VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 277: NĂM HI NINH THỨ 9 (BÍNH THÌN, 1076)
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm Hi Ninh thứ 9 đời Thần Tông.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Bính Thìn, Ty Đề điểm hình ngục Quảng Nam Tây lộ tâu rằng giặc Lê ở quân Chu Nhai là Hoàng Anh và đồng bọn cướp phá. Triều đình ra chiếu cho Kinh lược ty lệnh Đô đại đề cử quản hạt các quân Xương Hóa, Chu Nhai, Vạn An là Du Giam chỉnh đốn quân đội để phòng bị.
[2] Ngày Đinh Tỵ, ra chiếu miễn thêm một kỳ thuế cho các gia đình thổ đinh bị hại ở các châu Ung, Khâm, Liêm.
[3] Ngày Mậu Ngọ, ra chiếu cho Kinh lược ty và Giám ty ở phủ Thành Đô lộ cử quan coi châu Mậu ở bốn lộ Xuyên Hạp.
[4] Ngày Kỷ Mùi, ra chiếu cho Quách Quỳ và đồng bọn: “Nghe nói người Lão ở các động Khê thuộc hai châu Ung, Khâm và vùng ngoài giới, vì đất họ ở có nhiều của quý, vốn là nơi họ chiếm giữ, nên lo sợ một khi giặc Giao Chỉ bị tiêu diệt, triều đình sẽ lập đất ấy thành quận huyện, lợi lớn đều về tay triều đình. Vì thế, họ tuy khác thế nhưng cùng chung mối lo, nên kết bè đảng với nhau, hoặc giữ thái độ lưỡng lự, hoặc chưa quyết thuận theo. Cần phải ban thêm một tờ chiếu ngoài chiếu trước, nói rõ ràng, tha tội cho họ, ban cho họ lợi lộc, dùng tước lộc để dụ dỗ, dùng hình phạt để uy hiếp, như thế thì thế giặc tất phải chia rẽ, công lớn sẽ nhanh chóng thành tựu. Chưa biết ý kiến thế nào, các khanh nên xem xét bàn bạc, trình bày rõ được hay không, nhanh chóng tâu lên.” Quỳ và đồng bọn tâu: “Xem xét tờ chiếu trước của triều đình, e rằng người biên giới không hiểu, văn bản cần phải thống nhất, nói thẳng sự việc, để ai nấy đều dễ hiểu.” Bèn trình lên tám điều, xin ban bố rộng rãi ở các châu huyện và động Khê. Triều đình nghe theo. Bấy giờ, tướng giặc là Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân đều bí mật đến xin hàng. Việc này căn cứ vào tờ chiếu có ấn ngự bảo ngày 5 tháng 7 trong văn thư chinh nam của Quách Quỳ và bia mộ của Quỳ, nhưng bia mộ nói Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân đến hàng. Thực ra Hoàng Kim Mãn và đồng bọn chưa từng đến hàng, chỉ bí mật thông báo ý định hàng mà thôi. Nay lược bớt và sửa đổi, chi tiết xem chú thích ngày 11 tháng 12 khi đánh chiếm Môn Châu.
[5] Ngày Canh Thân, Vua phê rằng: “Từ cửa ải về phía tây, mùa thu lúa má có phần thuận lợi, gần đây bỗng sinh ra châu chấu, có thể sai các quan giám sát nhanh chóng phân chia các châu quân, đi lại đốc thúc quan lại đánh dẹp cho yên rồi tâu lên.”
[6] Ngày Tân Dậu, Vua phê rằng: “Ở Hà Bắc, Kinh Đông thường có bọn cướp tập hợp, đánh phá các chợ quận, giết hại quan lại, nghe nói phần nhiều là quân Hà Thanh bị đày theo điều luật mới mà trốn. Điều luật ấy gần đây tuy đã bãi bỏ, nhưng trước đó đã đày nhiều người, nếu không xử lý, doanh quân sương ở trên sông xa cách với châu quận, trên dưới ràng buộc không nghiêm, ngày sau sẽ thành mối lo không nhỏ, có thể nhanh chóng xem xét chỉ đạo.” Trước đó, Trung thư tâu: “Quân Hà Thanh gần đây đã qua tuyển chọn, các đê đều thiếu người, xin lệnh cho các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây trừ những tên hung ác cướp bóc và những người phải đày đến châu lân cận cùng đảo Sa Môn, còn lại đều thích chữ vào mặt rồi đày đến chỉ huy Hà Thanh, đợi khi các đê đủ người thì thôi.” Lúc ấy đã không dùng cách này, nhưng lại ban chiếu này.
[7] Ngày Nhâm Tuất, chiếu cho Tể tướng Vương An Thạch đợi Vương Bàng mãn tang bảy tuần rồi nhận chức, lại lệnh cho Thái tử Hữu Tán thiện đại phu Vương An Thượng lo việc tang lễ đưa Bàng về chôn ở Giang Ninh. Việc này theo 《Thời chính ký》 mà thêm vào.
[8] Thư châu Đoàn luyện suy quan Thái Kinh được quyền làm Lưu nội tuyển chủ bạ. Kinh là người Hưng Hóa. Việc này theo 《Thời chính ký》 mà thêm vào, quyền Lưu nội tuyển chủ bạ vốn không đáng chép, vì Thái Kinh nên đặc biệt chép lại. Ngày 24 tháng 7 năm thứ 10 đổi làm Hiệu thư tập học.
[9] Ngày Quý Hợi, ty Chiêu thảo tuyên phủ An Nam tâu: “Tuần kiểm các huyện Tương, Diệp, Giáp là Điện trực Lưu Vĩnh An phạm tội giết người bị hặc, nếu tình tiết có thể tha, xin cho theo quân lập công chuộc tội.” Vua đồng ý. Trước đó, năm Lý Quý đem quân không đẩy xe vũ khí, Vĩnh An giết chết, Đại Lý tự định tội chết, nhưng tình tiết nhẹ, lại gặp ân xá, nên đặc biệt theo lời xin.
[10] Ty chuyển vận lộ Quảng Nam Tây tâu: “Theo chiếu cấp 46 vạn mẫn cho bản ty, đã mua 36 vạn thạch lương, 44.800 thạch đậu, 36 vạn bó cỏ, cùng trâu, dê, lợn, rượu, ứng phó theo yêu cầu của Ty tuyên phủ.” Chiếu giao Lý Bình Nhất cùng Chu Ốc, Thái Diệp báo cáo số lượng thực tế đã sử dụng.
[11] Vương Trung Chính, người thể lượng biên sự lộ Thành Đô phủ tâu: “Dương Văn Tự, tướng châu Tĩnh thuộc Mậu Châu, do bộ lạc người Phiên mưu đốt phá cướp bóc dân chợ, vây bức thành châu, cùng Trương Nhân Quý liên kết phản loạn. Nay tuy đã bắt được Văn Tự, nhưng ông ta đã bệnh nặng, sợ chết trước, không thể làm gương cho mọi người, nên đã chém đầu. Còn Trương Nhân Quý cùng vợ con, xin xử đoán.” Chiếu xử tử Trương Nhân Quý bằng hình lăng trì, vợ con Dương Văn Tự cũng xử theo luật mưu phản. Nhân Quý vốn là nha hiệu của Mậu Châu.
[12] Chiếu rằng các quan tử trận ở Quảng Tây không có con cháu, cho phép tâu xin một người thân làm người thừa kế. Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép là lập người thừa kế cho những người không có con cháu.
[13] Lý Thời Lượng, tri châu Liêm tâu: “Châu Ung và Liêm hiện đang xây dựng lại châu huyện, ngoài châu Ung đã có quân Sương đảm nhiệm việc lao dịch, còn hai châu Khâm và Liêm phải dựa vào sức dân, xin đặc miễn việc vận chuyển lương thảo, chỉ phục dịch trong châu.” Được chấp thuận.
[14] Thượng phê: “Các lộ Thiểm Tây nhiều năm qua nợ nần các loại, năm nay được mùa, thu hoạch gấp đôi, thời cơ không thể bỏ lỡ. Nên lệnh cho các quan ty cho vay nợ cố gắng thu hồi, mỗi tháng cuối báo cáo số tiền và thóc thu được.”
[15] Trước đó, Quách Quỳ đóng quân ở Đàm Châu, sai Nhậm Khởi, tri châu Khâm, dẫn quân đánh úp trại Ngọc Sơn thuộc châu Vĩnh An trong địa giới giặc. Hôm đó, Khởi đánh chiếm được châu Vĩnh An. Việc này căn cứ theo tờ tấu ngày 21 tháng 7 của Quách Quỳ trong văn thư chinh phạt phương Nam.
[16] Ngày Ất Sửu, Đỗ Thường, đề cử thường bình các lộ Vĩnh Hưng quân tâu: “Vâng chiếu dâng gia phả thế hệ, xin dâng lên bản đồ thế thứ các phòng.” Chiếu rằng mỗi khi có đại lễ, các phòng luân phiên một người được hưởng ân trạch. Do họ hàng của Thái hậu Chiêu Hiến quá đông, không đủ chức vụ để bổ nhiệm.
[17] Ngày Bính Dần, sai Đồng tri Lễ viện Lâm Hi đi ngựa trạm đến tế tạ tại miếu Thuận Tế Hầu ở Hồng Châu. Thuận Tế Hầu dân gian gọi là Tiểu Long, vì khi quân An Nam hành quân, nhiều người thấy rồng xuất hiện. Sau đó, Lâm Hi trở về tâu rằng: “Thần đến miếu trai giới, đêm đó rồng giáng xuống vai của chúc quan Âu Dương Quân, chui vào hộp hương đá cuộn mình, khi hành lễ thì hơi ló đầu ra. Sau khi tế xong, rồng từ hộp hương ra, lượn quanh các đồ cúng trên bàn, rồi từ từ vào trong màn. Màu sắc và hình dáng lớn nhỏ của rồng thay đổi không nhất định, hơn trăm quan lại chấp sự đều thấy.” Vua bèn xuống chiếu phong làm Thuận Tế Vương.
[18] Trung thư tâu: “Việc thí hoán của tông thất, xin cho Học sĩ viện chọn một kinh, dán thiếp hơn hai trăm chữ, bắt giảng giải mặt đối mặt, nếu không trái nghĩa lý thì coi là đạt.” Vua đồng ý. Tháng 9, ngày Mậu Dần, lệnh này bắt đầu được áp dụng.
