"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 280: NĂM HI NINH THỨ 10 (ĐINH DẬU, 1077)

Từ tháng giêng năm Hi Ninh thứ 10 đến hết tháng hai năm đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm Tý (mùng 1), Phong Tài nhân Chu thị làm Tiệp dư.

[2] Ty Chuyển vận lộ Tần Phượng tâu: “Ty Trà trường hàng năm cung cấp trà để mua lương thực ở Hi Hà. Gần đây dù đã đổi bằng trà nhưng giá cao không bán được. Nay binh mã tập trung, chi phí rất lớn, xin mượn số lượng của năm sau, cho phép giảm giá để tiêu thụ.” Vua phê: “Ty Chuyển vận vội kiếm tiền, giảm giá trà nhiều thì một lúc bán được nhiều, nhưng người Hán và người Phiên tích trữ trà quá nhiều, ắt sẽ làm hỏng lợi từ trà, đồng thời cản trở việc mua ngựa. Nếu bất đắc dĩ, có thể cho một hạn mức.” Bèn cho mượn trà của Ty Trà trường, trị giá 10 vạn quan tiền để giao cho họ.

[3] Vua phê: “Tình hình quân đội ở doanh trại An Nam, triều đình muốn biết hàng ngày, có thể lệnh cho Quyền phát khiển sự Ung châu là Chu Ốc hàng ngày tâu lên. Sau khi gửi thư, dùng biển dài ghi rõ ‘Văn thư khẩn cấp của Xu mật viện’, không được đưa vào trạm dịch.”

[4] Ngày Canh Thân (mùng 9), Tri chế cáo, tân nhậm Tri Kinh Nam là Chương Đôn được điều làm Tri Hồ Châu. Trước đây, Đôn từ Hồ Châu chuyển đến Kinh Nam, vẫn được lệnh tự mình đến các châu Thần, Nguyên để an phủ man tộc nổi loạn. Nhận mệnh liền đi gấp, trên đường ngã ngựa bị thương ở chân, bèn tự tâu: “Việc ở châu Thần, Nguyên đã ổn định, xin được nhậm chức ở một quận thuộc hai lộ Chiết.” Vua phê chuẩn cho Đôn trở lại chức cũ. Năm Hi Ninh thứ 8 tháng 10, Đôn từ chức Tam ty sứ ra làm Tri Hồ Châu; tháng 10 năm Hi Ninh thứ 9 chuyển làm Tri Kinh Nam. Bản truyện của Đôn chép: “Ra làm Tri Hồ Châu, người Man ở Kinh Hồ lại quấy nhiễu biên giới, chuyển làm Tri Kinh Nam. Đến nơi thì việc đã yên, vì cha mẹ già lại xin về Hồ Châu.”

[5] Trung thư tâu: “Gần đây cho phép Ty Thị dịch cùng Ty Chuyển vận lộ Giang Nam Tây lộ đổi muối của năm châu quân Hồng, Phủ, v.v., mua lụa là, và cử quan thuộc là Âu Dương Thành làm Tổng lĩnh, dùng giấy muối để tiện trao đổi. Việc này gây trở ngại cho tài phú của Ty Chuyển vận và khoản thu của các trường vụ. Xin lệnh cho số muối mua của các châu, giao Ty Chuyển vận xem xét quyết định, bãi bỏ quan do Ty Thị dịch cử.” Vua nghe theo.

[6] Quyền phát khiển Kinh Hồ Nam Lộ chuyển vận phán quan Đường Nghĩa Vấn tâu: “Bắc Lộ những năm gần đây bãi bỏ quân Kinh Môn, đổi thành huyện Trường Lâm[1], thuộc phủ Giang Lăng. Quân này vốn kiểm soát đất Ba Thục, phòng bị các nước Bách Việt, nay đổi thành huyện, thành quách không hoàn chỉnh, quân đồn trú giảm bớt, không đủ sức kiểm soát nơi trọng yếu. Gần đây, các quan phụng mệnh đi thăm dò, chỉ lo việc hưng sự để đối phó trách nhiệm, giảm bớt người làm dịch vụ, giữ lại tiền dịch vụ để kiếm lợi. Nghe nói từ khi bãi bỏ quân này, thuế muối và rượu mỗi năm đều bị thiếu hụt nhiều hơn số tiền dịch vụ còn lại. Xin khôi phục lại quân này.” Chiếu cho các quan Giám ty Kinh Hồ Bắc Lộ xem xét rồi tâu lên. Sau đó việc này không được thực hiện.

[7] Ngự sử Bành Nhữ Lệ tâu, xin răn đe Hình bộ, không được lấy cớ công việc khó khăn để bàn bạc ở sảnh đường. Chiếu rằng các việc công án khó khăn ở Pháp tự, phải trình bày rõ hình danh và ý kiến khác nhau, tâu lên Trung thư, Xu mật viện, mới được bẩm bạch, lệnh cho Ngự sử đài giám sát.

[8] Lễ viện tâu, nay căn cứ vào các thay đổi trong việc tế tự từ năm Khánh Lịch thứ 5 về sau, tham khảo biên soạn thành ba bản sách tế tự, xin một bản để lại trong cung, còn lại giao cho ty Giám tế lễ. Được chấp thuận.

[9] Ban thưởng cho Phán Thái thường tự Trần Tương và những người khác mỗi người một số lượng bạc và lụa khác nhau. Việc ban thưởng bạc và lụa được dời vào ngày 19 tháng 3.

