"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 274: NĂM HI NINH THỨ 9 (BÍNH THÌN, 1076)

Từ tháng 2 năm Hi Ninh thứ 9 đời Thần Tông đến hết tháng 3 năm đó.

[1] Mùa hạ, tháng 4, ngày Bính Tuất mùng một, Vua phê dụ gửi Quách Quỳ và các quan: “Gần đây, theo tấu của Quảng Tây chuyển vận sứ Lý Bình Nhất: ‘Khi đại quân tiến đánh, cần huy động hơn 40 vạn phu vận lương[1], xin từ phía nam hồ trở xuống, đều phải điều động phu dịch.’ Việc này rõ ràng là gây hoang mang, làm kinh động lòng dân, tin đồn lan xa, truyền đến triều đình, rất bất tiện. Các khanh hãy tính toán kỹ lưỡng, xác định chính xác số lượng nhân lực cần thiết để vận chuyển lương thực, báo cáo gấp.” Quách Quỳ tâu: “Xét theo tấu của Bình Nhất, ước tính cần 10 vạn quân, 1 vạn ngựa, cùng lương thực và cỏ ngựa hàng tháng, cần hơn 40 vạn phu vận chuyển. Huống hồ việc tiến vào địa giới đánh dẹp hang ổ giặc Giao Chỉ, khó có thể ấn định thời hạn một tháng, nếu tính toán dư thừa, lại sợ chi phí tăng thêm. Nay tính toán lương thảo cần thiết khi tiến vào địa giới, ngoài việc quân và ngựa tự mang vác tùy sức, cùng mua trâu nước và gạo ở nơi sản xuất, trâu có thể dùng làm lương thực, nếu lương thực không thiếu, thì dùng vào việc cày cấy đồn điền. Có thể giảm bớt gạo và phương tiện vận chuyển, tạm thời để lại những vật dụng không cấp bách của chín quân. Có thể điều thêm cấm quân kiêm nhiệm việc nấu nướng, cũng không ảnh hưởng đến chiến đấu, có thể dùng quân sương hoặc xe nhỏ, lừa để vận chuyển, và không mang theo những con ngựa yếu. Như vậy, có thể giảm một nửa số phu vận lương so với tấu của Bình Nhất, chỉ cần 20 vạn người vận chuyển theo từng đợt, cung cấp lương thực cho quân, và đợi khi bản ty đến nơi, nếu có chỗ nào có thể cắt giảm thêm, sẽ tâu báo riêng.” Việc này căn cứ theo văn thư về việc chinh phạt phương Nam của Quách Quỳ, chiếu ban ngày mùng một tháng 4, báo cáo vào tháng 11, nay ghi chép thêm để biết việc hành quân rất tốn kém công sức.

[2] Ngày Đinh Hợi[2], chiếu rằng: “Công bộ Thị lang trí sĩ Vương Lạp, là cựu thần từ thời tiên đế còn ở phiên trấn, có thể đặc cách cấp toàn bổng bằng tiền thực.” Theo lệ cũ, quan trí sĩ được cấp bổng bằng vật phẩm cũ kỹ, giá trị chỉ bằng bốn phần mười. Vương Lạp vì tuổi già, tự tâu xin được ban hai phần giá trị, miễn cấp vật phẩm, nên có chiếu này.

[3] Chiếu rằng: “Tông thất nhà Đại Yến, các hoàng bá, hoàng thúc, hoàng phụ, hoàng huynh, nếu quan chức thấp không đáng ngồi, thì được miễn đứng hầu.”

[4] Vĩnh Hưng quân đẳng lộ Chuyển vận sứ Bì Công Bật tâu: “Gần đây đúc lại tiền tư, đều theo mẫu của triều đình, nạn đúc tiền giả đã chấm dứt, lòng dân tạm yên. Nay lại cho phép lưu hành tiền tư, e rằng nạn đúc tiền giả sẽ nổi lên, chất lượng tiền lâu ngày khó phân biệt.” Chiếu cho Tam ty chỉ huy Uông Phụ Chi chọn lọc số tiền sắt có thể dùng được, chưa được lưu hành, trước hết phải báo số lượng lên. Ngày 27 tháng 2, sai Uông Phụ Chi đi Hi Hà. Ngày 25 tháng 6, Chu Doãn tâu…, có thể tham khảo.

[5] Chiếu cho các lộ Cung tiễn thủ nhờ chiến công được bổ làm Điện thị trở lên, ruộng đất của họ đều được mang theo để thu tô thuế, nếu bị thiên tai, không được giảm thuế đồng loạt. Theo lời thỉnh cầu của Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty.

[6] Các môn tâu: “Các quan từng đi áp tải, nếu sứ giả nước Hạ đến kinh, gặp lúc yến tiệc khởi cư, xin đều cho tạm mặc áo mũ theo lệ đã từng mượn.” Theo lời tâu.

[7] Chiếu rằng: “Lệnh cho Định châu, Chân Định, Đại Danh phủ lộ An phủ ty, lấy quân giữ thành của Hà Bắc Tây lộ, theo lệ của Đông lộ, báo số người cần phòng thủ ở các châu, quân, huyện, trại dưới quyền lên triều đình.”

[8] Điện tiền Đô chỉ huy sứ Hác Chất tâu, đến Quân khí giám họp với Quyền phán giám Lưu Phụng Thế bàn việc quân khí. Vua phê: “Ba vị tướng Điện tiền, Mã, Bộ quân, triều đình đối đãi, lễ nghi chỉ sau Nhị phủ, việc hệ trọng, các quan nhỏ ở tự, giám, sao có thể gọi đến họp bàn? Đảo lộn tôn ti, lý thế không thuận, từ nay chỉ cho dùng văn thư để quyết định.” Ngày 12 tháng giêng năm thứ 7, Lữ Huệ Khanh tâu…, có thể tham khảo.

[9] Ngày Mậu Tý, lệnh cho quyền Ngự sử trung thừa Đặng Oản cùng các quan Lưu nội tuyển, chú nghĩ các tiến sĩ đỗ đệ tam giáp trở lên mới được ban.

[10] Đô đề cử Thị dịch ty tâu: “Tiền vốn Thị dịch ty ở Hi Hà bị thiếu hụt.” Chiếu rằng: “Thị dịch ty ở kinh đô phát vật hóa trị giá 15 vạn quan tiền, Thị dịch ty Hi Hà dùng tiền mặt làm vốn, còn vật hóa thì trừ vào số tiền đã cắt đến Phát vận ty.”

[11] Tương độ thố trí tài lợi lộ Hi Hà, Đại Lý bình sự Tôn Huýnh tâu: “Từ tháng 11 năm ngoái đến tháng giêng năm nay, trường địch ở Hi Châu còn thiếu tiền và sao của 420 hộ thương nhân như Lưu Nghĩa, tổng cộng 41.360 quan tiền; lại có 32 người như Tổng quản Vương Quân Vạn của bản lộ còn nợ 140.360 quan tiền và hơn 300 lạng bạc trong việc kết địch ở hai châu Hi, Hà[3].” Chiếu sai quyền Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự Thái Xác, đi ngựa trạm điều tra việc của Chuyển vận ty lộ Tần Phượng và các quan lại lộ Hi Hà rồi tâu lên. Hai ngày sau, Huýnh được thăng làm Thái tử trung xá, quyền Chuyển vận phán quan lộ Tần Phượng. Ngày Ất Tỵ tháng 2, đã sai quan điều tra việc kết địch, đến ngày Mậu Tý tháng giêng năm thứ 10, Quân Vạn và những người khác bị giáng chức.