[19] Nhập nội cung phụng quan Hác Sĩ Lương tâu: “Hào phía tây bắc Quảng Châu mới đào chỉ rộng mười trượng, xin hạ lệnh cho châu này đào thêm, thông rộng hai mươi trượng.” Vua xuống chiếu cho Tô Thái xem xét và đào sâu thêm.
[20] Ngày Kỷ Tỵ, Vua ban chiếu cho Quách Quỳ và các quan rằng: “Gần đây, liên tiếp nhận được tấu chương của Chu Sơ Bình, báo rằng các bộ tộc người Man họ Dương dưới quyền quản lý của châu Thiệu đã lần lượt quy phụ triều đình. Tuy Quang Tiếm và Quang Hàm còn chần chừ chưa chịu ra hàng, nhưng xem tình thế, chắc chắn không lâu nữa họ sẽ quy thuận. Tuy nhiên, việc tiếp nhận và vỗ về họ cần phải khéo léo, không nên để mất cơ hội khiến họ vui lòng. Chỉ lo rằng các quan phụ trách, sau khi Quang Tiếm và những người kia ra hàng, sẽ lập tức xây thành lập trại, tăng cường phòng thủ. Nếu không cần dùng quân mã để phòng bị, tự có thể xây dựng, thì đó là kế sách tốt nhất; nhưng nếu nhất định phải đợi quân lính đến, thì không biết lấy đâu ra, và sau khi thành trại xây xong, cần bao nhiêu quân mã để trấn giữ. Trong lúc chưa hành động, các khanh chớ do dự, hãy nhanh chóng bàn bạc và quyết định, đừng để đại quân bị trì hoãn, gây trở ngại cho việc nam chinh, làm hại đến kế hoạch trọng đại của quốc gia.” Quỳ và các quan tâu rằng: “Sơ Bình muốn xây một trại ở địa danh Thượng Lý của gia tộc họ Lục đã quy thuận, xin điều quân mã và hạ lệnh cho Ty Chuyển vận cung cấp tiền lương, binh lính. Thần đã chưa đồng ý. Nay xét thấy chỉ nên cho các sứ thần tuần phòng dẫn đầu các thổ đinh và nỏ thủ đóng ở những nơi hiểm yếu, đi lại quản lý, đợi khi lòng người thuần phục, rồi mới từ từ bố trí, như vậy mới thuận tiện.” Việc này được thêm vào từ văn thư chinh nam của Quách Quỳ, ngày 8 tháng 6, ngày 17 tháng 6, và ngày 21 tháng 11 có thể tham khảo thêm.
[21] Ngày Nhâm Thân, Đề điểm Hình ngục phủ lộ Thành Đô là Trương Phúng tâu rằng: “Người Man đem tê hương vào châu Gia, đã gửi thư cho châu ấy khéo léo đuổi đi.” Vua ban chiếu tha tội vượt quyền cho Trương Phúng.
[22] Ngày Quý Dậu, Vua ban chiếu cho Đông đầu cung phụng quan Tống Minh, người đã phục vụ lâu năm tại phủ đệ của Anh Tông, được thăng làm Cáp môn chi hậu, Đô giám châu gần kinh.
[23] Lại ban chiếu rằng: “Gần đây, Cáp môn đã cho phép các tông thất từ chức Dao quận đoàn luyện sứ trở lên được tham dự các yến tiệc lớn. Từ nay, trong các buổi lễ thượng thọ tại điện Đại Khánh, cũng nên cho họ tham dự.”
[24] Ngày Ất Hợi, chiếu dụ Quách Quỳ và các tướng: “Theo tin tức, giặc Giao Chỉ đã trở về hang ổ, ngày ngày tập hợp đồng đảng, dạy binh pháp chiến trận, cùng thu thập voi ngựa, luyện tập xung phong. Bọn man di này vốn xảo quyệt, nay lại mang tâm địa nguy hiểm, lo lắng về đại họa, ắt sẽ có những mưu mẹo ngoài dự đoán của người. Ta rất lo rằng tháng 8 chúng sẽ đến xâm phạm Ung Châu. Các tướng sĩ hiện ở đó vì lòng trung dũng mà vội giao chiến, e rằng sẽ làm hỏng đại sự, bởi quân đi sâu vào đất địch thì lợi ở chỗ chiến đấu nhanh chóng. Hãy xem xét kỹ lưỡng để xử trí, nghiêm khắc răn dạy.” Đoạn này được rút gọn từ văn thư của Quách Quỳ về việc chinh phạt phương Nam.
[25] Ngày Bính Tý, chiếu rằng: “Nghe nói ở Thiểm Tây từ khi bãi bỏ tiền lạm, việc giao dịch giữa quân dân vẫn bị các nhà giàu có không chịu dùng tiền sắt theo mẫu của triều đình ngang giá với tiền đồng, gây thiệt hại cho cả công lẫn tư, rất bất tiện. Hãy lệnh cho hai lộ Chuyển vận ty công bố rõ ràng ở các châu huyện, nếu có vi phạm thì xử lý nghiêm khắc, đồng thời cho phép mọi người tố cáo trong vòng 5 ngày.” Ngày 25 tháng 6, Chu Doãn có tâu việc này.
[26] Ngày Mậu Dần, Đổng Việt, Thái thường thừa, Phó Chuyển vận sứ lộ Quỳ Châu, được đặc cách thăng một bậc. Vì có công chiêu mộ người cày cấy đất chăn nuôi.
[27] Ngày Kỷ Mão, chiếu truy tặng thụy hiệu cho Cao Quỳnh, tằng tổ của Hoàng thái hậu, tước Vệ vương, là Liệt Vũ; Cao Kế Huân, ông nội, tước Khang vương, là Mục Vũ.
[28] Lệnh cho Hoàng Liêm, Thái tử Trung doãn, quyền Phát khiển Chuyển vận phán quan lộ Lợi Châu, và Vương Tử Thiều, Thái thường thừa, cùng làm Chuyển vận sứ lộ Thiểm Tây, phụ trách việc chiết nạp nợ đọng. Liêm phụ trách lộ Tần Phượng, Tử Thiều phụ trách lộ Vĩnh Hưng. Lệnh cho các lộ Chuyển vận ty và Đề cử ty, nếu có việc chiết nạp thóc gạo, thì lấy giá thực tế trên thị trường để công bố, cho phép người dân tự nguyện, đồng thời tạm thời tăng giá một chút. Ở năm lộ, nếu người dân muốn dùng cỏ để chiết nạp thì cho phép. Lệnh phân định các châu huyện, mỗi tháng phải báo cáo số tiền tăng giá chiết nạp theo giá thị trường. Trên đây là do có chỉ dụ: “Hai lộ Thiểm Tây chiết nạp nợ đọng, các quan ty định giá thóc quá thấp, khiến dân khó nộp. Nay ba vùng biên giới liên tiếp mất mùa, việc cứu tế không ít, nếu không nhân năm được mùa này mà gấp thu lại, e rằng sau này gặp thiên tai, kéo dài thời hạn, sẽ dẫn đến thất thoát.” Ngày 17 tháng 12 lại sai Tử Thiều đi.
[29] Cho phóng thích Vương An Quốc về quê, bổ nhiệm làm Đại Lý tự thừa, Giám đương phủ Giang Ninh, nhưng khi mệnh lệnh ban xuống thì An Quốc đã bệnh chết.
[30] Ngày Nhâm Ngọ, bãi chức Đồng quản câu Ngoại đô thủy giám thừa của Trình Phưởng, lệnh cho Đô đại chế trí Hà Bắc hà phòng thủy lợi, tất cả đều theo lệ của chế trí đồn điền sứ mà thi hành. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》. Sau đó có chiếu rằng, chế trí Hà Bắc hà phòng thủy lợi không cần lập ty riêng, các chức vụ đều theo lệ của Ngoại đô thủy giám thừa mà thi hành. Việc này căn cứ theo 《Thực lục》 là chiếu ngày 12 tháng 8, nay gộp vào đây, 《Thời chính ký》 lại ghi vào ngày 9 tháng 10.
[31] Tháng này, hành dinh An Nam đóng quân ở Quế Châu, Quách Quỳ sai Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ Hòa Bân và Dương Tòng Tiên đốc thủy quân vượt biển từ Quảng Đông tiến vào, các tướng lĩnh chín quân từ Quảng Tây tiến vào. Việc này căn cứ theo bản truyện và mộ chí của Quách Quỳ, việc đóng quân ở Quế Châu, truyện và mộ chí đều không ghi rõ ngày tháng, ngày 15 tháng 6 có tấu xin dời quân, tính toán thời gian chắc chắn là vào đầu tháng 7, cần xem xét thêm. Trương Phương Bình tấu rằng từ Quế Châu đến Ung Châu mất 14 ngày đường.
[32] Ngày Giáp Thân, mùng một tháng 8, Vua phê: “Pháp luật về muối ở Hà Bắc nên nhanh chóng theo như cũ, để thương nhân không còn nghi ngờ, thiệt hại về thuế khoá.” Bèn hạ chiếu cho Tam ty: “Pháp luật về muối ở Hà Bắc thi hành theo như cũ, nếu pháp cũ có chỗ bất tiện, thì cùng với Ty đề cử diêm thuế Hà Bắc, Kinh Đông bàn bạc, đồng thời trình bày số tiền thuế muối thực thu năm ngoái để tâu lên.” Từ đó bắt đầu bãi bỏ nghị định về việc độc quyền muối của Chương Đôn. Nghị định độc quyền muối ở Hà Bắc, Kinh Đông của Chương Đôn vào ngày 18 tháng 6 năm thứ 8, có thể tham khảo tự chí của Thẩm Quát và 《Tư Mã ký văn》 về việc của Trương Cảnh Ôn, thư của Tô Thức gửi Văn Ngạn Bác và tấu nghị của Lã Đào cũng có thể tham khảo, tấu của Lã Đào vào tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất.
[33] Cho Lưu Hoành Trấn ở Tề Châu làm Giám thuế, con trai của Tả ban điện trực Tôn Kỷ là Tam ban tá chức. Vì Kỷ đã tử trận khi chiến đấu với giặc.