[10] Chiếu cho mượn giống lúa mì cho các hộ bị thiên tai ở Hà Bắc Lộ, mỗi hộ một thạch.

[11] Ty Kiềm hạt và Chuyển vận Thành Đô phủ Lộ tâu, xin sửa chữa lầu thành An Viễn, dời quân Uy Viễn đến đó. Được chấp thuận. Cần xem xét thêm, bản Chu và bản Mặc đều giống nhau.

[12] Tri phủ Thành Đô Phùng Kinh xin sửa chữa thành Vĩnh Khang, và dời cửa ải Tàm Nhai đến cửa khe. Thành này gần núi lớn, mùa hạ và thu mưa nhiều, đất xốp dễ sụp đổ, xin xây bằng gạch đá. Được chấp thuận.

[13] Tri châu Tân Châu, Điện trung thừa Thạch Hoàn[2]bị cách chức. Vì nghe tin Giao Chỉ sắp xâm lược, đã bỏ trốn khỏi thành.

[14] Ngày Quý Hợi, Ty chuyển vận lộ Quảng Nam Đông tâu rằng, trong lúc quân đội đang chuẩn bị, các châu huyện thiếu quan chức, xin cho các quan Kinh triều, Tuyển nhân, Đại Tiểu sứ thần đang tại chức ở mười châu quân Giang Tây, căn cứ vào thứ bậc được phép, chỉ định bổ nhiệm vào các chức vụ khuyết trong lộ, rồi tâu lên Viện Thuyên để phê chuẩn. Được chấp thuận.

[15] Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Thần đã nhiều lần tâu rằng Lý Tắc làm việc sai trái, không thể để ông ta giữ chức Giám ty, xin dừng chức vụ của Tắc và trị tội không chôn cất cha, phế bỏ suốt đời, nhưng đến nay vẫn chưa được chỉ đạo thi hành. Gần đây, thần nghe nói Ty Đề hình lộ Hà Bắc Tây đã điều tra và xác nhận sự việc về Tắc, hoàn toàn giống với lời thần tâu. Thế mà lại có chỉ dụ gửi cho Lý Tắc biết. Ban đầu, thần nghe tin này không tin, vì trước đây triều đình từng có hai vị quan trong cấm đình, vốn có tài năng, từng trải qua các chức vụ thanh cao, được tiếng tốt trong triều, được Vua biết đến, bỗng bị người tố cáo, nêu rõ tội trạng, nhưng do tin đồn chưa rõ, mập mờ không rõ ràng, hư thực khó phân, tình có thể tha thứ, nên có chỉ dụ gửi cho quan đó biết.

Còn Tắc được đề bạt từ chức quan tầm thường, địa vị thấp kém, không phải là quan thanh cao trong cấm đình; chức vụ từng giữ chưa từng có tiếng liêm khiết, không phải là người có tiếng tốt trong triều; Ty Án hình của bản đạo đã điều tra rõ sự thật, không phải là tin đồn không rõ; hơn hai mươi năm không chôn cha, tội ác rõ ràng, không phải là mập mờ không rõ. Nay trong ngoài đều nghe tin, đã có chỉ dụ như trên, Tắc là người thế nào mà được may mắn thoát tội? Chức vụ Giám ty, là người đứng đầu một phương, quận huyện nhìn vào chính sự của họ mà đánh giá nặng nhẹ, triều đình tin lời họ mà thưởng phạt quan lại. Chức vụ đó vốn khác biệt, trách nhiệm cũng nên khác người thường. Nếu được giao phó mà không có tài năng, tội lỗi đã rõ, lại còn được khoan dung, thực sự làm tổn hại công luận.

Thần giữ chức Phong hiến, lấy việc làm trong sạch làm đầu, như việc làm của Tắc, càng nên bị xử phạt. Triều đình có lẽ cho rằng Tắc là tiểu quan không đáng kể, việc nhỏ không đáng hỏi. Nhưng sau này nếu có quan lại được bổ nhiệm, chức vụ cao hơn Tắc, tội ác so với Tắc còn đáng nghi, thì các quan giám sát e rằng triều đình lại không nghe xét, ai dám mạo hiểm mà tố cáo? Kính mong xem xét lại các tờ tâu trước đây của thần, đặc biệt ra chỉ dụ, sớm giáng chức Tắc. Để thần yên tâm làm việc, giữ vững chức phận.”

Sách 《Trung thư thời chính ký》 chép việc ngày 12 tháng giêng.

[16] Ngày Giáp Tí, hoàng tử thứ bảy của Vua ra đời, sai Kỳ vương Hạo đến Thái miếu làm lễ cáo.

(Giá.)

[17] Hùng châu tâu: “Tuần mã của địch từ bên kia sông tràn sang, tình hình khó lường, nếu chúng đột ngột tấn công thì tri huyện, huyện uý và số lượng cung thủ ít ỏi, khó lòng chống đỡ. Từ nay, nếu gặp tuần mã của địch, cho phép tập hợp lực lượng ứng phó, quân lính và ngựa được trang bị giáp từ đô giám trú bạc, bố trí phòng thủ ở cửa tây bắc để đề phòng bất trắc.” Triều đình đồng ý.

