VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 270: NĂM HI NINH THỨ 8 (ẤT MÃO, 1075)
Từ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 11, ngày Kỷ Mùi mùng một, phục chức Quang lộc khanh, Đề cử Sùng Phúc cung Tổ Vô Trạch làm Bí thư giám, Tập Hiền viện học sĩ. Tổ Vô Trạch đáng lập truyện, nhưng sử quan bỏ sót việc này, cần tra cứu thêm.
[2] Chiếu cho miễn thu thuế mùa thu năm nay của châu Thần, châu Nguyên. Vì quan Sát phỏng Bồ Tông Mạnh tâu rằng hai châu này bị hạn hán mùa hè.
[3] Chiếu rằng: “Quân lương và lương bổng quan lại ở lộ Hi Hà ngày càng thiếu thốn, mà việc lập trường học cho người Thổ lại tốn kém quá nhiều, không có ích gì cho biên phòng, nên bãi bỏ, các giáo thụ lệnh về kinh, học sinh người Thổ cho về quê.”
[4] Lại chiếu rằng: “Mỗi năm tế trời bốn lần, tế Thái miếu năm lần, cử quan hai tỉnh trở lên làm nhiếp Tư đồ.”
[5] Ngày Canh Thân, chiếu rằng: “Binh lính canh giữ các đồn ải biên giới ở năm lộ, khi luân phiên đi tuần tra, trông chừng, phục kích, nếu gặp mùa đông lạnh mà trước đây không có áo da, thì cho đặc biệt chế tạo, mỗi người cấp một chiếc, đến mùa xuân ấm thì thu lại, quan phụ trách sửa chữa.”
[6] Hùng Bản tâu rằng đã đánh phá bảy trại giặc Lão là Lạc Ích, Vương Bản Nhị, bốn đồn Mộc Đẩu Ông, bắt được 133 người già, trẻ, phụ nữ, chém đầu 66 người. Có 48 người như Mộc Đẩu Ông đến đầu hàng, xin cho được dẫn vào yết kiến. Chiếu cho Mộc Đẩu Ông làm Phụng chức, An Ổn Nhị làm Tá chức, 11 người như Mộc Đẩu Thất làm Giáo luyện sứ các châu quân Kinh Đông, Kinh Tây, cấp lương tháng, 42 người như An Lý đưa đến các châu quân Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam an trí, mỗi người cấp 2 khoảnh ruộng, lại tính theo nhân khẩu cấp lương trong 3 năm. Sử cũ chép Hùng Bản phá bảy trại Lão Lạc Ích, bốn đồn[1], sử mới không chép. Sách 《Hùng Bản Tập》 phần Kỷ Hiểm chép: Ngày 20 tháng 10 từ châu Du đem quân vào địa giới, đóng quân ở Nam Bình quân 60 ngày, ngày 6 tháng giêng năm thứ 9 rút quân về.
[7] Đồng phán Tư nông tự Trương Ngạc tâu: “Án sát quan tuần lịch các châu huyện, xử phạt người đi làm dịch, xin cho các châu huyện ghi chép lại tội phạm và số lần bị đánh trượng, để Tư nông tự kiểm tra, nhờ đó các quan lại không dám vì tư thù mà lạm dụng hình phạt.” Vua đồng ý.
[8] Ngày Nhâm Tuất, Vua phê: “Nghe nói ngựa của các quân ở kinh thành phần lớn đều dữ tợn, có lẽ do doanh trại chật hẹp, không được huấn luyện. Gần đây đã xây dựng bốn bãi tập, rộng rãi có thể cho ngựa chạy. Nên chỉ huy Điện tiền và Mã quân ty, phân định quân mã, đến bãi tập[2], Mã quân mỗi ngày luân phiên một chỉ huy, đưa ngựa đến bãi tập, cho chạy nhanh chậm khoảng trăm lần, lệnh cho sứ thần phụ trách huấn luyện giám sát, cấp cho mỗi người một tờ giấy có đóng dấu, ghi ngày tháng đến tập.”
[9] Vua phê gửi Hàn Chẩn và những người khác: “Nghe nói Hi, Dĩnh gần đây đã rời khỏi Ma Cốc phố, đi về phía bắc đến huyện Linh Khâu. Xem ý của người phương bắc, chắc hẳn sẽ chuyển công văn đến nơi khác, hoặc cử sứ giả thúc giục đàm phán. Các khanh nên đến đó cân nhắc tình hình, khéo léo kéo dài thời gian, đừng để họ tức giận bỏ đi, e rằng sẽ xảy ra chuyện ngoài ý muốn, triều đình khó đối phó.” Việc này căn cứ vào sách thệ ước hai triều, ngày mồng 4 tháng 11 có tờ chiếu của Vua.