[12] Trung thư hộ phòng tâu: “Trương Giáp trước đây giữ chức Phát vận sứ các lộ Giang, Hoài, tại chức hai năm, kênh đào vận chuyển ở Chân châu và Dương châu bị cạn, không được tu sửa. Khi có chỉ lệnh đào vét, Giáp lại hai lần tâu rằng dù kênh đào cạn nhưng nếu gắng sức kéo thuyền vẫn có thể đi được, nếu tiếp tục có mưa thì không cần đào vét, đến lúc không có mưa mới xin tu sửa. Lại thêm, kênh đào vận chuyển muối ở Thông châu và Thái châu bị tắc nghẽn, Tuần kiểm Phạm Ngạn Thần ở Trung Đoàn Oa xin tháo nước từ Trần Công Đường vào kênh đào, nhưng Giáp không nghe, khiến các lộ thiếu muối. Khi Ngự sử trung thừa Đặng Oản tâu, triều đình sai Hầu Thúc Hiến đào vét kênh đào, chưa đầy sáu bảy ngày đã báo rằng binh lính và phu phen chết chóc nhiều, lời đồn lan đến tai Vua. Làm sao có chuyện công trình vừa khởi công mà đã có nhiều người chết đến thế? Xin xét xử người tạo ra lời đồn, trị tội lừa dối.” Chiếu bãi chức Chuyển vận phó sứ lộ Tần Phượng của Trương Giáp, lệnh Ty đề điểm phủ Khai Phong điều tra tâu lên. Ban đầu, Giáp không tu sửa kênh đào, sợ Thúc Hiến thành công sẽ làm lộ rõ lỗi của mình, nên đã tung tin đồn, từng nói với Xu sứ Ngô Sung về việc này. Đến lúc này, do Đặng Oản tâu, triều đình càng ra lệnh điều tra, nhưng Giáp lại chối rằng không có chuyện đó. Ty điều tra cho rằng việc này liên quan đến đại thần, lại không có chứng cứ khác, nên tâu lên Vua. Chiếu bỏ qua việc này không xét. Đến tháng tám, khi vụ án được trình lên, Vua chỉ xử tội về việc đào kênh, bãi chức Giáp và cho làm Tri châu Nhạc châu. Việc này liên quan đến phê chuẩn ngày 27 tháng hai.

[13] Tặng chức Ngu bộ lang trung cho Ty lí tham quân Ung châu Nhâm Ỷ, chức Chức phương viên ngoại lang cho Huyện úy Nam Hải, Quảng châu, Quản câu khê động văn tự Ung châu Vương Giác, chức Tây kinh Tả tàng khố phó sứ cho Tam ban phụng chức, Tri châu Thất Nguyên Nùng Văn Phú, chức Cung bị khố phó sứ cho Tam ban tá chức, Chỉ sử Dung châu Vương Đạt và Tào Quăng, chức Nội điện thừa chế cho Tam ban sai sứ Trình Côi, Hoàng Quang An, Hoàng Trọng Phủ, chức Nội điện sùng ban cho Điện thị Trương Tốn. Nhâm Ỷ và những người khác đều bị giặc Giao Chỉ hại.

[14] Ngày Kỷ Sửu, bãi bỏ Lễ tân viện. Trước đó, Sở Tường định khố vụ lợi hại tâu rằng: “Công việc ở Lễ tân viện rất ít, cũng không có chi thu, mỗi khi sứ giả các nước đến cống, đều cử riêng quan lại lập cục để quản lý; việc buôn bán ngựa theo thời, tự đưa đến Quần mục ty, các việc trong viện dù có làm cũng chỉ là hình thức. Nhân đó nhận hối lộ, làm khổ người phương xa. Xin lệnh cho viện này ước lượng số người cần dùng, định ra mức cố định, tăng thêm lương bổng. Người nào nhận tiền vì công việc, thì xử theo phép gần sông kho, để trừ bỏ tệ hại.” Chiếu giao cho Tam ty thi hành, do đó bãi bỏ chức quan này. Việc xin thi hành phép kho là ngày 3 tháng 8 năm thứ 6, sự việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 mà chép lại.

[15] Lễ viện tâu: “Sứ Liêu báo tang, theo lệ cũ, quan Đãi chế trở lên đến Tể thần đến viếng ở Đô đình dịch, đeo đai đen bỏ cá, đi giày, để sứ Liêu ở quán nghe tin tang. Xin làm theo lệ cũ.” Vua đồng ý. Lúc đó, Hùng Châu báo rằng Quốc mẫu nước Liêu mất ngày 6 tháng 3.

[16] Chiếu cho Phán quan Chuyển vận lộ Hà Bắc Tây Lộ là Lý Tắc trình bày rõ các việc làm trái pháp luật trong nhiệm kỳ để tâu lên. Sát phỏng ty của lộ này tâu rằng Tắc tính tình khắc nghiệt, hành động khinh suất, ỷ thế quyền thế, tự ý làm nhục người khác, sắp xếp việc sai trái, phần nhiều làm theo ý mình, quan lại trong lộ đều khổ sở; lại có Giám thừa Ngoại đô thủy là Trình Phưởng cũng tâu rằng Tắc vượt quyền xâm phạm việc của người khác.

[17] Chuyển vận ty lộ Quảng Nam Tây Lộ tâu: “Xin hạ lệnh cho lộ Kinh Tây Nam mượn một hai nghìn cỗ xe của Giang Châu để vận chuyển lương thực.” Chiếu cho Chuyển vận ty lộ Kinh Tây Lộ[4] và Đề điểm ty phủ Khai Phong cùng thu gom một nghìn cỗ xe để gửi đi.

[18] Ngày Canh Dần, Vua phê: “Việc bán lẻ thuốc chín nên bãi bỏ, sợ quá tổn thương tiểu tiết, bốn phương nhìn vào, có hại quốc thể. Những việc khác có tương tự cũng nên chỉ đạo.” Lúc đó, Thái y cục bán thuốc chín, mà Thị dịch ty bỏ tiền mua, lại cho bán lẻ, nên ban chiếu này. Sau đó, chấp chính trình lên nhưng không thi hành.

[19] Hôm đó, Vua bàn với các đại thần về phép bày trận, cho rằng các tướng ít hiểu đạo lý chỉ huy quân đội. Ví như tám quân, sáu quân, đại tướng đều đứng ở giữa, đại tướng ví như trái tim, các quân như tứ chi. Vận dụng tâm trí, lấy thân điều khiển cánh tay, lấy cánh tay điều khiển ngón tay. Đánh bên trái thì bên phải cứu, đánh bên phải thì bên trái cứu, trước sau cũng vậy, thì quân làm sao thua được.

[20] Phó sứ Chuyển vận lộ Quảng Nam Đông Hứa Ngạn Tiên tâu: “Đã chiêu mộ người địa phương An Nam làm hiệu dụng, mười người thành một bảo, hai mươi người thành một đại bảo, ghi rõ quê quán lai lịch để phòng gian trá.”

[21] Đô đề cử ty Thị dịch tâu: “Chi sáu nghìn lạng vàng ứng phó cho An Nam, và chi năm mươi vạn quan tiền vật hóa cho ty Ứ điền Thủy lợi làm vốn mua lương, đều không có chỉ huy hoàn trả. Nay thượng giới thiếu vốn, xin chi năm mươi vạn quan tiền mạt diêm sao để buôn bán làm vốn.” Vua đồng ý.

[22] Sát phỏng lộ Kinh Hồ Nam, Bắc Bồ Tông Mạnh tâu: “Ruộng công ở Nguyên Châu cùng với núi rừng, vườn tược, nhà cửa đều bỏ hoang rất nhiều. Nghe nói dân các châu Toàn, Vĩnh, Đạo, Thiệu đến xin nhận, quan lại đã ghi tên vào bảo giáp các nơi, bèn bắt về. Huống chi bảo giáp vốn muốn dựa vào sức mạnh để trừ gian đạo, nếu bỏ nghèo theo giàu, vốn nên theo ý muốn. Xin hạ lệnh các nơi, nếu dân đến Nguyên Châu xin ruộng đất, không được lấy danh nghĩa bảo giáp mà bắt về.” Vua đồng ý.

[23] Ngày Tân Mão, chúa nước Liêu sai Tiết độ sứ Hưng Phục quân là Gia Luật Thứ Châm (theo 《Tống sử》, Thứ Châm viết là Thứ Kỷ), Thiếu khanh Thái thường, Tu soạn Sử quán là Hàn Quân Thụ; Quốc mẫu nước Liêu sai Tiết độ sứ Sùng Nghĩa quân là Gia Luật Trắc, Thiếu khanh Thái thường, Đãi chế Các Can Văn, Tu soạn Sử quán là Đỗ Quân Vị đến chúc mừng lễ Đồng Thiên. Vì nghe tin Quốc mẫu nước Liêu qua đời, nên bãi bỏ việc bày tiệc rượu. Hôm đó, Trắc và các người đã vào chầu, Vua ban chiếu cho biết Quốc mẫu nước Liêu đang uống thuốc, nên bãi bỏ yến tiệc ở điện Thùy Củng. Khi họ trở về dịch quán, lệnh cho họ xem công văn của châu Trác, đồng thời tuyên dụ ngừng việc chúc thọ lễ Đồng Thiên, bãi đại yến, lệnh cho Trắc và các người mặc tang phục tại viện Phúc Thánh chùa Khai Bảo. Vua ban chiếu cho tể tướng trở xuống và các quan tùy tùng đến chia buồn, lệnh Viện Học sĩ soạn thư riêng gửi chúa nước Liêu, cảm tạ việc Quốc mẫu sai sứ và bày tỏ lòng thương xót, không gửi thư riêng cho Quốc mẫu.