[18] Chiếu rằng: “Đã sai quan tu sửa các đê bị vỡ ở Hà Bắc, thu nước vào hồ chứa. Những ruộng đất ở Tín An quân và các nơi khác do nước hồ rút cạn mà lộ ra, đã cho người canh tác, nay đều phải dời đi. Lại sai Hàn Chính Ngạn, đề điểm hình ngục lộ Đông Bắc, cùng với Tạ Vũ Khuê, đô giám đồn điền, kiểm tra và vẽ bản đồ tâu lên.”

[19] Chiếu rằng: “Những gia đình có người chết vì bệnh hoặc tử trận trong quân đội hành dinh An Nam, được miễn trừ các khoản nợ tiền mua vật liệu may quần áo. Quần áo cấp không quá một mùa, tiền vật liệu không quá một tháng. Cung thủ, dân binh, nghĩa dũng vay mượn vật dụng của quan, ngoài thời hạn gia hạn, được gia hạn thêm một năm.”

[20] Chiếu rằng: Các chức thừa ở các tự, giám đều do triều đình tuyển chọn, không cần tiến cử quan nữa.

[21] Chiếu rằng: Quyền phát khiển chuyển vận phán quan lộ Đông Kinh, Thái tử trung xá Lý Sát bị kéo dài thời gian khảo hạch thêm bốn năm; Quyền đề điểm hình ngục lộ Tây Nam, Điện trung thừa Trương Phục Lễ, Tri huyện Ngư Đài Lý Chúng đều bị kéo dài thời gian khảo hạch thêm hai năm; Chủ bạ huyện Ma Thành Nhậm Hữu Chi, cựu huyện uý huyện Lâm Dĩnh[3] Mạnh Hậu đều bị cách chức. Vì họ đã kiểm tra và báo cáo sai về việc đào sông Đặng Ngải Khẩu.

[22] Ngày Mậu Thìn, chùa Tiên Thiều bị cháy, hơn 250 gian nhà bị thiêu rụi, Vua không thiết triều.

[23] Ngày Kỷ Tỵ, có hiện tượng bạch hồng quán nhật.

[24] Chiếu rằng: Cấp 15 vạn tấm lụa và 5 vạn lạng bạc từ kho nội tàng cho Kinh lược ty Hi Hà để làm quân thưởng.

[25] Quân nhân Quỳnh Quản là Triệu Tú được làm Tam ban Sai sứ, binh sĩ Chu Nguyên cùng 14 người khác đều được thăng ba bậc, ban tặng lụa có khác biệt. Do Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu rằng, Triệu Tú cùng những người này bị Giao Chỉ bắt giữ, Tú dẫn Chu Nguyên lấy trộm vũ khí theo đường biển về Liêm Châu, lại bị người Lê Động bắt giữ, đến nay mới trở về, nên ban thưởng. Việc này xảy ra vào ngày 6 tháng 10 năm ngoái, nên gộp vào.

[26] Ngày Canh Ngọ, Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, Thái thường Thừa, Trực Tập Hiền viện là Thái Xác được làm Thị ngự sử Tri tạp sự.

[27] Chiếu rằng: “Từ nay, Quần mục Đô giám và Phó sứ sẽ luân phiên bổ nhiệm. Gần đây đã bổ nhiệm Trương Thành làm Phó sứ, nên bãi chức của Tống Hữu Chí, khuyết chức đó không cần bổ nhiệm người khác.”

[28] Chiếu rằng: “Dân châu Kỳ, châu Định còn nợ lương kết địch của ty Thị dịch, Thủy lợi, Ứ điền, có thể chỉ thu tiền lãi 2 phần theo phép Thường bình, và các ty này phải lo liệu việc dự trữ lương thảo ở ba nơi thuộc Hà Bắc. Từ nay, chỉ mua khi giá rẻ.”

[29] Ngày Nhâm Thân, Tể thần Ngô Sung vì hoàn thành việc biên soạn quân lệnh của ty Quân mã, được ban 300 lượng bạc và 300 tấm lụa. Các quan biên soạn được đổi chức, giảm năm khảo hạch có khác biệt. Việc biên soạn bắt đầu từ ngày 3 tháng 2 năm thứ 8.

[30] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng: “Các thôn không đủ 5 hộ, nếu thôn khác ở xa, cho phép ghép vào bảo hộ.”

[31] Ngày Giáp Tuất, Lục trạch Phó sứ Tống Dụng Thần được thăng làm Nội tàng khố Phó sứ, vẫn giữ chức cũ; Nhập nội Cung phụng quan Lý Trực Thanh, Điện đầu Phùng Vĩnh Thanh, Vương Hiến Chương đều được giảm 7 năm khảo hạch; Nhập nội Cung phụng quan Nhâm Đoan được giảm 5 năm; những người khác được ban bạc và lụa. Vì đã hoàn thành việc tu sửa nội thành.

[32] Ngày Ất Hợi, chiếu rằng: “Từ nay, các vụ án công tại Pháp tự phải nộp lên Trung thư Môn hạ mỗi nửa năm một lần để xét xử dứt điểm. Sau đó so sánh công tội, ban thưởng theo ba hạng.”

[33] Ngày Bính Tý, Lục Kinh, người giữ chức Tri Hà Trung phủ, Binh bộ Viên ngoại lang, Trực sử quán, được bổ nhiệm làm Tập Hiền điện Tu soạn và tiếp tục tại nhiệm. Do có chỉ dụ của Vua rằng: “Hà Trung phủ có việc quan trang do Vương Hiếu Tiên lập ra cùng ruộng bồi, muối tư, cần có quan lại lâu năm phối hợp xử lý. Nghe nói Lục Kinh tại đó đã tận lực, nên ban thưởng và cho tiếp tục tại nhiệm”[4].

