VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 279: NĂM HI NINH THỨ 9 (BÍNH THÂN, 1076)
Từ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 9 đời Thần Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 11, ngày Quý Sửu mùng một, Ngự sử Bành Nhữ Lệ tâu:
Ngồi yên trong một căn phòng mà muốn biết hết mọi việc xa xôi bốn biển; đặt ra pháp luật trong một ngày mà muốn áp dụng mãi đến muôn đời sau. Há phải chỉ dựa vào sức mắt tai chân tay của một người sao? Chỉ cần tận dụng mưu lược của mọi người mà thôi. Mong bệ hạ mở rộng thêm đường ngôn luận, để thông suốt tình hình dưới dân. Tình hình dưới dân thông suốt, thì mưu kế trung thành sẽ ngày càng nhiều, mà dấu vết lợi hại, thực chất tà chính, sẽ không thể che giấu được thiên tử. Việc liên quan đến thiên hạ, thì nên cùng thiên hạ bàn bạc; việc dùng đến nhiều người, thì nên cùng nhiều người thảo luận. Đây không phải là việc riêng tư.
Thần thấy triều đình những năm gần đây trong việc dùng lời nói, nếu ai cùng ý kiến thì mọi người khen là kỳ tài[1], cho là hiểu được thể chế trị nước và thực sự trọng dụng; nếu ai khác ý kiến thì mọi người cho là tầm thường, cho là không biết biến thông và thực sự bỏ rơi. Phải trái nằm ở lý lẽ, không nằm ở cùng hay khác ý kiến. Nếu cùng ý kiến mà có sự a dua, thì dù cùng ý kiến cũng là để lừa dối; nếu khác ý kiến mà có sự chọn lọc, thì dù khác ý kiến cũng là để trung thành. Điều thiên tử yêu ghét là khuôn mẫu cho dân. Nếu thiên tử chỉ thích những ý kiến giống mình, thì dân cũng coi việc giống ý kiến là quý; nếu thiên tử chỉ ghét những ý kiến khác mình, thì người ta cũng coi việc khác ý kiến là ti tiện. Người ta không thể không có kẻ hiền người kém, việc không thể không có lợi hại, mà ai ai cũng a dua theo, coi việc đúng sai là một, thì sẽ ngăn cản người quân tử mà dung túng kẻ tiểu nhân, sẽ che đậy tội lỗi mà coi là công lao, biến cái hư ảo lừa dối thành cái chân thực, biến cái lợi lộc gian trá thành đạo nghĩa. Những tệ nạn cuối cùng này, thần e rằng không thể trị hết được. Mong bệ hạ vì thiên hạ mà cố gắng lắng nghe, để đáp lại thiên biến, để cùng lo với dân.”
(Bản Chu cho rằng tấu chương của Nhữ Lệ không được thi hành, nên bỏ đi. Nay in bản mới vẫn ghi đầy đủ.)
[2] Xu mật viện tâu rằng, quân trú đóng ở Hi Hà đã hết hạn, nên dùng các chỉ huy Hổ Dực ở kinh thành thay thế. Vua phê: “Quân vệ đã ít, nếu lấy đủ ở kinh sư, e ngày càng hao hụt, có thể chỉ sai 12 chỉ huy bộ binh ở kinh thành: Thần Dũng, Tuyên Vũ, Quảng Dũng mỗi loại một chỉ huy, Hổ Dực chín chỉ huy.”
[3] Chiếu cấp cho Ty Nông tự, Ty Thị dịch thủy lợi ứ điền 15 vạn thạch lương dự trữ ở Thiền Định châu, Đại Danh phủ, giao cho Ty Chuyển vận lộ Hà Bắc Tây. Vì thiếu lương quân.
[4] Chiếu giảm bỏ 22 viên Câu đương công sự ở Ty Tuấn Xuyên, 185 chiếc thuyền, quân dịch không cấp thêm tiền gạo; Lý Công Nghĩa lệnh cho Thẩm quan đông viện bổ nhiệm chức vụ thích hợp. Theo đề nghị của Đô thủy giám. Tháng 9 ngày Bính Thìn, tháng 10 ngày Đinh Dậu, cần xem xét.
[5] Chiếu các lộ dùng tiền mặt và diêm sao để bán muối mạt, Tam ty còn nợ 1.027.000 quan tiền muối mạt, dùng tiền chi tạp để trả.
[6] Ngày Giáp Dần, chiếu bãi bỏ chức Kiểm chính, Kiểm tường quan kiêm nhiệm ở Trung thư xu mật viện.
[7] Công bộ lang trung, Thiên chương các đãi chế Tôn Tư Cung[2] mất.
[8] Ngày Ất Mão, cấp 68 tờ cáo sắc chức Giám chủ bạ, Trợ giáo cho Quảng Nam Đông lộ để chiêu mộ người đóng góp, giúp quân nhu.
[9] Chiếu giới hạn số ngựa nuôi ở phủ Khai Phong không quá 5.000 con. Chu bản thêm vào theo 《Thời chính ký》, ngày 27 tháng 10 cần xem xét.
[10] Chiếu: “Ty Thị dịch đô thị trước đây cho vay tiền của, nếu đã trả đủ gốc lãi trong hạn thì miễn phạt lãi. Chưa trả đủ thì gia hạn nửa năm. Các lộ theo chỉ huy đến trước ngày này đều áp dụng như vậy.”
[11] Chiếu: “Ở Mậu Châu đã xây dựng đồn trại, sợ quân dân ỷ thế quấy nhiễu bộ lạc, hoặc gây khó khăn cho việc buôn bán. Sai Kiềm hạt ty thường răn đe, quản lý, đảm bảo hòa thuận giữa người Hán và bộ lạc.”
[12] Ngày Bính Thìn, lệnh cho Tri Xu mật viện sự Phùng Kinh kiêm chức Quần mục chế trí sứ.
[13] Chiếu rằng: “Đô đề cử thị dịch ty ngừng việc chuẩn bị nếp, thu mua gạo mới ở chợ kinh thành và gạo đã mua trước đó, chia đều cấp cho các hộ nấu rượu trong kinh. Sau khi cấp hết, cho phép dân chúng tự do mua bán với quan phủ hoặc tư nhân. Lệnh ban ngày 25 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 5 không được thi hành nữa, và các quan phụ trách phân phát nếp phải trở về nơi thuộc quyền quản lý của mình.” (Ghi chép trong 《Thời chính ký》 ngày 16 tháng 2 có thể tham khảo).
[14] Ngày Đinh Tỵ, chiếu rằng: Các chức quan ở Hi Hà lộ đã bãi bỏ, từ nay không được tâu xin thêm chức vụ. Những người đã giảm biên chế nhưng vẫn còn ở lộ này phải nhanh chóng điều đi nơi khác. (Ghi chép trong 《Thời chính ký》).
[15] Lại bãi bỏ chức quan của Đô đại đề cử ứ điền ty. (Ghi chép trong 《Thời chính ký》).
[16] Ngày Kỷ Mùi, chiếu cho Hi Hà lộ kinh lược an phủ ty: Phàm điều động quân mã, nếu không phải việc khẩn cấp, đều phải tính toán lương thực và điều binh, không được cùng với chuyển vận ty phân biệt đối xử, làm lãng phí quân lương, dẫn đến thiếu hụt khi cần kíp.
[17] Chiếu rằng: Các quan đài gián kiêm nhiệm cục nào không được phép tiếp khách thì nay cho phép tiếp khách. Theo lời tâu xin của Trung thừa Đặng Nhuận Phủ. (Ghi chép trong 《Thời chính ký》).
[18] Ngày Canh Thân, chiếu cho Đại Lý tự thừa Trầm Quỳ thăng một chức, được bổ nhiệm tại triều đình. Do có công lao khi làm Tiền nhiệm Tín châu suy quan, khai thác mỏ bạc.
[19] Chiếu cho Vương Quân Vạn quyền đề cử việc đi lại các bộ tộc ở Hi Hà lộ, quản lý các bộ tộc thuận theo nhà Hán, không được gây kinh động. Đợi khi tình hình ổn định, sẽ cho lập công chuộc tội. Lúc này, bộ tộc La Tư Kết ở phía đông Thao Hà dưới quyền Quỷ Chương nổi loạn.
[20] Ngày Tân Dậu, Ty sĩ tham quân châu Đồng là Ngụy Đạo Nghiêm tự nhận là hậu duệ của tể tướng nhà Đường là Trịnh Huyền Thành, chiếu cho Lưu nội tuyển miễn thi và bổ nhiệm chức quan.
[21] Long đồ các trực học sĩ Tôn Cố quyền tri Khai Phong phủ. Tôn Cố và Vương An Thạch bất đồng ý kiến nhiều lần, nên bị điều ra trấn thủ Chân Định. Khi Vương An Thạch bị bãi chức, mới được triệu về.
[22] Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ và Tri chế cáo Hứa Tướng đều kiêm chức Trực học sĩ viện, đợi khi có chính quan thì thôi.
[23] Tư huân viên ngoại lang, Đô đề cử thị dịch ty Lữ Gia Vấn bãi chức Kiểm chính trung thư hộ phòng công sự, ban áo tía, kiêm Đề cử tại kinh chư ty khố vụ. Đợi khi có khuyết chức Phó sứ Tam ty trong hai năm, sẽ bổ nhiệm.
[24] Chiếu bỏ chức quan đề cử các ty Trướng ty, Câu viện, Ma khám, Thôi khu thuộc Tam ty, lệnh cho quan đề cử các ty Khố vụ tại kinh kiêm luôn việc đề cử. Sau đó lại lấy Từ bộ lang trung, Trực sử quán Diệp Quân làm đề cử các ty Trướng ty, Câu viện, Ma khám, không thuộc quyền quản lý của các ty Khố vụ.
[25] Ngày Quý Hợi, chiếu rằng Tam ty gần đây nhiều lần có thần liêu tâu về phép dùng muối và giấy muối ở Thiểm Tây, nên nhanh chóng bàn bạc lợi hại, điều khoản rồi tâu lên. Việc này căn cứ theo 《Hội yếu》 và 《Thời chính ký》, đến ngày Mậu Thân (25) tháng 2 năm sau, Tam ty dâng điều khoản lên, 《Tự chí》 của Thẩm Quát và 《Ký văn》 của Tư Mã, có thể phụ chép vào đây, chí chép vào ngày 28 tháng 4, có thể tham khảo.
[26] Ngày Ất Sửu, Thái thường bác sĩ, Tân tri Hòa châu Hồ Tông Dũ được quyền làm Đề điểm hình ngục lộ Hà Đông.
[27] Ngày Kỷ Tỵ, ngày Đông chí, không thiết triều.
[28] Ngày Quý Dậu, Bân quốc Đại trưởng công chúa được tiến phong làm Lỗ quốc.
[29] Tây tác phường sứ, Gia châu đoàn luyện sứ, Nội thị áp ban Vương Trung Chính được làm Chiêu tuyên sứ, Nội thị phó đô tri, và cho một con được thăng chức. Lục trạch sứ Lưu Xương Tộ được làm Hoàng thành sứ, Vinh châu thứ sử. Tây thượng các môn phó sứ Địch Vịnh được làm Khách tỉnh phó sứ, đợi một năm sẽ thăng làm Tây thượng các môn sứ. Tây thượng các môn phó sứ Vương Quang Tổ được làm Dẫn tiến phó sứ. Lục trạch sứ Giả Xương Ngôn được làm Nội tàng khố sứ. Cung bị khố phó sứ Sử Văn Liễn được thăng một chức. Nội điện thừa chế Trần Tế Mỹ được thăng ba chức. Trương Khắc Minh được thăng một chức. Đông đầu cung phụng quan Phùng Bổ Chi được thăng hai chức. Đây là phần thưởng công biên phòng vì việc đánh dẹp và thu phục bộ lạc phiên thuộc ở Mậu Châu, cùng xây dựng đồn trại.
[30] Xương Tộ, Vịnh đều là người do Trung Chính mang theo đến. Quang Tổ làm Kiềm hạt lộ Tử Quỳ, nhận mệnh điều binh ứng cứu, đem 3000 quân vượt cầu dây, trải qua nơi nguy hiểm cát bay đá lở, hội quân với Trung Chính đánh phá Kết Tổng Quan, rồi tiến đánh các tộc ở khe Tất Lật, chém được hàng ngàn thủ cấp, thu được nhiều vật phẩm khác, bèn đóng quân ở Kết Tổng Quan. Cách Mậu Châu 50 dặm, thôn Thạch Cổ án ngữ nửa đường, bị giặc chiếm giữ, Trung Chính lo lắng, triệu Quang Tổ cùng Xương Tộ, Vịnh bàn bạc, Quang Tổ xin đi một mình, liền tấn công Thạch Cổ. Giặc dựa vào địa thế hiểm trở, tên bắn như mưa, Quang Tổ chia quân tinh nhuệ làm bốn đường leo núi, đánh úp từ phía sau chiếm được cửa ải, giặc không kịp phòng bị, vội bỏ chạy, đuổi đến núi Trà. Đến tối, Quang Tổ tự cầm cờ trống, thúc quân tiến lên, đuổi theo chém được vài trăm thủ cấp, kẻ rơi xuống vực chết không đếm xuể, bèn chiêu dụ các tộc còn lại, cùng đóng các đồn trại, hội quân với Trung Chính ở Mậu Châu rồi trở về. Việc này căn cứ theo truyện Vương Quang Tổ. Không rõ truyện này dựa vào đâu, e có sự tô vẽ, nên bỏ đi, xem xét kỹ hơn, vì Quang Tổ vốn không phải là tướng liêm chính.