[34] Ngày Ất Dậu, Tam ty tâu: “Quản câu quân khí, Tướng tác giám mua gỗ Tống Thuật, được chỉ trừ lụa ra cấp thêm 10 vạn quan tiền, Thuật tự ý chi 17 vạn 7 nghìn quan tiền, lý nên tra hỏi, nhưng vì việc thuộc về quân khí, Tướng tác, xin ban chỉ triều đình xét lại. Từ nay, những khoản chi tiền vật của Tam ty, dù thuộc cơ quan khác, cũng cho phép kiểm tra.” Được chấp thuận.
[35] Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Phán quan chuyển vận lộ Hà Bắc Tây Lộ là Lý Tắc hà khắc, khinh bạc, cố tạo uy thế, làm nhục quan lại. Đến Tương Châu, chuyên bắt tội nhỏ của lại viên, giao cho quan xử phạt, cố ý khinh nhục Hàn Kỳ. Xưa nay châu có hai cửa, cửa đông để tri châu ra vào, cửa tây để tiếp khách. Tắc giận người giữ cửa không mở cửa đông, bắt về ty đánh trượng. Biết Kỳ đang dùng cơm với khách, bèn đến yết kiến Kỳ. Kỳ nghe Tắc đến, dẹp cơm, cho khách về, vội thay áo mũ ra đón Tắc, Tắc lại bỏ đi. Công văn qua lại, lời lẽ hỗn xược. Lại dân đều cho rằng Kỳ là đại thần tể tướng mà bị Tắc khinh nhục, muôn miệng oán giận. Đến khi thể lượng ty là Trình Chi Tài muốn xét tội người ấy, xin bãi chức giám ty của Tắc để thỏa lòng dân. Xét tội trạng của Tắc, như việc tu sửa thành Triệu Châu lãng phí tiền của, chặt phá cây cối bừa bãi, trên đường đi sứ phương Bắc cạo văn thư trắng để làm gỗ sửa thành, sau an phủ ty sợ sứ phương Bắc thấy, bèn sai người xóa đi. Lại gửi công văn cho thông phán Tương Châu nói rằng, quận thủ trở xuống không bằng một tên giặc chạy trốn, ý muốn mắng Kỳ. Lại gửi công văn cho các châu nói rằng, nếu lợi nhuận tăng thêm thì những việc nhỏ khác đều không hỏi; nếu lợi nhuận thiếu hụt thì xét hết các việc phạm pháp trước sau. Lại ngăn cản việc thể lượng ty vận chuyển lương giống, chưa thấy triều đình xử lý.” Chiếu cho đề điểm hình ngục ty xét thực tâu lên. Sau đó, đề điểm hình ngục ty xét việc chặt cây, mắng Kỳ đều không có, những việc khác như lời Doãn nói. Chiếu gửi trát cho Tắc biết, rồi sai Tắc đổi chức với Phán quan chuyển vận lộ Hà Bắc Đông Lộ là Uông Phụ Chi. Việc đổi chức là ngày 23, nay chép chung lại. Việc chặt cây, mắng Kỳ đều không có, theo sách Chu bản.
[36] Tri châu Đại Châu là Lưu Thuấn Khanh tâu: “Theo chiếu chỉ xem xét hào thành Đại Châu, lấy bằng mặt hào trong đê ngăn, thông làm một tầng, dẫn nước sông vào hào, không chỉ công việc lớn, mà phía đông bắc địa thế cao ngất, dẫn nước không tới, chỉ nên theo số tầng cũ có thể làm ngăn cách.” Vua nghe theo. Vẫn theo chiếu chỉ ngày Tân Sửu tháng 11 năm Đoan Củng thứ hai, hào thành vùng biên giới phía bắc sông Hoàng Hà nên đào sâu như lưỡi rìu, các châu quân năm lộ theo đó. Chiếu chỉ ngày Tân Sửu tháng 11 năm Đoan Củng thứ hai chưa thấy.
[37] Ngày Bính Tuất, Vua ra chiếu sai Trình Phưởng xem xét lộ Hoài Nam có thể khơi thông thủy lợi hay không rồi tâu lên. Trước đó, Trung thư tâu cử Phưởng làm chế trí thủy lợi lộ Hoài Nam, nhưng Vua phê: “Chưa cần chế trí, chỉ tạm sai đến lộ đó xem xét.” Vì thế có mệnh lệnh này.
[38] Lại ra chiếu: “Thiểm Tây, Hà Đông hiếm khi được mùa, năm nay hạ thu may được mùa, quân ở các nơi thiếu lương, quan chức đương nhiệm nếu không nhân thời cố gắng lo liệu, một mai biên giới có động tĩnh nhỏ, ắt sẽ lúng túng, hao tốn tiền của, lỡ việc. Nên lệnh Tam ty nghiêm khắc đốc thúc, xem xét, xử lý những kẻ làm trái phương cách, không hết sức, hặc tội.”
[39] Ngày Mậu Tý, Tiết độ sứ Hà Đông, Thủ tư đồ, kiêm Thị trung, Phán Đại Danh phủ là Văn Ngạn Bác được gia phong Thái bảo, tái nhiệm. Ngạn Bác từ chối Thái bảo, Vua đồng ý. Văn Ngạn Bác từ chối Thái bảo, xin chỉ nhận thêm ấp phong, tái nhiệm, Vua nghe theo, việc này vốn xảy ra ngày 22 tháng 9, nay chép chung lại.
[40] Bảo Văn các Đãi chế, Đồng Phán Quốc Tử giám là Thường Trật được cử làm Đề cử Trung Thái Nhất cung. Trật xin vì bệnh nên được như vậy.
[41] Vua phê: “Vợ của tặng Thái úy Lưu Tòng Quảng là Phổ Ninh quận chúa, cháu nội Thái Tông hoàng đế, con gái Ngô vương Nguyên Nghiễm, thuộc hàng tôn thất, có thể tăng bổng lộc 20 ngàn tiền, người khác không được lấy làm lệ.”
[42] Lại phê: “Nghe nói quân An Nam qua núi nhiều người bệnh, nên lệnh Tuyên phủ ty bảo họ đừng ăn đồ sống lạnh, nghiêm cấm rượu chè.”
[43] Ban tiền đặc chi cho binh lính hành dinh ở Mậu Châu.
[44] Ngày Kỷ Sửu, sai Cấp sự trung Trình Sư Mạnh làm sứ sang chúc mừng sinh thần Liêu chủ, Hoàng thành sứ, Gia Châu đoàn luyện sứ Lưu Vĩnh Thọ làm phó; Độ chi viên ngoại lang, Bí các hiệu lí An Đào làm sứ sang chúc mừng năm mới, Văn tư sứ Cao Tuân Trị làm phó.
[45] Tuyên phủ ty tâu: “Thủ lĩnh đoàn động Huy Châu là Long Đình Uy cùng bốn người khác xin quy thuận, xin bổ làm Hạ ban điện thị.” Vua đồng ý. Lại ban cho mỗi người một áo gấm, đai bạc.
[46] Ngày Canh Dần, Vua phê: “Những sứ thần ở Hi Hà những năm gần đây bị giảm bãi, đến kinh đô đã nhiều ngày, trong số đó có người có chiến công nên khen thưởng khác biệt, những người đã được chuyển tư trước đây, cho ưu tiên bổ nhiệm một chức vụ.”
[47] Ngày Tân Mão, Quyền phát khiển Quỳ Châu lộ chuyển vận phó sứ Đổng Việt tâu: “Gần đây phát động nghĩa quân các châu Kiềm, Thi đi chiêu thảo An Nam, lo việc nông tang bị lỡ mùa, xin miễn toàn bộ thuế hạ thu.” Trung thư tâu: “Thuế của mỗi hộ nhiều ít không đều, nếu không miễn chung thì sẽ không công bằng, xin cho Đổng Việt quyết định, cốt sao cho đều nhau.” Vua đồng ý.
[48] Ngày Nhâm Thìn, sứ di lưu của Liêu Quốc mẫu[1] là Lâm nha, Hoài Hóa quân tiết độ sứ Tiêu Chất, Hàn lâm thị độc học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, Tri chế cáo, Đồng tu quốc sử Thành Nghiêu Tích đến yết kiến, đặt tiệc ở điện Thùy Củng, không cử nhạc, sau yến ở điện Tử Thần cũng như vậy.
[49] Tuyên huy Nam viện sứ, phán Ứng Thiên phủ Trương Phương Bình tâu: “Tư Nông tự tâu rằng gần đây ban hành chế độ mới, các đền miếu đều theo phường trường, bến đò chiêu mộ người mua lại, thu lợi nhuận. Trong phạm vi quản lý có hơn năm mươi đền miếu, dân chúng đã mua miếu Yên Bá, nộp tiền bốn mươi sáu nghìn năm trăm, miếu Tống Công Vi Tử mười hai nghìn, đều lấy ba năm làm một kỳ. Yên Bá chủ trì thờ lửa lớn, lửa là biểu tượng đức thịnh của quốc gia, Vi Tử khai quốc ở nước Tống, cũng là nguồn gốc nhà ta nhận mệnh trời lập hiệu. Lại có Song Miếu, là nơi thờ Đường Trương Tuần, Hứa Viễn vì giữ thành chống giặc mà chết, được xem là người có thể chống lại đại họa. Nay đã cho phép mua lại, kẻ tiểu nhân vì lợi mà làm, ắt sẽ tìm cách chiêu tập, gây ra sự hỗn loạn, bất kính, không gì là không làm. Làm nhục thần linh, phạm lễ nghi, không gì tệ hơn thế, thu lợi nhỏ mà thực sự tổn hại đại thể. Xin triều đình không bán ba ngôi miếu này, để tỏ rõ sự tôn kính điển lễ của quốc gia, tôn vinh ý chí của tiền nhân.” Vua phê: “Tư Nông tự bán đền miếu trong thiên hạ, làm nhục quốc thể, phạm thượng thần linh, việc này rất nghiêm trọng, nên lập tức dừng lại. Các quan lại Tư Nông tự, giao Khai Phong phủ xét xử.” Lại phê: “Kẻ chủ mưu bán đền miếu đã bị xét tội, những người sau khi được ân xá mà không tự giác sửa đổi, cũng nên xét xử.” Lại ban chiếu: “Tư Nông tự, Thị dịch ty sửa đổi chế độ, nên cùng trình lên xin chỉ thị, không được tự ý thi hành.”