[34] Chiếu chỉ cho Du Sung, Chuyển vận sứ phủ Thành Đô lộ, được thăng một bậc, và Đoàn Giới, Chuyển vận phán quan, được giảm hai năm khảo hạch. Do Phùng Kinh, Tri phủ Thành Đô tâu rằng, giặc Phiên ở Mậu Châu làm phản, Du Sung và các quan đã phối hợp xử lý. Sau đó, triệu Du Sung về giữ chức Quyền Phán Đô thủy giám. Việc bổ nhiệm Phán Đô thủy giám diễn ra vào ngày 23 tháng 3.

[35] Chiếu chỉ: “Theo chỉ dụ gần đây, các trại chăn nuôi bị bãi bỏ ở Hà Bắc, Hà Đông cùng tiền thuê đất chăn nuôi, nay phải nộp về Thái Nguyên và Đại Danh phủ. Những nơi cách phủ dưới 300 dặm, theo chỉ dụ trước; những nơi cách phủ trên 300 dặm, giao cho các châu, quân quản lý, lệnh cho Quần mục ty triệu tập người đến nộp tiền vào kho của ty.”

[36] Triệu Lệnh Thước, Đồn điền Lang trung, Câu đương Bộ quân Lương liệu viện, tâu: “Cha tôi là Triệu Thế Hùng là cháu năm đời của tổ tiên, xin được cùng cha mẹ thuê nhà ở ngoài.” Chiếu chỉ cho phép Triệu Lệnh Thước vào cung thăm viếng.

[37] Ngày Mậu Dần, chiếu chỉ: “Trương Nhược Tế, nguyên Quang lộc Tự thừa, Tri huyện Hoa Đình, châu Tú, được tha tội chết, đánh bằng gậy vào lưng, xăm mặt, đày ra đảo Sa Môn. Vương Đình Lão, Quyền Lưỡng Chiết Chuyển vận phó sứ, Độ chi Lang trung, và Quách Phụ, Quản câu Văn tự, Đại Lý Tự thừa, bị tước hai chức, cách chức. Triều Đoan Ngạn, Đề điểm Hình ngục, Ty phong Viên ngoại lang, và Phan Lương Khí, Chức phương Viên ngoại lang, bị tước hai chức; Hồ Chí Trung, Phát vận ty Câu đương Công sự, Bí thư Thừa, bị tước một chức, nhưng được miễn cách chức, theo chỉ dụ trước bị điều đi nơi khác. Thượng Quan Cấp, nguyên Tri huyện Hoa Đình, Đại Lý Tự thừa, Thiệu Kỳ, Thái tử Trung doãn, và Lữ Ôn Khanh, Tán thiện Đại phu, đều bị điều đi nơi khác. Thi Mạc, Đô quan Viên ngoại lang, Phân ty Nam Kinh, bị giáng làm Thư Châu Đoàn luyện Phó sứ. Trịnh Ưng, Thí Tướng tác Giám chủ bạ, bị đày đi Liễu Châu.”

[38] Trước đó, Kiển Chu Phụ và Lý Tủng cùng xét án Trương Nhược Tế, Lữ Ôn Khanh đều bị hặc tội. Khi án đã xong, Nhược Tế phạm tội tham nhũng, còn Cấp Kỳ nói những điều không đúng sự thật; Ôn Khanh dùng điền khế giao cho Nhược Tế thế chấp tiền của kho Hoa Đình năm trăm ngàn, vay tiền của cung thủ Gia Hưng cũ bốn trăm ngàn, tâu lên Chuyển vận ty, không đợi hết hạn, ép dân chuộc ruộng; Mạc ỷ thế Chuyển vận sứ Trương Tịnh, nhờ quan tại chức mua vật phạm pháp, cùng bán rượu vào đất cấm; Chí Trung từng dự yến hội ca kỹ lớn của Đình Lão; khi xét án định tâu, Ưng dùng tên giả chiếm ruộng dân, vì tăng Văn Tiệp, Pháp Anh xin trụ trì chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu. Đình Lão và Tịnh vì Ưng là cậu của Lữ Huệ Khanh, nên mọi lời thỉnh cầu đều nghe theo; lại vì thân với em rể Huệ Khanh, sai quyền tri huyện Côn Sơn ba ngày, cướp đoạt bốn trăm thạch thóc ruộng chức của quan quyền đã được bổ nhiệm. Chiếu chỉ đặc biệt xử án, vẫn truy thu số thóc đã nhận vào quan. Tịnh vì việc khác bị hặc riêng, án chưa tâu lên. Cần xét xem Tịnh sau đó xử án thế nào. Ưng ỷ thế Huệ Khanh hoành hành ở Lưỡng Chiết, mọi người đều gọi là “Trịnh Lục Cậu”, có người nói Chu Phụ ban đầu xét được việc gian lợi của họ Lữ, truy cứu rất gấp, gặp lúc Đặng Oản thất thế, người nhà họ Lữ đưa thuốc, đặt tên thuốc là “Oản Xuất Thang”. Nhân đó báo với Chu Phụ, Chu Phụ biết được, bèn không chịu vì họ Vương ra sức xóa bỏ việc của họ Lữ, mà tâu án lên.

