tôi cho là không nên xét hỏi, bệ hạ hơi ủng hộ lời tôi, bèn được chỉ lệnh cho bản phòng soạn văn bản. Bản phòng soạn xong tờ trình đưa lên, tôi đọc thấy có chỗ không giống với sự việc trong án, hỏi An Thạch đã xem án chưa? An Thạch nói đã xem, tôi nói đã xem thì được. Thấy ông ta giận, không dám tranh luận, đưa lên.
Trừ những chỗ lý lẽ của tôi không đúng, tức là trình bày với bệ hạ những chỗ không thực, nói rằng việc mua ván do Vương Tử Thiều một mình chỉ huy, nhưng theo án lại là Vương Tử Kinh đứng ra, tức là không muốn nói hết. Bệ hạ nhất định phải trị tội quan Kiểm chính. Đã trị tội quan Kiểm chính, thì ông ta phải đóng cửa, lại còn gọi tôi là thúc ép ông ta. Nhưng bệ hạ thấy lý lẽ không đúng, nên không cho đưa xuống. Ông ta lại lệnh cho bản phòng soạn tờ bạch tráp, vẫn như trước không giống với sự việc trong án, như các tờ trình của người hành nghề trước sau ở Tú Châu, đều chỉ nói Vương Thái Thừa mua ván, chưa từng nói đến Vương Tử Kinh. Vì những chỗ nói Vương Trứ tác, Vương Đề cử chính là Vương Tử Kinh. Tuy không có việc bồi thường 30 quan tiền, nhưng nhiều lần ước tính là 30 quan, cũng không nói rõ. Lại nói không có điều khoản không được sai sảnh tử sung làm Thanh Miêu.
Sảnh tử và thủ lực đều là người được thuê mướn, lại là người phục vụ, vốn không hợp để làm khố tử thu nhận. Những người không hợp để sai phái, lẽ nào phải có từng điều khoản chỉ huy? Lại cùng nhau bàn mua ván để chôn cất cha mẹ, nhưng lại nói là ở riêng, người anh cũng không có tội không giám sát. Lại chỉ có việc không hợp sai cung thủ thúc giục tiền miễn dịch và chi tiền thanh miêu, không giám sát thư thủ đòi tiền thanh miêu của dân, thuộc trường hợp được xá bãi chức, nhưng lại không có trường hợp này, vì không hợp sai cung thủ thúc giục tiền miễn dịch, có thể so sánh với việc sai sảnh tử làm khố tử, không giám sát sảnh tử nhận hối lộ. Việc không giám sát hương thư thủ, lẽ nào phải giống hệt mọi việc mới thành lệ? Thần chỉ nói một hai việc với ông ấy, ông ấy lại nổi giận.
Vương Khuê bèn khuyên hãy tạm dừng, đưa lên bàn lại. Thần bèn nói với An Thạch: “Có lẽ tướng công chưa xem kỹ án tiết? Đợi trích ra những điểm chính trong án, tướng công xem qua, nếu thực sự có tình tiết đáng giận, thì sẽ xét hỏi.” Bèn trích ra mấy đoạn, để thấy Tử Kinh, Tử Thiều không có tình tiết đáng thương, còn Trương Tịnh, Vương Đình Lão không có lý do đáng giận. An Thạch lại bảo đưa cho quan kiểm chính soạn văn bản của thần, lại nói không đúng, chỉ toàn là lời lẽ vòng vo. Lại làm một tờ tấu khác, đưa lên trước sau ba tờ tấu nói giống nhau. Nếu ban đầu đã thấy có tội đáng xét hỏi, lẽ nào đến nỗi này? Ông ấy lại cứ giận mãi không nguôi.
Ở viện Đãi Lậu nói chuyện, bỗng nhiên hỏi nhỏ thần: “Vương Đình Lão vì sao được thăng một chức?” Thần lớn tiếng hỏi Vương Khuê: “Tướng công hỏi Vương Đình Lão vì sao được thăng một chức?” Vương Khuê nói: “Lúc đó không phải là quan gia bảo đừng dời đi Ninh, nên bàn thăng chức.” Ông ấy lại nói bên ngoài có nhiều lời bàn tán[11], cho rằng An Thạch và Hiền ở ty Chế Trí[12] ghét Vương Tử Thiều nên cố tình làm vậy, hy vọng được xét như thế.