[24] Trung thư phúc tấu rằng: Chưởng thư ký Tiết độ sứ Kiếm Nam Tây Xuyên[5], Câu đương công sự Tư Nông tự là Vương Định Quốc xin vào chầu, Vua phê: “Nên thử thách thêm bằng công việc, xem xét kỹ năng của người ấy, chưa cần cho vào chầu.” Hôm sau dâng lên, cuối cùng vẫn theo lời phúc tấu của Trung thư.

[25] Tiền Đề điểm Hình ngục lộ Phúc Kiến là Lý Cảnh Lượng tâu: “Lộ Phúc Kiến từ châu Tuyền đến châu Chương, châu Đinh đều qua vùng lam chướng, lính trạm dịch ngựa ba năm thay một lần, chết quá nửa, cũng có nhà chết hết, thật đáng thương xót. Xin từ nay lính trạm dịch ngựa ở vùng lam chướng, một năm thay một lần.” Vua đồng ý.

[26] Vua ban chiếu giảm bớt các quan viết văn thư cơ mật ở Kinh lược ty Hi Hà.

[27] Lại ban chiếu: “Cố Trực học sĩ Long đồ các là Vương Quảng Uyên được tiên triều trọng dụng, nay ngoài ơn ban còn cho hai cháu của ông làm quan.” (Ông mất ngày 29 tháng 10 năm ngoái).

[28] Tri châu Dân là Chủng Ngạc tâu: “Xin mượn trước năm vạn quan tiền vốn để buôn bán, lấy tiền lãi chi dùng vào việc công và khao thưởng.” Vua đồng ý.

[29] (1) Tước một chức quan của Viên ngoại lang Hình bộ là Hướng Tông Nho, bãi chức Trung thư kiểm chính quan, quyền Đồng phán Tướng tác giám, vẫn giữ chức Tu nội chư ty thức. Tông Nho bị tội vì tư lợi sai khiển lại dịch Tướng tác giám bắt quản lý tiền của, lại dịch nhân đó mà bớt xén tiền lương của người làm việc trong giám, nên bị trách phạt. Các lại dịch đều bị đày đi Lao thành 500 dặm. Ngày 23 tháng 3, Tạ Cảnh Ôn hặc tội Tông Nho.

[30] Ty Nông tự tâu: “Ty Đề cử lộ Hà Bắc Đông tính toán việc chuẩn bị lương thực, nếu theo chiếu chỉ triều đình chở hết về Thiên Châu và Đại Danh, không chỉ tốn nhiều phí vận chuyển, mà còn sợ rằng các nơi đó chi tiêu hàng năm không nhiều, dẫn đến lương thực bị hư hỏng. Xin cho phép phân chia lương thực đến các châu quân gần sông và nơi đóng quân để tích trữ.” Triều đình đồng ý, nhưng ra lệnh không được vượt quá 200 dặm so với các châu phủ đã chỉ định trước.

[31] Ngày Quý Tỵ, bổ nhiệm Tiến sĩ đỗ đệ là Từ Đạc làm Đại Lý bình sự, Thiêm thư Việt Châu phán quan là Vương Nhiệm làm Cung Châu phán quan, Trần Sư Tích làm Chiêu Khánh quân Tiết độ chưởng thư ký. Nhiệm là người Thành Đô; Sư Tích là người Kiến Châu.

[32] Chiếu chỉ cho Ty Chiêu thảo đạo An Nam và Ty Tuyên phủ sứ Kinh Hồ Quảng Nam, lệnh cho các quan Chuyển vận ty tùy quân mang theo nhiều vàng lụa, gặp các châu động nào quy phụ thì lập tức mua lương thảo với giá cao.

[33] Ngày Giáp Ngọ, Trưởng Tôn Lương Thần, Tẩu mã thừa thụ Hi Hà, xin cấp tiền lụa để kịp thời mua lúa mạch hè.

[34] Trung thư Hộ phòng tâu: “Gần đây Ty Đề cử Thị dịch đã phát 15 vạn quan tiền hàng hóa làm vốn Thị dịch cho Hi Hà. Nay muốn lệnh cho Ty Thị dịch tăng thêm 5 vạn quan, lấy 10 vạn quan chuyển đến Hi Hà, 10 vạn quan lệnh cho Ty Thị dịch ở kinh đô mua lương thảo của bản lộ.” Triều đình đồng ý.

[35] Ngày Ất Mùi, nhân tang của Quốc mẫu nước Liêu, bỏ lễ chúc thọ dịp Tiết Đồng Thiên, quần thần và sứ Liêu đến cửa Cáp dâng biểu chúc mừng.

[36] Ngày Đinh Dậu, chiếu chỉ: “Trong kỳ thi thuyên bổ mùa xuân, hai người hơi ưu tú được bổ nhiệm vào chức đường trừ sai khiển; 21 người trung đẳng, quan kinh được bổ nhiệm trước, tuyển nhân không theo thứ tự mà bổ chức; 50 người hạ đẳng được bổ chức hoặc đổi chức, đều theo quy định này.”

[37] Chiếu rằng: “Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân Thúc Thuần bị xử tội chết, miễn trừ tên, tước một chức quan và bãi chức.” Vì tội đánh chết lính trực.

[38] Phó sứ chuyển vận lộ Quỳ Châu là Đổng Việt[6] xin chiêu mộ một nghìn nghĩa quân ở hai châu Thi, Kiềm để đi đánh An Nam. Được chấp thuận, lại lệnh cấp cho mỗi người mười nghìn tiền lộ phí, chiết trả bằng muối. Có thể xem thêm ngày 16 tháng 2.

[39] Chiếu rằng: “Xu mật trực học sĩ Tôn Vĩnh đang chịu tang, là cựu thần của Trẫm từ thời còn ở phủ đệ, nhà nghèo, gia đình đông người, nay lại bị bãi bổng, có thể đặc cách cấp thêm lương tháng.”

[40] Chiếu rằng: “Nghe nói giặc Giao Chỉ thường sai người gian trá do thám ở hai lộ Quảng, lệnh cho Tuyên phủ ty chỉ huy các tướng quan, đến nơi phải xem xét kỹ việc huấn luyện, không cho người ngoài xem, để tránh bị dò xét cách tiến thoái khi đánh giặc.”

[41] Chiếu rằng: Các lộ Hà Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây khi tiến cử võ cử, đều phải là người bản địa.

[42] Ngày Mậu Tuất, Câu đương Tam ban viện, Hữu gián nghị đại phu Trình Sư Mạnh được làm Cấp sự trung, Tu soạn ở Viện Tập hiền. Vì có công khi làm Tri Quảng Châu được thăng chức.

[43] Chiếu rằng: Sông Quảng Tế vẫn tiếp tục vận chuyển như cũ, lại đặt quan Bài ngạn ty ở Kinh Bắc. Có thể xem thêm tháng 7 năm Thiên Thánh thứ 6, tháng 10 năm Hi Ninh thứ 7, tháng 12 năm thứ 8.

[44] Sát phỏng lộ Kinh Hồ là Bồ Tông Mạnh tâu: “Bảo giáp ở lộ Hồ Bắc, không có huyện nào tuân theo chiếu chỉ, việc sắp xếp bảo giáp trong các thôn, đều dùng đại bảo, đô bảo, chỉ sắp xếp trong từng thôn, không liên kết với thôn khác, hoàn toàn không theo chỉ huy ban đầu, xin xử phạt các quan giám sát vi phạm pháp luật.” Chiếu rằng: Các quan chức không làm đúng chức trách trong việc sắp xếp bảo giáp và các quan đề cử đều bị ghi vào sổ.

[45] Thành Đô phủ và Lợi Châu lộ Kiềm hạt ty tâu rằng đã phái Đô giám Miên Châu là Vương Khánh, Đô giám Thục Châu là Tôn Thanh dẫn quân đi đánh giặc phiên ở Mậu Châu. Triều đình ra chiếu cho Kiềm hạt ty điều tra nguyên nhân giặc xâm nhập rồi tâu lên. Mậu Châu trước đây quản lý chín châu ki mi, đều là bộ lạc phiên. Người phiên tự cử một người làm châu tướng, thường đến Mậu Châu nhận chỉ thị. Mậu Châu trước không có thành, chỉ dựng hàng rào gỗ, người phiên thừa đêm tối vào châu cướp bóc gia súc của dân. Khi vào Mậu Châu, họ thường lấy của cải từ nhà dân, bắt châu tướng đến chuộc, rồi giảng hòa và thề ước, việc này đã thành thông lệ, dân chúng rất khổ sở.