[10] Ngày Quý Hợi, Xu mật sứ Ngô Sung tâu: “Nghe nói bè gỗ trên sông Biện ùn tắc trong kinh thành, nay sông đã đóng băng, lo rằng đê điều có chỗ sơ hở, xin hạ chiếu cho Đô thủy giám nhanh chóng đóng cửa sông Biện.” Vua phê: “Theo chỉ huy tối nay, lệnh cho một viên phán giám đến cửa sông Biện giám sát, đóng cửa ngay trong đêm, không nghe những lời nói hão về lợi hại, tránh chậm trễ.” Sau đó lại có chiếu: “Nghe nói cửa sông Biện từng có lệnh không đóng cửa, dẫn đến không chuẩn bị, nay lệnh cho năm nay chuẩn bị vật liệu đóng cửa, không được để xảy ra sai sót!” “Không được để xảy ra sai sót” là chiếu ngày 12, nay ghi chung vào đây, có thể tham khảo. 《Ký văn》 chép việc lại sai Hầu Thúc Hiến mở cửa sông Tư Gia, cũng không rõ sự tích của Thúc Hiến. Nhưng Ngô Sung lo không đóng cửa sẽ dẫn đến sơ hở, còn 《Ký văn》 thì nói mở cửa sông Tư Gia để tránh tắc nghẽn, lợi hại khác nhau, cần xem xét thêm.
[11] Ngày Giáp Tí, ngày đông chí, không nhận chầu.
[12] Ngày Đinh Mão, Phùng Kinh, người mới được bổ nhiệm làm Tri phủ Hà Nam, Hữu Gián nghị đại phu, được bổ nhiệm làm Tư chính điện học sĩ, Tri châu Vị. Khi Phùng Kinh đến kinh đô, đặc biệt sai nội thị tuyên ban tặng trà và thuốc. Việc đặc biệt sai nội thị tặng trà và thuốc được ghi trong 《Ngự tập》 ngày tháng giêng năm thứ 9, nay ghi chép thêm.
[13] Ngày Mậu Thìn, thúc giục Ôn Cảo đến kinh đô. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.
[14] Ngày Kỷ Tỵ, Kinh lược ty Lộ Hi Hà tâu: “Bộ lạc người Phiên là Tinh Tư Khuê trước đây vì phạm tội, đã bỏ lại hơn 160 khoảnh đất, nay muốn di dời bộ lạc đến đó. Vùng đất này cách quân Thông Viễn khoảng hơn 200 dặm, đã xa biên giới phía tây, có thể ngăn chặn việc gián điệp ẩn náu, đồng thời có thể kiểm soát La Tư Kết, tiêu diệt tàn dư của chúng.” Triều đình đồng ý.
[15] Ngự sử Thái Thừa Hi tâu, xin hạ lệnh cho châu Việt điều tra xử lý những hành vi xấu xa không thể nói ra của Phương Trạch. Triều đình ra chiếu cho hai lộ Chuyển vận ty điều tra. Lời tâu của Thừa Hi đã được ghi vào ngày 16 tháng 8, đến nay mới có lệnh điều tra, nên 《Thực lục》 mới bắt đầu ghi chép.
[16] Kinh lược ty Quảng Tây tâu, theo tin tình báo, Giao Chỉ và châu Quảng Nguyên đang tập hợp hương binh, có ý định xâm lược, lại tâu rằng động Cổ Vạn bị quân Man cướp phá. Triều đình ra chiếu: “Những người có công đánh giặc phải nhanh chóng báo tên lên, những gia đình bị thiêu phá cướp bóc sẽ được cứu tế tùy theo mức độ.” Ngày 15 tháng 9, giặc cướp phá động Cổ Vạn.
[17] Ngày Canh Ngọ, Bí thư thừa Hồ Tông Hồi tâu: “Trước đây thần giữ chức Tướng tác giám thừa, được sai đến châu Thiền và Bắc Kinh để đốc thúc việc sửa chữa kho lương, thời hạn là hai năm, nay sắp hoàn thành. Kho lương mới và cũ ở châu Thiền và Bắc Kinh có thể chứa được 4 triệu thạch lương, nếu đủ số lượng này thì có thể cung cấp chi phí cho quân mã đồn trú, phần còn lại xin ngừng sửa chữa.” Triều đình đồng ý. Việc này có thể tham khảo ngày Kỷ Mão tháng 2.
[18] Thái tử trung xá Lý Kỷ dâng mẫu tiền Chiết nhị mới của Lộ Hi Hà. Ghi theo 《Hội yếu》.
[19] Ngày Tân Mùi, Ngự sử Trần Mục vì bệnh xin từ chức, triều đình đồng ý. Trước đây Mục giữ chức Đề điểm hình ngục Lộ Lưỡng Chiết, vi phạm pháp luật mua nữ nô và kết bè kết đảng với Lữ Huệ Khanh, không xử tội lại viên tham nhũng Trương Nhược Tế, hiện đang bị điều tra.
[20] Đô đề cử thị dịch ty tâu: Trước đây sai Lưu Tá đi khảo sát việc trà ở Xuyên, nhân tiện kết hợp mua lương thảo dự trữ cho quân ở Hi Hà lộ, thu được hơn bảy vạn thạch thóc. Chiếu vận chuyển đến cấp cho bản lộ.
[21] Lại chiếu: Số tiền của Đô đề cử thị dịch ty hiện có ở Hi Hà lộ, đều sung vào quân nhu của bản lộ, vẫn phải báo cáo số lượng. Sai trung sứ thúc giục phát mười vạn quan tiền Chiết Nhị từ Giám đúc tiền ở Vĩnh Hưng quân lộ, để ứng phó việc mua lương thảo cho Hi Hà lộ.