[50] Ngày Giáp Ngọ, An phủ ty phủ Thành Đô, lộ Lợi Châu tâu: “Tri châu Bá Châu Đổng Vĩnh Tích bị bệnh, xin giao ấn tín cho con trưởng là Hiếu Trung, bản ty đã theo lệ cấp giấy, cho tạm quản lý.”
[51] Ngày Ất Mùi, ban chiếu: “Binh giáp do Đô giám Dương Tòng Tiên của đạo An Nam chỉ huy, đã không vượt biển, nên giao hết cho Chiêu thảo ty xử lý, các tờ chiếu trống và chỉ thị tiết chế, đều giao cho Chiêu thảo ty.” Ngày 17 tháng 6, Chiêu thảo ty tâu…, xem ra là theo lời tâu đó.
[52] Trung thư tâu: “Gần đây thiết lập Nam Bình quân, vì không có huyện thuộc, nên cắt huyện Long Hóa của châu Phù để sáp nhập vào. Quan tri quân tâu xin cử một viên tuyển nhân cải làm quan, muốn theo lệ của Tín An quân cử một người.” Được chấp thuận.
[53] Chiếu rằng các sứ thần đã thi đỗ và đổi sang văn chức thì không được đổi lại sang võ chức.
[54] Chiếu: “Việc khám xét nợ kết địch ở Hi Hà lộ, nghe nói có việc liên quan đến quan binh bản lộ, e rằng họ muốn lập công chuộc tội. Lệnh cho Kinh lược ty giám sát ngăn chặn, không để xảy ra sự việc.”
[55] Quyền Vĩnh Hưng quân đẳng lộ Chuyển vận sứ Bì Công Bật tâu: “Bản lộ vì nạn đói, đã giảm thuế và cứu tế, nay quân lương còn lại rất ít, xin mượn tiền thuế muối năm sau để nhân mùa màng bội thu mua cỏ và lương thực.” Trung thư tâu: “Xin mượn tiền muối năm sau để mua lương thực, còn tiền muối năm sau thì không cần xuất nữa.” Được chấp thuận.
[56] Ngày Đinh Dậu, đặt tên trại Tất Lật Khê ở châu Mậu là Trấn Khương.
[57] Chiếu cho Nam Dương Quan An phủ ty kiểm tra lại các điều lệ trước đây, cấm dân buôn lậu lương thực ra biên giới phía bắc.
[58] Ngày Kỷ Hợi, triệu tập các quan phụ chính đến vườn sau xem lúa.
[59] Vệ úy Thiếu khanh, Trực Chiêu văn quán Thạch Giám được bổ nhiệm làm Tri châu Kiền. Vua phê: “Giám trước đây bị bãi chức ở Quế Châu không phải vì phạm tội, nay đến kinh chưa có chức vụ, nên cho làm quan ở một quận phía đông nam.” Sau đó lại đổi làm Tri châu Quế. Việc đổi làm Tri châu Quế là ngày 5 tháng 9, nay ghi chung. Khi Giám vào chầu, tâu rõ về sự gian xảo của giặc Giao Chỉ, khuyên không nên coi thường. Vua liền sai Lý Thuấn Cử bảo Quách Quỳ rằng: “Theo lời Giám, giặc dũng mãnh liều chết có khi còn hơn cả nước Hạ. Việc này liên quan đến an nguy của hai Quảng, ảnh hưởng đến sự quan sát của bốn phương. Nếu không thắng lợi hoàn toàn, sẽ rất bất lợi cho quốc kế, cần phải thận trọng.” Việc này căn cứ vào văn thư chinh nam của Quách Quỳ, Thạch Giám vào chầu ngày 5 tháng 8, chiếu này cũng ban ngày 5, nay phụ chép.
[60] Ngày Canh Tý, nước Chiêm Thành cống vật phẩm địa phương.
[61] Ngày Nhâm Dần, Tông thất Tông Thuyết bị giam ở ngoại trạch qua đời, bãi triều một ngày. Con cháu xin khôi phục lại chức tước đã bị miễn, được đặc cách chấp thuận.
[62] Ngày Giáp Thìn, Sứ chuyển luyện châu Xương, Long Thần vệ Tứ sương Đô chỉ huy sứ Miêu Thụ nhận chức Tri châu Hà.
[63] Ngày Ất Tỵ, Thiên Chương các Đãi chế, Tri châu Tần Trương Sân nhận chức Tri châu Hi. Lúc đó, Tiên Vu Sư Trung và Cao Tuân Dụ đều bị kết tội vi phạm pháp luật về việc kết địch, đang bị điều tra, nên cử Trương Sân thay thế.
[64] Độ chi Viên ngoại lang Lã Đại Phòng được bổ nhiệm làm Long Đồ các Đãi chế, Tri châu Tần.
[65] Chiếu chỉ cho Giang Đông, Phúc Kiến lộ Chuyển vận ty triệu tập người tố cáo và bắt giữ tên cướp mạnh Ngỗ Tiểu Bát ở châu Tín. Nếu bắt được, sẽ được phong chức Tam ban Phụng chức. Tuần kiểm bản lộ nếu tự sát được, cũng sẽ được ban ơn.
[66] Ngày Bính Ngọ, Chuyển vận phán quan Kinh Đông Tây lộ, Hữu Tán thiện đại phu Thái Mông được điều làm Chuyển vận phán quan Kinh Đông Đông lộ, Thái tử Trung xá Lý Sát được điều làm Chuyển vận phán quan Kinh Đông Tây lộ. Theo yêu cầu của cha Thái Mông là Tư chính điện Học sĩ, Phán Nam Kinh Lưu ty Ngự sử đài Đĩnh, vì Nam Kinh thuộc Đông lộ.
[67] Tri châu Mậu, Thái tử Trung xá Phạm Bách Thường bị giáng một chức, miễn chức, không bị cách chức. Vì tội tu sửa thành Triển châu, không khéo léo trong việc vỗ về bộ lạc ngoại biên dẫn đến nổi loạn. Sau đó, Kiềm hạt ty tâu: “Ban đầu, kế hoạch tu sửa thành ngoại Triển châu và phía đông thành, vốn là đất canh tác của bộ lạc ngoại biên Đổng Chấn Châu, nhưng Bách Thường lại lấy giới hạn trong sách thề từ thời Thuần Hóa làm căn cứ, dùng để xây dựng.” Vẫn bị cách chức.
[68] Ngày Đinh Mùi, Vua phê: “Gần đây nhận được công văn từ Bắc giới về việc xử lý vấn đề biên giới Hà Đông, nên sao chép một bản gửi cho Hàn Chẩn và các quan để tham khảo.” Việc này được ghi trong 《Ngự tập》 ngày 24 tháng 8, lưu lại để thấy rõ việc biên giới và công văn hồi đáp.
[69] Ngày Mậu Thân, ban chiếu: “Ty Nông tự không phát hiện việc lại viên kho công sứ lừa dối tiền công, các quan lại liên quan cùng với các quan lại của Khai Phong phủ trước đây đã tra hỏi, đều giao cho Tam ty xét xử.” Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Đô Thủy giám hặc tội lại viên Ty Nông tự là Lưu Đạo Xung cùng những người khác ăn cắp tiền công khố, nghe nói Trương Ngạc đã dùng thư từ yêu cầu quyền tri phủ Trần Dịch trong vài ngày kết án, cố ý tha tội nhân. Hơn nữa, các quan kiểm chính của Khai Phong phủ và Ty Nông tự đều được giao trọng trách, dám kết bè đảng lừa dối, tác hại rất lớn, không thể không trừng trị.” Ban chiếu lệnh cho Trương Ngạc, Trần Dịch trình bày rõ ràng để tâu lên, nhưng cả hai đều nói không có việc đó. Chu Doãn lại tâu: “Ngạc bao che lại viên cùng ăn cắp tiền công, dùng thư riêng yêu cầu Dịch cố ý tha tội nặng, cùng với Đỗ Lượng đe dọa lại viên dưới quyền dẫn đến việc ăn cắp tiền công, lại từng nhận hối lộ trái pháp, không nên bổ nhiệm làm Tam ban phụng chức. Khám quan Lưu Bính đến gặp thần nói, cùng với việc phủ ty trước đây đã tra xét và nay Lưu Bính lại tra xét, hồ sơ rất rõ ràng, xin xem xét lại lời tâu trước của thần cùng hồ sơ để thi hành.” Ban chiếu cho đề cử tại kinh chư ty khố vụ ty xét xử tận gốc. Ngày 22 tháng 12, Dịch và những người khác bị xử phạt.
[70] Lại ban chiếu cho Trung thư: “Ngục chế ở Tú châu, hiện đang giam giữ nhiều người liên quan, các khám quan lại nói có nhiều vấn đề phức tạp, chưa thấy kết thúc, có thể nhanh chóng chỉ đạo, cùng với viện chế khám ở các lộ Tần Phượng cũng lệnh cho nhanh chóng kết thúc.”
[71] Ban chiếu từ nay về sau, những người nhập trung và nộp lương thảo ở vùng biên giới đều được miễn tiền đánh phạt.
[72] Ngày Canh Tuất, quyền phán đô thủy giám Trình Sư Mạnh tâu: “Thần trước đây từng giữ chức Đề điểm Hình ngục Hà Đông kiêm việc hà cừ, thấy trong lộ có nhiều núi đất cao thấp, bên cạnh có khe suối, mỗi khi mưa lớn vào mùa xuân hạ, nước từ các nơi đổ về, đục ngầu như sông Hoàng Hà. Nước núi Phàn, dân gian gọi là nước sông Trời, có thể dùng để bồi đắp ruộng. Ở thôn Nam Đổng, huyện Chính Bình, châu Giáng có nước khe Mã Bích, thần đã khuyên dụ dân chúng, thu được 800 quan tiền, mua đất đào kênh, bồi đắp được hơn 500 khoảnh ruộng. Các châu huyện khác có nước sông Trời và nguồn suối cũng đều đào kênh đắp đập, biến thành ruộng màu mỡ. Tổng cộng 9 châu 26 huyện đã khai khẩn được 4.200 khoảnh ruộng mới và khôi phục 5.800 khoảnh ruộng cũ, tổng cộng hơn 18.000 khoảnh. Công việc hoàn thành vào năm Gia Hựu thứ 5, biên soạn thành 2 quyển 《Thủy lợi đồ kinh》 giao cho các châu huyện thi hành, đến nay đã 17 năm. Gần đây nghe nói ruộng ở thôn Nam Đổng trước đây mỗi mẫu giá 3-2.000 đồng, thu hoạch được 5-7 đấu thóc, sau khi được tưới bồi thì giá tăng gấp 3 lần, thu hoạch được 3-2 thạch. Nay thần tạm quản việc bồi đắp ruộng của đô thủy, thấy rằng những năm gần đây bồi đắp ruộng mặn ở Kinh Đông, Kinh Tây đều trở thành đất màu mỡ, lợi ích rất lớn. Nhưng vẫn lo rằng ở lộ Hà Đông còn có ruộng hoang cằn cỗi, có thể dẫn nước sông Trời để bồi tưới. Xin giao cho đô thủy giám chọn cử quan lại đến cùng ty Nông điền Thủy lợi và các huyện lệnh, tá xem xét, nơi nào có thể bồi đắp thì báo cáo số khoảnh ruộng và công trình vật liệu, đợi khi hoàn thành sẽ xét công ban thưởng.”