《Thập Triều Cương Yếu》 chép: Tháng giêng ngày Mậu Dần, án Trương Nhược Tế xong, Nhược Tế phạm tội nhận chín trăm lạng bạc của dân Ngô Tương, bị đánh gậy và lưu đày ra đảo. Chuyển vận phó sứ bản lộ Vương Đình Lão, Đề điểm hình ngục Triều Đoan Ngạn đều bị liên lụy, bị giáng chức cách chức khác nhau. Khi án mới khởi, việc liên quan đến Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh, Ngự sử trung thừa Đặng Oản tâu lên tình hình, Vua nhiều lần sai sứ đến Tú Châu xét thực. Đến lúc này, em Huệ Khanh là Ôn Khanh cũng phạm tội. 《Huệ Khanh Gia Truyền》 chép, đã chú thích ngày 26 tháng 9 năm thứ 8. 《Thời Chính Ký》 chép việc án này, cùng các chương tấu của Đặng Oản, Thái Thừa Hi, Đặng Nhuận Phủ, và bản tâu của Huệ Khanh rất chi tiết. Nay chỉ theo 《Thực Lục》.

《Tăng Bố Nguyên Phù Nguyên Niên Nhật Lục》 ngày 27 tháng 8 năm Nguyên Phù thứ nhất, ngày Quý Dậu, Vua dụ Tăng Bố, An Đôn nói Lữ Thăng Khanh tố cáo việc của Thượng Quan Cấp, có ý đe dọa, đã lệnh chuyển sang Kinh Tây xét lại. Bố cũng cho là đúng. Vua nhân việc án Chu Tú,[5] nói đến Kiển Chu Phụ làm quan xét án do dự không quyết. Khi Đặng Oản bị biếm, Lữ Ôn Khanh trong ngục, người nhà đưa “Oản Xuất Thang” cho, Chu Phụ bèn bình phản, Huệ Khanh được miễn tội, còn Ôn Khanh vẫn bị cách chức. Nếu không phải Oản và An Thạch ra mặt, Huệ Khanh ắt không thoát. Vua nói: “Gần đây việc hình ngục chỉ như vậy.” Lại hỏi việc Đặng Oản bàn việc tiến cử người, đều trả lời thực.

[39] Quyền Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ tâu: “Những người không được giảm tội do xá giáng mà bị cách chức, xin cho tu sửa lại Biên sắc sở và Ty nông tự, chọn những điều có thể bỏ bớt để định trước.” Vua nghe theo.

[40] Lại tâu: “Triều đình trước đây tuyển chọn nhân tài, giao cho cai quản các quận, nên có người từ chức thông phán được thăng vượt cấp, cũng có người theo lệ vào chức tri châu nhưng vì bệnh tật, già yếu mà bị bãi chức. Tuy triều đình bị oán trách, nhưng các châu quận thường được người tài. Chịu oán một hai người mà dân nghìn dặm được hưởng ơn, lợi ích cũng lớn vậy. Nghe nói gần đây muốn sửa chữa tệ này, sẽ căn cứ vào quy chế của Thẩm quan để xét. Như thế thì những người bệnh tật, già yếu sẽ lại được dùng, tuy đủ để làm vừa lòng một hai người, nhưng dân nghìn dặm sẽ bị hại. Nếu cho rằng thăng vượt cấp thông phán là may mắn, thì giảm bớt cũng được. Còn về chức quận thủ, xin theo cách tuyển chọn xét duyệt như trước, để thuận lợi cho dân chúng.” Không được trả lời.

[41] Ngày Kỷ Mão, sai Thị ngự sử Chu Doãn đi ngựa trạm, mang hương của Vua đến chùa Bạch Thủy trên núi Cửu Mi ở Gia Châu. Vì có chỉ của Vua rằng: “Hai xuyên được mùa, Doãn thường nói có mẹ ở Thành Đô, có thể nhân việc đi sứ cho đón về phụng dưỡng.” Doãn tâu, xin hạ lệnh cho Tuyên phủ ty Quảng Nam Tây lộ điều tra những người bị Giao Chỉ bắt đi. Vua nghe theo.

[42] Tuyên phủ ty tâu: “Quảng Nguyên Châu mới lập châu, cần binh lính phòng thủ, xin theo lệ của Hi Châu, Hà Châu, Nguyên Châu, phối tội nhân làm lao thành.” Chiếu rằng những tội nhân phối ở các châu quân phía nam Hoài, đều phối đến Quảng Nguyên Châu.

[43] Quách Quỳ và các quan tâu, xin cử ngay Đề điểm hình ngục Quảng Nam Tây lộ kiêm nhiệm việc đề cử khai thác các mỏ vàng bạc ở Quảng Nguyên Châu và các nơi khác. Vua nghe theo.

[44] Ngày Canh Thìn, Vua xuống chiếu cho Phán quan phủ Khai Phong là Ngô Kỷ Phục điều tra Đông đầu cung phụng quan Vương Vĩnh Niên, vì Vĩnh Niên đến tố cáo với tể tướng rằng tông thất Thúc Bì cùng những người khác đã đổi y phục, lén ra ngoài để xem bói. Tể thần Vương Khuê tâu: “Vĩnh Niên từng nói rằng tông thất có họ hàng với thần, vì cha vợ của thần là Trịnh Tiển có anh là Trịnh Tải gả con gái cho con trai của Dương Ức là Dương Hoành, con trai của Dương Hoành là Dương Vực không phải do Trịnh thị sinh ra, Dương Vực có con gái gả cho tông thất Thúc Kiêm, nên Vĩnh Niên nói rằng có họ hàng với thần. Nay những lời tố cáo của Vĩnh Niên đều là lời lẽ bất kính, xin giao cho hữu ty điều tra xem có liên quan gì đến thần hay không, để tránh làm hoang mang dư luận.” Vua đồng ý.