[22] Lại chiếu: Khảo xét số tiền Chiết Nhị bằng đồng hiện có ở các Giám đúc tiền tại Thiểm Tây cùng số tiền gốc phong trang giao tử xác thực là bao nhiêu quan, vạn, phải khảo xét nhanh chóng và tâu lên.
[23] Lại chiếu: Cao Tuân Dụ nhiều lần tâu rằng Hi Hà thiếu tiền lương, Chuyển vận ty không ứng phó, lệnh phải trình bày rõ ràng để tâu lên.
[24] Lại chiếu: Đối với các hộ thuộc loại thứ ba trở xuống ở các châu huyện bị thiên tai tại Hà Đông lộ, số đậu mạch giống đã vay và số nợ hoãn thu hoà địch, đều đợi đến năm sau được mùa, theo thứ tự mà nộp cho quan.
[25] Ngày Nhâm Thân, lệnh cho Giám đúc tiền ở Mục Châu lấy tên là Thần Tuyền.
[26] Ngày Giáp Tuất, chiếu rằng tất cả các nơi có hình cấm trong kinh đều phải đặt giường ngục.
[27] Trung thư tâu: “Theo nguyên pháp về trà ở Xuyên, trong số thuế trà và tiền lãi, mỗi năm phải định rõ số lượng ứng phó cho việc mua ngựa và lương thảo ở Hi Hà. Xin lệnh cho quan đề cử mua trà mỗi năm cấp cho Hi Châu, Dân Châu mỗi nơi ba trăm (Mã khuyển) trúc lớn cùng trà ở Dương Châu, Thục Châu, lại trừ bớt trong số lương thảo ứng phó của Ty trà trường.” Được chấp thuận.
[28] Chuyển vận ty Vĩnh Hưng quân lộ tâu: “Các châu quân mua lương thảo tổng cộng hơn năm trăm vạn, bản ty hiện đang thiếu, xin mượn ba mươi vạn quan tiền.” Chiếu cấp mười vạn quan tiền gốc giao tử. Thượng phê: “Các lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng ở biên giới dùng giao tử để mua lương thảo, nơi nào có nhiều tiền chiết thì không được phát thêm giao tử.” Lúc đó vì giao tử phát ra nhiều mà tiền không đủ cấp, khiến giá rẻ gây thiệt hại cho quan.
[29] Ngày Ất Hợi, ban chiếu rằng: Các sắc lệnh của một cơ quan, một nhiệm vụ, một lộ, một châu, một huyện có ghi các điều như “đáng thi hành”, “cần xử lý ngay”, “quyết định phối trí” đều đổi thành hình phạt đi đày hai năm. Do các sắc lệnh cũ của một cơ quan tham khảo sử dụng sắc lệnh hành hải thời Gia Hựu, những điều như vậy đều bị xem là vi phạm chế độ, còn sắc lệnh thời Hi Ninh đã xóa bỏ các điều khoản này, khiến quan pháp không có hình phạt nào để áp dụng. Đến lúc này, quan kiểm pháp của Tam ty là Vương Chấn đã tâu lên, nên ban chiếu này.
[30] Xu mật viện định cử Nội điện thừa chế Tạ Quý Thành làm Chuẩn bị tướng của Ty thể lượng an phủ lộ Quỳ Châu. Vua phê: “Trước đây Hùng Bản đã tấu, đã bố trí quân vào cõi để đánh dẹp, tính nay đã đến lúc rút quân, sợ rằng Tạ Quý Thành đến sẽ không kịp việc, nên không cần phái Tạ Quý Thành nữa.”
[31] Ngày Bính Tý, ban chiếu: “Nghe nói quân đồn trú và quân đi qua các châu quân Thông Viễn, Tần, Lũng, Phượng Tường, Vĩnh Hưng cùng quân trạm ngựa được cấp lương, quan lại thu mua quá nhiều lương thực từ kho, khiến quân sĩ không đủ ăn hàng ngày, lại phải mua thêm với giá cao từ dân gian. Lệnh cho Ty đề điểm hình ngục điều tra thực tế và tâu lên.” Sau đó, quan đề cử Đỗ Thường điều tra thấy rằng châu Ninh thường ứng trước một tháng lương cho các chỉ huy Chấn Vũ, thu mua toàn bộ lương thực vào kho, châu Vĩnh Hưng và huyện Văn Hương phủ Thiểm cũng từng thu mua lương thực vào kho. Chiếu lệnh Ty đề điểm hình ngục xét xử các quan lại vi phạm và tâu lên, riêng châu Ninh chờ chỉ dụ riêng.
[32] Lại ban chiếu theo số cũ tuyển thêm chín chỉ huy quân tráng dịch, mỗi chỉ huy năm trăm người. Theo lời thỉnh cầu của Tướng tác giám.
[33] Ban chiếu: “Từ nay, các quan được cử đi ngoài, nếu đã nhận ban thưởng thì không được cấp trạm khoán, nếu muốn nhận trạm khoán thì không được ban thưởng.”
[34] Trung thư tâu: “Xin cho phép Ty phát vận được mượn tạm tiền tỉnh thượng cung của các lộ và tiền nộp vào Nội tàng khố, mỗi khoản một trăm vạn quan làm vốn mua lương, tiền Nội tàng khố sẽ hoàn trả đều trong ba năm.” Vua đồng ý.