[31] Ban đầu, Trung Chính đến Thành Đô, mà Mậu Châu đã cùng bộ lạc Thổ Phồn thề ước riêng, nên ngừng binh. Trung Chính một mực nói rằng nhận được chỉ dụ của hoàng đế, phải tiến hành đánh dẹp. Tháng 6, dẫn quân từ Kết Tổng Quan tiến vào Cung Châu, nhân lúc bộ lạc Thổ Phồn không phòng bị, đánh úp, chém được vài trăm thủ cấp, thiêu hủy gần hết lều trại. Sau đó lại cùng họ thề ước riêng, tháng 7 lại tập kích, rồi lại thề ước riêng, tâu lên. Vì Thái Diên Khánh tuy nói là thề ước riêng, nhưng khi quân triều đình đến Kết Tổng Quan, bộ lạc Thổ Phồn liền phá ước chống lại. Lúc đó Diên Khánh đã bị trách tội do xử trí sai lầm, và rời Thành Đô rồi.
[32] Theo lệ cũ, khi các bộ tộc phiên làm lễ thề riêng, trước tiên phải nộp vật phẩm để đền bù binh lính và cầu hòa. Quan lại ghi chép lại những người, gia súc và tài sản bị cướp bóc để trả lại, nếu không còn thì phải bồi thường thêm giá trị, sau đó mới tiến hành lễ thề. Lễ vật gồm một con bò, một con dê, một con lợn, một cây gai, một cái cày và một cái cuốc. Sau đó, họ buộc một thanh kiếm ở cổng lễ thề, các thủ lĩnh tụ tập lại, từng người lần lượt đi qua dưới cổng kiếm, lấy máu bò, dê, lợn để làm lễ uống máu thề. Họ đào một cái hố, trói một nô tỳ người Khương lại và đặt vào trong hố, đặt cày, cuốc và gai lên trên, ném một hòn đá vào nô tỳ, rồi lấp đất lại. Thầy phù thủy đọc lời nguyền: “Kẻ nào vi phạm lời thề, sẽ bị như nô tỳ này.”
Khi Vương Trung Chính làm lễ thề riêng, ban đầu không bắt nộp vật phẩm đền bù binh lính và cầu hòa, cũng không đòi lại những thứ bị cướp bóc. Ông mua một nô tỳ người Khương, dùng chiếu che lại, qua một đêm thì nô tỳ biến mất. Vương Trung Chính lại là người đầu tiên đi qua cổng kiếm, khiến các bộ tộc phiên coi thường lễ thề này. Từ đó, việc cướp bóc không bao giờ chấm dứt. Điều này được ghi trong 《Tư Mã Ký Văn》. Lã Đào trong tấu chương ngày 22 tháng 10 cũng viết: “Triều đình phát binh xử lý, đến nay đã nửa năm, nhưng chỉ vài ngày sau khi phân bố quân đồn trú, biên giới lại xảy ra xung đột. Vương Trung Chính ở lại phương xa lâu ngày, không có ích gì cho sự việc, xin triệu hồi ông về, chỉ giao trách nhiệm cho các quan chức địa phương, tự họ sẽ giải quyết được.” Điều này cho thấy việc các bộ tộc phiên tiếp tục cướp bóc không phải là lời nói suông.
《Lưu Xương Tộ Truyện》 chép: “Năm thứ 9, người Khương ở Bích Lật, Mậu Châu quấy nhiễu biên giới, triều đình sai Vương Trung Chính thống lĩnh quân vào Thục, lệnh cho Lưu Xương Tộ dẫn quân hỗ trợ. Quân tiến ra Kết Tổng Quan, giặc chiếm cứ nơi hiểm yếu, quân triều đình không tiến được. Lưu Xương Tộ từ bên đánh đuổi giặc, nhờ công được phong làm Hoàng thành sứ, Thứ sử Vinh Châu.” Lúc đó, Lưu Xương Tộ đang giữ chức Đô giám Tần Phượng lộ, là tướng thứ tư. Trương Thuấn Dân trong 《Chí Lưu Xương Tộ Mộ》 viết: “Năm thứ 9, người Khương ở Bích Lật, Mậu Châu quấy nhiễu biên giới, Vua sai Vương Trung Chính thống lĩnh quân vào Thục, lệnh cho Lưu Xương Tộ dẫn quân hỗ trợ. Quân tiến ra Kết Tổng Quan, giặc chiếm cứ nơi hiểm yếu, quân triều đình không tiến được. Lưu Xương Tộ từ bên đánh đuổi giặc, rồi tiến lên. Khi qua thôn Trà Sơn, đang lúc chém giết, Vương Trung Chính vội ngăn lại nói: ‘Đừng giết, ta đã chiêu hàng chúng rồi.’ Lưu Xương Tộ nói: ‘Giặc đã lập kế lâu ngày, quân ta từ xa đến, uy lệnh chưa được tin tưởng, mà chúng không sợ, nói là chiêu hàng, không phải việc của nhà binh.’ Không lâu sau, chiếu chỉ trách hỏi việc chiêu hàng, chuẩn bị đưa quân tiến sâu hơn. Lưu Xương Tộ nói: ‘Đó gọi là giết kẻ hàng. Chúng thực sự không hàng mà ta chiêu dụ, đã định rồi lại đem quân đánh, danh nghĩa là gì?’ Nhờ công ở Kết Tổng, ông được phong làm Hoàng thành sứ, Thứ sử Vinh Châu.” 《Địch Vịnh Truyện》 chép: “Người Man ở Uy, Mậu xâm phạm, quân tiến ra Kết Tổng, vào khe Bích Lật, cầu đường hiểm trở, kỵ bộ khó tiến. Địch Vịnh xông pha tên đá, đánh nhau liên tiếp mấy ngày, giết những kẻ không tuân mệnh.” Lúc đó, Địch Vịnh đang giữ chức Kiềm hạt Lộ Lợi Châu, Thành Đô phủ.
[33] Chiếu cho các châu Bảo, Bá là Đổng Nguyên Trọng và Đổng Hiếu Trung mỗi năm được tăng thêm bổng lộc ba mươi ngàn. Vì họ có công chiêu dụ và an định bộ lạc phiên ở châu Mậu từng gây loạn.
[34] Chiếu rằng: “Phu vận lương ở An Nam, Quảng Tây chuyển vận ty phải chuẩn bị sẵn sàng để điều động. Nay đại quân đã vào cõi, nhưng phu ở các châu Quế, Nghi vẫn chưa đủ, lại còn tâu rằng quan lại các châu này lơ là, đó là do chuyển vận ty xử lý không đúng cách. Lệnh cho Tuyên phủ sứ ty xét việc này. Đô đại đề cử Triệu Tiết phải trình bày rõ ràng để tâu lên.” Năm sau, tháng 7, ngày Ất Hợi, bị giáng chức đãi chế; tháng 8, ngày Mậu Dần, Lý Bình Nhất, Thái Diệp, Chu Ốc đều bị trị tội. Bản Chu dời chiếu này vào tháng 8 năm sau, ngày Mậu Dần, nay theo bản Mực.
[35] Đề điểm hình ngục Quảng Nam Đông lộ là Hứa Mậu tâu: “Dân cư và ruộng lúa ở hai huyện Hải Dương, Triều Dương thuộc châu Triều bị bão lớn và thủy triều làm hại. Xin miễn thuế thu và tiền dịch cho hộ ba bậc trên; còn hộ bốn bậc trở xuống, ngoài việc miễn thuế thu và tiền dịch theo quy định, xin miễn hoàn toàn thuế đinh. Các khoản phải cung ứng cho quân nhu Quảng Tây cũng xin miễn hết.” Được chấp thuận.
[36] Chiếu rằng: “Quân sĩ trong hành dinh An Nam bị bệnh nhiều, sai Đồng tri Lễ viện là Vương Tồn đến Nam Nhạc cầu đảo, sai trung sứ mang hương lập đạo tràng cầu phúc trong một tháng.”
[37] Lại chiếu rằng: “Quân sĩ và người ứng mộ ở An Nam chết vì bệnh, ngoài tứ vật thường lệ, được thêm hai tấm lụa, lương thực đáng được cũng cấp cho gia đình họ.”
[38] Chiếu rằng: “Từ nay, mỗi khi có đại lễ, từ Trung thư chọn hai viên quan để đề điểm các việc. Lập thành định thức.”
[39] Ngày Đinh Sửu, Hữu thị cấm, Khán ban chi hậu là Mạnh Tại được làm Cáp môn chi hậu. Mạnh Tại, cần xét lại.
[40] Tri gián viện Hoàng Lý tâu: “Quốc Tử Giám mỗi năm được cấp mười bốn ngàn quan tiền, nhưng trong giám còn có tiền biên sách kinh nghĩa sung vào ba bậc, số còn lại cũng đến mười ngàn quan. Xin dùng số tiền này cùng với tiền thu từ phòng ốc và trang trại để chờ đến khi đủ số tiền cấp hàng năm, rồi để riêng quản lý dùng cho giám, thì tiền cấp hàng năm có thể bãi bỏ.” Được chấp thuận.
[41] Hàn Chẩn và những người khác tâu rằng đã cùng với người phương Bắc phân chia địa giới ở Ngoã Sằn Ổ. Chiếu theo dòng nước chảy từ nam đến bắc, lấy đỉnh núi phân thủy làm ranh giới. Việc này căn cứ vào sách 《Thời chính ký》 của Viện Mật, ngày 25 tháng 11, nhưng tiếc là không được chi tiết, tạm ghi lại để tra cứu sau. Hàn Chẩn bỏ mất 700 dặm đất, có lẽ là do việc này. Ngày 18 tháng 6, có lời phê của Vua, cần tra cứu thêm. Tô Triệt trong tấu chương hặc tội Hàn Chẩn có viết: “Chẩn trước đây phụng mệnh đi định địa giới với Khiết Đan, đã dâng 700 dặm đất đai của tổ tông cho nước địch, khiến phong tục Trung Hoa bị chìm đắm nơi phương ngoại. Kẻ địch được đứng trên cao nhìn xuống Tịnh, Đại, triều đình dù có quân mạnh tướng giỏi cũng không thể làm gì được.” Tấu chương này vào ngày Giáp Ngọ, tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất. Lại viết: “Nghe nói rằng khi ấy cắt đất Hà Đông cho Liêu, hàng nghìn gia đình biên giới phải bỏ mồ mả ruộng vườn mà dời vào nội địa, tiếng khóc vang trời, đến nay người già vẫn còn đau đớn thấu xương, mà những nơi hiểm yếu dọc biên giới đều bị dâng cho địch. Đây là mối lo lớn cho muôn đời, Chẩn dù có chết cũng chưa đủ đền tội.” Tấu chương này vào ngày Giáp Thìn, tháng 2 nhuận. Lại có tấu chương của Lã Đào, vào cuối tháng 2 nhuận[3]. Tô Triệt lại có tấu chương vào ngày Mậu Thìn, tháng 3, bàn về việc cắt đất rất chi tiết.
[42] Chiếu cho Tam Ty và các lộ bán đồng, chì, thiếc, xem xét những nơi xa xôi khó vận chuyển, đổi thành hàng hóa, và đều phải niêm phong tại hạ giới của Thị dịch vụ.
[43] Ngày Mậu Dần, Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Phép dịch điền của các lộ trong thiên hạ, bắt dân nộp tiền, quan thuê người làm việc, theo chỉ huy cũ thì ngoài số tiền đó còn để lại một phần tiền khoan thặng. Nghe nói các châu huyện hàng năm để lại tiền khoan thặng quá nhiều, vì không hiểu rõ ý của triều đình, lại nghe theo phong chỉ của các ty đề cử, bắt dân nộp thêm tiền. Lại có các ty đề cử vì muốn lập công, hoặc quan lại bắt dân thường dâng sớ bàn lợi hại, giảm bớt người làm việc, trừ bớt tiền dịch, nhưng dân vẫn phải nộp tiền như cũ, khiến số tiền khoan thặng ngày càng tăng gấp bội. Thiên hạ đều cho rằng triều đình đặt ra phép tụ thu, không khỏi sinh nghi ngờ oán hận. Không chỉ vậy, các châu huyện vì số người làm việc ngày càng giảm, công việc ngày càng nhiều, dù có dùng hình phạt nghiêm khắc cũng không thể giải quyết được. Pháp luật về người làm việc quá nặng, tiền thuê mướn quá ít, không đủ nuôi sống, nên họ không muốn nhận việc, trên dưới đều lâm vào cảnh khó khăn, công tư đều gặp tai họa. Thần gần đây xin theo lệ cũ, cho kỳ trưởng quản lý việc trộm cướp ở thôn xã, không bổ nhiệm bảo chính và hộ trưởng, thuế thuê mướn cũng không bàn đến việc sai giáp đầu, đều là để giúp hoàn thiện pháp luật, nhưng chưa được thi hành. Mong xét lại tờ tấu trước của thần, lệnh cho các châu huyện trong các lộ, theo điều lệ miễn dịch trước đây, thuê kỳ trưởng, hộ trưởng và những người làm việc không nên giảm quá nhiều, đồng thời ấn định số người, lệnh mỗi tháng thu tiền thuê đủ, ngoài ra chỉ để lại một phần tiền khoan thặng, trên không thu nhiều, dưới được vui lòng nộp thuế.”