Thần trước đây đã từng bàn mặt đối mặt, ông ấy bình thường không thấy như vậy, thần việc này không tranh cũng được. Nhưng bệ hạ đặt nhiều đại thần, Ngô Sung tuy có khác ông ấy một chút, nhưng chỉ là kế tự giữ mình, dám đâu trái ý ông ấy? Vương Khuê lại là người rất tốt, Vương Thiều lại như thế, thần còn nhường nhịn để ông ấy nổi giận, còn ai nữa? Biết làm sao!
Xét: Đoạn trước nói huyện này thuộc Tú Châu, Tử Thiều ở ngoại huyện, nhờ Tri châu mua bản, nhưng không rõ là huyện nào? Cần xét thêm. Xem chỗ Tử Thiều ở, sự việc mới rõ ràng. Sai sảnh tử sung làm khố tử, lại là huyện mà Tử Thiều trước kia làm Tri huyện, thuộc Tô Châu. An Thạch nói là Côn Sơn, nhưng bản truyện lại nói Nghi Hưng, Thường Thục, không giống nhau, cũng cần xét kỹ.
Ngày 22 tháng 9 sai Vương Cổ, ngày 2 tháng 10 Huệ Khanh bị bãi chức. Ngày 14 tháng 5 năm thứ 9 trách Ôn Khanh, sai Chu Phụ đi thay, ngày 7 tháng 6 lại sai Lý Tủng, ngày 13 phạt Lữ Gia Vấn. Ngày 27 tháng giêng năm thứ 10 vụ án Tú Châu mới kết thúc.
Gia truyện lại chép: Bấy giờ Ngự sử trung thừa Đặng Oản tâu rằng Huệ Khanh trước đây khi chịu tang ở Lưỡng Chiết, từng nhờ Tri huyện Hoa Đình là Trương Nhược Tế sai Áp ty lục sự Vương Lợi Dụng đến nhà phú dân Chu Tường vay hơn bốn ngàn quan tiền để mua ruộng trong bộ, cùng việc cậu là Trịnh Ưng nhờ vả xin xỏ làm việc gian. Có chỉ sai Vương Cổ điều tra, tâu lên sự thật. Trung thư sai đường lại đưa tờ tâu cho Huệ Khanh xem, Vua còn hạ chiếu dụ Huệ Khanh trở lại chức vụ, và nói rằng: “Đang sai sứ điều tra lời nói của Oản đúng hay sai, làm rõ việc của khanh đúng hay sai, trong lúc chưa phân biệt được phải trái, không nên tỏ ra không so đo, để chứng thực lời vu cáo của người tố cáo.”
Huệ Khanh cho rằng nghĩa không thể ở lại, càng xin từ chức, và dâng sớ phân tích lời nói sai của Oản, xin sai sứ từ trong triều điều tra. Chiếu sai Từ Hi và nội thị Phùng Tông Đạo cùng xét việc. Sau đó Ngự sử Thái Thừa Hi tâu việc Huệ Khanh bãi giảm chức Câu đương quan của Ty Nông tự, bèn bãi chức chính sự của Huệ Khanh, cho giữ chức cũ làm Tri châu Trần Châu. Vua còn hạ chiếu đóng dấu đưa tờ tâu của Thừa Hi cho Huệ Khanh xem, Huệ Khanh cũng dâng sớ phân tích, trong 21 điều Thừa Hi nói, không có điều nào đúng.
Tông Đạo điều tra việc ruộng đất, không có gì như lời Oản và Thừa Hi nói, không thể tự giải thích, bèn lại tâu rằng Hi là phe đảng, công khai che chở, xin cùng xét. Còn em Huệ Khanh là Ôn Khanh vì buôn bán tầm thường, vẫn giữ chức Án sát một lộ, xin giáng chức. Trước đây, Oản nói Huệ Khanh vay tiền mua ruộng, Huệ Khanh tự biện bạch không có, nhưng em là Ôn Khanh khi chịu tang, ở Tú Châu mua ruộng cầm cố cho nhà giàu, đã trả xong. Huệ Khanh đang hộ tang về chôn ở Tuyền Châu, ban đầu không biết việc này. Việc đã rõ ràng, người đương quyền muốn hại Huệ Khanh, bèn nói tuy đã điều tra, nhưng người liên quan chưa bị xử pháp, nên đặt việc khám xét.