[35] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu: “Các châu quân thuộc lộ Giang Đông bị thiên tai nhiều năm, hộ thuộc đẳng thứ ba trở xuống được miễn tám phần mười thuế thu năm nay, thuế hạ còn thiếu đều được hoãn lại, và phải báo số thuế đã hoãn lên triều đình.”
[36] Thượng phê: “Xét kỹ số lượng thực tế của nghĩa dũng và bảo giáp hiện quản lý ở hai lộ Hà Bắc Đông Tây và Hà Đông, rồi báo lên. Hai lộ Thiểm Tây, sau khi sắp xếp xong, cũng làm theo như vậy.”
[37] Ngày Mậu Dần, Giao Chỉ chiếm Khâm Châu, ba ngày sau lại chiếm Liêm Châu. Tin báo về việc Khâm Châu thất thủ đến vào ngày 20 tháng 12, còn Liêm Châu đến vào ngày 22 tháng 12.
[38] Ngày Kỷ Mão, lệnh cho các quan đại thần cầu tuyết.
[39] Phụng Lễ Lang, Đề cử Lưỡng Chiết Thường Bình là Thư Thiện được bổ làm Thái tử Trung Doãn, quyền Giám sát Ngự sử Lý hành.
[40] Công bộ Lang trung, Bí các Hiệu lý, Đồng tu Khởi cư chú, Trực Xá nhân viện là Tiền Tảo bị bãi chức Trực Xá nhân viện. Ngự sử Trung thừa Đặng Oản tâu: “Phùng Kinh tính tình tầm thường và cứng rắn, kết bè với kẻ xấu, a dua theo thói tục, gây hại cho chính sự thánh minh. Bệ hạ khoan dung nhân từ không giết, cho giữ chức ở phiên trấn chưa được bao lâu, lại điều đi làm tướng biên cương, mà Tiền Tảo thay mặt Bệ hạ soạn huấn cáo, lại khen Phùng Kinh giữ vững chính đạo không lay chuyển, một tiết tháo không khuất phục. Lại nói rằng sự tiến thoái của đại thần liên quan đến sự an nguy của thời cuộc. Phùng Kinh khi ở trong triều đình chẳng có gì bổ ích, chỉ khi lui về mới có lời bàn sau, sao gọi là một tiết tháo? Hơn nữa, Phùng Kinh bãi chức đã hơn một năm, lẽ nào từng có nguy hiểm gì? Tiền Tảo chuyên làm việc nịnh hót, xin hãy trách phạt.” Thượng nghe theo. Đặng Oản biết Vương An Thạch ghét Phùng Kinh, lại sợ Phùng Kinh được dùng lại, nên làm việc này để phụ họa An Thạch. Việc này căn cứ theo 《Tư Mã Ký Văn》 và 《Ngụy Thái Đông Hiên Lục》. Ngụy Thái lại nói rằng Đặng Oản xu nịnh Lữ Huệ Khanh, xét thời điểm này Huệ Khanh đã rời khỏi chức vụ rồi.
[41] Ngày Canh Thìn, Xu mật sứ Ngô Sung tâu: “Việc mở mang Hi Hà đến nay đã bốn năm, kinh lược tuy đã định, nhưng lương thực quân đội vẫn phải dựa vào các châu phía đông. Việc chuyển vận xe cộ thì sức người không đủ; đặt trường mua lương thì dân gian xảo quyệt có thể nhân cơ hội ép giá, làm khốn đốn triều đình. Hai điều lo ngại này, cái hại là ở chỗ chưa có thu nhập từ đất đai. Kính xét chính sách thực biên của Hán, Đường, việc đồn điền là có lợi. Gần đây nghe nói Tiên Vu Sư Trung dâng sớ xin, triều đình vì đã đặt ra các đội cung tiễn thủ, nên không muốn thay đổi lớn, chỉ cho thử làm trên trăm khoảnh mà thôi. Nhưng việc đồn điền thực hiện ngày nay thật không dễ, thần cho rằng không gì bằng nhân đó mà lệnh cho cung tiễn thủ làm ruộng công. Xưa một người được cấp trăm mẫu, lại thêm mười mẫu làm ruộng công. Lấy bốn châu Hi Hà mà so, không kể đến một vạn năm nghìn khoảnh, lấy một phần mười làm ruộng công. Ước tính trung bình mỗi năm mỗi mẫu thu được một thạch[3], thì ruộng công thu được mười lăm vạn thạch, trừ đi một phần ba do hạn hán, đất xấu, còn được mười vạn thạch. Có sáu điều tiện lợi: quan không phải lo chi phí đồn điền, trâu bò, lương thực, đó là một; dựa vào sức dân, dân không mệt nhọc, đó là hai; năm mất mùa không thu, quan không bị thiệt, đó là ba; giảm được việc chuyển vận, đó là bốn; giá mua lương ổn định, khiến dân gian xảo quyệt không thể nắm quyền định giá, đó là năm; giảm số lượng mua lương, lấy tiền đó dùng vào việc khác, đó là sáu.”