[44] Tam ty sứ Thẩm Quát cũng tâu: “Trước đây kiêm chức Sát phỏng hai lộ Chiết Đông, Chiết Tây, xem xét tình hình trong lộ, từ khi thi hành phép dịch, người dân ở thôn quê và những người trước đây không phải chịu dịch đều kêu ca là bất tiện, nhiều lần trình bày lợi hại, xin giảm tiền dịch cho hộ hạ đẳng. Thần xét kỹ ý nghĩa của việc lập pháp, vốn là muốn chia đều tài sản và tiết kiệm sức dân, những người chịu dịch nặng không thể không được trợ giúp, những người không chịu dịch không thể không bắt họ phải giúp đỡ. Theo ý kiến ngu muội của thần, chi bằng bắt những người không chịu dịch nộp tiền, những người chịu dịch nặng được nhận lộc, còn những người chịu dịch nhẹ thì vẫn theo phép dao dịch cũ. Hiện nay, những dịch nặng ở các châu huyện không quá các chức như nha tiền, kỳ hộ trưởng, tán tòng quan. Nha tiền tức là tiền phường trường, tiền đò đều có thể đủ dùng[4], còn lại đối với các hộ quan lại ở phường quách, hộ nữ, hộ đơn đinh, tự quan, nhờ tiền dư từ phường trường và đò đều có thể đủ để cấp lộc. Số hộ phải nộp tiền không nhiều, thì các châu huyện dễ dàng thu gom, nặng nhẹ bù đắp lẫn nhau, sức dân tự nhiên sẽ được cân bằng.” Chiếu cho Ty nông tự xem xét rồi tâu lên. Tháng 7 năm sau, ngày Đinh Tỵ, Quát bị khiển trách, chắc là liên quan đến việc này.
[45] Chiếu cho Tam ty, ở lộ Hà Bắc Đông, tiền thưởng bắt trộm cướp, nếu số tiền định sẵn không đủ, cho phép chi 5000 quan tiền thuế trà trong kho phong trang để cấp.
[46] Ngày Kỷ Mão, Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Các châu huyện thuộc lộ Thành Đô dân số đông đúc, sản lượng muối thường không đủ dùng. Các lộ Tử, Quỳ sản xuất nhiều muối, nhưng dân chúng lại dư thừa, từ trước đến nay không cấm buôn bán, cả quan và tư đều có lợi. Nghe nói trước đây Ty chuyển vận lộ Thành Đô phủ đã xem xét việc bán muối ở trường muối Lăng Tỉnh, nên đã ngăn cấm muối từ lộ Đông Xuyên không được vào lộ này, đồng thời đóng cửa các giếng muối Trác Đồng trong lộ, khiến nhiều người mất việc làm. Điều này nhằm tăng giá muối, buộc dân chúng phải mua muối từ trường muối Lăng Tỉnh. Ngoài ra, có quan lại tâu xin chiêu mộ người vận chuyển muối Giải vào đất Thục để bán. Từ Thiểm Tây đến Thành Đô dài hai ngàn dặm, đường xá hiểm trở, không thể vận chuyển liên tục, khiến giá muối ở lộ Thành Đô tăng vọt, mỗi cân muối giá hai trăm năm mươi đến sáu mươi đồng, phải đổi hai đấu gạo mới được một cân muối. Trong khi đó, muối ở lộ Đông Xuyên chỉ bảy mươi đồng một cân. Dân nghèo ở biên giới mang muối vào lộ Tây Xuyên, tức là vào đất cấm, liền phạm trọng tội. Những kẻ ham lợi cầu sống thậm chí dùng vũ khí hộ tống buôn lậu. Ép người phạm pháp như giăng bẫy, tiếng kêu than của dân chúng không nơi nào để kêu cứu, lẽ nào thánh triều lại có tiếng oán than như vậy. Thần xin cho muối lộ Đông Xuyên được vào lộ Thành Đô phủ như cũ, Ty chuyển vận không được ngăn cấm, không đóng cửa giếng muối Trác Đồng, chỉ cấm từ nay về sau không được mở thêm giếng mới, bãi bỏ việc quan vận chuyển muối Giải, cho phép thương nhân buôn bán vào đất Thục như trước. Mong rằng dân chúng ở xa cũng biết được lòng nhân từ của triều đình.”
Vua xuống chiếu cho Tam ty nhanh chóng xem xét và tâu lên. Sau đó, Vua ra chiếu cho phép quan vận chuyển muối Giải bán theo giá của thương nhân, không được ép buộc, thương nhân buôn bán như cũ.
[47] Ty an phủ Đào Đông tâu rằng, Bao Thuận dẫn quân đánh nhau với Quỷ Chương ở Đa Diệp Cốc, chém được hơn hai trăm sáu mươi thủ cấp. Vua xuống chiếu cho Ty kinh lược ghi công và ban thưởng, những người có công khác nhanh chóng tâu lên. Sách 《Cựu kỷ》 chép ngày Kỷ Mão: Quỷ Chương cướp phá châu Dân, Hoàng thành sứ Bao Thuận đánh bại chúng. Sách 《Tân kỷ》 không chép.
[48] Ngày Nhâm Ngọ, Tri châu Chủng Ngạc ở châu Dân đánh bại Quỷ Chương ở thành Thiết, chém được hơn tám trăm đầu. Việc này căn cứ theo bản tấu ngày 7 tháng 2 năm sau, là sự việc xảy ra ngày 20 tháng 11 năm nay. Trước đó, Quỷ Chương tập hợp quân lính ở lệnh Đinh Cốc, uy hiếp tộc Khương Qua gia thuộc quyền để làm phản, các bộ lạc đều dao động. Chủng Ngạc đem quân nhẹ đánh úp, bất ngờ tấn công đánh bại chúng. Giết hơn hai trăm người thuộc phe phản loạn của tộc Qua gia, các bộ lạc mới yên định. Quỷ Chương lại đem ba vạn quân chiếm giữ thành Thiết, thu phục các tộc Bối Tư Kết, La Tư Kết để uy hiếp Thanh Đường. Chủng Ngạc biết người Khương vốn hay hai lòng, xem thắng bại để quyết định theo bên nào, bèn đem hết hai nghìn quân, chưa sáng đã đến thành Thiết. Giặc không ngờ quân Hán đến, kinh hoàng rối loạn, không biết làm gì. Chủng Ngạc tung quân đánh, hò reo leo lên thành, quân giặc đại bại, chém được hơn tám trăm đầu, Quỷ Chương bỏ chạy xa. Các tộc Khương thuộc quyền ở châu Dân không dám hai lòng nữa. Việc này căn cứ theo bài minh trên mộ của Phạm Dục.
[49] Tháng 12, ngày Quý Mùi mùng một, sai Tri chế cáo Hùng Bản cùng các quan Đô thủy giám, Chuyển vận ty Hà Bắc cùng xem xét việc nạo vét sông Biện và kênh đào ở châu Vệ, tâu rõ lợi hại. Trước đó, sông ở phủ Đại Danh mỗi năm đến mùa hạ nước lên thì tràn ra từ cảng Hứa Gia, đến mùa thu nước rút lại trở về dòng cũ, đều ở trong đê lớn. Phạm Tử Uyên đã dùng bàn cào sông để khơi thông sông thẳng được thưởng (ngày 11 tháng 12 năm thứ 7), lại muốn lập công, bèn sai chỉ sử khuyên các đê tâu lên phủ Đại Danh rằng: “Năm nay sông có bảy phần chảy vào cảng Hứa Gia, ba phần chảy vào dòng cũ, e rằng dòng sông sẽ đổi, xin gửi văn thư cho Ty Nạo vét sông dùng bàn cào để khơi thông.” Phủ ty nghe theo. Gặp năm hạn hán, ruộng bị ngập nước cảng không quá một vạn khoảnh, Tử Uyên dùng bàn cào chưa đầy một tháng thì thôi, đó là năm Hi Ninh thứ 8. Sang năm sau, Tử Uyên tự tâu rằng năm trước sông lớn suýt đổi dòng, nhờ có bàn cào nạo vét sông mới trở về dòng cũ, cứu được mấy vạn khoảnh ruộng dân, xin ban thưởng cho các quan lại coi việc. Việc giao xuống Đô thủy giám, giám ty xin ban thưởng hậu hĩnh như lời Tử Uyên xin.
[50] Ban đầu, Vương An Thạch rất ca ngợi công cụ Tuấn Xuyên Bà có thể sử dụng, nên hết lòng ủng hộ Tử Uyên. Có người nói rằng Tử Uyên ở trên sông ra lệnh cho các chỉ sử phân công đốc thúc binh lính sử dụng Tuấn Xuyên Bà để nạo vét và trị thủy, mỗi người đều ghi chép vào sổ sách, nội dung công việc ghi rằng: Ngày nào đó, tại chỗ nào đó, nạo vét được bao nhiêu bước, sâu bao nhiêu thước. Thực tế, nếu nước sâu thì Tuấn Xuyên Bà không thể chạm tới đáy, chỉ kéo qua kéo lại một cách vô ích; nếu nước nông thì răng bà bị cát bùn cản trở, không thể kéo được, cuối cùng binh lính phải quay răng lên trên rồi kéo. Những ghi chép về công việc đều là bịa đặt, không thể kiểm chứng được. Vì vậy, thiên hạ đều coi Tuấn Xuyên Bà là trò trẻ con. Sau một thời gian, Vương An Thạch cũng nghe được điều này, nhưng khi Đô Thủy dâng tấu xin ban thưởng cho Tử Uyên, Vương An Thạch không tin, lại hạ lệnh cho Chuyển Vận Ty và An Phủ Ty ở Hà Bắc xác minh và dâng tấu. Việc này căn cứ theo 《Tư Mã Ký Văn》. Ngày 3 tháng 9 năm thứ 9 trong 《Thực Lục》 chỉ ghi việc cử quan lại đi kiểm tra lại việc nạo vét sông, không thấy ghi việc hạ lệnh cho hai ty xác minh công trạng.
(Xét: Lúc đó chính là ngày 14 tháng 10, Văn Ngạn Bác nói không thể tùy tiện đồng ý xác minh, tức là An Phủ Ty vậy. 《Thực Lục》 đã không ghi chép, lại không thấy Chuyển Vận Ty từng xác minh. Lại theo 《Ký Văn》 chép, Vương An Thạch hạ lệnh cho Hà Bắc suý, tào xác minh. Do đó, việc An Thạch bị bãi chức sau này có liên quan đến Văn Ngạn Bác, v.v.)
Theo: Sách 《Thời chính ký》 ghi ngày 14 tháng 10, Văn Ngạn Bác nói không chịu đồng ý việc bảo đảm minh bạch, tức là việc của Ty An phủ. 《Thực lục》 vừa không ghi chép, lại không thấy Ty Chuyển vận từng có bảo đảm minh bạch. Lại có sách 《Ký văn》 nói rằng An Thạch hạ lệnh cho các quan ở Hà Bắc và Ty Chuyển vận bảo đảm minh bạch. Sau đó An Thạch bị bãi chức tể tướng, do đó Ngạn Bác nói như vậy. Theo: Sách 《Thời chính ký》 ghi việc Ngạn Bác nói như vậy vào ngày 14 tháng 10, còn việc An Thạch bị bãi chức tể tướng vào ngày 23 tháng 10, sách 《Ký văn》 có sai, nay bỏ đi sáu chữ. Do đó, Văn Ngạn Bác nói Tử Uyên lừa dối, xin được xét lại. Chiếu chỉ tra hỏi Tử Uyên, Tử Uyên nói: “Từ năm Hi Ninh thứ 6 lập Ty Tuấn Hà, so sánh công dụng và lợi ích của việc dùng bè trong ba năm trước, tổng cộng tiết kiệm được vật liệu các đê trị giá 39 vạn quan tiền, và giảm được 669 vạn phu dịch.” Việc tra hỏi Tử Uyên vào ngày Đinh Dậu tháng 10, nhưng không ghi lại lời Tử Uyên, nay tách ra riêng.