Có chỉ, Ôn Khanh trước hết bị cách chức, sai Kiển Chu Phụ đến Tú Châu khám xét. Vua phê: “Trừ quan lại có tội theo pháp bị cấm khám xét, còn lại dân thường liên quan, như trước đây điều tra đã rõ ràng, không được gây thêm phiền nhiễu bắt bớ.” Vua cũng nói ở triều rằng Huệ Khanh không có tội gì. Sau đó Trung thư hạ sắc, không dùng lời phê của Vua, vẫn lấy cớ khám xét Huệ Khanh, và đem tờ tâu của Oản, Thừa Hi ra trước, ngày ngày dẫn chứng, khiến họ thay đổi lời khai để Huệ Khanh vô tội. Huệ Khanh trước sau 14 lần dâng sớ biện bạch, văn sắc của Trung thư hạ xuống khác với ý chỉ phê của Vua trước khi sai Chu Phụ, xin bãi sai Chu Phụ, đặt lại đại thần cùng tín thần tả hữu, lấy tờ tâu điều tra xét kỹ, và tâu lên Vua. Chu Phụ tuy bị sai đi, nhưng triều đình đành cho rằng hạ sắc sai lầm, phạt các quan Kiểm chính, và sai thêm Lý Tủng cùng xét. Từ lúc bắt đầu điều tra đến nay hơn một năm, bắt giam hơn ngàn người, nhưng Chu Phụ là quan tàn ác, xét nét từng ly, cuối cùng không thể bôi nhọ Huệ Khanh chút nào.
Nhật lục của Huệ Khanh chê An Thạch rất gay gắt, nay đặc biệt đưa ra lời gièm pha của Luyện Hanh Phủ, Lữ Gia Vấn, còn lại đều theo gia truyện, khen chê tự có thể thấy.)
[61] Chiếu cho Ty Nông tự mỗi năm chi 30 vạn quan tiền phường trường, Đô đề cử Thị dịch ty mỗi năm chi 20 vạn quan tiền lãi để thưởng cho Nội tàng khố, vì phải báo cáo số tiền và vật phẩm mà các cơ quan đã mượn trực tiếp từ năm Nguyên niên đến nay.
[62] Chiếu cho tiến sĩ Giang Nhữ Du, Vương Phương Cốc mỗi người bị đánh 20 trượng, Nhữ Du bị đày đến Hoành Châu; Đại Lý bình sự Tống Bảo Quốc bị giáng làm tản quan, an trí ở Hoàng Châu; thí Tướng tác giám chủ bạ Hoàng Thúc Tĩnh bị truất quan, đày đến Thư Châu; tiến sĩ Tống Xương Niên bị đình chỉ thi 3 khoa; Hữu quân tuần sứ Quách Tuấn, lệnh cho Ngự sử Thái Thừa Hi hặc tội và báo cáo.
[63] Ban đầu, lấy Luyện Hanh Phủ, Phạm Thang, Bành Nhữ Lệ làm quan khảo thí ở Biệt thí sở. Hanh Phủ đối xử với sĩ tử không đúng lễ, đến khi dẫn thi trường thứ hai, theo lệ cũ, nếu mưa to thì bãi thi, nhưng hôm đó mưa to mà không bãi, mọi người càng tức giận, đồn rằng trường thi bị cháy, mọi người đều hoảng hốt đứng dậy. Có kẻ bất mãn cùng nhau tìm Hanh Phủ, muốn đánh ông ta. Hanh Phủ trốn lên mái nhà nên thoát được, mọi người chửi rủa rồi rút lui. Sau đó, trường thi mới treo bảng, hẹn ngày khác thi tiếp, nhưng lời lẽ trên bảng lại có ý xúc phạm, mọi người liền giật bảng xuống đập phá, và đánh cả quân lính canh giữ bảng. Trường thi báo cáo sự việc. Chiếu cho Khai Phong phủ bắt những người cầm đầu, Nhữ Du và những người khác bị bắt, nhận tội, đổ lỗi cho nhau là cầm đầu, nhưng không có nhân chứng, mọi người đều nghi ngờ họ bị oan. Vụ án kết thúc nhưng khám quan Quách Tuấn không chịu ký tên, Tri phủ Trần Dịch, Phán quan Ngô Kỷ Phúc một mình trình lên bản án. Nhữ Du, Phương Cốc đều là con nhà quan, đặc cách không dùng ấm, chỉ đánh trượng; Tuấn gặp đại xá, vẫn bị điều đi nơi khác.