Chiếu theo lời tâu của Sung, chi tiết các điều khoản để tâu lên. Do đó Sung xin cấp ruộng khoảng mười khoảnh, đặt một khoảnh ruộng công, lệnh cho các hộ được cấp ruộng cùng nhau cày cấy. Ruộng mùa hạ trồng lúa mạch, ruộng mùa thu trồng kê, đậu. Giao cho các quan thành trại kiêm quản. Chiếu sai Thái thường tự chủ bạ Hoàng Quân Dư cùng Hi Hà lộ đề điểm hình ngục Trịnh Dân Hiến bàn bạc thứ tự thực hiện để tâu lên. Sau đó Dân Hiến tâu: “Các đội cung tiễn thủ mới chiêu mộ, ở sâu trong đất Khương, năm nào cũng bị thiên tai, chưa yên ổn. Nếu bắt họ tự lo sức lực, giống má để cày ruộng công, e rằng lòng người dao động, không yên. Xin đợi khi mùa màng khá hơn rồi thi hành.” Theo lời tâu. Bản Chu bỏ. Bản Mực chép ngày 22 tháng 11 năm nay, nhưng đến ngày 12 tháng giêng năm sau lại chép lược. Bản mới thì giữ cả hai, thật là sai lầm. Nay chỉ theo bản Mực chép ở đây, lại lấy thêm một ít từ bản Chu chép ngày 12 tháng giêng năm sau.
[42] Ngày Tân Tỵ, phủ Khai Phong xin rằng những người già cả, bệnh tật, cô nhi, trẻ nhỏ không nơi nương tựa và kẻ ăn xin trong và ngoài kinh thành, nếu gặp phải trời rét đậm và gió tuyết lớn, thì giao cho phủ này chọn cử quan lại và nhân viên mang tiền đến các cổng thành cũ và mới, cùng chùa Tướng Quốc để phân phát. Những người bị chết cóng hoặc bệnh tật không thể đến nơi tập trung, thì cấp tiền cứu tế theo mức độ. Triều đình đồng ý.
[43] Chiếu rằng những người bị giáng chức đang chịu tang được phép dùng ân xá để khôi phục chức vụ. Việc này căn cứ theo quyển 28 của 《Ngự Tập》, ngày 11 tháng 12 năm thứ 7, và ngày 6 tháng 10 năm thứ 9 có thể tra cứu, lời của Thái Thừa Hi hoặc ghi chép kèm theo đây.
[44] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu rằng: “Các lộ Thiểm Tây ở vùng biên giới tuyển chọn binh lính người Phiên, chọn những người từ 20 tuổi trở lên, trong hộ có 9 đinh trở lên thì lấy 5 đinh, 6 đinh lấy 4 đinh, 4 đinh lấy 3 đinh, 3 đinh lấy 2 đinh, 2 đinh lấy 1 đinh, và xăm lên mu bàn tay. Số người dù nhiều cũng không quá 5 đinh. Mỗi 10 đinh thì đặt một Thập tướng, tùy theo số người trong bộ tộc, nếu đủ 50 người thì đặt một Phó Binh mã sứ, đủ 100 người thì đặt một Quân sứ và một Phó Binh mã sứ, đủ 200 người thì đặt một Quân sứ và ba Phó Binh mã sứ, đủ 300 người thì đặt một Phó Chỉ huy sứ, hai Quân sứ và ba Phó Binh mã sứ, đủ 400 người thì thêm một Quân sứ và một Phó Binh mã sứ, đủ 500 người thì thêm một Chỉ huy sứ và một Phó Binh mã sứ[4]. Không quá 500 người, mỗi 100 người thêm một Quân sứ và một Phó Binh mã sứ. Nếu một bộ tộc không đủ 50 người, từ 30 người trở lên cũng đặt một Phó Binh mã sứ, dưới 20 người chỉ đặt Thập tướng. Hàng tháng ngoài lương bổng, còn cấp thêm tiền: Chỉ huy sứ 1.500, Phó Chỉ huy sứ 1.000, Quân sứ 700, Phó Binh mã sứ 500, Thập tướng 300.” Binh lính người Phiên ở Thiểm Tây trước đây khá có thể phòng thủ biên giới, nhưng việc tuyển chọn đinh không đều, và không có tổ chức. Đến lúc này mới bắt đầu lập pháp và ban chiếu này. Bản chí và thực lục giống nhau. Sách cũ chép việc lập pháp tuyển chọn đinh trong bộ ngũ binh lính người Phiên ở lộ Thiểm Tây, sách mới không chép.
[45] Lại có chiếu rằng: “Từ nay các quan không được tâu xin cho các lại dịch ở các ty được sung làm chỉ sử ra ngoài.” Vì Xu mật viện tâu rằng các lại dịch ở các ty có người ở nơi thi hành phép thưởng được cấp lộc rất hậu, nhưng lại tìm cách trốn tránh việc bản chức, cầu xin các quan tâu xin đưa ra ngoài mà vẫn được hưởng lộc cũ, làm trở ngại công việc của các ty, nên cấm chỉ việc ấy.