Vua bèn sai Bồ Tông Mạnh dùng bè trên sông Biện để thử việc này. Việc của Tông Mạnh vào ngày 28 tháng 10. Lại sai Bản đi Hà Bắc để xác minh sự thật. Ngạn Bác lại nói, việc mở lại sông Sa cũ ở Vệ Châu để thông với sông Ngự Hà, mọi người đều biết là có hại mà không có lợi, cũng xin cử quan đi xem xét. Nhưng Đô Thủy Giám nói, xin đặt hai cống trên kênh đào để thả thuyền ngược dòng rất tiện, khác với lời Ngạn Bác, nên đều giao cho Bản xử lý. Lời tâu của Ngạn Bác về việc mở sông ở Vệ Châu hai lần, ghi đầy đủ vào cuối tháng 10. Các ngày Nhâm Tý tháng 8, Bính Thìn, Bính Dần tháng 9, Đinh Dậu tháng 10, Quý Mùi mùng một tháng 11, Canh Ngọ tháng 5 năm thứ 10, nên tham khảo chung. Việc ghi chép lời tâu của Ngạn Bác vào ngày Kỷ Tỵ tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất có thể thêm vào, không cần ghi đầy đủ, sợ bị thất lạc, tạm ghi chú ở đây. Ngạn Bác nói: “Ty An phủ theo điệp của Đô Thủy Giám, bảo đảm minh bạch việc Phạm Tử Uyên xin thưởng công hiệu của việc tuấn sông. Xem xét các tình hình nước sông dâng cao và sau đó rút xuống ở các châu huyện, thấy có chút khác biệt so với lời tâu của Tử Uyên, khó mà đồng ý bảo đảm minh bạch, đã tâu riêng lên Ty. Thần xét việc tuấn sông của Ty Tuấn Xuyên từ đầu đến cuối đều ở dưới nước, độ sâu nông khó mà xác minh rõ, lại chỉ dựa vào lời khai bảo đảm minh bạch của Ty và các quan sứ ở các đê cùng Đô Đại Đề Cử. Còn các châu huyện thuộc quyền cũng sợ uy, không dám có ý kiến khác. Xin từ nay về sau, việc tuấn sông của Ty Tuấn Xuyên, nên cử các quan không liên quan, công chính dám nói, đi xác minh lại, để không làm sai lầm việc ban thưởng của triều đình. Lời tâu của Tử Uyên nói năm ngoái tuấn sông thu hồi được một phần đất, nhưng cuối hè năm nay lại bị ngập nhiều.”
Năm ngoái dùng bừa để nạo vét, thu hồi được ít đất, năm nay không dùng bừa, lại thu hồi được nhiều đất, rõ ràng là do mùa thu sâu nước sông rút, nên bản ty không dám tùy tiện xác nhận[5]. Huống chi Ty Tuấn Xuyên đặt ra nhiều quan chức, chiếm dụng nhiều người và thuyền, các ty khác biết rõ lợi hại nhưng đều không dám nói, nếu nói ra ắt bị cho là cản trở công lợi, nên đành im lặng. Tình hình như vậy, e rằng không phải là phúc của triều đình. Thần nay nhận được công văn của Đô thủy giám yêu cầu xác nhận, mới dám nói thật, kính mong triều đình xem xét kỹ.”
Lại nói: “Thần trước đây vâng chỉ triều đình, lệnh xác nhận việc nạo vét sông của Ty Tuấn Xuyên, bèn yêu cầu các châu huyện liên quan báo cáo tình hình thực tế, nhưng đều không giống nhau. Và những nơi đã nạo vét, năm ngoái nước sông vẫn tràn ngập như cũ, ngập lụt ruộng dân, năm nay không dùng bừa, sau đó nước cũng rút[6], tức là mực nước sông lên xuống, quyết không phải do bừa nạo vét. Dù là người ngu nhất ven sông cũng đều biết rõ. Vì thế thần không dám tùy tiện xác nhận, và việc đào kênh ở Vệ Châu không thuận tiện, cũng đã tâu lên. Vì lý lẽ này đã rõ ràng, quan coi thủy lợi không hiểu, lãng phí tiền của, lại phần nhiều là kẻ cuồng vọng ham thưởng, như việc đào kênh, nói có năm lợi, thứ nhất là vận chuyển hàng hóa từ Biện ra đối diện sông Sa, tránh được nguy hiểm sóng gió trên sông lớn.
Nhưng cửa Biện ở địa phận Hà Dương, cửa sông Sa ở dưới đập Vương Cống thuộc Vệ Châu, từ cửa Biện ra, theo dòng Hoàng Hà xuôi xuống, cách nhau còn gần trăm dặm, đâu phải là đối diện cửa Biện. Cửa sông Sa ở tây nam Vệ Châu, Đức, Bác ở đông bắc Đại Danh, trên dưới cách xa nhau, tức là đường thủy bộ đều không liên quan gì đến sông Sa, không biết làm sao tránh được nguy hiểm mấy trăm dặm sông lớn. Chỉ vì muốn triều đình tin nghe, bèn khởi công, xin triều đình chất vấn quan Đô thủy giám, sẽ thấy rõ thực hư. E rằng còn giả dối, xin đem bản tường trình của quan Đô thủy giám giao cho thần[7], để thần phân tích kỹ lưỡng tâu lên. Thần từ khi trở lại Đại Danh, thấy quan Đô thủy giám bày vẽ nhiều việc sông ngòi một cách hời hợt, như muốn đắp đập lớn nhỏ ở Ngô Tảo trên Hoàng Hà, tháo nước bồi ruộng, và muốn đào thẳng sông dưới đập Ngôi Cố, cùng tháo nước trong. Những việc như thế, may nhờ quan phụ trách quyết định bàn bạc bãi bỏ, nếu không, tác hại sẽ không nhỏ. Vì thế thần xin lựa chọn kỹ quan coi thủy lợi, mong triều đình xem xét.”
[51] Chiếu rằng từ nay các quan lại ở Thị dịch vụ thượng giới mỗi năm so sánh để khen thưởng, còn chức đề cử quan vẫn theo lệ cũ hai năm một lần xin chỉ. Các loại như gai, tre không được mua nữa.
[52] Ngày Giáp Thân, chiếu cho quyền Tam ty sứ Thẩm Quát, Tri chế cáo Hùng Bản xem xét định lại việc tu sửa biên soạn sắc lệnh. Cơ quan Trùng tu biên soạn sắc lệnh tâu rằng: “Xét thấy sắc lệnh biên soạn thời Hi Ninh trước đây khi biên soạn, đều do các quan hai chế trở lên xem xét định đoạt, tể tướng đứng đầu. Nay cơ quan chúng tôi vâng mệnh triều đình biên soạn lại, tuy đã có thứ tự, nhưng lo rằng chưa được các quan cấp cao xem xét định đoạt, sau này ban hành sẽ không tiện. Xin theo lệ sai quan xem xét định đoạt.” Vì thế có chiếu này. Việc này căn cứ theo 《Trung thư thời chính ký》, sách hoàn thành vào ngày 6 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7.
[53] Ngày Ất Dậu, Bảo Văn các đãi chế Thường Trật được quyền phán Tây Kinh lưu ty Ngự sử đài, cho phép cư trú ở Dĩnh Châu, theo lời thỉnh cầu của ông.
[54] Giáo thụ phủ học Thành Đô, thí Quốc tử Tứ môn trợ giáo Dương Thiều được đưa đến Lưu nội tuyển, bổ làm Phán, Ty, Chủ bạ hoặc Úy. Vì bộ lạc phiên ở Mậu Châu gây loạn, Thiều chiêu mộ người dũng cảm đi lính và chiêu dụ bộ lạc phiên có công.
[55] Ngày Bính Tuất, An Nam chiêu thảo ty tâu rằng, ngụy Quan sát sứ châu Quảng Nguyên là Lưu Kỉ dẫn gia quyến và các động trưởng đầu hàng. Chiếu rằng: “Lưu Kỉ nếu vì đại quân áp sát biên giới, bất đắc dĩ phải ra hàng, thì cùng gia quyến hộ tống về kinh.”
[56] Ban đầu, Triệu Tiết và Quách Quỳ bàn rằng: “Giặc Giao Chỉ sợ hãi vì mưu kế của Lý Thượng Cát và Lý Kế Nguyên, nên mới phản loạn. Càn Đức và mẹ hắn hiện nay đều oán hận hai người này, mà giao quyền nước cho Nguyễn Chu. Chu thường có ý muốn quy phục. Lưu Kỹ chiếm giữ Quảng Nguyên châu, Thân Cảnh Phúc chiếm giữ Giáp Động, đều có quân mạnh đang chờ đợi. Giám áp trại Hoành Sơn là Thành Trác vốn thân thiết với Chu và Cảnh Phúc, muốn sai Trác mang chiếu thư vào chiêu dụ giặc.” Quỳ không nghe, đại quân đóng ở Tư Minh châu, trước tiên sai Yến Đạt dẫn quân từ trại Thái Bình tiến vào Quảng Nguyên châu. Kỹ chống cự, Đạt đánh bại hắn. Kỹ ban đầu muốn đầu hàng nhưng còn do dự chưa quyết, Quỳ ra hịch dụ các động, nói rằng Kỹ nhiều lần dâng thư tự trình bày, quyết tâm bỏ giặc Giao Chỉ về với ta, hẹn ngày mồng 3 sẽ ra hàng, quả nhiên đúng hẹn mà đến. Quỳ thu được hơn 5000 quân, lại cứu được 3000 dân bị bắt. 《Mộ chí của Phạm Tổ Vũ》 chép: “Quỳ đóng quân ở Tư Minh châu. Quỳ cho rằng Quảng Nguyên châu là nơi yết hầu, quân tinh nhuệ, nếu không chiếm trước thì sẽ có họa phía sau. Ngụy quan sát sứ Lưu Kỹ là mưu chủ của giặc, nếu không bắt được Kỹ thì uy quân không thể chấn động, bèn sai Yến Đạt đi, một trận đánh hạ được, chiếm thành, Kỹ ra hàng.”
[57] Xuống chiếu cho Tư nông thiết lập 4 viên thừa, trong đó 1 viên phụ trách chung 3 cục, còn lại 3 viên và thêm 3 viên chủ bạ phụ trách riêng 3 cục. Bãi bỏ chức câu đương công sự quan. Theo đề nghị của Phán Tư nông Hùng Bản. Bản cho rằng câu đương công sự quan đến nơi nào cũng tùy tiện dùng hỷ nộ, nên tâu xin bãi bỏ.
[58] Phán Giang Ninh phủ Vương An Thạch tâu xin cấp ruộng cho chùa Thái Bình Hưng Quốc ở Tương Sơn, làm của thường trụ, để lo việc công đức cho cha mẹ và con là Bàng. Được chấp thuận. Việc này theo 《Thời chính ký》 ngày mồng 4 tháng 12, đặc biệt ghi lại, có thể thấy An Thạch về sau càng sai lầm.
[59] Ngày Mậu Tý, Vua phê: “Có ba vị tăng nhân Cao Ly hiện đang ở chùa Thiên Trúc tại Hàng Châu, có thể sai ty Kiềm hạt cử một viên Chỉ sứ, dùng ngựa trạm dẫn họ đến kinh đô.”
[60] Ngày Kỷ Sửu, vì hoàng tử thứ sáu vừa chào đời, sai Ngụy Quốc công Triệu Tông Ngạc đến Thái Miếu làm lễ báo cáo, lại sai quan làm lễ báo cáo với trời đất, xã tắc, các lăng tẩm, dùng lễ Thái lao tế báo Cao Môi. Ngày Canh Tý tháng 10 năm thứ 10, sách 《Thực lục》 chép việc Vĩnh Quốc công Triệu Tuấn mất. Tuấn là con thứ ba; Dung, tức Triết Tông, là con thứ sáu. Không lẽ con thứ ba còn sống mà con thứ sáu mới sinh, lại dùng lễ của con trưởng báo cáo với trời đất, e rằng năm tháng có sai lầm, cần xem xét lại.
[61] Ngày Canh Dần, ty Kinh lược Hà Đông tâu lên việc Quản câu cơ nghi văn tự, Điện trung thừa Triệu Hàm đã khảo sát và đo đạc diện tích đất cấm ở địa giới Châu Đại. Chiếu chỉ trừ phần đất cấp cho dân di chuyển làm Cung tiễn thủ, còn lại đều chiêu mộ Cung tiễn thủ. Sách 《Ngự tập》 chép ngày 28 tháng 7 sai Triệu Hàm làm Cơ nghi.
[62] Phán ty Nông tự Hùng Bản tâu: “Nhận được chỉ dụ triều đình, sai Trương Ngạc đem văn bản tường định pháp chế về muối giao cho thần. Vì việc sửa đổi pháp chế về muối liên quan đến tám lộ Giang Hoài, những việc như tra xét, đối chiếu việc tăng giảm thuế muối, thưởng phạt đều thuộc Tam ty. Thần lo rằng việc trao đổi văn thư qua lại sẽ gây chậm trễ, hơn nữa trước đây Quyền Tam ty sứ Thẩm Quát từng đi Hoài, Chiết khảo sát và an phủ, sắp xếp việc muối, xin cho Quát cùng thần cùng tường định.” Vua đồng ý. Việc này căn cứ vào sách 《Hội yếu》 ngày 8 tháng 12 mà thêm vào.