Vua nghe theo. Bèn tâu cử đô thủy giám thừa Cảnh Uyển quản việc bồi đắp ruộng ở lộ Hà Đông. 《Thực hóa chí》 chép tương tự, Sư Mạnh đề cử việc bồi đắp ruộng ở Kinh Đông, Kinh Tây vào cuối tháng 5, ngày 16 tháng 9 cùng đề cử việc bồi đắp ruộng ở Kinh Đông, Kinh Tây, ngày 14 tháng 6 năm sau ban thưởng công lao.
[73] Ngày Tân Hợi, Đại Lý tự thừa, quán các hiệu khám Thôi Công Độ được bổ làm Kiểm chính trung thư lễ phòng công sự.
[74] Ngày Nhâm Tý, quan Sát phỏng Kinh Hồ lộ Bồ Tông Mạnh tâu: “Hai lộ trước đây thu tiền dịch quá nặng, dân chúng khó đóng góp, đến nay mỗi năm thu được vẫn còn dư nhiều.” Vua xuống chiếu cho Kinh Hồ lộ tạm giảm tiền dư trong 2 năm.
[75] Lại có chiếu rằng các tăng đạo hiện ở Quảng Nam lộ tạm thời không được cấp giấy phép ra ngoài. Vì Quảng Đông chuyển vận ty tâu rằng: “Nghe nói Giao Chỉ trước đây chiếm các châu Khâm, Liêm, bắt hơn trăm tăng đạo, cướp giấy phép của họ rồi giết đi, sai gián điệp giả làm tăng đạo để do thám việc.”
[76] Đề cử khai vệ châu giới vận hà là Trình Phưởng tâu: “Ở địa giới Vệ Châu, mở cửa sông vận chuyển, dẫn nước sông Hoàng Hà vào sông Sa Hà, hợp với sông Ngự Hà để thông thuyền bè từ Giang, Hoài. Lại ở trên đê xa xây đập gỗ đã hoàn thành.” Chiếu cho Hà Bắc Tây lộ đề điểm hình ngục ty xem xét và báo cáo. Trước đây, Trình Phưởng đã được thưởng vì việc bồi đắp cửa thành Ngũ Lộc, được thăng một chức, đến nay, Trung thư lại trình bàn việc thưởng, Vua bảo tạm chưa thi hành, đợi báo cáo việc lấy nước sông Sa Hà rồi mới xem xét. Ngày 9 tháng 7 năm thứ 7, ngày 7 tháng 9, ngày 19 tháng 8 năm thứ 8, và ngày mùng một tháng 12 năm nay (ngày Quý Mùi), cần tham khảo.
[77] Ngày mùng một tháng 9 (ngày Giáp Dần), Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Xin cấm các thương nhân từ Xuyên, Thiểm không được mang gia quyến vào các châu Uy, Mậu, và người địa phương giao dịch với bộ lạc phiên chỉ được trong thành châu huyện, không được ra khỏi cổng thành nơi tiếp giáp với bộ lạc phiên. Nếu có người dời nhà đến ở hoặc phụ nữ đi thăm thân, phải qua quân Vĩnh Khang và huyện Long An, châu Miên để được cấp giấy phép. Xin triều đình lập pháp, để biên giới được nghiêm ngặt, âm mưu gian trá sẽ chấm dứt.” Vua đồng ý.
[78] Ngày Ất Mão, Kinh lược ty đường Hoàn Khánh tâu: “Quan được ủy thẩm xét sự tích của Mâu Ni Trát Bố, bản ty xét thấy Mâu Ni Trát Bố tuy có tội tham nhũng, nhưng các quan người Di thường không hiểu phép tắc, lại do quản lý nghiêm khắc nên dẫn đến kiện tụng. Nếu xử phạt quá nặng, e rằng các hộ quen thuộc sẽ bị kích động bắt chước, các thủ lĩnh khác cũng không yên lòng. Xin chỉ quản thúc tại châu quân trong lộ, đợi sau khi được ân xá, lập công biên giới để chuộc tội và được bổ dụng.” Vua phê: “Gần đây theo tin tức do thám, các thủ lĩnh vùng biên giới phía tây báo lên nha đầu rằng một số tộc người Mộ ở đất Hán muốn đầu hàng, xin đem quân ứng tiếp. Nay thủ lĩnh Mâu Ni Trát Bố không được lòng người trong tộc, e rằng thực có người mưu phản. Nên hạ lệnh cho Kinh lược ty điều tra nghiêm ngặt, phải xác minh rõ ràng, và giao cho Chủng Cổ. Lại lệnh Kinh lược ty chọn người có năng lực trong họ Mộ Ân để tạm quản lý, đàn áp bộ tộc. Mâu Ni Trát Bố giao cho châu Hoàn giám sát, đợi sau khi được ân xá mới xin chỉ dụ.”
[79] Quyền Phát khiển Lưỡng Chiết Chuyển vận phó sứ Tô Giải tâu: “Ở huyện Hoa Đình, châu Tú có 20 người nước ngoài tên Hạnh Trung đến Thanh Đôn, Nam Dương, tiếng nói khó hiểu, bảo viết chữ thì giống chữ Trung Quốc, tự xưng là người nước Cao Nội, nghe giọng có lẽ là người Cao Ly. Xem chữ viết gần giống, do thuyền gặp gió dạt vào bờ biển, chỉ nói việc đội thủy quân quận Kim Đê nộp gạo.” Chiếu cho châu Tú: “Nếu xét thực không phải là gian tế, thì cho ở nhà quan, cấp lương thực, đợi sứ nước ấy đến triều sẽ xin chỉ dụ.” Sau đó, sứ giả của Vương Huy đến, bèn ban lụa và cho về.
[80] Ngày Bính Thìn, Trung thư tâu: “Trước đây đã sai Phạm Tử Uyên làm Đề cử sơ tuấn Hoàng Hà, Lý Công Nghĩa làm Câu đương công sự. Công Nghĩa xin tạm dùng 50 chiếc thuyền, 50 bộ Thiết Long Trảo, 400 binh lính để nạo vét dòng chính của sông Hoàng Hà, khiến nước chảy trong lòng đất, từ Bắc Kinh đến cửa biển, xem xét hiệu quả một lần thực hiện. Nay đã hơn một năm, chưa từng kiểm tra, xin cho Đô thủy giám cử quan đi kiểm tra lại. Thêm nữa, việc nạo vét của Tử Uyên cũng sợ dùng quá nhiều người, thuyền và quan thuộc, đều chưa từng kiểm tra, xin cho Đô thủy giám cử quan đến kiểm tra lại, xem có thể giảm bớt hay không, rồi tâu lên.” Vua đồng ý. Việc Lý Công Nghĩa nạo vét sông Hoàng Hà diễn ra vào ngày Kỷ Sửu tháng 5 năm thứ 8, việc bãi chức Công Nghĩa diễn ra vào ngày Quý Sửu mùng một tháng 11 năm sau.
[81] Ngày Mậu Ngọ, Hộ bộ viên ngoại lang, Tri Đô thủy giám thừa Hoắc Tường được cử làm Đề cử sơ tuấn sông Biện.
[82] Xuống chiếu cho Quảng Nam Tây lộ theo lệ của năm lộ được ban áo ấm, vì đang đánh Giao Chỉ nên ban đặc ân.
[83] Ngày Tân Dậu, xuống chiếu: “Từ nay, mọi việc liên quan đến mua ngựa đều do Xu mật viện thi hành.”
[84] Xuống chiếu: “Các Bảo chính, Đại Tiểu Bảo trưởng ở các lộ không phải luyện tập, đều thay đổi ba năm một lần, ai không muốn thay đổi thì tùy ý. Trong đó, Đô, Phó Bảo chính, nếu trong bảo không có hộ thuộc đẳng thứ ba trở lên đủ tiêu chuẩn để chọn, thì cho phép chọn từ đẳng thứ tiếp theo.”
[85] Ngày Ất Sửu, Chiêm Thành nguyện đem quân giúp đánh giặc Giao Chỉ, xuống chiếu theo lời xin của sứ giả, lệnh Học sĩ viện ban sắc thư riêng[2].
[86] Lại xuống chiếu cho Tuyên phủ, Chiêu thảo, Tổng quản ty An Nam: “Mọi việc tuyên bố đức trạch, an phủ quân dân ở bốn lộ thuộc Tuyên phủ ty, mưu lược cơ sách thuộc Kinh lược, Chiêu thảo ty, việc tướng hiệu quân mã ở hành dinh thuộc Đô Tổng quản ty, các văn thư qua lại đều phải liên hệ với nhau.” Vua nghe nói Quách Quỳ và Triệu Tiết không hòa hợp, nên có chiếu này. Thực lục chép: “Vì chức phận không rõ ràng, có thể lấn át nhau, nên có chiếu này.” Xét lời nói “chức phận không rõ ràng, có thể lấn át nhau”, tức là Quách Quỳ và Triệu Tiết không hòa hợp, nay nói rõ ra.
[87] Ngày Bính Dần, Kinh lược ty Quảng Tây tâu rằng Đoàn Duy Thành ở động Vũ Hậu xin quy thuận, chiếu cho Duy Thành làm chức Tam ban tá chức.