[46] Ngày Quý Mùi, Hữu gián nghị đại phu, Tập hiền viện học sĩ Tống Mẫn Cầu được làm Long đồ các trực học sĩ, Hữu ty lang trung, Tri chế cáo Trần Tương được làm Xu mật trực học sĩ. Trước đó, Tri chế cáo Đặng Nhuận Phủ tâu rằng: “Gần đây các quan chuyên chuộng việc tố cáo nhau, đó không phải là điều tốt đẹp của quốc gia, nên dùng người thuần hậu để thay đổi phong tục.” Vua khen ngợi và nghe theo. Mấy ngày sau, Mẫn Cầu và Trần Tương được bổ nhiệm như vậy. Việc này căn cứ theo 《Tư Mã kỷ văn》. Mẫn Cầu từ ngày 18 tháng 9 năm thứ 4 được làm Tập hiền học sĩ, đến ngày 9 tháng 5 năm thứ 10, Ngự sử Nhuận Phủ tâu rằng: “Xin dùng người điềm đạm, trầm tĩnh.” Tấu nghị của Thái Thừa Hi có thể tham khảo, hoặc lược bớt, thêm vào. Tấu của Thừa Hi nay thấy riêng ở cuối tháng 10 năm thứ 9.
[47] Ngày Giáp Thân, Kinh lược ty Hi Hà tâu rằng: “Ruộng chức của quan viên ở Hi Châu, xin cho tự mộ người cày cấy, bãi bỏ việc chi trả bằng diêm sao.” Vua nghe theo.
[48] Sai Câu đương Ngự dược viện Lý Thuấn Cử đến Hà Đông phân định địa giới, lo việc công. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.
[49] Hữu Long Vũ quân Đại tướng quân, Sở Châu Đoàn luyện sứ Thế Khai được lĩnh chức Minh Châu Phòng ngự sứ. Trước đó, Đại Tông chính ty tâu rằng Thế Khai học hành tu dưỡng, trong sạch, Vua triệu vào gặp, hạ chiếu rằng: “Thế Khai tính tình thông minh, từ nhỏ chăm học, có thể theo lệ của Trọng Tiển thăng một chức.” Vì thế có mệnh lệnh này. Thế Khai từng tâu rằng: “Con gái họ hàng thân thích kết hôn với nhà có chức tước, lập ước rõ ràng, giống như bán buôn, làm nhục quốc phong, xin giao Đại Tông chính ty xem xét thi hành.” Vua không nghe. Bản Chu bỏ đi việc hôn nhân của con gái họ hàng thân thích, nói rằng đã xét lại và bảo người ấy không làm, nay lại ghi chép lại. Đến ngày Nhâm Tý tháng 9 năm thứ 10 mới hạ chiếu.
[50] Khai Phong phủ tâu: “Con của tể tướng cũ là Vương Tăng là Vương Dịch chia gia tài, có sách Vua ban và tập thơ ngự chế, xin cho đặt ở nhà thờ họ Vương, không được cho mượn ra ngoài, nên mượn ba lính canh giữ, và từ tiền thuê nhà chia cho mọi người, trích một phần để dùng vào việc cúng tế hàng năm.” Vua đồng ý.
[51] Vua phê: “Nghe nói các đồn canh giáp biên giới với nước Hạ ở Lân Phủ lộ nhiều năm không tu sửa kịp thời, gần đây không rõ theo lệnh nơi nào mà đột nhiên đi sửa chữa, khiến người Tây Hạ nghi ngờ phá hủy. Có thể bí mật sai Trương Thế Củ, tri châu Phong Châu mới, điều tra rõ rồi tâu lên.”
[52] Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “An Nam Tĩnh Hải quân gửi công văn đến hai châu Khâm, Liêm, nói rằng gặp khó khăn mới, không thông thương buôn bán, và chưa dám cử người lên kinh đô cống nạp[5].” Vua ra chiếu cho Lưu Di không được ngăn cản. Lúc này quân An Nam đã xâm lược. Chiếu cho Lưu Di không được ngăn cản việc buôn bán với An Nam, theo truyện Giao Chỉ trong sử Thần Tông. Thực lục chép: “Mùa đông năm đó, quân An Nam xâm lược.” Xét ngày 20 tháng này đã chiếm châu Khâm, ba ngày sau chiếm châu Liêm, nay sửa lại.
[53] Ngày Bính Tuất, Vua phê: “Trung thư, Xu mật viện cùng bàn việc biên giới phía bắc, có thể ngày mai nhân ngày nghỉ đến Đông phủ bàn kỹ rồi tâu lên, không được chần chừ sơ suất.” Bèn bàn định khu vực Đông Thủy lĩnh từ phía bắc trại Nhạn Môn chia cắt, đất Tây Hình lệnh tiếp giáp với Trường Thành cổ chia cắt, đất Ngoã Diêu Ổ lệnh xem xét nơi có đỉnh núi chia nước để chia cắt, trại Ma Cốc, phố Thủy Song nên dời đi[6], lệnh Hàn Chẩn trước điều tra rồi tâu lên. Ngày 18, 28 tháng 7, ngày 29 tháng 9, ngày 1 tháng 10, đều nên tham khảo.