Đến khi Lý Kỳ làm Tri châu Mậu Châu, dân dâng thư xin xây thành bao quanh khu dân cư, dài hơn 800 bước. Kỳ xin triều đình, Vua đồng ý với ý kiến của Kỳ, giao cho Đô Kiềm hạt ty xem xét. Khi Kỳ bị cách chức (Kỳ tâu việc này vào ngày 22 tháng 7 năm thứ 8), Đại Lý tự thừa Phạm Bách Thường thay thế. Bách Thường cho rằng có thể xây thành, Thái Diên Khánh tâu lên, Vua ra chiếu cho xây. Sau đó, các bộ lạc phiên kéo đến kêu với Bách Thường, nói rằng nền thành xâm phạm đất của họ, xin ngừng xây. Bách Thường không đồng ý, người kêu nài không thôi, Bách Thường dùng gậy đuổi họ đi.

Ngày Kỷ Mão tháng 3, khởi công xây thành, nhưng Châu tướng Tĩnh Châu là Dương Văn Tự liên kết với các bộ lạc phiên nổi loạn, dẫn vài trăm người ập đến. Quân Mậu Châu chỉ có 200 người, Bách Thường dẫn họ chống cự, giết được vài tên phiên, bọn chúng bèn tan chạy. Bách Thường dời dân vào nha thành. Hôm sau, vài nghìn người phiên từ bốn phía kéo đến, đốt sạch hàng rào gỗ và nhà dân, dùng thang và xe công thành, tên đá như mưa, Bách Thường lên thành cố thủ. Năm ngày sau, hai tù trưởng của chúng bị cây gỗ đè chết, bọn chúng bèn rút lui. Sau đó, chúng nhiều lần đến đánh thành nhưng không hạ được, nhưng kỵ binh tuần tra của chúng vẫn vây quanh bốn núi, người trong thành không dám ra ngoài. Phía nam Mậu Châu có ải Kê Tông, đường thông đến Vĩnh Khang quân; phía bắc có Lũng Đông, đường thông đến Miên Châu, đều bị người phiên chiếm giữ. Bách Thường mộ người đi đường tắt đến Thành Đô, lại viết hàng trăm tấm bảng gỗ thả xuống sông, báo cáo nguy cấp xin viện binh. Thái Diên Khánh bèn phái tướng chia đường đi đánh.

Hùng Bản có nói thêm, phụ vào ngày 26 tháng này khi Vương Khánh thua trận.

[46] Ngày Canh Tý, Mã Giam, chức Đại Lý bình sự, kiêm chức Đồng đề cử Tần Phượng đẳng lộ Thường bình sự, được bổ làm Thái tử trung xá, quyền Phát khiển Giang Nam Tây lộ Chuyển vận phán quan. Vương Thiều tâu rằng Mã Giam đã thu thập tội lỗi của các quan lại ở Hi Hà, nên bị điều đi nơi khác. Ngày 9 tháng 12 năm thứ 8, Vương Thiều tâu rằng Mã Giam đã thu thập tội lỗi của các quan lại ở Hi Hà, việc Mã Giam bị điều đến Giang Tây có lẽ là do việc này. Ngày 14 tháng 5, Vương An Thạch cũng có lời nói về việc này, có thể làm bằng chứng.

[47] Ngày Nhâm Dần, Vua phê rằng: “Con gái của tông thất, trước là đạo sĩ ở Động Chân cung, Triệu Đạo Thâm, trước đây vì tội bị giáng xuống và đưa đến Dao Hoa cung, gần đây đã được ân xá, nên cho phép trở về như cũ. Anh trai của bà là Khắc Thục, chức Tùy Châu đoàn luyện sứ, vốn vì liên quan đến tội của Đạo Thâm mà bị liên lụy, hiện vẫn còn bị xét xử, đáng lẽ phải kéo dài thời gian xét xử, nhưng nay đặc cách xóa bỏ.” Trước đây, Đạo Thâm đã bí mật cầu xin các quan trong cung và hối lộ lại viên để được gặp Khắc Thục, nên cả hai đều bị tội, đến nay được tha.

[48] Tuyên Huy sứ Vương Củng Thần tâu: “Xin rằng mọi nghi thức đều do Thiêm thư Xu mật viện quyết định.” Vua ra chiếu lệnh cho Cáp môn xem xét và trình lên. Sau đó, Cáp môn xin rằng Tuyên Huy sứ, Thị điện trực, Trung thư, Mật viện hợp ban hỏi thăm sức khỏe của Vua và các lễ mừng không theo thứ tự, đều được tham gia, xin ban hành thành lệnh, Vua đồng ý.

[49] Đồng phán Đô thủy giám Lưu Cáp kiêm chức Đô đại đề cử, Chế trí Hoài Nam vận hà, Tri Đô thủy giám thừa Cảnh Uyển kiêm chức Đồng đề cử.

[50] Ngày Quý Mão, Vua ra chiếu rằng: “Những binh lính và dân chúng ở Quảng Nam bị chết trận hoặc bị giặc giết hại, những hộ dân còn sống, lệnh cho Quảng Tây Chuyển vận, An phủ ty cùng báo cáo số hộ khẩu và bàn bạc cách cứu trợ để tâu lên.”

[51] Đô thủy giám thừa ty tâu: “Xem xét việc xây đê ở Hứa Thôn cảng nối với sông Ngư Lặc, thấy rất thuận tiện, hiện đã bắt đầu thi công.”

[52] Ngày Giáp Thìn, lệnh cho Quan cáo viện cấp các tờ cáo thân không tên cho các chức Quốc tử bác sĩ, Điện trung thừa, Vệ úy tự thừa, Đại Lý bình sự, Nội điện sùng ban, Cung bị khố phó sứ, mỗi loại 92 tờ, giao cho An Nam để chiêu hàng và thưởng công.

[53] Chiếu rằng: “Nghe nói Giao Chỉ thường xuyên ra khỏi địa phận, dán bảng hiệu ép buộc dân các động ở vùng núi phải quy phụ, những người ở gần biên giới không thể trốn tránh được, hãy sai sứ thần của Tuyên phủ ty bí mật dụ dỗ các thủ lĩnh, nếu đại quân chưa đến, thế lực chưa đủ, hãy tạm thời theo giặc bên ngoài, nhưng bí mật làm gián điệp, vừa có thể bảo toàn được người già trẻ nhỏ, lại có thể làm nội ứng cho quân triều đình, đợi khi quân chiêu thảo đến nơi, cùng hợp lực phá giặc, triều đình sẽ không tiếc tước lộc ban thưởng.” Theo sự việc ngày 8 tháng 6 ghi trong 《Nhật lục》 ngày 3 tháng 6, thì việc tạm thời để dân các động theo giặc là kế của Ôn Cảo, cần xem xét thêm. Ngày 19 tháng 4 cũng cần xem xét[7].

[54] Tuyên phủ ty[8] tâu rằng: “Đã điều động quân của tướng thứ nhất bên phải thuộc Kinh lược ty đến đóng ở Ung Châu để phòng bị khi cần kíp.” Chiếu rằng: “Thành lũy ở Ung Châu chưa hoàn thành, đường vận lương chưa chuẩn bị xong, nay đang là mùa mưa dầm và dịch bệnh, nếu giặc lại đến, một tướng quân mã có lẽ không đối phó được, sẽ lại rơi vào kế gian của giặc, hãy lệnh cho Tuyên phủ ty xem xét lại và chỉ huy.”

[55] Ngày Bính Ngọ, Hộ bộ phó sứ, Độ chi lang trung Vương Khắc Thần làm sứ tế điện cho mẹ của Liêu Quốc, Tây thượng các môn phó sứ Trương Sơn Phủ làm phó; Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý Bồ Tông Mạnh làm sứ điếu uý cho mẹ của Liêu Quốc, Tây thượng các môn phó sứ Vương Uyên làm phó.