[88] Tặng Hoàng thành sứ, Đạt châu đoàn luyện sứ[3], Đái ngự khí giới Trình Phưởng làm Diệu châu quan sát sứ, bổ nhiệm hai con trai của ông, ban cho một khu nhà. Vì Phưởng có công trong việc trị thủy nên được ban ân đặc biệt. Phưởng ỷ thế Vương An Thạch, thường kiêu ngạo khinh người, sau An Thạch biết được sự hư ngụy của ông nên xa lánh, Phưởng lo buồn mà chết. Truyện cũ chép rằng Phưởng khinh mạn Hàn Kỳ, nay sửa lại là thường kiêu ngạo khinh người. Truyện cũ chép Phưởng lo buồn mà chết, truyện mới bỏ đi, nay giữ lại.
[89] Ngày Đinh Mão, chiếu cho Chuyển vận ty Hà Bắc Đông lộ: “Dân kêu ca về nạn hạn hán đã quá hạn, xin giảm thuế. Nay đã quá thời hạn, làm sao xác định được mức độ thiệt hại thực tế, hãy báo cáo chi tiết lên.”
[90] Ngày Mậu Thìn, Chuyển vận phán quan Quảng Nam Tây lộ là Chu Ốc xin cho thuyền bè từ Quảng Đông khi trở về phải đến các châu quân trong lộ để kiểm tra, thúc giục chở lương thảo thẳng đến Ung châu chuẩn bị nhập động. Chiếu giao cho Ty lương thảo xem xét thi hành rồi tâu lên.
[91] Ngày Kỷ Tỵ, lệnh cho Quyền đồng phán Đô thủy giám là Lưu Cáp làm Đề cử bán vật liệu xây dựng Thanh Biện, kiêm quản lý kênh đào ở Vệ châu, Ngoại đô thủy giám thừa là Phạm Tử Uyên làm Đồng đề cử kênh đào ở Vệ châu, kiêm bán ruộng bồi và vật liệu ở Hà Bắc, Đô thủy giám thừa là Cảnh Uyển kiêm Đồng đô đại đề cử ruộng bồi ở Kinh Đông và Kinh Tây. Ngày 14 tháng 6 năm sau sẽ khen thưởng công lao.
[92] Trung thư tâu: “Các cơ quan ở Thiểm Tây thu nạp tiền tư đúc không dùng được, tổng cộng 1.159.800 quan. Ban đầu nói chỉ có hơn 200.000 quan, một năm có thể đúc lại xong, nay số lượng lại nhiều như vậy, lại nói mỗi năm chỉ đúc được hơn 9.150 quan tiền lớn. Những cơ quan vi phạm pháp luật thu nạp tiền tư, xin giao cho Tam ty xử lý theo pháp luật.” Vua đồng ý. Việc xử lý sau này thế nào, ngày 25 tháng 6 Chu Doãn có nói, ngày 22 tháng 7[4] có chiếu, có thể tra cứu.
[93] Chiếu rằng: “Từ nay, Xu mật đô thừa chỉ kiêm Quần mục sứ, Phó đô thừa chỉ kiêm Phó sứ, không được kiêm thêm chức vụ khác.”
[94] Ngày Canh Ngọ, Xu mật viện tâu: “Những người được các tướng An Nam chiêu mộ, dọc đường làm nhiều việc phi pháp, chưa có quy định ràng buộc.” Chiếu lệnh cho các tướng quan tùy số lượng người mà tạm lập nhân viên quản lý, nếu phạm tội theo pháp luật cấp bậc đến mức tử hình thì tâu xin xử lý.
[95] Ngày Tân Mùi, Trung thư tâu: “Thị dịch vụ thu được tổng cộng 1.332.000 quan tiền lãi và tiền lợi nhuận, theo pháp nên ban thưởng.” Chiếu cho quan đề cử là Kim bộ viên ngoại lang Lữ Gia Vấn, Thái tử trung doãn Ngô An Trì mỗi người thăng một chức, thăng một bậc, ban thưởng 300 quan tiền, Gia Vấn được giảm một năm khảo hạch, các giám quan trở xuống ban thưởng theo thứ bậc, từ nay cứ ba năm so sánh một lần. Vua đồng ý[5].
[96] Ngày Nhâm Thân, Trung thư tâu: “Xin lệnh cho Thị dịch ty phát 30.000 quan tiền[6], cùng với Kinh lược ty hai lộ Phu Diên, Hoàn Khánh mua lương thực để dự trữ, lệnh cho ty này chỉ định nơi trả lại.” Vua đồng ý, lại lệnh cho Thị dịch ty chỉ được trừ vào số tiền lãi lần này để chi trả.
[97] Kinh lược ty lộ Tần Phượng tâu rằng bắt được tăng nhân người Thổ Phồn là Vượng Tuân tự tiện vượt biên giới. Chiếu rằng: “Kinh lược ty giam giữ Vượng Tuân ở viện chất vấn, có thể tiếp tục bắt giữ ba người là Mật Bốc Tôn, đợi bắt được, nếu đều là người cùng đi với Vượng Tuân thì cứ theo ý của ty mà thả về, báo cho Đổng Chiên biết: Vượng Tuân đã bị bắt giữ, nếu sớm sai Ban Sát sang nhà Tống, tất sẽ thả Vượng Tuân về.” Sau đó, kinh lược ty tâu: “Đã theo chiếu chỉ giao Vượng Tuân cho Đổng Chiên và thủ lĩnh Ban Sát, dụ rằng hai bên thông hòa, sai về nơi cũ. Xin hạ lệnh cho kinh lược ty lộ Hi Hà dịch chữ Thổ Phồn dụ Đổng Chiên trả lại những người Hán bị bắt, để những người dũng cảm xông pha trận mạc được trở về.” Theo lời tâu, lại lệnh cho kế nghị ty dịch chữ.
[98] Ngày Giáp Tuất, triệu tập các quan phụ chính đến vườn sau xem lúa.
[99] Ngày Ất Hợi, chuyển vận ty lộ Hà Bắc Tây tâu rằng, các tuần kiểm dưới quyền xin tạm giữ lại 20 bộ binh và 10 kỵ binh, phối hợp bắt cướp ở những nơi nhiều giặc cướp. Theo lời tâu mà thi hành. Lúc đó do nghĩa dũng và bảo giáp đang thay phiên canh gác.
[100] Ngày Bính Tý, chiếu cho kinh lược ty lộ Quảng Nam Đông chỉ huy các châu trưởng lại, nếu nhận được tin báo từ lộ Tây hoặc thám thính việc Giao Chỉ thì phải báo ngay cho các châu quân phía trước, không được giao xuống ty mà phải tự tay viết, kinh lược ty lập tức sai quan cơ nghi viết, không được để lộ tin tức. Lại gửi công văn cho giám ty bản lộ làm theo.
[101] Chiếu rằng: “Quân mã An Nam sắp xuất chiến, nên có biện pháp khích lệ sĩ khí. Trước đây Nhậm Khởi đánh trại Ngọc Sơn ở địa giới giặc, công tuy không lớn, nhưng đã dũng cảm xông pha, những người lập công nên được thưởng gấp đôi, tâu xong, lại bố cáo cho tướng sĩ biết.” 《Mộ chí của Quách Quỳ》 chép: Quân đóng ở Đàm Châu, sai Tri châu Khâm Châu là Nhậm Khởi đánh châu Vĩnh An, hạ được. 《Truyện》 lại chép: Dẫn quân châu và động đinh chia ba đường tiến đánh châu Vĩnh An, hạ được, Tả Giang và Hữu Giang đều quy thuận, thủ lĩnh châu Môn là Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân đầu hàng trại Ngọc Sơn châu Vĩnh An. Đó là việc ngày 9 tháng 7, còn lại cần khảo cứu thêm.
[102] Vua phê: “Nghe nói viện Chế khám ở Tần Châu bắt giam nhiều quan viên của lộ Hi Hà, nay các chức Đô, Phó Tổng quản của lộ này vừa được thay đổi, hoặc đang trên đường nhậm chức, nếu chẳng may có việc biên giới xảy ra thì sẽ không có người đứng ra gánh vác, chắc chắn sẽ gây thêm lo lắng cho triều đình. Nên nhanh chóng bàn bạc và ra chỉ thị.” Trung thư, Xu mật viện xin lệnh cho viện Chế khám thả ngay những quan viên lộ Hi Hà đang bị giam, những người phạm tội đồ trở xuống mà tội trạng đã rõ thì cho về lại chức cũ, những nơi thiếu quan do bị bắt giam thì giao cho Ty Chuyển vận tuyển chọn quan đang chờ bổ nhiệm hoặc đương chức ở lộ này hoặc lộ lân cận tạm quản lý. Vua đồng ý.
[103] Ban đất ở viện Lăng Cẩm để làm viện Ngũ phòng của Xu mật. Vì Đô thừa chỉ ty tâu rằng: “Các báo cáo biên giới có việc khẩn cấp mà các lại viên của các phòng sống rải rác trong và ngoài thành cũ, đi lại xa xôi, có thể làm lộ bí mật, và không thể ứng phó kịp thời.”
[104] Vua phê: “Các hộ dân ở các huyện thuộc phủ Khai Phong bị hạn hán, nên xét theo từng cấp bậc mà nhanh chóng giảm bớt thuế lúa mùa thu.” Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.
[105] Ngày Đinh Sửu, Ty Chuyển vận lộ Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng, Đại Lý bình sự câu đương công sự Ngụy Sâm sai mộ dân đinh ở Tuyên Châu, vì bệnh dịch mà chết, xin cho một người con được bổ nhiệm làm quan. Vua ban cho gia đình 400 lạng bạc.
[106] Lại có chiếu: “Ở phủ Đại Danh và các châu Lệ, Minh có nhiều trộm cướp chưa bắt được, lệnh cho Ty Chuyển vận lộ Hà Bắc xem xét các quan bắt trộm không làm tròn nhiệm vụ rồi tâu lên.”
[107] Ngày Mậu Dần, Hữu Giám môn suất phủ suất Lệnh Thủy được làm Thái tử Trung Doãn, do đường trừ giám đương. Vì viện Học sĩ tâu rằng ông đỗ trung đẳng trong kỳ thi thơ. Có thể xem lại ngày Bính Dần tháng 7.
[108] Trưởng tôn Lương Thần, Tẩu mã thừa thụ lộ Hi Hà tâu rằng, lộ này được mùa, xin cấp tiền mặt để mua thêm lương thực. Trung thư tâu rằng, Ty Thị dịch hiện có 40 vạn quan tiền, nay muốn lệnh cho Ty Thị dịch chi 10 vạn quan tiền của lộ này cho Ty Chuyển vận các lộ Tần Phượng để lo liệu lương thảo cho lộ Hi Hà, và trừ vào tiền lãi. Vua đồng ý.