[54] Trước đó, Vương An Thạch vì bệnh ở nhà, Vua sai trung sứ đến thăm hỏi, từ sáng đến tối mười bảy lần, y quan chẩn mạch đều sai người chạy đến tận nơi tâu trình. Khi khỏi bệnh, lại cho nghỉ thêm mười ngày, sắp khỏe, lại cho thêm ba ngày. Lại sai các quan phụ chính đến nhà bàn việc. Việc này theo ghi chép của Tư Mã Quang trong 《Ký văn》, là việc tháng mười một. Lúc đó có người không theo tân pháp, An Thạch muốn trị tội nặng. Vua không đồng ý. An Thạch tranh luận rằng: “Không như vậy thì pháp không thi hành được.” Vua nói: “Nghe nói dân gian cũng khổ vì tân pháp.” An Thạch nói: “Giá rét nắng mưa, dân còn oán than, việc này đâu đáng lo!” Vua nói: “Sao không để dân không còn oán than cả giá rét nắng mưa?” An Thạch không vui, lui về rồi cáo bệnh. Vua sai sứ đến an ủi khuyên nhủ, ông mới ra. Đảng của An Thạch bàn mưu rằng: “Nay không dùng ngay những người môn hạ mà Vua vốn không ưa để tiến cử, thì quyền sẽ nhẹ, sẽ có kẻ dòm ngó tìm kẽ hở.” An Thạch nghe theo. Vua cũng mừng An Thạch ra làm việc, những gì ông tiến cử đều nghe theo, từ đó quyền An Thạch càng nặng. Việc này theo ghi chép của Tư Mã Quang trong 《Ký văn》, nói là việc tháng mười một. Lại nói An Thạch ra làm việc, đảng của ông bàn mưu rằng: “Nay không dùng ngay những người môn hạ mà Vua vốn không ưa để tiến cử, thì quyền sẽ nhẹ, sẽ có kẻ dòm ngó tìm kẽ hở.” An Thạch nghe theo. Khi ra làm việc, liền tâu đề bạt Chương Đôn, Triệu Tử Kỷ, Vua mừng ông ra làm việc, miễn cưỡng nghe theo, từ đó quyền càng nặng. Xét Đôn lúc đó đã bị cách chức, Tử Kỷ đang làm chức vận chuyển Hà Đông, không hợp với điều Tư Mã Quang nghe được. Nay chỉ ghi lại việc này mà không nêu tên những người được tiến cử, đợi xét kỹ thêm.
[55] Lấy khu vực Đồng Phật Bá thuộc huyện Nam Xuyên, châu Dư làm Nam Bình quân. Năm Hi Ninh thứ 4 (1071), sau khi dẹp yên Lý Quang Cát và Vương Duyễn[7], đất cũ lập hai trại Vinh Ý và Phù Hoan. Bên ngoài có Đồng Phật Bá, gần phía nam giáp với các vùng man di phía tây nam như Ô Man, Côn Minh, Ca Man, Đại Tiểu Bá Châu, có hàng chục bộ tộc chiếm giữ[8]. Sau đó, triều đình bổ nhiệm người địa phương là Vương Tài Tiến làm Tuần kiểm, giao cho việc phòng thủ. Khi Tài Tiến chết, các bộ tộc không có người thống nhất, thường xuyên ra cướp phá biên giới. Triều đình sai Hùng Bản đi đánh dẹp. Hùng Bản tâu rằng vùng đất mở mang đều là đất màu mỡ, đến những nơi rừng rậm sâu thẳm đều có thể chiêu mộ dân khai khẩn trồng trọt, nên bãi bỏ huyện Nam Xuyên, lập quân ở đây.
Lại dùng sứ thần làm Đô giám lộ Tử Quỳ, kiêm chức Tri quân và Đô Tuần kiểm vùng biên, đặt thêm một số quan chức, kiêm quản hai trại Vinh Ý và Phù Hoan, tăng thêm ba trại Khai Biên, Thông An và An Ổn[9], để kiểm soát. Lại tâu rằng người man di ở nhà sàn, phụ nữ mặc váy thông, những thủ cấp bắt được nhiều người có răng khắc, đây chính là đất cũ của bảy họ man Bản Thuẫn quận Ba và Nam Bình Lạo, xin lấy tên Nam Bình. Hùng Bản lại xin tạm cấp cho Đại Ninh Giám mỗi năm ứng phó cho Thiểm Tây và phủ Thành Đô, Giám phó đến các trại quân mới xây để chiêu mộ người vào nộp lương thực. Triều đình đều chấp thuận.
《Cửu Vực Chí》 chép: Nam Bình quân, năm Hi Ninh thứ 7 (1074) chiêu dụ các bộ tộc phía tây nam, lấy đất Đồng Phật Bá thuộc huyện Nam Xuyên, châu Dư lập quân, trị sở đặt tại huyện Nam Xuyên. Lại chép: Năm Hi Ninh thứ 7, lấy huyện Long Hóa thuộc châu Phù đặt dưới quyền quân[10], đồng thời bãi bỏ huyện Nam Xuyên thuộc châu Dư, đổi thành trấn sáp nhập vào. Năm Nguyên Phong thứ nhất (1078) lại lập huyện Nam Xuyên. Không rõ vì sao 《Thực Lục》 lại ghi vào tháng 11 năm thứ 8, có lẽ nên chuyển vào tháng 11 năm thứ 7, và việc cắt huyện Long Hóa thuộc châu Phù[11] đặt dưới quyền Nam Bình quân ghi vào cuối tháng 2 năm thứ 7 cũng nên chuyển vào sau đây, đợi xem xét kỹ hơn. Xét theo thứ tự sự việc, thì 《Cửu Vực Chí》 sai, còn 《Thực Lục》 không sai. Nhưng 《Thực Lục》 ghi việc cắt huyện Long Hóa thuộc châu Phù đặt dưới quyền Nam Bình quân vào cuối tháng 2 năm thứ 7 cũng là sai.