[64] Ngày Đinh Hợi, Ty Nông tự xin miễn thu nợ tiền và thóc thường bình năm Hi Ninh thứ 6 của dân các châu Thường, Nhuận và huyện Thường Thục, Tô Châu, đợi đến mùa hạ năm sau mới thu, cho phép dân địa phương được đóng góp bằng công sức để trừ nợ. Được chấp thuận, và chiếu cho các châu huyện bị thiên tai nhiều năm ở Hoài Nam, Giang Nam Đông lộ cũng làm theo.
[65] Ngày Mậu Tý, Vua phê dụ gửi Hàn Chẩn và các quan: “Ngày 14 tháng này, theo lời tâu của Tẩu mã thừa thụ, vào ngày 10 tháng này, Yến Phục và những người khác dẫn người phương Bắc đến phủ thứ tư ở núi Hoàng Ngôi, đang đào hào đắp lũy, thì có hơn 300 cung thủ cầm cung tên, gậy gộc đuổi đánh người phương Bắc. Lại có tờ tâu kèm nói rằng, ty Địa giới đang triệu tập tướng quan Phùng Thắng và quân lính phòng thủ dưới quyền, muốn xử lý việc này. Xét thấy, ngoài số hộ dân đã được di dời trong khu vực Trường thành cổ, triều đình đã lệnh cấp đất cho họ, không rõ vì sao lại có thêm một số người bị di dời? Hãy nhanh chóng phân tích rõ rồi tâu lên. Việc cung thủ gây rối, cần khéo léo khuyên giải, không được cẩu thả, tùy tiện xử lý.” Việc này căn cứ theo sách thệ thư hai triều, ngày 29 tháng 9 có lời phê của Vua gửi Hàn Chẩn và các quan, nay chép kèm vào đây để tham khảo thêm về sự việc của Yến Phục.
- 'Ngày 7' nguyên văn là 'tháng 7', theo bản các và bản hoạt tự sửa ↵
- 'Thực' nguyên văn là 'thưởng', theo bản các và bản hoạt tự sửa ↵
- Căn cứ vào bản tấu của Sơn Tây đô kiềm hạt ty, chữ 'kiềm' nguyên bản là 'bộ', theo bản trong các các mà sửa. ↵
- 'Bán' nguyên bản viết là 'Mua', theo bản trong các kho sách mà sửa ↵
- 8 huyện Trần Lưu đất mặn, chữ 'đất' nguyên là 'trì', theo bản các sửa lại. ↵
- Mỗi ngày chỉ bị Lữ Gia Vấn Luyện Hanh Phủ mấy người vây quanh 'vây' nguyên là 'đoàn', theo các bản, bản hoạt tự sửa. ↵
- câu 'há đến nỗi như thế', chữ 'đến' nguyên bản là 'biết', căn cứ theo văn trên mà sửa. ↵
- chuyển vận ty không có lý do đáng giận, chữ 'giận' nguyên bản là 'tha', căn cứ theo văn dưới mà sửa. ↵
- không có điều luật nào cấm sai người dưới quyền, chữ 'điều' nguyên bản là 'giả', căn cứ theo bản khác mà sửa. ↵
- Lệnh Đại Lý tự không thu tội không phát giác, chữ 'lệnh' nguyên bản là 'Kim', theo các bản khác sửa ↵
- Ông ấy lại nói bên ngoài có nhiều lời bàn tán 'nói' nguyên là 'nghi', theo các bản, bản hoạt tự sửa. ↵
- cho rằng An Thạch và Hiền ở ty Chế Trí 'Chế Trí ty' nguyên là 'Trí Chế ty'. Xét: Tống không có 'Trí Chế ty', Vương An Thạch biến pháp từng lập ty Chế Trí Tam Ty Điều Lệ, Lữ Huệ Khanh và Vương Tử Thiều đều từng làm việc ở ty này, xem thêm Tống sử bản truyền, nên sửa. ↵