[109] Chiếu cho các quan trước đây là Tri châu Kiền Châu Lưu Di, Tri châu Hoàng Châu Lộ Kinh cùng 15 người khác, giảm năm khảo khóa, thăng thứ bậc danh hiệu có khác nhau; Tri châu Trì Châu Trịnh Ung, Thông phán châu Hải Châu Lý Thanh Thần cùng 14 người khác, giáng cấp khảo khóa, giáng thứ bậc danh hiệu có khác nhau. Do Tam ty dâng lên so sánh việc tăng giảm thuế muối năm Hi Ninh thứ 5 ở các lộ.
[110] Ngày Kỷ Mão, sứ hồi tạ của nước Liêu là Tiết độ sứ quân Trường Ninh Da Luật Anh, Thái thường Thiếu khanh Hàn Quân Nghi vào chầu ở điện Tử Thần, đặt tiệc ở điện Thùy Củng.
[111] Chiếu rằng: “Các ty Tuyên phủ đến nơi nào phải tìm hỏi gia quyến của các quan văn võ tử trận đang lưu lạc không nơi nương tựa, chỉ huy các châu huyện an trí, ai muốn trở về nguyên quán thì sai người đưa đi. Những người trước đây bị giặc bắt, phải tìm mọi cách chuộc lại, ai có thể bắt được đưa về quan thì đều được ban thưởng hậu hĩ. Những người trung nghĩa tử tiết chưa được xét ban, phải bảo đảm minh bạch tâu lên. Tướng sĩ tử trận trước đây được quan chôn cất, nghe nói gom lại thành gò mộ, lại lẫn với đám nghịch đảng Kinh Quan của Nùng Trí Cao, điều đó rất không phải để phân biệt, nên lệnh cho làm dấu hiệu riêng, nơi nào đi qua dùng tiền quan làm lễ tế.”
[112] Ngày Canh Thìn, Viện Xu mật tâu: “Trang trạch Phó sứ Trương Thủ Tiết trước đây vì tử trận, triều đình ban ân điển hậu hĩ, nay các nơi xét lại, Thủ Tiết khi hành quân mang theo kỹ nữ, lâm trận hèn nhát, không thể sai khiến người khác, binh lính dưới quyền lại nhiều kẻ đầu hàng giặc, dạy chúng làm máy bắn đá đánh Ung Châu, dẫn đến thất thủ. Đã truy thu lại chức tặng, năm người con được ân điển, xin chỉ ban cho hai người.” Chiếu ban cho hai người con chức Phụng chức.
[113] Nhập nội Cung phụng quan Hoàng Hoài Tín dâng lên thang bay đắp thành, xe chở đất. Chiếu cho Tướng tác giám thí nghiệm.
[114] Ngày Tân Tỵ, Tiền Tướng tác Giám thừa Tô Tử Nguyên được làm Điện trung Thừa, khởi phục, quyền Phát khiển Thông phán châu Ung, lại ban cho áo mặc màu đỏ. Theo lời thỉnh cầu của Tri châu Quế Châu Thạch Giám.
[115] Mùa thu này, Tuyên huy Nam viện sứ, Phán phủ Ứng Thiên Trương Phương Bình dâng biểu xin nghỉ hưu, chiếu trả lời không cho, Phương Bình bèn dâng sớ bàn về tác hại của việc thu tiền mộ dịch, rằng:
[116] Thần trộm nghĩ rằng trời sinh ra dân, lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, nên cơm ăn áo mặc là điều xác thực trong việc nhân sinh, không phải là lời nói suông cao xa có thể đạt được. Xưa kia, thánh nhân dùng đạo trị dân, phân biệt bốn nghề, giao phó chín chức, nông dân ra sức cày cấy, quan coi núi rừng chủ trì lợi ích từ núi sông, trăm nghề sửa sang tám loại nguyên liệu, thương nhân làm thông suốt hàng hóa, mỗi người đều làm việc của mình để phụng sự bề trên. Mà bề trên lấy của dân, chỉ có ruộng đất và núi sông, cửa ải chợ búa, đó là nguồn gốc của tài dụng. Sự thay đổi tăng giảm, tuy các đời khác nhau, nhưng cốt yếu đều bắt nguồn từ đó, vượt quá thì không phải là chế độ của vương giả.
[117] Thần thấy gần đây chế độ mộ dịch, bắt dân theo thứ bậc nộp tiền. Tiền là thứ do Vua nắm giữ, không chia sẻ với dân. Vua dùng tiền để cân nhắc nặng nhẹ, điều hành công việc, điều hòa giá cả muôn vật. Vì vậy, người trị quốc phải nắm chắc quyền này, quan tự đúc tiền, dân nào đúc trộm thì bị tội[7], tội đến chết, để tỏ rằng không được chia lợi. Tiền tuy không làm no ấm thực tế, nhưng đủ để tạo ra nguồn cung cấp cơm áo, đó gọi là dùng cái vô dụng để tạo ra cái hữu dụng, là thuật thần diệu của Vua trong việc biến hóa. Chế độ kinh quốc của triều ta, sổ sách huyện hương, chia hộ thành năm bậc, thu thuế lúa vải, dùng đinh khẩu để cung cấp sức lao động, đó gọi là lấy từ ruộng đất. Vàng, bạc, đồng, sắt, chì, thiếc, trà, muối, hương, phèn các loại hàng hóa, thì do các mỏ núi biển, xưởng đúc, trường giám sản xuất, đó gọi là lấy từ núi rừng. Các loại thuế quản, thuế giác, thuế chinh, thuế toán, bán các loại hàng hóa, đó gọi là lấy từ chợ búa. Chỉ có tiền là do quan tự đúc. Thần trước đây hai lần quản lý tài chính quốc gia, thấy các lò đúc mỗi năm thu thuế khoảng trăm vạn quan, cả nước mỗi năm thu thuế trà, muối, rượu, các loại lợi tức chỉ khoảng năm mươi triệu quan. Tiền lưu thông khắp nơi, ngày ngày sử dụng không ngừng, từ việc tế tự xã tắc, thần linh[8], cung phụng trong cung, lương bổng quan lại, ngựa quân đội, chiến tranh, sứ bộ, ban thưởng, mọi khoản chi tiêu đều lấy từ đó, việc thu chi lớn đều dựa vào đây.
Trước niên hiệu Cảnh Đức, thu nhập tài chính cả nước từ thuế trà, muối, rượu, mỗi năm khoảng hơn mười lăm triệu quan. Thái Tông dùng số tiền đó để tuyển binh, xem ngựa, bình định Hà Đông, đánh Thác Bạt, hàng năm có việc với Khiết Đan; Chân Tông dùng số tiền đó để phong thiền ở Đông Nhạc, tế tự ở Tây Nhạc, tuần du ở Nam Nhạc, Bạc, Tống, chưa từng nghe nói tăng thuế dân, mà việc điều động vẫn đủ. Đến triều Nhân Tông, thịnh vượng liên tục, dân số đông đúc, hàng hóa dồi dào, sau niên hiệu Khánh Lịch, thu nhập tài chính gấp ba lần thời Cảnh Đức, nhưng chi tiêu quốc gia lại càng thiếu hụt, đó là do gốc ngọn, đầy vơi, đã không cân xứng từ lâu.
[118] Bệ hạ thương xót thời cuộc đầy tệ nạn, chí hướng cải cách để thông suốt, dùng tài năng để hoàn thành việc thiên hạ, nên sáng lập pháp chế, những việc lớn đặt ra có đến mười điều, cốt yếu là kinh bang tế thế, tôn đức mở rộng sự nghiệp. Trong đó, pháp lệnh thu tiền để mộ phu dịch, gây hại cho thiên hạ rất sâu sắc, những nơi trọng yếu ở đô thị lớn đều bị bỏ phế; các tướng lại ở trấn trọng đều bị giải tán. Dân du thủ du thực và những kẻ yếu kém lại được giao việc quản lý kho tàng và văn án; quân nhân và cấp chỉ huy lại phải đảm nhiệm việc quản lý tiền lương và sổ sách. Những việc bất tiện như vậy, nhân duyên rất nhiều. Đến như sổ đinh năm hạng, ở một ấp có vạn hộ, đại khái hạng ba trở lên không đầy một nghìn hộ, đây là những hộ theo chế độ cũ phải chịu sai dịch. Hạng tư trở xuống có đến hơn chín nghìn hộ, đây là những hộ theo chế độ cũ không phải chịu sai dịch. Nay lệnh cho cả năm hạng đều phải nộp tiền, tức là bắt những hộ nghèo yếu không đủ mà cung cấp cho những hộ giàu có dư dả. Lấy ví dụ ở Ứng Thiên phủ, trong kỳ có bảy huyện, tổng cộng chủ khách hơn sáu vạn bảy nghìn hộ, thuế lúa mạch hạ thu hơn mười lăm vạn hai nghìn thạch, lụa hơn bốn vạn bảy trăm tấm, đây là sản phẩm từ ruộng đất và nghề trồng dâu, gọi là chính thuế. Ngoài ra còn có các khoản tiền tạp thu theo các danh mục khác nhau hơn mười một vạn ba nghìn quan, đây vốn là phép tệ đã có từ lâu, tuy có số tiền nhưng thực tế không nộp tiền, đều là nộp thay bằng lúa và lụa, chỉ có thuế nhà hơn năm nghìn quan là theo chế độ cũ nộp bằng tiền mặt.
[119] Đại thể chế độ phú dịch từ xưa đến nay, từ thời Tam đại cho đến cuối đời Đường và Ngũ đại, chưa từng có pháp lệnh thu tiền. Nay mỗi năm thu tiền dịch là bảy vạn năm nghìn ba trăm lẻ mấy quan, lại phát tiền thanh miêu tám vạn ba nghìn sáu trăm lẻ mấy quan, cộng dồn tiền lãi là một vạn sáu nghìn sáu trăm lẻ mấy quan, như vậy mỗi năm thu thực tiền chín vạn ba nghìn lẻ mấy quan. Mỗi năm hai kỳ, từ nhà đến hộ, khảo xét đốc thúc, không lúc nào ngừng, thiên hạ gọi là nạn khan hiếm tiền, tìm kiếm gần như hết sạch. Lại còn nới lỏng cấm ở biên quan, mở ra pháp bán đồng, bên ngoài thì chảy ra tứ di, bên trong thì tự do tiêu hủy. Đúc tiền có hạn, phá hủy không kiểm soát, tiền không thể có được, lúa vải càng rẻ. Biến chuyển đã khó, dân ngày càng khốn đốn, những nơi xa xôi hẻo lánh không biết làm sao. Vì vậy, thần nói rằng pháp mộ dịch thực sự gây hại lớn cho thiên hạ.