[63] Quý phi họ Thẩm của Chân Tông mất, chiếu cho phép làm lễ nhập quan tại nhà, hôm sau Vua ngự giá đến viếng, ngừng triều ba ngày, truy tặng thụy hiệu là Chiêu Tĩnh. Thái hoàng thái hậu và hoàng thái hậu làm lễ phát tang và mặc tang phục.
[64] Ngày Tân Mão, Độ chi viên ngoại lang, Bí các hiệu lý, Kiểm chính trung thư Khổng mục phòng công sự An Đào thay Lữ Gia Vấn tường định văn bản về việc nhàn nhũng.
[65] [8] Chuyển vận ty của Kinh Đông Tây Lộ xin cấp 50 vạn quan tiền để mua lương thực quân đội. Triều đình ban chiếu cấp 5 vạn quan tiền phường trường, giấy chứng nhận chức Giám chủ bạ, điệp văn chức Trai lang, sắc phong chức Châu trợ giáo, tổng cộng 33 loại, trị giá 5 vạn quan.
[66] Ngày Quý Tỵ, An Nam chiêu thảo ty tâu rằng thủ lĩnh động Bát Tế ở Quảng Nguyên là Nùng Sĩ Trung và Lô Báo xin đầu hàng. Chiếu chỉ nói rằng trong số đó có người trước đã quy thuận rồi lại phản bội[9], lệnh cho Chiêu thảo ty chọn sứ thần áp giải về kinh.
[67] Cùng ngày, Quách Quỳ dẫn quân vượt biên giới, giặc đóng ở ải Quyết Lý, Quỳ sai Trương Thế Củ tấn công. Giặc dùng voi chống cự, Quỳ sai dùng nỏ mạnh bắn voi, dùng đao lớn chém vòi voi, voi quay đầu chạy, giày xéo quân mình, quân ta thừa thế đánh, giặc tan vỡ bỏ chạy. Quân ta thừa thắng chiếm huyện Cơ Lang, tướng Khúc Trân lại đánh chiếm châu Môn, các động ở khe suối đều đầu hàng. Ngày 11 tháng 12, quân ta vượt biên giới (theo sách “Hội yếu”), còn lại căn cứ theo bài văn bia mộ và bản truyện của Quách Quỳ.
[68] Triệu Tiết ban đầu bàn với Quách Quỳ, cho rằng suy đoán từ xa không bằng tận mắt chứng kiến, muốn nhanh chóng đến Quế Châu, nhân lúc quân địch chưa động, trước hết chiêu tập dân động ở hai bên sông, chọn người dũng cảm, dùng lợi để dụ dỗ, khiến họ chiêu dụ kẻ phản bội, phá tan lòng dạ của địch, sau đó dùng đại quân tiếp ứng, thì việc phá tan hang ổ của địch sẽ rất dễ dàng. So với việc đóng quân lâu ngày nơi rừng thiêng nước độc, để giặc tự do hoành hành, thì cách làm này hơn xa. Quách Quỳ không nghe, đóng quân ở động Bằng Tường thuộc Tư Minh Châu, hơn bảy mươi ngày mới xuất quân. Việc này căn cứ theo mộ chí của Triệu Tiết. Việc đóng quân ở Tư Minh Châu bảy mươi ngày, khác với truyện của Quách Quỳ, cần xem xét thêm.
Phạm Tổ Vũ trong mộ chí của Quách Quỳ viết: “Triều đình ban đầu hạ chiếu, dán bảng cáo thị khắp các động, Quỳ cho rằng người man di không hiểu văn bản, bèn trực tiếp trình bày tám việc, xin phát bảng cáo thị khắp quận huyện và các động, tướng giặc ở Môn Châu là Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân đến hàng.” Căn cứ theo 《Ngự tập》 ngày 19 tháng 5, Tôn Cấu[10] của Hồ Bắc tào tấu rằng, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu muốn quy thuận. Lại theo 《Nhật lục》 ngày 17 tháng 8, có việc dụ hàng Hoàng Kim Mãn, có lẽ việc Hoàng Kim Mãn đến hàng phải xảy ra vào tháng 8 hoặc tháng 9. Tuy nhiên, 《Thực lục》 không ghi chép việc Hoàng Kim Mãn, chỉ vào ngày 12 tháng 12 chép việc thủ lĩnh động Bát Tế ở Quảng Nguyên là Nùng Sĩ Trung, Lư Báo xin hàng, có lẽ Hoàng Kim Mãn cũng nằm trong số đó. Mộ chí vừa chép Hoàng Kim Mãn đến hàng, lại chép việc đánh chiếm Môn Châu, lẽ nào đã hàng rồi lại còn đánh chiếm, có lẽ Hoàng Kim Mãn chỉ sai người đến xin hàng, chứ chưa từng đến trước quân. Căn cứ theo văn bản về việc chinh phạt phương Nam do nhà Quách Quỳ ghi chép, cũng có thể chứng minh rằng Hoàng Kim Mãn chỉ xin hàng, chứ không phải đến hàng. Lại xét ngày 28 tháng 4 năm thứ 10, Triệu Tiết nói rằng Hoàng Kim Mãn dẫn Miêu Lý qua sông Phú Lương. Như vậy, việc đánh chiếm Môn Châu, Hoàng Kim Mãn mới hàng, mộ chí cũng không sai.
[69] 1. Quan Tẩu mã thừa thụ của lộ Cao Dương là Vương Diên Khánh tâu rằng người phương Bắc đang cứu tế các hộ thuộc hai châu. Vua phê: “Người phương Bắc đột nhiên vượt quá lệ thường, cứu tế dân thuộc hai châu, ắt có ý đồ khác, nên nghiêm trách châu Hùng và Ty An phủ sứ dọc biên giới, cử người thám sát để nắm rõ đầu mối rồi tâu lên.”
[70] Ngày Giáp Ngọ, Vua phê: “Nghe nói ở địa giới châu Đức có hàng chục vụ cướp, địa giới châu Thương có tên giặc cướp hiệu là Khang Thái Bảo, tập hợp gần trăm tên đào tẩu, hoạt động qua lại giữa Kinh Đông và Hà Bắc gần một năm, cướp bóc tài vật, bắt ép con em lương dân làm lính, các thôn xã sợ bị hại nên không dám báo quan. E rằng chúng sẽ tập hợp thêm người, nên lệnh cho các Ty Giám sát, Ty An phủ trình bày rõ lý do không tâu lên, đồng thời tuyển mộ binh lính chia đường truy bắt.”
[71] Triệu Dương, Đồn điền viên ngoại lang, quyền Tri châu Thiệu, được bổ làm Chuyển vận phán quan lộ Kinh Hồ Nam kiêm Đề cử Thường bình sự.
(Ngày 8 tháng 6, Sái Diệp có tâu việc liên quan đến điều này.)
[72] Chiếu rằng các quân Mã mới đặt ở Kinh Đông, Kinh Tây, mỗi Chỉ huy chọn 40 người trẻ khỏe, nhanh nhẹn, cùng một viên Áp đội sứ thần, đến giáo trường tập luyện sáng tối, mỗi người mỗi ngày được cấp 30 đồng.
[73] Vua phê: “Các quan Đề cử, Quản câu Thường bình ở các lộ từ trước đến nay chưa có lệnh rõ ràng quy định chức trách thống nhất, khiến các Ty dưới quyền không biết theo đâu. Mỗi khi có việc, thường tâu lên cùng Ty Chuyển vận, hoặc nhận việc không thuộc chức trách của mình, vượt cấp xử lý. Cũng có người tâu lên, gây phiền nhiễu trên dưới. Nên tham khảo các chỉ dụ trước sau rồi tâu lên.” Do đó, ban chiếu: “Tiền thóc, trang sản, ruộng đất hộ tuyệt, bảo giáp, nghĩa dũng, thủy lợi nông điền, sai dịch, phường trường, bến đò, giao cho Ty Đề cử chuyên quản; Chuyển vận sứ phó, phán quan kiêm lĩnh. Còn các sông ngòi không phục vụ nông nghiệp, vẫn thuộc Ty Đề điểm hình ngục.”
[74] Quyền Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ tâu: “Các lộ Hà Bắc, Kinh Đông, Phúc Kiến có nhiều giặc cướp nổi lên, thường giết hại dân chúng, đốt phá nhà cửa, thậm chí bắt giữ quan lại, cướp phá huyện trấn. Chiếu thư ra lệnh truy bắt, nhưng nhiều năm không dẹp được. Tuy do mấy năm liền hạn hán, giá lúa cao, bọn tiểu nhân vô lại kết bè đảng, hoành hành ngang ngược, nhưng cũng vì các huyện không có đủ lực lượng cung thủ để trấn áp giặc cướp.
Thần thấy theo chế độ cũ, huyện lớn có 140 cung thủ, huyện vừa 100 người, huyện nhỏ ít nhất cũng 70-80 người. Danh nghĩa là một người đi phục dịch, nhưng khi có giặc cướp thì tất cả đều ra sức. Họ hàng thân thích làm tai mắt dò xét, số đông và khí thế hùng mạnh đủ để thắng giặc. Họ cầm giáo xông pha, không sợ hiểm nguy, vì sao? Vì đó là nhiệm vụ bảo vệ gia đình, làng xóm. Nhờ vậy, giặc cướp nổi lên ở quận huyện đều bị bắt, đất nước thái bình, trăm năm không có loạn lạc. Dân chúng yên ổn ở quê hương, không dám bỏ đi, vì có chế độ trấn áp giặc cướp như vậy.
Nay các huyện ở năm lộ như Hà Bắc, nhiều nhất chỉ có 30 cung thủ, huyện vừa 20 người, huyện nhỏ 15 người. Khí thế suy yếu đã rõ. Còn lại bảo giáp, nghĩa dũng thay phiên nửa tháng một lần, họ chỉ nghĩ đến việc qua loa, may mắn hết hạn rồi về, mà muốn họ liều mạng đối đầu với giặc cướp thì thật khó. Các lộ khác cũng cắt giảm cung thủ quá nhiều, thần e rằng giặc cướp sẽ ngày càng nhiều, không thể dẹp yên. Vì lợi ích quốc gia, nên phòng ngừa từ nhỏ, không thể coi thường. Xưa thời Hán Hiếu Vũ, quan lại gặp nhiều biến cố, binh đao và hạn hán liên tiếp, dân nổi lên làm giặc. Vì không ngăn chặn kịp thời, giặc ẩn náu ở núi rừng, quan lại không bắt được, ngày càng lan rộng, chết chóc vô số, phải cử quan Túy y trực chỉ đi trấn áp. Đó là do không có biện pháp ngăn chặn từ sớm. Thần xin hạ lệnh cho các lộ giám ty, căn cứ vào quy mô huyện và tình hình giặc cướp, tăng thêm cung thủ, tạo thế đủ mạnh để trấn áp giặc, khiến chúng sợ hãi, thì dân chúng khắp nơi sẽ được hưởng ân đức.”
Giao cho Ty Nông xem xét rồi tâu lên[11].
[75] Chiếu cho Chiêu tuyên sứ, Nhập nội áp ban Lý Hiến đi trạm bàn bạc việc biên giới với Kinh lược ty các lộ Tần Phượng, Hi Hà. Do An phủ ty Đông Đào tâu rằng Quỷ Chương đem quân vào đất Tư Nạp Gia, chưa rõ vị trí đóng quân. Ngày hôm sau, chiếu rằng: “Khi Hiến đến, tất cả tướng quan ở quân tiền đều nghe theo sự chỉ huy của Hiến.” Ngày 19, người tâu việc luận tấu.
[76] Chiếu cho Chuyển vận ty các lộ Nam Xuyên, Quỳ Châu, những nghĩa quân trước đây ứng mộ đi An Nam nay đã giảm bớt, khoản vay lương thải thanh miêu năm nay được gia hạn thêm một mùa; còn những người đi cứu ứng ở Mậu Châu và phòng thủ ở Nam Bình quân thì được hoãn lại, đợi đến mùa thu năm sau mới nộp.
[77] Chiếu bãi chức Đồng đồn điền chế trí sứ Hà Bắc Diêm Sĩ Lương, sai Văn tư sứ Tạ Vũ Khuê làm Đô giám Cao Dương quan kiêm Đô giám ty Đồn điền Hà Bắc.
[78] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng: “Đất Hà Đông lạnh, trong tháng 9 cho phép ghi chép những người không thể tự lo được, từ ngày mùng 1 tháng 10 bắt đầu cấp gạo đậu, đến cuối tháng 2 năm sau thì ngừng. Nếu số gạo đậu định mức còn thừa, thì cấp hết đến cuối tháng 3.”