[56] Đồn điền viên ngoại lang, Tri Bành Châu Lã Đào tâu: “Giao Chỉ cướp phá Quảng Tây, nếu bên ngoài liên kết với Nam Chiếu làm đồng đảng, rất đáng lo ngại, xin cho các châu Lê, Nhã, Nhung, Lô, Thi, Kiềm đều chuẩn bị phòng bị trước. Lại xin chiêu mộ nhiều quân địa phương, phiên trấn ba nghìn người, các châu phòng ngự, đoàn luyện ba nghìn người, các nơi khác đều một nghìn người, huấn luyện tinh nhuệ để phòng bị Thổ Phồn. Lộ Thành Đô mỗi châu hoặc mỗi huyện có tiền vài vạn quan, lương thực vạn hộc, hàng năm sinh lợi không kể xiết. Châu có thành có quân, cất giữ chắc chắn, huyện không có thành lũy, lại ít quân đồn trú, nếu giặc cướp thừa cơ đánh chiếm, lấy gì chống cự? Nay muốn xây thành cho các huyện, xin giao cho Ty Chuyển vận, Ty Đề cử họp bàn với các huyện về tiền lương, chi trả một năm ngoài ra, số còn lại đều giao về châu quận, tăng gấp đôi số cung thủ, mỗi vạn hộ đặt một trăm người để phòng giặc cướp. Nay nếu số quân địa phương chiêu mộ chưa đủ, thì không gì bằng chiêu mộ nhiều cung thủ, tập luyện lâu ngày, ghi tên vào quân ngũ, họ cũng sẵn lòng theo. Hơn nữa, tiền chiêu mộ hàng tháng, mỗi người không quá bốn nghìn, so với nuôi quân, chi phí cũng tương đương.” Chiếu rằng: “Lời tâu về việc tiền lương thường bình giao về châu quận, lệnh cho Ty Nông tự bàn kỹ, sửa vào sắc lệnh thường bình của một lộ, các điều khác không thi hành.” Sau đó, chiếu rằng các huyện, trấn, thành, trại xa xôi và hoang vắng, tiền thường bình giao cho Ty Đề cử, trừ số để lại cấp phát, số còn lại đều gửi về châu.

[57] Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây Lộ Lý Bình Nhất tâu: “Ty Tuyên phủ An Nam gửi thư cho thần đi theo cấp lương quân, xin hạ lệnh cho Hồ Nam, Quảng Đông phát một nghìn chiếc thuyền đáy bằng, thuê thủy thủ vận chuyển tiền lương, và xin phát binh trước khống chế các trại Thái Bình, Vĩnh Bình để việc vận lương được an toàn.” Theo lời tâu, việc phát binh giao cho Kinh lược ty xem xét thi hành.

[58] Chiếu bỏ chức Chưởng cơ nghi quan của quân Vĩnh Hưng. Trước đó, Tri quân Vĩnh Hưng La Chửng tâu xin cho Phạm Dục đảm nhận chức vụ này, nhưng Vua cho rằng Vĩnh Hưng là đất nội địa, không có việc biên giới, lại quân mã không nhiều, nên có chiếu này. Lúc đó, Phạm Dục đã theo lời mời của Quách Quỳ làm Chưởng cơ nghi quan đạo An Nam, đến Đàm Châu tâu bàn về tình hình Giao Chỉ, đại lược nói: “Triều đình nên bàn kế sách nhẹ nhàng và cứu viện chậm rãi, đạt thắng lợi toàn diện, không nên làm những kế hoạch nặng nề và gấp gáp.” Lại nói: “Xử lý việc lớn phải nghiêm túc, dù không có việc gì cũng không thể chậm trễ, như việc giữ biên giới tây bắc. Cứu viện chậm rãi thì nhẹ nhàng, dù có cảnh báo cũng không thể vội vàng, như việc chinh phạt An Nam.” Sau đó, ông xin từ chức vì bệnh và trở về.

(Ngày 21 tháng 4 năm thứ 9 trong 《Ngự tập》, An phủ sứ lộ Vĩnh Hưng La Chửng tâu xin cho Điện trung thừa Tiết Xương Triều đảm nhận chức Cơ nghi văn tự của Đô tổng quản ty lộ này. Xương Triều đã được bổ nhiệm làm Cơ nghi văn tự của Đô tổng quản ty đạo An Nam, nhưng vì bệnh chưa khỏi, khó đi xa, nên xin được chỉ huy làm Chưởng cơ nghi văn tự của lộ này. Vua phê: “Vĩnh Hưng là đất gần, không có việc biên giới, lại quân mã không nhiều, chức Cơ nghi quan có thể bãi bỏ, không cần bổ nhiệm người khác.” Theo 《Ngự tập》, Tiết Xương Triều thực sự được bổ nhiệm làm Cơ nghi quan đạo An Nam trước, không phải Phạm Dục. Nhưng 《Thực lục》 lại ghi Xương Triều là Phạm Dục. Trong bài văn bia mộ Xương Triều do Phạm Dục soạn, có ghi Xương Triều trước theo lời mời của Quách Quỳ, làm Chưởng cơ nghi quan quân Vĩnh Hưng, xử lý việc cơ mật. Tăng Công Lượng và Ngô Trung Phục cũng theo Quỳ ở Thái Nguyên, rồi xin về vì việc tang. Khi Quỳ nam chinh, lại mời ông làm Chưởng cơ nghi quan, nhưng Xương Triều bệnh không thể đi, sau đó theo Lý Thừa Chi ở Phu Diên. Ban đầu không ghi Xương Triều được La Chửng mời. Trong tập của Phạm Dục còn có bài tấu về việc dùng binh ở An Nam khi đến Đàm Châu, trên đường đến Trường Sa, xin từ chức vì bệnh và trở về bắc. Như vậy, 《Thực lục》 cũng không hẳn sai, có thể Quách Quỳ đã mời cả Xương Triều và Phạm Dục, nhưng Xương Triều không đi, còn Phạm Dục đi rồi lại về. 《Ngự tập》 và 《Thực lục》 đều không sai, nay ghi chép cả hai. 《Cựu lục》 nói Trung thư tâu xin bãi chức, vì Xương Triều và Phạm Dục đều bị Vương An Thạch ghét, nay chỉ ghi lại lời chiếu.)

[59] Chiếu ban cho quân Thông Viễn một vạn quan tiền, lệnh cho họ buôn bán thu lợi để giúp chi phí công.

[60] Lại chiếu cho Ty Chuyển vận và Ty Thường bình Phúc Kiến, trong số tiền dự toán hàng năm và tiền thừa từ các dịch vụ, chi ra để xây thành ngoài Châu Tuyền.

[61] Ngày Đinh Mùi, Lưu Tá, người được cử đi xem xét lợi hại của các trường trà ở phủ Thành Đô và các lộ khác, tâu rằng: “Thương nhân buôn muối Giải vào Tứ Xuyên mua trà đem về Thiểm Tây, thu lợi rất lớn. Xin theo lệ của thương nhân, mỗi năm dùng mười vạn tịch muối đổi lấy sáu vạn (Mã Khuyển) trà, ước tính vốn bỏ ra là hai trăm linh một vạn quan, so với lợi nhuận của thương nhân thì đều là số tiền vừa phải, và cấm thương nhân buôn lậu.” Triều đình đồng ý. Lại cử Lưu Tá làm Đề cử các trường trà ở phủ Thành Đô, Châu Lợi, Châu Tần Phượng, Lộ Hi Hà, kiêm Ty Thị dịch Lộ Hi Hà. Sau đó lại cử Lưu Tá kiêm Đề cử việc mua ngựa. Việc kiêm mua ngựa là sự việc ngày 25, nay ghi chung lại.

[62] Ngày Mậu Thân, Ty Đô đề cử mua ngựa Lộ Hi Hà tâu rằng: “Ty Giám mục thiếu thốn, hiện còn nợ tiền của Ty Thị dịch, mà Ty Thị dịch muốn đợi trả đủ mới chịu ứng phó việc mua ngựa, đùn đẩy lẫn nhau, thực sự làm trễ nải việc mua ngựa hàng ngày. Xin cho giá ngựa đều dùng trà để chiết khấu, nếu khách mua ngựa muốn thêm tiền để mua trà cũng được, đợi khi số tiền thêm nhiều thì cho phép vừa trả tiền vừa trả trà, để công tư đều tiện. Số trà dùng để mua ngựa hàng năm, xin lệnh cho trường trà xem xét số lượng cần dùng rồi cấp cho bốn trường[9], đợi khi đủ số rồi mới cấp số thừa cho Ty Chuyển vận để mua lương thảo.” Triều đình đồng ý. Lại chỉ thị lấy số lụa và lĩnh của Lộ Xuyên dùng để ứng phó cho cương lụa Kinh Tây, cắt lại để chi phí mua mười vạn con ngựa của lộ này, đều cấp cho Lộ Hi Hà để thêm vào việc mua ngựa. Nếu Lộ Xuyên thiếu tiền mua ngựa, thì lại lệnh chi tiền thừa từ các phường trường của Lộ Thành Đô để thêm vào.