Phàm việc phát hành và thu hồi tiền tệ công tư, nguyên tắc không xa. Lương bổng của bách quan, quần lại, tam quân, mua lúa vải vào mùa hạ thu, vốn của các trường giám khanh dã, đó là những thứ dùng để phát hành; thuế chính ruộng đất[9], thuế trà, muối, rượu, đó là những thứ dùng để thu hồi. Sự nhiều ít của tiền tệ trong dân gian, tùy thuộc vào số lượng tiền quan phát ra, tiền quan phát ra ít, dân dụng đã thiếu, vậy thì ngoài thuế thường, tiền sẽ lấy từ đâu? Có người nói: Thu tiền mộ dịch nộp quan, rồi lại dùng để mộ dịch, tiền đã ra vào, không phải là tích trữ. Thần đáp rằng: Kẻ thu tiền mộ dịch đều là nông dân, phân tán vào kẻ lười biếng, chợ búa tự nhiên, ruộng nương bỏ không. Có người nói: Hạng tứ đẳng trở xuống thu ít tiền, dân dễ nộp. Thần đáp rằng: Những nơi quê nghèo hoang dã, hộ nhỏ dân nghèo, ngày đông chính tiết lạp, gánh củi cỏ vào thành thị, đi lại mấy chục dặm, được năm bảy mươi đồng, mua hành, cà, muối, dấm, già trẻ cho là ngon lành, ngày thường đâu từng biết một đồng?
[120] Nghe nói khi phép thuế dịch mới ban hành, có những quan lại khắc nghiệt đi kiểm tra ruộng đất, nhà cửa, trâu bò, gia súc, cây dâu, cây táo, và các loại cây khác của dân để định hạng hộ, thậm chí đến cả nông cụ, cối xay, chảo, nồi, chó, lợn của những gia đình nghèo khó cũng đều được định giá, bắt họ nộp tiền. Quan lại lấy việc bóc lột làm công trạng, tham lợi để được thưởng, triều đình mở ra điển lệ ban thưởng để khuyến khích, thì những kẻ cơ hội háo danh háo lợi sao có thể không theo gió mà chạy theo? Làm sao còn biết đến thể chế lâu dài của triều đình? Bệ hạ vốn muốn dùng lợi ích tốt đẹp để làm lợi cho thiên hạ, nhưng khi thực hiện thì lại không còn giữ được ý nguyện ban đầu. Chỉ dụ của Bệ hạ vừa ban ra, các quan chấp chính liền thi hành, rồi thêm thắt, đến nỗi các cơ quan hữu ty làm việc quá chi li. Ban bố xuống các lộ, quan chức các nơi đều đưa ra ý kiến riêng, văn bản chồng chéo, gốc giống nhau nhưng ngọn khác nhau, sáng ban hành chiều đã sửa đổi, các quận huyện thi hành đến nỗi không chịu nổi những tệ nạn. Hơn nữa, thuế ruộng của dân, khi gặp lũ lụt hạn hán thì có quy định xét miễn giảm. Lãi suất của phép thanh miêu, nếu gặp thiên tai thì còn tạm hoãn, nhưng tiền thuế dịch, dù năm đó mất mùa lớn, cũng không có lý do giảm miễn. Trước đây, việc thuế dịch ở các châu huyện, nếu tự làm hoặc thuê người làm, thường chia làm ba phần chi phí, một phần lấy từ tiền lương, đâu phải hoàn toàn dựa vào tiền. Ở những làng lớn có nhiều hộ, một lần thay phiên đi dịch, hơn mười năm sau mới đến lượt, trong thời gian đó được yên ổn không phải lo lắng gì.
[121] Phép tuyển mộ đã thực hiện được gần sáu năm, năm đầu dân chúng rất hoảng sợ, sau đó đốn cây dâu, cây táo, bán ruộng vườn, bán trâu bò. Những năm gần đây, những nơi hơi bị mất mùa, dân chúng lưu tán rất nhiều. Đến nay vẫn còn lộn xộn thay đổi, ý kiến không thể quyết định. Phép ấy trên không thể làm giàu nước mạnh quân, tạo lợi ích cho nhà nước, dưới không thể tiện lợi cho dân, cứu giúp vật dụng, làm phúc cho thiên hạ. Nếu chỉ ngồi nhìn cái tệ ấy, không thay đổi kế hoạch, thần e rằng mối lo của quốc gia không phải ở nước địch mà là thấy giặc ẩn nấp trong bụi rậm. Kính mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa về trọng trách của tông miếu xã tắc, xem xét tình cảnh của dân chúng, ra lệnh cho bề tôi tài cao thức rộng bàn bạc thông suốt về phép lấy tiền tuyển mộ. Bởi vì dân là kẻ ngu mà không thể lừa dối, yếu mà không thể thắng được, động loạn rất dễ, yên ổn thật khó. Cho nên dân là cái tâm của trời đất, là cái gốc của quốc gia, vì thế thánh nhân rất sợ họ, rất coi trọng họ, muốn bảo vệ quốc gia trước hết phải được lòng dân, đó gọi là đạo giữ thân vững chắc, đặt đồ vật vào chỗ an toàn. Thần vì già yếu, không đủ sức trình bày, gần đây đã dâng chương xin được nghỉ hưu về quê, kính nghĩ đã chịu ơn thánh thượng rất sâu nặng, nên không thể tự kìm lòng trước sinh linh thiên hạ, bày tỏ gan ruột, để bày tỏ lòng muốn báo đáp. Nếu tấm lòng thành thực được thấu lên trên, ánh sáng trời soi xuống dưới, được đóng góp chút ít như hạt bụi bổ ích cho núi biển, một mai chết trước chó ngựa lấp hố, cũng không còn hối hận, chỉ mong bệ hạ lưu tâm xem xét.
[122] Lại nói: “Thần trộm thấy phép dịch hiện hành, thiên hạ đều khổ vì sự bất tiện, bệ hạ cao xa nghe thấu, ắt biết được lợi hại. Thần e rằng các quan trong ngoài chưa có ai vì quốc gia lo nghĩ sâu xa, nói rõ cái gốc của vấn đề. Thần vốn ngu muội, được bệ hạ thương yêu, nay dâng sớ xin nghỉ hưu, đang đợi mệnh lệnh để từ tạ, nghĩ đến ân sâu, muốn có chút báo đáp trước khi ra đi, nên không tránh tội chết, dâng lên bản tấu này, trình bày hết kế sách lớn bảo vệ đất nước, thuận tiện cho dân, không phải chỉ là lời lẽ kích động để chống lại luận điệu cao xa. Bệ hạ thánh minh, nếu xét thấy lời thần thực sự có ích cho quốc gia, xin hãy xuống chiếu minh bạch, dừng bỏ phép này, khôi phục lại chế độ cũ. Trong chế độ cũ nếu có chỗ chưa ổn, xin hãy tăng giảm chút ít, tham khảo rồi thi hành. Ngày chiếu chỉ ban ra, nếu trong bốn phương, muôn dân có kẻ thất phu thất phụ nào không vui mừng, cảm kích ơn đức, thì thần xin chịu tội lừa dối trên, mê hoặc quốc gia, phá hoại phép tắc, bị đày xa để chính pháp luật. Nếu bệ hạ vẫn cho rằng lời thần chưa đủ tin cậy, xưa có việc lớn nghi ngờ thì bàn với khanh sĩ, thứ dân cùng thống nhất rồi mới làm, xin hãy công bố sớ của thần, để các quan trong triều cùng các quan lại các lộ, quận, huyện đều được bàn công khai. Hai điều này chỉ ở nơi bệ hạ quyết đoán, để định rõ phải trái trong thiên hạ. Nếu chỉ đưa về Trung thư, hỏi ý các quan chấp chính, thì chẳng ích gì. Vậy xin hãy giữ lại trong cung, không ban ra, không chỉ để bảo toàn kẻ cô thần, mà còn để lời trung nghĩa được rộng khắp, thông suốt bốn phương. Thần lo lắng cho quốc gia, lòng thành kính mong bệ hạ soi xét.”
Phương Bình xin nghỉ hưu, theo tập chép thì không được chấp thuận, trong lời phê đáp có câu “trời thu lạnh”, vậy thì việc bàn về phép dịch ắt là vào khoảng tháng tám, chín, nay phụ vào cuối thu.
- Sứ di lưu của Liêu Quốc mẫu, chữ 'di' nguyên là 'khiển', theo bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Chiếu theo lời xin của sứ giả, lệnh Học sĩ viện ban sắc thư riêng, câu văn khó hiểu, nghi có sai sót. ↵
- Chữ 'Đạt' nguyên là 'Quỳ', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 468, phần truyện hoạn quan, và 《Tống hội yếu》 phần nghi chế 13/5 mà sửa. ↵
- Ngày 22 tháng 7, chữ 'thất' nguyên bản là 'cửu', căn cứ vào bản trong các và điều Bính Tý trong quyển này mà sửa lại. ↵
- Hai chữ 'tòng chi' ở đây khó hiểu, nghi là thừa hoặc sai. ↵
- Xin lệnh cho Thị dịch ty phát 30.000 quan tiền, chữ 'tam' trong các bản là 'nhất'. ↵
- Dân đúc trộm bị tội, chữ 'đạo' nguyên bản thiếu, theo bản các và 《Tống văn giám》 quyển 47, bài luận về tiền miễn dịch của Trương Phương Bình bổ sung. ↵
- Từ việc tế tự xã tắc, thần linh, 《Lịch đại danh thần tấu nghị》 quyển 256, bài sớ luận về mộ dịch của Trương Phương Bình viết 'từ việc tế tự tông miếu, xã tắc, thần linh'. ↵
- 'Ruộng' nguyên là 'Nhà', căn cứ theo sách trên và quyển 47 《Tống văn giám》 Trương Phương Bình luận về tiền miễn dịch mà sửa. ↵