[79] Ngày Bính Thân, Tri Thái Nguyên phủ Hàn Giáng tâu:
[80] Hỏi thăm dân chúng về những nỗi khổ, có ba điều lớn: Một là muối ăn, là thứ cần thiết cho vị giác. Nay đặt ra pháp luật bắt mọi người tự mua ở nơi quan trường, thì những người nghèo khó ở xa quan trường, không thể chịu đựng được cái nóng cái lạnh, mưa gió, sớm tối chạy đi chạy lại, cuối cùng không có gì để nuôi cha mẹ, vợ con. Dưới thì lạc đà và dê, là sản vật địa phương, nhà nhà đều dựa vào đó để kiếm lợi, không có muối thì không sống được, nên nhiều người phạm pháp, tội đồ ngày càng nhiều mà không thể ngăn chặn. Huống chi muối lậu vị ngon mà dễ kiếm, ai lại chịu sợ hình phạt mà không buôn bán? Gần đây trên đường này, bọn trộm cướp cầm gậy thành đám, e rằng nạn trộm cướp ở đông nam sẽ dời về Hà Đông. Người đề xuất ý kiến vốn muốn thu lợi để giúp kinh phí, nhưng nếu tính cả giá cả, chi phí đi lại và tiền thưởng bắt được, thì thu được chẳng được bao nhiêu. Lại nữa, pháp cũ dùng giấy muối để đổi lương thực dự trữ ở biên giới, nay thì tiền muối phân tán trong nội địa, kho lương biên giới hao hụt nhiều, chỉ nghe nói dân chúng khổ sở, chưa thấy quốc gia giàu có.
Hai là tiền sắt, kẻ đúc tiền giả nhiều, lộn xộn mà không thể trừ bỏ, dân nghèo càng bị hại. Vì dân nghèo cần kiếm lợi hàng ngày, giá bán chỉ được năm phần tiền tốt, đâu có thời gian chọn lựa. Khi mua của thương nhân ngồi bán, thì thương nhân phần nhiều giàu có, không vội vàng bán nhanh, ắt chọn bỏ những đồ xấu, thường mất bốn năm phần, nên người nghèo ngày càng khốn đốn. Ba là việc mua lương thực, dân chúng trên đường này bị bóc lột lâu năm, đã kiệt quệ, trước sau đã có nhiều người tâu lên triều đình. May mắn gặp được bệ hạ thương xót, xuống chiếu cho bọn thần bàn bạc, nhưng người bàn cãi vẫn coi trọng việc dự trữ biên giới, không chịu thương xót. Bọn thần thấy dân chúng một phương vất vả khổ sở, ngày đêm ra sức làm ruộng, ruộng núi nhiều mà đất tốt ít, gặp năm hạn hán thì như năm trước phải đổi con mà ăn, há chẳng đau lòng sao! Đạo này phía bắc giáp kẻ địch mạnh, phía tây tiếp giáp Khương tinh ranh, nay chính sự hỏng nát, khiến dân chúng dù năm được mùa cũng không khỏi đói rét mà than thở, khác với đạo lý hòa hợp, dù có thiên thời địa lợi, cũng chẳng đáng dựa vào. Nếu chẳng may kẻ địch nhân cơ hội mà phá ước, dùng dân chúng để chống lại, ai sẽ vì bệ hạ mà ra sức chết trận?
[81] Thần trộm nghĩ rằng, trừ hại hưng lợi, thì phép muối nên như việc thông thương ở Hà Bắc, hoặc như chính sách bãi bỏ cấm trà ở các lộ Giang, Hoài, thì hình phạt giảm mà lợi ích rộng. Phép tiền nên như việc đúc tiền ở Thiểm Tây, bản nặng mà khuôn tinh, thì kẻ gian đạo không thể mưu lợi, lại dùng giấy giao tử để cân bằng, thu hồi tiền xấu, thì người nghèo không mất vốn. Việc hòa địch nên giảm bớt ba phần so với số cũ, bãi bỏ việc chi tiền vải, thì lợi ích thu được đã hơn trước, lại giảm bớt nỗi khổ di chuyển, thì ơn thực đều đến với dân. Gặp năm mất mùa trên mười phần bảy cũng được miễn thuế, lại phân biệt giàu nghèo, định số hợp ước, thì dân đều vui lòng nộp thuế. Lại xét việc dự trữ biên giới, chỉ có ba châu ngoài sông, đất ít mà tích trữ khó. Còn năm châu quân từ Bảo Đức về đông, việc chuẩn bị không đến nỗi khó khăn. Huống chi lộ này có quặng sắt, than đá đủ để đúc tiền, tiền công không thể lạm phát, lại dùng giấy giao tử để lưu thông, cùng dùng muối để sai khiến thương nhân, thì quân biên giới chắc chắn đủ ăn, lại giảm bớt mối lo lớn của dân nghèo. Việc này nếu chỉ làm một mặt, thì chỗ tắc nghẽn nhiều, chỉ có làm đồng thời, thì hiệu quả mới nhanh. Xin bệ hạ chọn kẻ tài giỏi, sai cùng thần lập cục ở Thái Nguyên, bàn bạc lợi hại, tâu lên việc có thể làm. Mong được triều đình tin dùng, không bị lời bàn ngang ngược ngăn trở, lại xin cho thần mấy năm, giao quyền thi hành, mong được thành tựu trọn vẹn.
[82] Chiếu cho Tam ty xem xét lợi hại rồi tâu lên. Ngày 18 tháng 9 năm thứ 10, Lý Giáng lại xin sai người tài lập cục bàn việc hòa địch. Ngày 1 tháng nhuận năm Nguyên Phong thứ nhất, Trần An Thạch tâu v.v…
[83] Ngày Đinh Dậu, chiếu bỏ chức quan cấp nạp ở 12 huyện thuộc Khai Phong phủ, chỉ lệnh cho Huyện thừa kiêm quản tiền lúa Thường bình. Theo lời tâu xin của Đề điểm phủ giới các huyện trấn Thẩm Hi Nhan.
[84] Lại chiếu cho Lý Hiến cứu tế các bộ lạc Phiên ở địa giới Dân Châu bị Quỷ Chương uy hiếp, bị giặc cướp phá, cấp tiền làm nhà, những kẻ trước bị ép theo, nay quy thuận, thì tha tội, cho yên ổn như cũ.
[85] Ngày Kỷ Hợi, Hữu lĩnh quân Đại tướng quân, Phụ mã Đô uý Tào Thi được bổ nhiệm làm Thành châu Đoàn luyện sứ.
[86] Phó sứ Chuyển vận Quảng Nam Tây lộ là Miêu Thời Trung tâu: “Hành ty Ung châu báo rằng phu vận lương không đủ, thần đã thân chinh đốc thúc đinh phu ứng phó nhu cầu quân sự, nhưng quan lại các châu huyện lơ là chậm trễ, xin trước hết răn đe cảnh cáo.”
[87] Chiếu rằng: “Đại quân đóng ở động đã lâu ngày, chỉ vì đinh phu không đủ số lượng ban đầu, dẫn đến trì hoãn việc quân. Các quan chức đương nhiệm ở châu huyện, lệnh cho Ty Chuyển vận Quảng Tây xét so sánh số lượng ban đầu, nơi nào không đạt được bảy phần, quan châu bị giáng một bậc, quan huyện bị giáng hai bậc, nếu không có bậc để giáng thì đình chỉ bổng lộc. Các quan huyện đương nhiệm tạm thời bị đeo gông và giám sát, đồng thời xét tội báo lên.”
[88] Sai Thái thường Thừa là Vương Tử Thiều đi thu nộp các khoản nợ còn thiếu của hai lộ Vĩnh Hưng và Tần Phượng. Ngày 25 tháng 7, Tử Thiều cùng Hoàng Liêm nhận mệnh, nay chuyên giao cho Tử Thiều, cần xét lại. Bản mới đã bỏ đi, hoặc theo bản mới, cần xem xét kỹ hơn.
[89] Ngày Canh Tý, Ty Kinh lược Hà Đông lộ và Ty An phủ Chân Định phủ lộ xin lấy đất đã khảo sát ở Đại châu để chiêu mộ cung tiễn thủ, đặt đồn ở địa giới Bảo Hưng quân để phòng ngự, và tăng thêm quân tuần tra ngang ở địa giới Bắc trại, đồng thời lấy nghĩa dũng và bảo giáp đang canh tác ở đất cấm của bản trại làm cung tiễn thủ. Chiếu rằng: “Đất Bắc trại của Ty An phủ Chân Định phủ lộ chỉ dùng nghĩa dũng và bảo giáp thay phiên tuần phòng phòng ngự, việc xin tăng quân tuần tra ngang được chuẩn y; còn Bảo Hưng quân và Bình Hình trại ở Hà Đông thì không lập thêm đồn phố, cho phép cung tiễn thủ chọn nơi thuận lợi để ở và canh tác, phân chia địa giới phòng ngự.”
[90] Chiếu rằng: “Quân ở Dân châu đánh giặc thắng trận, lệnh cho Chủng Ngạc phải thận trọng hơn, chú trọng nuôi dưỡng khí thế quân sĩ, không được thừa thắng tiến quân hấp tấp.”
[91] Chiếu rằng: “Các ty Kinh lược và Chuyển vận ở Tần Phượng, Hi Hà cùng bàn bạc về việc thu thuế đánh bạc, định ra mức thuế vừa phải rồi tâu lên. Phải làm sao để thương nhân được đi lại thuận lợi.” Các ty tâu rằng: “Tần Phượng nên giữ như cũ, còn hàng hóa ở Hi Hà đã chịu thuế đánh bạc ở Tần Phượng, nếu ở đây lại thu nữa thì rõ ràng là trùng lặp. Xin định mức thuế ở Tần Phượng, mỗi loại chia làm ba phần, thu hai phần thuế đánh bạc.” Triều đình đồng ý. Sau đó, ty Kinh chế Biên phòng Tài dụng tâu: “Thương nhân ở Hi Hà tuy đã chịu thuế đánh bạc ở Tần Phượng, nhưng vì hàng hóa đến vùng biên giới xa xôi, lợi nhuận rất cao. Trước đây vì thiếu lương thảo, cho phép nhập lương không thu thuế đánh bạc, thương nhân nhân cơ hội buôn bán lậu, xin thu thuế đánh bạc theo lệ Tần Phượng.” Chiếu rằng: Lương thảo không thu thuế đánh bạc, còn lại theo lời tâu.
[92] Lại chiếu rằng: “Từ nay, tiền dư thừa từ thuế dịch và tiền thu từ các chợ đấu giá, không cấp cho người làm dịch nữa, cuối năm báo cáo số dư lên ty Nông tự, còn lại các vật dụng thuộc ty Thường bình phải để lại một nửa.”
[93] Lại chiếu rằng: “Ty Chuyển vận Quảng Tây vận chuyển lương thảo, nếu các châu huyện điểm danh đủ người, chỉ vì quan coi việc không quản lý được, để xảy ra việc bỏ trốn hoặc trốn tránh quá ba phần, gây trì trệ, thì chỉ trị tội quan coi việc, theo lệnh ngày Kỷ Hợi tháng này về quan huyện. Quan phụ trách điều động dân phu không bị trị tội.”
[94] Ngày Tân Sửu, Ngự sử Trung thừa Đặng Nhuận Phủ, Ngự sử Chu Doãn, Thái Thừa Hi, Bành Nhữ Lệ tâu rằng:
[95] Thấy triều đình cho rằng quỷ chương ở Hi Hà lộ làm giặc, sai Nội thị tỉnh Áp ban Lý Hiến đi, lấy tên là Ty kế nghị thố trí biên sự Tần Phượng, Hi Hà lộ. Các luận bàn trong ngoài đều cho rằng Hiến tuy danh là kế nghị thố trí biên sự, nhưng các tướng ở quân tiền đều chịu sự tiết chế của Hiến, thực là đại soái. Nhưng từ thời 《Thi》, 《Thư》 trở về sau, cho đến Tần, Hán, Ngụy, Tấn, Chu, Tùy, trên dưới mấy ngàn năm, chưa từng nghe có người trung nhân làm tướng soái, đó là cớ sao? Là vì thế có chỗ bất tiện. Bởi có công thì cậy thế kiêu căng, lấn át công khanh, không kiêng sợ gì; không có công thì làm tổn hại uy nước, truyền cười cho bốn phương, không phải là việc nhỏ.