[63] Học sĩ điện Tư chính, tri châu Vị Châu là Phùng Kinh làm tri phủ Thành Đô, Long đồ các trực học sĩ, tri phủ Thành Đô là Thái Diên Khánh làm tri châu Vị Châu. Trước đó, Diên Khánh trong một ngày dâng ba tờ tấu về việc bộ lạc người Phiên ở châu Mậu với số lượng hàng nghìn người chặn đường quan, đã ba lần phái tướng quan dẫn quân đi đánh dẹp. Chiếu rằng: Diên Khánh tấu trình về việc bố trí trước sau, đã có vẻ hoang mang, Trung thư, Xu mật viện nên cùng bàn xem có thể dựa vào để giải quyết việc biên giới này hay không, không để xảy ra sai lầm, sinh ra mối họa lớn. Vì thế lấy Kinh thay thế, vẫn kiêm chức An phủ sứ phủ Thành Đô, lộ Lợi Châu.

[64] Bãi chức Viên ngoại lang tỷ bộ là Cấp Phùng làm Đề cử bộ lạc người Phiên lộ Hi Hà, vẫn giữ chức Đồng đề cử trà trường các lộ Thành Đô, Lợi Châu, Tần Phượng, Hi Hà.

[65] Trung thư tâu: “Việc mua ngựa ở lộ Xuyên vừa ít vừa yếu, lại theo lời các cơ quan các lộ, việc độc quyền trà, sửa đường đều bất tiện cho kế hoạch biên giới và tình hình người Man, xin bãi chức Đề cử mua ngựa, các chỉ thị về mua ngựa, độc quyền trà trước đây không thi hành nữa.” Theo đó. Ngày 12 tháng giêng năm thứ 8, Dư Diên Khánh nói…, ngày mùng một tháng 8 chiếu rằng…

[66] Tri phủ Thành Đô là Thái Diên Khánh tâu: “Xin phát 5000 quân Thiểm Tây cứu viện châu Mậu, đợi quân mã tập hợp, muốn tự mình dẫn quân đi, xin cho Chuyển vận sứ tạm quản việc phủ.” Chiếu rằng: “Triều đình đã phái tướng dẫn quân ứng cứu, lệnh Diên Khánh phải cẩn trọng, không được khinh suất ra quân.” Hôm đó, chiếu cho lộ Tử Châu phát 1500 quân đến Thành Đô. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.

[67] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Người Tây Hạ xâm canh đất hoang ở thành Tuy Đức.” Chiếu rằng: “Thành Tuy Đức vốn lấy giới hậu phân định biên giới với người Tây Hạ, nay đất canh tác đã nằm ngoài giới hậu, tự nhiên không nên tranh chấp, vẫn phải tường trình vì sao có hai khoảnh đất hoang không canh tác.” Ngày 15 tháng 5 có thể tham khảo.

[68] Ngày Kỷ Dậu, khôi phục huyện Đạo Giang làm quân Vĩnh Khang, dùng võ thần làm Quân sứ, kiêm Tri huyện sự, vẫn thuộc Bành Châu. Do có chỉ phê rằng: “Quân Vĩnh Khang chính là nơi kiểm soát cửa ải sáu châu quân ở Tây Sơn, trước đây theo lời tâu của Trương Thương Anh xin bãi bỏ làm huyện Đạo Giang, nếu không có quan quân thì thực sự không đủ để trấn áp, nên cho khôi phục lại như cũ.”

[69] Chiếu rằng: “Các quan được triều đình, tỉnh, tự, giám cử ra ngoài để an phủ, thể lượng, sát phỏng và xử lý công việc, nếu có sắp xếp sai trái hoặc vi phạm pháp luật, các Giám ty, châu quận tại chỗ và Trưởng lại đều phải bí mật tâu lên. Nếu có che giấu để sau này bị phát giác, sẽ tùy theo mức độ nặng nhẹ mà xử lý.”

[70] Việc sắp xếp tài lợi ở Hi Hà, Tôn Huýnh xin dời Ty Thị dịch của quân Thông Viễn về Tần Châu, bãi bỏ ba ngoại trường Thị dịch ở Tần Châu, Thông Viễn quân và trại Vĩnh Ninh[10], cùng ba trà trường ở Hi Hà và Thông Viễn, có thể giảm bớt hơn năm mươi quan lại. Chiếu cho Lưu Tá xem xét rồi tâu lên.

[71] Ngày Canh Tuất, Ty Chuyển vận Tần Phượng các lộ tâu rằng: “Trước đây, Quản câu Hi Hà Phiên bộ ty Văn tự, Lâm Kinh huyện lệnh Trương Duy cho dân vay mười lăm vạn bốn nghìn hai trăm mân, chỉ thu được sáu vạn tám nghìn một trăm mân, số còn nợ không biết ở đâu, xin hạ lệnh cho An Châu bắt Trương Duy đến Hi Châu nhận diện các hộ nợ để thu nợ.” Chiếu cho Thái Xác đến đặt viện xét lại, còn Trương Duy thì lệnh cho Khai Phong phủ sai người áp giải đi. Ngày mồng 3 tháng 4 sai Thái Xác đi.

[72] Chiếu rằng: “Binh bộ chọn giữ lại năm viên phụ trách công việc, còn lại giảm bớt. Từ nay về sau, lệnh cho Binh bộ cử người đã từng làm việc, đợi khi các lộ Nghĩa dũng, Bảo giáp lên phiên thì xin chỉ tăng thêm quan.”

[73] Lại có chiếu rằng: “Nghĩa dũng, bảo giáp các lộ Hà Bắc, Hà Đông, lệnh cho lên phiên dưới quyền Tuần kiểm, Huyện úy, lần lượt giảm bớt binh lính, cung thủ. Những người lên phiên đều thay đổi nửa tháng một lần. Từ ngày thứ ba lên phiên, cứ hai ngày một lần, chọn hai phần người tinh thông võ nghệ cho về trước, đến lần thứ ba thì dừng, nhưng không được cho về quá số để sung điền. Số binh lính, cung thủ giảm bớt ở các nơi, hàng năm vào tháng nông nhàn, cùng với người hạ phiên, lệnh cho Tuần kiểm, Huyện úy tập hợp dạy trong năm ngày. Số binh lính Tuần kiểm thay thế, tức khai trừ trong số binh định của bản lộ, không được chiêu bổ nữa. Số tiền vật chi cũ cho binh lính, cung thủ giảm bớt, giao cho Giám ty thu lại phong trang, mỗi quý kê khai số lượng tâu lên Binh bộ, Trung thư điểm kiểm, để dùng vào việc khác.”

[74] Người buôn Quách Vĩnh tâu rằng: “Da trâu, gân, sừng, từ niên hiệu Khánh Lịch đã từng cấm, đến niên hiệu Hoàng Hựu thì bãi cấm, đến nay hơn ba mươi năm không có sai sót. Gần đây Quân khí giám xin cấm thông thương, lại đặt ra luật thưởng tố cáo, xử phạt hết những người vi phạm. Nay kho quan từ khi thi hành lệnh cấm, so với ngày thông thương, số da, sừng mua được đã giảm đi một nửa. Hơn nữa, nhà nông lấy trâu làm gốc cày cấy, nay trâu chết, lại đặt ra điều khoản thúc ép họ lột da nộp, đường sá đi lại, quan lại lưu trệ, chi phí rất nhiều, hơi chậm trễ lại có luật thưởng tố cáo, không chỉ hại việc nông. Xin bãi bỏ hết lệnh cấm, nếu Quân khí cần dùng, xin giao cho bọn thần lo liệu, để mở lợi cho nông dân buôn bán.” Vua phê rằng: “Lệnh cấm sừng thi hành, công tư đều khổ, lời tâu của Quách Vĩnh rất tường tận, Trung thư, Xu mật viện hãy cùng bàn kỹ, cho phép khôi phục như cũ.” Sau đó liền có chiếu cho phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây đều được thông thương.

[75] Ngày Tân Hợi, sai Nội thị áp ban Vương Trung Chính đi xem xét việc biên giới lộ Thành Đô phủ. Ban đầu, Thái Diên Khánh muốn dùng binh đánh dẹp giặc Phiên, sợ Chuyển vận ty không chịu cấp phí binh lính, bèn tâu xin cho một viên nội thần cao cấp cùng bàn bạc, nên Trung Chính được sai đi.