[56] Quyền phát khiển Kinh lược ty Hi Hà lộ là Cao Tuân Dụ tâu rằng quân lương ở Hà Châu đã cạn kiệt, đã ra lệnh dùng tiền mua trà từ ba nơi là Hi Hà Châu và Ninh Hà Trại để chi phí cho Hà Châu, xin chịu tội tự tiện. Chiếu tha tội.
[57] Chiếu rằng từ nay quan đề cử ở Tam ty Trướng ty và Ma khám ty chỉ bổ một người.
[58] Chuyển vận sứ Kinh Hồ Bắc lộ là Tôn Cấu[12] tâu rằng: “Thứ sử Hạ Khê Châu là Bành Sư Yến cùng mười người khác đã quy phụ, đã sai Tri châu Thần Châu là Đào Bật đem binh lính và dân phu xây thành trại ở Hạ Khê Châu.” Lúc đó, Nam Giang vừa mới định, Sư Yến chiếm cứ Hạ Khê Châu ở Bắc Giang, ngang ngược khó trị. Bật dùng kế ly gián đồng đảng của hắn là các thủ lĩnh sáu châu Bảo Tĩnh, Vĩnh Thuận, khiến họ tự đánh lẫn nhau. Sư Yến bị cả họ tộc bị các thủ lĩnh tấn công giết chết, chỉ còn một mình thoát thân. Bật bèn viết thư giao cho thủ lĩnh đang nắm quyền là Chu Hưng, giải thích họa phúc. Sư Yến bèn cùng Hưng và vài ngàn người đến đầu hàng. Bật chiếm đất của họ, xây năm thành trại. Bật là người Vĩnh Châu. Tháng giêng năm sau, ngày 22, đưa Sư Yến đến kinh đô, ngày 4 tháng 2, Bật được thăng chức Trung thích.
[59] Ban thưởng tiền đặc chi cho binh sĩ và dân đinh ở quân tiền Dư Châu, cắt huyện Long Hóa của Dư Châu về thuộc Nam Bình quân. 《Thực lục》 chép việc này vào cuối tháng 2 năm thứ 7. Xét ra Nam Bình quân được thành lập vào ngày 28 tháng 11 năm thứ 8, không lẽ năm thứ 7 tháng 2 đã có tên quân, 《Thực lục》 sai vậy. 《Cửu vực chí》 lại theo sai lầm đó. Nay dời vào sau ngày 28 tháng 11 năm thứ 8 khi thành lập Nam Bình quân.
- Bốn đồn, chữ 'đồn' nguyên là 'đoàn', theo bản trong các và chính văn, sách 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 17 chương Thần Tông đặt Nam Bình quân sửa lại. ↵
- chữ 'trường' trong 'hợp phó giáo trường' bị thiếu, căn cứ vào bản trong các kho và văn bản trên để bổ sung ↵
- Ước tính trung bình mỗi năm mỗi mẫu thu được một thạch, chữ 'Đại' trên nguyên văn có thêm chữ 'Điền', theo các bản khác mà bỏ. ↵
- Một Phó Binh mã sứ 'một' nguyên bản là 'hai', theo bản trong các kho sửa lại ↵
- Chữ 'cảm' nguyên bản viết là 'tán', theo bản khác sửa lại ↵
- Chữ 'sách' nguyên bản viết là 'chiết', theo bản khác sửa lại ↵
- Vương Duyễn, chữ 'Duyễn' nguyên bản viết là 'Cổn', căn cứ theo bản trong các bộ sách và quyển 219, năm Hi Ninh thứ 4, tháng giêng, ngày Ất Mùi sửa lại ↵
- Hàng chục bộ tộc chiếm giữ, chữ 'tộc' nguyên bản viết là 'toàn', căn cứ theo bản trong các bộ sách sửa lại ↵
- Tăng thêm ba trại Khai Biên, Thông An và An Ổn, chữ 'ba' nguyên bản viết là 'hai', căn cứ theo 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 17, năm Thần Tông lập Nam Bình quân sửa lại ↵
- Lấy huyện Long Hóa thuộc châu Phù đặt dưới quyền quân, chữ 'Long' nguyên bản viết là 'long', căn cứ theo 《Tống Hội Yếu》 phương vực 7-9 và 《Tống Sử》 quyển 89, địa lý chí sửa lại. Dưới đây cũng vậy ↵
- Huyện Long Hóa thuộc châu Phù, chữ 'châu' nguyên bản viết là 'xuyên', căn cứ theo hai sách trên sửa lại ↵
- Chuyển vận sứ Kinh Hồ Bắc lộ Tôn Cấu, chữ 'Cấu' nguyên là 'Giác', theo bản truyện trong 《Tống sử》 quyển 331 sửa lại. ↵