Nhà Đường từ trước thời Duệ Tông, chưa từng giao tướng soái cho trung nhân, đến thời Minh Hoàng, thừa bình lâu ngày, chí lớn việc xa xỉ, dần giao cho kẻ thân cận, gặp lúc thủ lĩnh người Man ở An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, mà Dương Tư Húc xin đi, bèn cho đi. Nhưng vẫn lấy Sở Khách làm Đô hộ. Đến khi Đàm Hành Chương làm loạn ở Kiềm Trung, mới lấy Tư Húc làm Chiêu thảo sứ, tuy có công bắt giết giặc cướp, nhưng mầm họa của nhà Đường bắt đầu từ đây. Đến thời Đại Tông dùng Ngư Triều Ân chống Sử Tư Minh, đánh Bộc Cố Sướng, mà cậy công chuyên mệnh, suýt nguy đến xã tắc, nhờ Nguyên Tải trừ đi, khiến người ta rùng mình mấy tháng. Lấy Trình Nguyên Chấn làm Phán Nguyên soái Hành quân Tư mã, quyền chấn thiên hạ, các công thần cũ đều bị đuổi. Đến khi Khuyển Nhung xâm lấn, tập hợp quân cả nước không có một bánh xe nào vào cửa ải, đó đều là hiệu quả đã thấy rõ[12]. Thời Hiến Tông, Vương Thừa Tông làm phản, lấy Thổ Đột Thừa Thôi làm Hành dinh Chiêu thảo Xử trí sứ, các quan gián là Lý Dung, Hứa Mạnh Dung, Lã Nguyên Ưng, Đoàn Bình Trọng, Bạch Cư Dị, đều vào chầu ở điện Diên Anh, nói xưa nay chưa có trung nhân làm đại soái, sợ bị bốn phương chê cười, bèn đổi làm Chiêu thảo Tuyên uỷ sứ. Nhưng Thừa Thôi cuối cùng vì không có công, khinh mưu hao tổn tài lực mà phải tội. Đến đời sau cứ theo dấu cũ, mà họa nhà Đường không thể kể xiết, nguồn gốc đều bắt đầu từ thời Khai Nguyên.
[96] Nay Bệ hạ thay đổi trăm việc, chưa từng không lấy tiên vương làm phép tắc, nhưng đột nhiên hạ chiếu lệnh cho người trong cung làm tướng, các bậc tấn thân sĩ đại phu đều không biết là ý gì. Bệ hạ nhân từ thánh thần võ lược, điều khiển hào kiệt, dù có trăm người như Hiến, thần đây biết rằng họ không thể làm gì được. Nhưng Bệ hạ chẳng nghĩ xa lo lắng, vì kế sách muôn đời sao? Khiến đời sau noi theo dấu cũ, quen thành thói thường, tiến dụng người trong cung nắm giữ binh quyền, thì họa loạn thiên hạ, lại sẽ có điều không thể nói hết được. Bệ hạ nỡ nào noi theo dấu cũ thời Khai Nguyên, mà quên mối họa thiên hạ sao? Hiện nay tuy thiếu người, nhưng kẻ sĩ văn võ đầy rẫy trong ngoài, há không có một người nào có thể đảm nhận việc biên cương cho Bệ hạ sao? Hiến ra vào chốn cung cấm, được quốc gia sủng ái, ngày chiếu lệnh ban ra, đại thần không dám nói, tiểu thần không dám bàn, thần đây đang đợi tội ở Hiến phủ, lấy việc can gián làm chức trách, nên dám hết lòng nói ra lời cuồng ngu.
[97] Lại tâu:
[98] Từ thời Khai Nguyên đến nay, dùng người trong cung làm tướng, cũng có khi thành công, nhưng mối họa thường ở về sau. Nay Bệ hạ dùng Hiến làm tướng cầm quân, thành công hay không, không phải thần đây có thể dự đoán được. Nhưng lấy việc đã qua mà xét, ắt sẽ có hại. Huống chi những việc Bệ hạ làm, đều sẽ thành phép tắc cho muôn đời, há có thể để quốc sử chép rằng việc dùng người trong cung làm tướng bắt đầu từ Bệ hạ! Thời Nghệ Tổ, người trong cung làm quan không quá chức phó sứ, đến nay, chưa từng có ai chuyên làm tướng soái, các tướng hiệu ở quân tiền đều phải chịu sự ràng buộc của họ, xin sớm ban lệnh bãi bỏ.
[99] Lại tâu:
[100] Bệ hạ đã nhiều lần ban ân sủng cho Hiến, nên những kẻ cùng loại với hắn không ai không sợ hãi và phục tùng. Công lao của Hiến càng cao, tất không thể không ban thưởng, nhưng khi hắn đạt đến đỉnh cao mà bị kìm hãm, thì trong lòng hắn ắt sẽ không tự mãn. Với bản tính nhu mị, ngày ngày quen với sự xa xỉ, ôm lòng không biết chán đủ, lại có được sự tin tưởng và phục tùng của những kẻ cùng loại, dùng việc này để phụng sự Bệ hạ trong triều, điều này không thể không cảnh giác. Thần đây tuy nhỏ mọn, nhưng thật sự biết rằng đã suy tính quá mức, nhưng sau khi suy nghĩ kỹ, từ xưa đến nay chưa từng có việc giao binh quyền cho hoạn quan mà không gây loạn. Việc thiên hạ nếu xem nhẹ ngay từ đầu, thì kết cục ắt sẽ có hại. Bệ hạ giao việc một phương cho Hiến, sau này lấy đó làm tiền lệ, thì binh quyền ắt sẽ về tay hắn. Vì thế, thần cho rằng mối họa từ Quỷ Chương là nhỏ, còn mối họa từ việc dùng Hiến là lớn; Hiến không thành công thì họa nhỏ, thành công thì họa lớn. Xưa kia, Hán, Đường, Nghệ Tổ đều dùng binh để định thiên hạ. Lúc ban đầu, Trung Quốc chia cắt thành tám chín nước, thời thế thiếu nhân tài, người ta không biết học hành, mà tổ tông nổi lên giữa cảnh hỗn loạn, sở dĩ được yên ổn cũng là nhờ nhiều bậc hiền sĩ, chưa từng nghe có kẻ nào thuộc loại này tham gia. Nay Quỷ Chương chỉ là kẻ trộm cắp vặt, không phải là nước đáng sợ, Bệ hạ sao lại coi trọng Hiến mà quên mất bậc sĩ phu trong thiên hạ, làm tổn hại thể diện của công thần, để gieo mầm họa cho đời sau vậy!
[101] Thừa Hi lại tâu:
[102] Thần trộm nghĩ rằng bệ hạ thông hiểu cổ kim, sáng suốt về thể chế trị nước, không phải không biết rằng việc trung nhân ra ngoài sẽ gây hại cho chính sự. Quyền bính của trung nhân trong quân đội không thể làm gương cho đời sau, nhưng bệ hạ nhất định muốn dùng họ, chẳng phải vì họ nhanh nhẹn, thích hợp với mệnh lệnh sao? Chẳng phải vì họ ứng đối linh hoạt sao? Chẳng phải vì họ từng trải qua chiến trường ở Hi Hà sao[13]? Đây là ý chỉ của bệ hạ, kiên quyết dùng họ để cứu dân khỏi nạn nhất thời, mà quên đi mối lo xa. Thần kính cẩn nhận thấy bệ hạ đặt tâm vào công lao một đời, nhưng sự nhanh nhẹn giống như tài năng, ứng đối linh hoạt giống như trí tuệ, lại từng trải qua chiến trường nên chắc chắn được coi là có công.
Thần xin nói về tác hại của sự nhanh nhẹn đối với chính sự: khi trung nhân ra ngoài, chỉ chú trọng hoàn thành việc mà không xét đến mức độ sâu cạn của sự việc, nhất loạt lấy việc kiềm chế cấp dưới làm năng lực. Khi đã ở giữa hai lộ Kinh lược sứ, ắt sẽ dùng uy của bệ hạ để khiến hai lộ Kinh lược sứ không dám bàn luận về việc đúng sai. Dù việc có chưa thuận lợi, cũng không ai dám nói. Không ai dám nói, thì dù có hại cho biên phòng, bệ hạ cũng không thể biết được. Thần xin nói về tác hại của sự ứng đối linh hoạt đối với sự việc: bệ hạ ở sâu trong cung cấm, quần thần vào chầu đúng giờ, nhưng Hiến ngày ngày hầu hạ bên cạnh, quần thần ngày càng xa, còn Hiến ngày càng thân cận. Thân cận không ai bằng Hiến, ngày ngày hầu hạ bên cạnh không ai bằng Hiến, nên mưu kế của hắn ắt dễ được tin theo. Lại từng trải qua Hi Hà, tính tình khéo léo, ắt có thể chiều ý bệ hạ. Nếu lời nói của hắn có hại cho biên cương, thì dù bệ hạ thánh minh, liệu có thể biết hết được không? Việc Hiến ở Hi Hà được coi là có công, há phải chỉ một mình Hiến làm được sao? Trên có đại tướng, dưới có phó tướng. Quân lại ở Hi Hà, vì bệ hạ sai thân tín ra ngoài, nếu có công ắt đều quy cho Hiến, còn nếu không có công, dám bàn luận về Hiến để tâu lên bệ hạ sao? Vì thế, Hiến mới tích lũy được đến mức này, há phải chỉ một mình Hiến làm được sao? Nhưng với sự thánh minh của bệ hạ, ắt có lý do để sáng suốt mà chưa vội thay đổi[14], há chẳng phải vì điều này sao?
[103] Thần có một lời, mong bệ hạ hãy dành chút ánh sáng thanh quang để suy nghĩ, xem xét lại và thấu hiểu. Bệ hạ nay đã bổ nhiệm các vị tướng lĩnh đô phó tổng quản ở các lộ, cho rằng họ có thể đảm đương việc biên phòng. Nay lại sai hơn bảy mươi tướng quan chính phó, cho rằng họ có thể chỉ huy quân đội. Đến cả các tiểu quận và các đồn bảo, những người có tài võ nghệ danh tiếng thì không đếm xuể. Khi có việc nhỏ xảy ra, lẽ nào không có một người nào có thể đảm đương? Thế mà lại dùng trung nhân làm chuyên soái để cai quản hai lộ, tuy nói là để bàn bạc, nhưng lại mang danh là sắp xếp. Bốn phương nghe tin, lẽ nào không khinh thường? Huống chi hiện nay, Tần Phượng và Hi Hà đang suy tàn, thường phụng tự đã khó khăn, lại còn phải nuôi dưỡng một hai ngàn quân chỉ huy! Quỷ Chương, nghe nói đã lén trốn đi, thần e rằng Hiến lo không có công trạng, lại sinh ra việc biên giới để mong cầu. Kính mong thánh thượng hãy đặc biệt xem xét lại, ban đức âm để an ủi trong ngoài, thiên hạ sẽ rất may mắn! Phàm những người được hầu cận bệ hạ đều thuận theo, chỉ có thần là ngược lại ý chỉ của bệ hạ, lẽ nào đó là điều thần mong muốn? Xin bệ hạ hãy suy nghĩ.
[104] Đều không nghe theo. Bản mực chép “không nghe”, bản chu chép “Nhuận Phủ và các vị nói rất thẳng thắn, thượng hoàng đều khoan dung”. Nay theo bản mực, và thêm vào chương thứ ba của Thừa Hi. Xét tấu nghị của Thừa Hi, bàn về Hiến gồm ba chương, khác với những gì thực lục chép, nay chỉ chép chương thứ ba vào đây. Thực lục chép ba chương, không phải của Nhuận Phủ thì là của Doãn và Nhữ Lệ. Nhữ Lệ có chương bàn về Hiến khác, là việc sau tháng năm năm thứ mười. Tấu nghị của Doãn và Nhuận Phủ đều chưa thấy, cần tìm kiếm sách của hai nhà, xem ba chương này là của ai, ghi rõ tên từng người, mới được chi tiết. Tằng Triệu viết minh văn mộ chí của Bành Nhữ Lệ rằng: “Nhữ Lệ bàn về Lý Hiến, Thần Tông ban đầu không vui, ra lời trách mắng. Nhữ Lệ đứng thẳng không động, đợi dịp lại nói, hoàng đế cuối cùng đổi sắc mặt. Ngày đó, những người đứng trong điện đình ban đầu đều lo sợ cho Nhữ Lệ, sau đó đều thán phục.” Tô Tụng viết minh văn mộ chí của Thừa Hi, xem ngày 13 tháng 11 năm thứ tám.
[105] Ngày Quý Mão, xuống chiếu cho con trai của Tống Cầu, người giữ chức Đề điểm hình ngục ở Quảng Nam Tây lộ và chức Chức phương Viên ngoại lang, được bổ nhiệm làm Giao xã Trai lang. Vì Tống Cầu khi đi khảo sát việc tu sửa thành trì ở châu Khâm và châu Liêm, đã chết vì bệnh sốt rét trên đường đi.
[106] Ngày đó, Quách Quỳ và các tướng đóng quân ở sông Phú Lương. Việc này căn cứ theo 《Hội Yếu》. Ban đầu, Quách Quỳ sai Yến Đạt đánh phá Quảng Nguyên trước, sau đó trở về Vĩnh Bình hội quân với đại quân. Triệu Tiết cho rằng Quảng Nguyên có đường tắt cách Giao Châu mười hai trạm, nếu nhanh chóng tấn công bất ngờ, tiến quân theo nhiều hướng, chia ba đường đánh dẹp, thế nào quân địch cũng tan rã. Quách Quỳ không nghe theo. Sau khi Quảng Nguyên đầu hàng, Yến Đạt bàn việc trở về hội quân với Quách Quỳ, lúc đó quân bại trận ở Hạ Liên và động Cổ Lộng vẫn còn hơn một vạn người. Yến Đạt sợ rằng nếu rút quân thì địch sẽ đến tập kích, bèn để Khúc Trân dẫn ba nghìn kỵ binh nhẹ, phao tin sẽ từ hai động này tiến vào Giao Châu, thả hai tù binh man di về. Quả nhiên, quân địch chỉ lo phòng thủ, không dám động binh.