[45] Vợ của Vĩnh Niên là em gái của Thúc Bì. Vĩnh Niên bị cách chức từ Giang Nam, áp giải tiền cống nộp về kinh sư, nhưng đã lấy trộm mấy ngàn quan tiền, hy vọng nhà vợ sẽ bồi thường, nhưng Thúc Bì không chịu bồi thường. Tam ty thúc giục đòi tiền rất gấp, Vĩnh Niên biết Thúc Bì từng cải trang đi chơi trong dân gian vào đêm Thượng nguyên, bèn đêm đến gõ cửa Đông phủ tố cáo có biến, nói rằng Thúc Bì và anh em đã lén đi xem bói, tự cho mình có thiên mệnh, mưu làm loạn, đã bí mật chế tạo các vật dụng dành cho hoàng đế. Vì thế, Vua sai Kỷ Phục điều tra, nhưng Kỷ Phục xét hỏi đều không có chứng cứ. Vĩnh Niên đã nhận tội, sau đó bị bệnh chết trong ngục.

[46] Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Gần đây theo chế độ, các đại tế ở Thái Miếu đều cử tông thất từ chức Sứ tương trở lên đảm nhiệm chức Thái úy để hành lễ, nhằm tôn trọng tông miếu, kính tổ tiên, thân hoàng tộc, dạy bảo con cháu. Mùa đông năm ngoái, khi đến kỳ tế lạp, Trung thư sảnh vừa định ban chiếu, thì có tông thất vội cáo ốm, phải cử người khác thay thế, nhưng ngay hôm sau lại xin vào chầu; cũng có người sau khi nhận lời thề giới lại xin từ chối vì bệnh. Thần nghĩ, tông thất là người thân cận hiền tài, được hưởng công lao tích lũy của chín đời tiên đế, đã được tôn sùng và ban ân sủng tột bậc, nên cố gắng thực hiện lễ nghi vào mùa xuân và mùa thu. Nay lại lấy việc một ngày phụng tế làm nặng nề, thì đó là hành vi bội đức bỏ gốc, không gì nghiêm trọng hơn, há chẳng phải là do bác sĩ không hiểu lễ, hữu ty không chỉ rõ pháp đó sao! Thần cho rằng nên ban bố quy định, từ nay tông thất từ chức Sứ tương trở lên phải đến Thái Miếu hành lễ, không được tùy tiện cáo ốm để trốn tránh, giao cho Tông chính ty xem xét và tấu hặc. Nếu cho rằng số lượng tông thất từ chức Sứ tương trở lên không nhiều, mà việc tế lễ lại thường xuyên, thì có thể cử Tiết độ sứ trở lên đảm nhiệm thay.” Được chấp thuận.

[47] Chiếu rằng: “Gần đây các lộ Hoài Nam v.v… đang tổ chức quân đội, nếu giao cho châu phủ thì chắc chắn không thể chỉnh đốn được. Có thể chọn hai viên võ thần, sai đi kiểm tra, chiêu mộ thêm binh lính và bổ sung. Các quy định, giao cho Thừa chỉ ty xem xét và xin chỉ dụ.” Do đó, cử Tây thượng các môn phó sứ Trương Sơn Phủ và Trang trạch phó sứ Cao Tuân Nhất đi.

[48] Cấp sự trung Trình Sư Mạnh bị bãi chức Phán tướng tác giám, trở về ban. Vì khi đi sứ đến Trác Châu, Nam Cao, sắp xếp chỗ ngồi không đúng[6], sai người bàn bạc sửa lại nhưng không được, nên giả bệnh không đến đình phía Bắc tiễn đưa. Trác Châu gửi văn thư nói việc này không theo lệ cũ. Ban đầu có chiếu chỉ phạt 10 cân đồng rồi tha tội, ngày hôm sau mới có lệnh này. Trước đó, Liêu chủ và mẹ đều đến chúc mừng sinh thần, nên cử sứ giả hai lần đến đất Liêu. Khi cùng ngồi, người tiếp đón ngồi hướng Nam, phía Tây trên, sứ giả bên trái hướng Nam, phía Đông trên; quan Trác Châu ngồi hướng Tây, sứ giả bên phải hướng Đông. Đến khi mẹ Liêu chủ mất, Sư Mạnh mới đến Trác Châu, Liêu vẽ sơ đồ chỗ ngồi, người tiếp đón và phó sứ đều hướng Nam, quan Trác Châu hướng Tây, còn sứ giả triều đình hướng Đông. Sư Mạnh nói: “Như vậy thì sứ giả Trung Quốc bị coi thường.” Từ chiều đến tối, tranh cãi không ngã ngũ, người đi theo đều sợ hãi, nhưng Sư Mạnh càng nói cương quyết, quát người tiếp đón đổi lại. Cuối cùng đổi người tiếp đón hướng Tây, sứ giả triều đình hướng Đông, còn quan Trác Châu hướng Nam. Hôm sau, người Trác Châu tiễn ở ngoại ô, Sư Mạnh phóng ngựa đi qua không đoái hoài. Người Trác Châu vì Sư Mạnh không tham dự lễ tiễn, gửi văn thư đến Hùng Châu, nên bị khiển trách. Việc này căn cứ theo bản truyện của Sư Mạnh, chỗ nói về việc đổi chỗ ngồi khác với thực lục, cần xem xét. 《Mật viện thời chính ký》 chép việc Sư Mạnh không đến đình phía Bắc tiễn đưa rất chi tiết, nhưng cũng không đáng ghi lại.