[76] Thái Diên Khánh tâu rằng giặc ở Mậu Châu thế lực ngày càng mạnh, xin phát binh tướng ứng cứu. Chiếu cho Vương Trung Chính ở Thiểm Tây tuyển mộ các quân một nghìn người. Ban đầu, Diên Khánh chia quân tướng đi cứu Mậu Châu, Tôn Thanh từ Kết Tổng Quan đi, giặc phục binh giết chết, quân sĩ nhiều người tử thương. Vương Khánh từ Lũng Đông đạo vào cứu viện, lúc đó tù trưởng người Thổ ở Thời Châu xin hàng, người đi theo giết hai con của tù trưởng, tù trưởng nổi giận, bí mật báo cho các bộ lạc người Thổ ở Tĩnh Châu, bảo họ chặn phía trước, còn mình đuổi phía sau, chặn dòng nước phía trên, quân của Khánh đi được nửa chừng thì nước vỡ, quân sĩ chết đuối gần hết, Khánh bèn tử trận.

(Khánh tử trận không rõ thời gian, nay phụ chép vào đây. Việc Tôn Thanh trong 《Thực Lục》 không thấy chép, nên khảo xét kỹ.

Tri châu Bành Châu Lã Đào ngày 19 tháng 4 tấu xin triều đình chọn cử quan võ rằng: “Ở Thành Đô lộ có ba người dũng cảm từng trải qua chiến trận là Lưu Khuê, Vương Khánh, Tôn Thanh, gần đây điều quân đều đã tử trận.” Căn cứ vào đây có thể thấy việc Tôn Thanh bại tử trong 《Tư Mã Ký Văn》 là không sai. Ngày 5 tháng 6 Kỷ Sửu, ngày 12 tháng 10 Ất Mùi, lại có việc Lưu Khuê, Khuê bại tử cũng trước ngày 19 tháng 4.

Trong 《Hùng Bản Tập》 có bài đề bạt về việc Mậu Châu của Trần Thầm, nay phụ chú ở đây, Thầm viết: “Ban đầu, do quyền châu Đồn Điền Lý Kỳ[11] kiến nghị với Xuyên Doãn, xin mở rộng xây thành, nay Tri châu Trung Xá Phạm Bách Thường nghe theo và ủng hộ, có người nói các quan đều đồng ý, Xuyên Doãn bèn nói là có chỉ, vào ngày 23 tháng 3 năm nay khởi công, lấy đất ngoài thành. Tướng người Thổ tố cáo ở châu rằng thành của người Hán không nên dùng đất của người Thổ, Phạm đánh đập, họ bèn về tự tử. Ngày 25, bộ lạc người Thổ dưới quyền Đổng A Đan ở Tĩnh Châu đem quân uy hiếp thành, đốt phá nhà cửa ven thành, cướp bóc rồi rút đi. Kiềm ty sai Địch Tư từ Đạo Giang lộ, Quách Cố từ Thạch Tuyền lộ đem quân tiến đánh.

Ngày 8 tháng 4, tiên phong Tả Tàng Lưu Khuê, Thôi Chiêu Dụng, Cung Bị Vương Khánh cùng con trai, Thị Cấm Trương Nghệ, Từ Sĩ Dụng, Phụng Chức Nhâm Khánh đem một nghìn quân, tại địa danh Quách Lưu Khẩu bị tử trận, đây là thuộc quyền Quách Cố. Ngày 9, tiên phong Cung Bị Tôn Thanh, Sùng Ban Mã Văn Tú, Phương Trung Chính tiến đến huyện Mân Xuyên, bị người địa phương là Nhiếp Tri huyện Trương Nhân Quý mai phục, Thanh tử trận, Mã, Phương bị thương nặng may thoát được, đây là thuộc quyền Địch Tư. Ngày 23, Bá Châu giảng hòa với giặc, giặc sai mười người đến hội minh, Nhân Quý cũng ở đó, Bá Châu bắt được giải về Thành Đô. Trước đó, Kiềm ty treo thưởng năm trăm quan tiền cho ai bắt được Nhân Quý. Quách Cố lui về giữ Thạch Tuyền, Địch Tư về Thành Đô, Trương Khắc Minh thay thế.

Ngày 30, có thủ lĩnh người Thổ ở Thời Châu là Khai Lãng đến đầu hàng, nói mang thư tay của Tri châu Mậu Châu Phạm Trung Xá gửi Kiềm hạt. Thông phán Sùng Nghĩa Giá Bộ Trọng Kham, đang ở quân tiền lo việc lương thảo, nói rằng Khai Lãng ban đầu đến chỗ Lưu Thái Bảo Khuê xin thề, Thái Bảo không đồng ý, giết ba người bộ lạc của ta. Thấy vậy, thực sự đã chống lại, trả lại ghế, chậu rửa và mười lăm con ngựa của Thái Bảo, nếu cho ta thề, nguyện dẫn đường đến Mậu Châu. Cố đem trà và lụa cho họ, vì chưa có chỉ triều đình và đã giết tướng quan, không dám cho thề, bộ lạc người Thổ cũng nói phải có chỉ triều đình mới giải tán.

Lại nghe nói bắt được gián điệp nói rằng ban đầu Đổng A Đan muốn đánh thành châu, có lão tướng ngăn lại rằng: Thành châu của nhà Hán tuyệt đối không thể phá, quan phủ sẽ không dung thứ cho chúng ta ở đây. Sau đó có bộ lạc người Thổ gần thành là Khanh Khanh ở phía sau thành châu và núi Đài Bàn dẫn nước vào châu, cùng với ba nghìn thạch gạo xây thành hiện có trong châu, có thể cố thủ. Người Thục ban đầu cho rằng họ liên kết với bên kia sông làm loạn, rất lo sợ, sau biết chỉ là bộ lạc người Thổ ở các châu lân cận, và thấy triều đình thay tướng, sai trung nhân điều tra, bèn yên ổn, xem xét đầu đuôi, người bộ lạc không có tội lớn. Ban đầu nếu chiêu mộ người biên giới vào bộ lạc thuyết phục, hoặc hứa bỏ việc xây thành, hoặc hứa bồi thường, không cần dùng binh, hoặc cần đem quân hỏi tội, cũng nên nghiêm khắc răn các tướng không được khinh địch tiến bừa, há lại có họa ngày nay? Nghe như vậy, Thầm kính bẩm.”

Lại có một thuyết khác, quận tướng dùng pháp luật nhà Hán để trị các bộ lạc, lòng người bắt đầu chia rẽ. Trước đó, bắt giữ và xét xử mấy người làm nghề phù thủy, một tên tư khôi nhận hối lộ rồi bỏ trốn, sai người đuổi bắt, bộ lạc hai ba mươi người chống lại sứ giả, sau cùng bắt được tên tư khôi và những kẻ chống đối giải đến ty kiềm, đều bị xăm mặt và đày đến các châu quân gần đó. Nhân việc xây thành, bèn nổi loạn.

Bản đề bạt viết: “Mùa xuân năm Hi Ninh thứ bảy, ta ở Giang An, hịch triệu Kiềm hạt Thành Đô là Giả Xương Ngôn dẫn quân vào địa giới, Xương Ngôn đem theo Vương Khánh cùng con trai, Trương Nghệ, Tôn Thanh, ta từ chối, nhưng hắn không nghe, bèn cho thuộc dưới quyền Xương Ngôn. Giặc yên, theo lệ đều được thăng chức. Từ Sĩ Dụng là con cháu nhà y quan, từng làm Giám áp Tùy Châu, Hàn Thục thường sai hắn đến xin được dùng, ta không đồng ý. Năm sau, ta lại được lệnh làm An phủ Quỳ Châu lộ, kiêm trị việc người Di ở phía nam Du Châu, dùng các tướng tá đều là người đã lập công ở Lô Nam. Lúc đó, Vương Khánh và đồng bọn vẫn còn ở Thục, cũng xin được dùng. Giả Xương Ngôn đang quản câu trung quân, nhiều lần nói về việc này, ta bảo Xương Ngôn: ‘Năm người này đều là kẻ có dũng mà thiếu mưu, may mắn trước đây không thể coi là thường, nay nếu dùng họ, ắt sẽ làm hỏng việc của ta.’ Bèn thôi. Khi trở về, đi qua Tả Miên, Khánh làm Trú bạc Đô giám, rất oán hận, ta chỉ xin lỗi mà thôi. Không lâu sau, Tây Xuyên xuất quân đánh dân thục hộ ở Mậu Châu, Khánh và đồng bọn đầu tiên tham gia hành quân, liền bị giặc Khương bắt giết, đau đớn thay! Phàm tướng đội trưởng trở lên trong quân không thể chỉ dùng người có sức mạnh, đây là bài học vậy. Ta mới đến Tử, Quỳ, tâu xin dùng Sùng ban Vương Đạt, đến Đông Xuyên gặp Giám áp cũ là Mã Trọng Thông, sau đều bỏ đi không dùng. Hai người sau này cũng vì việc mà thất bại. Ngày 36 tháng 4 năm Canh Thân, Bá Thông ghi chép.”)