Ban đầu, quân địch đặt phục binh ở ải Giáp Khẩu để chờ quân ta, Quách Quỳ biết được, bèn dẫn quân theo đường tắt qua đỉnh Đâu Đính tiến lên, rồi đến sông Phú Lương. Cách Giao Châu chưa đầy ba mươi dặm, quân địch dàn bốn trăm chiến thuyền ở bờ nam sông, quân ta không thể vượt sông, muốn đánh cũng không được. Yến Đạt xin giả vờ yếu thế để dụ địch, quả nhiên quân địch khinh thường quân ta, kéo vài vạn người hò hét nghênh chiến, tiền quân ta không lợi, Quách Quỳ đích thân dẫn quân tinh nhuệ chống lại. Yến Đạt và các tướng tiếp tục tiến lên, quân địch hơi lùi, Quách Quỳ hô kỵ tướng Trương Thế Củ và Vương Lâu hợp lực đánh, các phục binh đồng loạt xông ra, quân địch đại bại, bị dồn xuống sông chết không kể xiết, nước sông ba ngày không chảy được. Quân ta giết chết đại tướng của địch là Thái tử Hồng Chân, bắt sống Tả lang tướng Nguyễn Căn. Càn Đức sợ hãi, dâng biểu đến cửa quân xin hàng, nộp đất năm châu Tô, Mậu, Tư Lang, Môn Lượng, Quảng Nguyên, và trả lại những người con gái bị bắt.
Lúc này, Quách Quỳ bàn với các tướng việc dẫn đại quân vượt sông, các tướng nói: “Chín đạo quân đã hết lương rồi. Tổng số quân đang hành quân là mười vạn, phu dịch hơn hai mươi vạn, chịu nắng nóng vượt lam chướng, chết quá nửa, những người còn sống đều ốm yếu.” Quách Quỳ nói: “Ta không thể phá được hang ổ giặc, bắt sống Càn Đức để báo công triều đình, đó là ý trời. Ta nguyện một thân mình cứu sống hơn mười vạn người.” Bèn rút quân, dâng biểu hàng của Càn Đức lên triều đình, ước với người Giao Châu nghe theo chỉ dụ. Việc này căn cứ theo truyện của Khúc Trân, Yến Đạt, Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng minh văn trên mộ của Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yến Đạt mà sửa chữa lại. Minh văn trên mộ Quách Quỳ chép: “Quân địch không kịp thi hành kế Giáp Khẩu, vội dẫn mấy trăm chiến thuyền tiến đến bờ sông Phú Lương. Phao tin rằng: ‘Hòa Bân và Dương Tòng Tiên sắp đến.’ Quân ta đều mừng. Khi đến nơi, quân Giao Châu vài vạn người hò hét áp sát quân quan, tiền quân không lợi.” Xét lời minh văn nói phao tin, không rõ là ai, lời lẽ không rõ ràng, nay không chép. Minh văn của Quách Quỳ do Phạm Tổ Vũ soạn; của Triệu Tiết do Phạm Bách Lộc soạn; của Quách Quỳ do Tăng Bố soạn.
[107] Ngày Giáp Thìn, Hàn lâm học sĩ, Binh bộ Viên ngoại lang kiêm Thị độc Trần Dịch bị cách chức Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc, giữ nguyên chức Tri chế cáo, nhậm chức Tri châu Trừ châu. Thái tử Trung doãn, Trực Tập hiền viện, kiêm Trực Xá nhân viện Trương Ngạc bị cách chức Trực Tập hiền viện, Trực Xá nhân viện, bị phạt lệnh đình chỉ công tác.
[108] Trước đó, Khai phong phủ xét án lại viên Tư nông tự là Lưu Đạo Xung về tội ăn cắp tiền công. Lại viên Tư nông tự là Đỗ Lượng thường mượn tiền công từ Đạo Xung. Lượng đang được bổ nhiệm làm quan, sợ tội, bèn tố cáo Ngạc thúc đẩy vụ án Đạo Xung. Ngạc viết thư gửi Dịch, Dịch gọi lại viên ngục lại để truyền đạt ý, sai họ đến gặp Ngạc, trình bày đầy đủ vụ án, không đợi hội thẩm, liền xử đoán tội nặng, Đỗ Lượng được bổ nhiệm làm Tam ban Phụng chức. Triều đình ra chiếu cho Ty đề cử chư ty khố vụ xét lại vụ án. Dịch bị tra hỏi nhiều lần nhưng không chịu nhận tội, vẫn bị đình chỉ bổng lộc và người hầu, bị điều tra. Khi vụ án kết thúc, Ngạc lại báo cáo lên trên không đúng sự thật, nên bị trách phạt. Đỗ Lượng bị lệnh đình chỉ công tác, bị biên quản ở Tùy châu. Tri chế cáo Hùng Bản dâng sớ phản đối, nói rằng Dịch không nên tiếp tục giữ chức Thị tòng. Triều đình ra chiếu cách chức Tri chế cáo của Dịch, giáng làm Tập hiền viện học sĩ. Sau đó, Bản vào chầu, Vua nói: “Bề tôi gần gũi nên hết lòng can gián, phải biết không gì không nói.” Tháng 8, ngày Mậu Thân, lập án, 《Thời chính ký》 và 《Thực lục》 đều ghi chép đầy đủ chương sớ của Hùng Bản, nay chỉ theo 《Thực lục》.
[109] Triều đình ra chiếu: “An Nam chiêu mộ người dũng cảm, khi giải ngũ nếu ai muốn nhập ngũ thì được chiêu mộ, gọi là Cường Dũng. Đóng quân ở các châu Đàm, Quế, Ung, Giao, mỗi 400 người làm một chỉ huy, được cấp lương bổng theo quy định, giống như Vũ vệ Thiểm Tây.”
[110] Triều đình ra chiếu từ nay các điều lệ ban hành đều giao cho Hình bộ khắc in để thi hành.
[111] Ty Kinh lược An phủ lộ Phu Diên tâu: “Các xạ thủ người Hán và người Phiên được vay thóc giống, xin theo phép Thường bình của châu huyện. Nếu ai trả lại thóc giống đã vay bằng thóc cùng loại, mỗi người chỉ được thu lãi không quá 2 thạch, và thóc thô hay tinh đều khác với lúc cho vay, vẫn cho phép theo lệ kho mà chiết khấu khi nộp.” Triều đình đồng ý.
[112] Chiếu rằng: “Tam ty, Tư nông tự, các lộ và phủ giới, nợ cũ tích tụ nhiều năm, trừ những nơi đã được hoãn thu, chia kỳ và gia hạn thu nộp, còn lại căn cứ vào số nợ hiện tại, mỗi khi nợ năm kỳ thì gia hạn thêm nửa năm để nộp, dù số kỳ nhiều cũng không quá hai năm. Nếu số nợ còn lại ít, số lượng không nhiều, và dưới bốn kỳ, xem xét giảm thành hạn gần để nộp xong. Những khoản nợ hiện tại từ hai mươi kỳ trở lên, trong đó có nhiều kỳ đầy đủ, thực sự trong hai năm chưa thể nộp xong, vẫn phải tâu xin chỉ dụ.”
[113] Chiếu cho Tư nông tự về các sắc lệnh thường bình, giao cho các viên thừa, bạ, biên tu, chủ phán của tự này xem xét kỹ lưỡng.
[114] Ngày Ất Tỵ, Vua phê rằng: “Việc cấp bách hiện nay ở Hi Hà lộ tuy quan trọng, nhưng việc điều động quân mã nên giao cho Kinh lược ty xem xét kỹ lưỡng về lương thực, không để Chuyển vận ty gặp khó khăn trong việc ứng phó, gây hại đến quân sự.”
[115] Ngày Đinh Mùi, Vua Liêu sai Tả giám môn vệ Thượng tướng quân Gia Luật Vận và Tây thượng các môn sứ Lý Quỳ đến chúc mừng ngày Chính đán.
[116] Ngày Mậu Thân, Đề điểm Kinh Hồ Nam lộ hình ngục Chu Sơ Bình tâu: “Dương Xương Mãn, Hoàng Hán Liễu ở Đại Cát động; Dương Quang Tiền ở Thần Điền đoàn; Dương Xương Phú ở Quyên Trường đoàn; Hoàng Thông Cao, Dương Quang Phổ ở Kim Bào động, sáu người này xin quy thuận, đều là thủ lĩnh các đoàn động, có đủ năng lực để sai khiến dân chúng, xin bổ nhiệm tất cả làm Hạ ban điện thị.” Được chấp thuận.
[117] Chiếu rằng: “Việc thu thuế ruộng chăn nuôi của Quần mục ty, các huyện lệnh và tá quan phải thu riêng một khoản theo hạn thuế. Khi mãn nhiệm, nếu không còn nợ đọng, bản châu phải bảo đảm và khen thưởng; nếu hết hạn mà chưa thu đủ, sẽ xử lý theo điều lệ về nợ thuế.”
[118] Ngày Canh Tuất, ban chiếu rằng: “Quỷ Chương, Lãnh Kê Phác xua đuổi bộ lạc phiên làm giặc, khiến các tộc trướng không được yên ổn. Những ai cùng với các bộ lạc phiên sinh hoặc thuần bắt được thủ cấp của Quỷ Chương đem dâng, sẽ được phong làm Tả tàng khố sứ, thưởng 5.000 quan tiền, và được làm Tuần kiểm sứ của bộ tộc mình. Ai bắt được Lãnh Kê Phác, sẽ được phong làm Đông đầu cung phụng quan, thưởng 3.000 quan tiền, và được làm Tuần kiểm của bộ tộc mình. Vẫn theo lệ cũ, quan phủ cấp bổng lộc. Nếu bắt sống được Quỷ Chương, Lãnh Kê Phác, ngoài phần thưởng thông thường, sẽ được ban thêm ưu đãi. Nếu Quỷ Chương, Lãnh Kê Phác biết hối lỗi quy thuận, cũng sẽ được ban thưởng như vậy. Lệnh cho Kinh lược ty của Hi Hà lộ dán bảng cáo thị.”
(Việc Lãnh Kê Phác đã được nhắc đến ngày 12 tháng 5).
[119] Lập chức Uy Nhung quân sứ và đặt Trấn Khương trại, Kết Tổng quan tại huyện Mân Xuyên, châu Mậu.
[120] Năm đó, 57 người con của tông thất được ban tên và phong chức, xử tử 758 người.
[121] Ban chiếu rằng: “Hộ dân, cường nhân, cung thủ của các trại Hoàn Khánh, theo pháp lệnh của cấm quân, được ghi vào sổ binh, thuộc quyền quản lý của Mã quân ty. Lương thực cấp phát theo tiêu chuẩn của trung cấm quân.” (Việc này căn cứ theo quyển thứ hai của 《Binh chí》 năm Hi Ninh thứ 9, nay phụ lục vào cuối năm).
- 'là' chữ nguyên thiếu, căn cứ vào câu sau 'thì mọi người cho là tầm thường' mà bổ sung. ↵
- Tôn Tư Cung, chữ 'Tư' nguyên bản là 'Ân', theo bản khác và 《Tống sử》 quyển 322 bản truyện sửa. ↵
- Chữ 'tại' ở câu 'tại nhuận nhị nguyệt mạt' vốn bị thiếu, căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà bổ sung ↵
- Nha tiền tức là tiền phường trường, tiền đò đều có thể đủ dùng 'tiền' nguyên bản là 'tiền', theo nghĩa văn mà sửa. ↵
- Bản ty không dám tùy tiện xác nhận 'tùy tiện' nguyên văn là 'phù', căn cứ vào văn cảnh sửa lại. ↵
- Sau đó nước cũng rút 'sau' nguyên văn là 'lại', căn cứ vào bản khác sửa lại. ↵
- Xin đem bản tường trình của quan Đô thủy giám giao cho thần 'Đô' chữ này nguyên văn thiếu, căn cứ vào quyển 258, ngày Giáp Tuất tháng 12 năm Hi Ninh thứ 7 bổ sung. ↵
- 東京西路: Theo ghi chép, nhà Tống không có 'Đông Kinh Tây Lộ' mà chỉ có 'Kinh Đông Tây Lộ', nghi ngờ rằng chữ 'Đông Kinh' ở đây là sai, nên là 'Kinh Đông'. ↵
- Trong chiếu chỉ, chữ 'thường' (trước đây) nguyên bản viết là 'thưởng', theo bản khác sửa lại. ↵
- Tôn Cấu, chữ 'Cấu' nguyên bản viết là 'Giác', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 331, bản truyện sửa lại. ↵
- Theo văn bản, chữ 'Giao' phía trên có lẽ thiếu chữ 'Chiếu'. ↵
- 'Hiệu' nguyên là 'Cố', theo các bản khác sửa. ↵
- 'kì' nguyên là 'Tại', theo bản trong các kho sách sửa lại. ↵
- 'vị' nguyên là 'Lỗi', theo bản trong các kho sửa lại. ↵