[49] Ngày Tân Tỵ, Vua xuống chiếu phạt Đãi chế Thiên Chương các là Sở Kiến Trung 30 cân đồng. Trước đây, Kiến Trung làm Tri châu Khánh, cứu tế dân đói, nhưng cấp phát tiền lương không đúng cách, nên bị cách chức và xử phạt. Trước đó, Phạm Thuần Nhân thay Kiến Trung làm Tri châu Khánh, tự ý phát kho thường bình và phong trang để cứu tế dân lưu vong, cứu sống được nhiều người. Lúc ấy, cỏ bồng mọc đầy đồng, kết hạt như lúa, dân chúng và quan phủ đều lấy làm lương thực. Thuần Nhân lại lo liệu các dụng cụ canh tác, năm đó được mùa lớn. Có người tố cáo Thuần Nhân cấp phát quá nhiều, triều đình sai sứ đi xem xét. Dân nghe tin, tranh nhau nộp lương thực về quan. Khi sứ giả đến, thì đã không còn thiếu nợ. Ở vùng Bân, Ninh có nhiều mộ tập thể, sứ giả đào mộ lấy vài bộ xương, rồi hặc tội Thuần Nhân cứu sống dân không đúng sự thật. Triều đình xuống chiếu điều tra kỹ, thì ra đó là những người đã được Kiến Trung cứu tế. Triều đình định đổ tội cho Kiến Trung, nhưng Thuần Nhân liên tục dâng sớ nói: “Kiến Trung tuân thủ pháp luật, đang xin chỉ thị cách xử lý, thì dân đã chết đói nhiều. Đến khi thần nhân theo cách xử lý của ông ấy, may mắn cứu được dân khỏi lưu vong, đó không phải do tài năng của thần. Huống chi Kiến Trung trước đây đã bị cách chức vì không làm tròn nhiệm vụ, triều đình đã trách phạt ông ấy. Nay vì xét tội thần mà lại liên lụy đến Kiến Trung, thì là một tội bị trừng phạt hai lần.” Cuối cùng Kiến Trung vẫn không tránh khỏi bị phạt đồng.

[50] Tướng quân Thiên Ngưu vệ là Bất Khi được miễn tội chết và cách chức, bị tước một chức quan và bắt thôi việc. Bất Khi mới 16 tuổi, cha là Sĩ Hội làm việc ở Tông Chính ty, bị điều tra về việc Sĩ Sào chửi mắng. Bất Khi theo lệ phải bị cấm vào triều. Vì cha bị bệnh, Bất Khi xin được về nhà để lấy lời khai, nhưng lại mang biểu chương vào thẳng điện Thùy Củng, tự ý trình bày. Theo luật, Bất Khi phải chịu tội chết, nhưng Vua thương tình, chỉ xử phạt nhẹ.

[51] Tháng 2, ngày Nhâm Ngọ, mùng một, Vua xuống chiếu cho các ty Đề điểm hình ngục ở Hà Bắc, Kinh Đông xem xét các châu quân có nhiều trộm cướp, nếu quan lại cai trị bất tài, xử lý sai trái, hoặc quan bắt cướp không đủ năng lực, thì chọn người thay thế rồi tâu lên.

[52] Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Trước đây đã đàn hặc Lý Tắc làm chuyển vận phán quan Hà Bắc, hành xử bất công và không chôn cất cha, xin sớm trách phạt giáng chức.” Chiếu cho Lý Tắc đổi làm Quân khí giám thừa. Ngày 5 tháng 10 năm thứ 9, Chu Doãn lần đầu tâu, ngày 12 tháng 5 năm nay lại tâu.

[53] Quần mục ty tâu: “Năm ngoái cấp ngựa cho hành dinh An Nam và chi cho hai tỉnh, tông thất, các ban trực, các quân tư mã, tổng cộng hơn 3.000 con, chưa cấp còn hơn 2.000 con. Ngày thường đã không đủ, xin giảm bớt số ngựa cấp cho tông thất trở xuống, các ty ngừng cấp.” Theo lời tâu. Ngày 6 tháng 7 năm Thiệu Thánh thứ 3, Trương Phó v.v… tâu, có thể tham khảo.

[54] Ngày Giáp Thân, Sùng Tín quân tiết độ sứ, Tri tông chính sự Tông Đán làm Hữu bộc xạ, Đồng bình chương sự, Hoài Khang quân lưu hậu Tông Nghị làm Chiêu Hóa quân tiết độ sứ, Chương Vũ lưu hậu Thừa Tuyển làm Bảo Đại quân tiết độ sứ.

[55] Binh bộ lang trung, Trực sử quán, Đề cử Lễ Tuyền quan Trần Nhữ Hi làm Tập Hiền điện tu soạn, Tri Phúc Châu. Nhữ Hi vì bệnh chân được miễn, cho phép.