[77] Diên Khánh lại tâu: “Thần nhiều lần gửi văn thư yêu cầu Bảo Châu, Bá Châu dẫn quân bản bộ đến ứng cứu, nhưng Bá Châu không đến, nghi ngờ họ thông đồng với giặc, thần xin xem xét kỹ để tiến hành đánh dẹp.” Chiếu rằng: “Bảo Châu, Bá Châu lo lực lượng không đủ, khó trách họ ứng cứu, hiện đang có việc biên giới, cần phải yên ủi, Nha Kiềm hạt không được tùy tiện ép buộc, sinh ra biến cố khác.”

[78] Ngày Nhâm Tý, Tư An phủ bốn lộ Hà Bắc dâng lên điều khoản về việc phòng bị địch xâm nhập, giữ vững phòng thủ. Chiếu gửi Hùng Bản xem xét kỹ, sửa đổi thành pháp lệnh rồi tâu lên.

[79] Ngày Quý Sửu, Vương Trung Chính tâu: “Việc quân sự lệnh cho thần cùng với Nha Kiềm hạt phủ Thành Đô, lộ Lợi Châu bàn bạc. Nếu thần lên đường ra quân, có việc kinh lược, nếu cứ gửi văn thư qua lại, sợ lỡ mất thời cơ.” Chiếu rằng: “Trung Chính đợi đến quân tiền, một mặt kinh lược xong, gửi văn thư báo cho Nha Kiềm hạt.”

[80] Trung thư môn hạ tâu: “Hộ phòng trình theo trạng của Tam ty về việc thông thương muối giải, tỉnh ty lệnh cho khách nhân Trương Kham cùng những người khác cung khai[12], xin tạm thời cho quan bán muối ở các nơi như Nam Kinh, Hà Dương, từ ngày tái thi hành pháp luật đến một năm sau, so sánh số muối do giải trì cung cấp với số muối do quan bán. Tuy theo lời Trương Kham cùng những người khác nói: 11 huyện như Quản Thành cùng Nam Kinh, Hà Dương, Thiểm Phủ, Đồng Hoa, Vệ Châu, từ trước đến nay số lượng muối do khách buôn bán nhiều, nhưng không có bằng chứng. Có lẽ vì hiện nay muối tư đã suy giảm, muốn chiếm làm khu vực buôn bán của khách, nếu cho khách buôn bán, thì khó theo pháp luật mới mà chiêu mộ người tuần tra bắt giữ, không tránh khỏi muối tư cướp mất thuế quan. Xin cho 20 nơi như Đường, Đặng, Tương, Quân, Phòng, Thương, Thái, Dĩnh, Tùy, Kim, Tấn, Giáng, Quắc, Trần, Hứa, Nhữ, Dĩnh, Thấp Châu, Tây Kinh, Tín Dương Quân, cho khách buôn bán; còn các huyện trong phủ cùng Thiểm, Tào, Bộc, Hoài, Vệ, Tế, Đơn, Giải, Đồng, Hoa, Thiểm Châu, Hà Trung Phủ, Nam Kinh, Hà Dương, lệnh cho Ty đề cử giải diêm bán; hoặc những nơi trước đã có hộ muối của ty khác bán chưa hết, đều lệnh bán, Ty giải diêm hoàn lại giá cũ. Chỉ có Ty chuyển vận bản lộ chắc chắn lấy việc thu thuế lợi hợp ứng phụ trợ chi dụng bản lộ làm lý do, xin đợi quan bán một năm, lệnh Tam ty ước lượng số tiền thu được từ việc bán muối quan, lập một số ngạch, cấp trả lại thuế lợi vốn có của bản lộ, còn lại lệnh Tam ty tùy nơi phong trang.”

Chiếu theo lời tâu. Việc này theo《Hội yếu》là ngày 28 tháng 4 năm thứ 9, nay phụ chép. Ngày Bính Dần 16 tháng 3 năm sau, Tam ty lại tâu, cùng ngày 17 tháng 2 năm thứ 9 định các châu huyện có thể bán muối, nên tham khảo.《Thực hóa chí》quyển 5: Năm thứ 9, Tam ty theo ý kiến của thương nhân, cho các châu như Đường, Đặng, Tương, Quân, Phòng, Thương, Thái, Dĩnh, Tùy, Kim, Tấn, Giáng, Quắc, Trần, Hứa, Dĩnh, Thấp, Tây Kinh, Tín Dương Quân, các huyện thuộc kinh thành thông thương, cùng các châu như Thiểm, Tào, Bộc, Hoài, Vệ, Tế, Đơn, Giải, Đồng, Hoa, Thiểm, Hà Trung Phủ, Nam Kinh, Hà Dương, lệnh Ty đề cử giải diêm vận chuyển muối bán.

《Tư mã ký văn》chép: “Phép bán muối của Trương Cảnh Ôn có nhiều tệ nạn, dự trữ biên giới thiếu hụt, triều đình nghi ngờ, triệu Chuyển vận sứ Thiểm Tây đông lộ là Bì Công Bật vào bàn việc này, Công Bật hết sức trình bày sự bất tiện. Có chiếu cho Tam ty bàn, Tam ty sứ Thẩm Quát nương theo ý Vương An Thạch, nói phép của Cảnh Ôn có thể thi hành.” Có lẽ là lúc này. Tuy nhiên, những gì《Tư mã ký văn》chép có nhiều mâu thuẫn, đã có phần biện giải. Ngày Kỷ Dậu 18 tháng 4 nhuận năm thứ 8, ngày 11 tháng 12 lại có chiếu cho Tam ty bàn bạc lợi hại.

[81] Thượng phê: “Xét việc địa giới Hà Đông sắp được phân định xong, lo ngại sâu sắc rằng quân dân trú phòng dọc biên giới, thấy giặc chiếm cứ những nơi vốn thường hái củi, sẽ tức giận mà tự ý dẫn nhau vượt biên giới, tiếp tục lấy củi, dẫn đến xung đột, không được yên ổn. Nên sớm bí mật hạ lệnh cho Kinh lược ty, nghiêm khắc răn dạy các quan chức địa phương thành trại, thường xuyên cảnh giác, không được để xảy ra vi phạm nhỏ nào.” Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 ngày 28 tháng 4 năm thứ 9.

[82] Ngày Giáp Dần, Liêu chủ sai Lâm nha, Tiết độ sứ Lâm Hải quân Gia Luật Hiếu Thuần đến báo tin quốc mẫu băng hà. Hôm đó, Vua phát tang, mặc tang phục tại Nội Đông môn, quần thần dâng tên phụng ủy, ngừng triều chính bảy ngày. Sứ Liêu được tiếp kiến tại Mạc điện.


  1. Hơn 40 vạn phu vận lương, chữ 'hợp' nguyên là 'lệnh', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại.
  2. Nguyên văn là 'Đinh Sửu', theo bản trong các bản khác sửa lại
  3. 140.360 quan tiền, '360' trong các bản khác chép là '630'.
  4. Chữ 'ty' trong 'Kinh Tây Lộ chuyển vận ty' nguyên bản là 'sứ', căn cứ theo bản khác sửa lại.
  5. 'Xuyên' nguyên bản viết là 'Châu', theo bản trong các các mà sửa.
  6. Chữ 'Việt' nguyên bản là 'Việt', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 496, truyện về người Man ở Thi Châu, đã sửa lại.
  7. Ngày 19 tháng 4 cũng cần xem xét, hai chữ 'cũng cần' ban đầu bị đảo ngược, căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà sửa lại
  8. Trong Tuyên phủ ty, chữ 'ty' ban đầu thừa chữ 'sứ', căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà xóa bỏ
  9. Xin lệnh cho trường trà xem xét số lượng cần dùng rồi cấp cho bốn trường, chữ 'tương' nguyên là 'ty', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 43 tờ 50 sửa lại.
  10. Trại Vĩnh Ninh, chữ 'Ninh' nguyên là chữ 'Hưng', theo các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 18-14, 《Tống sử》 quyển 87, Địa lý chí sửa lại.
  11. Lý Kỳ trong các bản khác chép là Lý Hồng.
  12. tỉnh ty lệnh khách nhân Trương Kham cùng những người khác cung khai, chữ 'cung' nguyên là 'tá', theo bản các đời sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.