[56] Công bộ lang trung, Trực Long đồ các, Phán tướng tác giám Tạ Cảnh Ôn làm Diêm thiết phó sứ, Cảnh Ôn từ chối, lấy Tri Thương Châu, Công bộ lang trung, Trực Long đồ các Lý Phục Khuê thay.

[57] Chiếu cho các châu huyện bị thiên tai ở Kinh Đông, tuần kiểm, huyện uý không theo chế độ thường mà chọn người có tài võ.

[58] Chiếu: “Cấm quân trong ngoài đã có định ngạch, Tam ty và các lộ tính toán việc xin nhận hàng năm có số thường. Trong đó nếu có khuyết ngạch, chưa chiêu mộ người bổ sung, thì số xin nhận đều phải phong trang, không được dùng vào việc khác. Đến mùa xuân năm sau phải kê khai số lượng lên Xu mật viện.”

[59] Ngày Ất Dậu, chiếu: “Đang mùa xuân, dân gian thiếu lương, giá gạo hơi cao, tạm ngừng tăng giá chiết nạp nợ, đợi đến mùa màng.”

[60] Lại chiếu: “Quân đầu ty không có việc dẫn kiến, không được vào cửa điện. Các quan câu đương không phải là đô tri, áp ban, các môn sứ phó, nếu có việc cần tâu, thì phải làm bảng tâu lên.”

[61] Chiếu cho Tần Phượng, Kinh Nguyên lộ kinh lược an phủ ty thiếu tiền may áo xuân năm sau, cho phép mượn từ tiền phong trang, sau đó sẽ hoàn lại từ số tiền đúc được ở ty đúc tiền thuộc Vĩnh Hưng quân lộ.

[62] Ngày Bính Tuất, Chương Đôn, tri châu Kinh Nam tâu: “Thần thấy chiếu chỉ tra xét các quan lại ở Kinh Nam, Lễ Châu vi phạm pháp luật trong việc cung ứng lương thảo cho Quảng Tây, nói rằng việc mua cỏ không làm thiệt hại đến dân, nay đã có chiếu chỉ bồi thường giá trị. Lại tra xét thấy: Các quan sợ rằng từ nay về sau, khi có việc quân cấp bách, những nhà giàu có gian xảo sẽ không chịu bán, đợi giá cao, quan lại sợ hãi, chỉ tìm cách thoái thác, thì việc sẽ khó thành.” Chiếu chỉ tha bổng.

[63] Chiếu cho Kinh lược ty Huyên Diên lộ, nếu giới Tây xây dựng các đồn trại nhỏ, thì không cần gửi văn thư hỏi; nếu vi phạm lời thề, xây dựng thành trì, thì phải gửi văn thư hỏi và tâu lên chờ chỉ dụ triều đình. Từ nay, các lộ gửi văn thư đến Hựu Châu, ngoài những việc thường lệ, đều theo như thế.

[64] Chiếu miễn số tiền 1.800 quan mà Lý Quân Thăng, trợ giáo ở Vận Châu, còn nợ. Vì Quân Thăng từng xin lập ty thị dịch ở trấn Bản Kiều, Châu Mật, thu được lãi hơn 20 vạn quan, nên xin miễn số nợ cũ để làm phần thưởng.

[65] Ngày Đinh Hợi, Hoắc Tường, viên ngoại lang bộ Gia, người được cử đi xem xét quan trang ở Hi Hà lộ, xin trước tiên khai khẩn ruộng đồn điền dưới thành Hi Châu, xuất 110 khoảnh đất thuê để lập quan trang, cử các quan kinh đương nhiệm, tuyển nhân, sứ thần phụ trách, cùng với cung tiễn thủ quản lý. Được chấp thuận, và lấy Hoắc Tường làm đề điểm hình ngục lộ Tần Phượng, kiêm đề cử quan trang. Sách 《Bản chí》 chép: Phàm những người nói về việc thực biên, ruộng đồn điền là do Triệu Tiết khởi xướng, quan trang là do Hoắc Tường khởi xướng. Ngày 1 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ nhất, Hoắc Tường được thăng chức.

[66] Chiếu cho Lý Sát, quyền phát khiển chuyển vận phán quan sự lộ Kinh Đông Tây, được gia hạn thêm một nhiệm kỳ, hết hạn sẽ bãi chức phát khiển. Sát trước đây từng bị khiển trách, nhưng Viện Thẩm quan cho rằng theo quy định thì nên thăng, nên có chiếu chỉ này.

[67] Ngày Mậu Tý, phong Sung dung họ Hình làm Uyển nghi.

[68] Kinh lược ty Hi Hà lộ tấu: “An phủ ty Đào Đông tâu rằng, Quỷ Chương liên kết với các tộc Khương ở nam bắc xâm phạm thành trại Châu Dân, chiếm cứ thành Thiết, dụ dỗ và uy hiếp các tộc Thanh Đường, ngày đêm gây rối, đã có người theo giặc. Sùng nghi phó sứ, Tri châu Dân Chủng Ngạc cùng Đông đầu cung phụng quan, Tẩu mã thừa thụ Khang Thức bàn bạc, ngày Tân Tỵ tháng 11 đem quân đến trại Hòa Nhĩ Xuyên, hôm sau đến thành Thiết, gặp giặc, chém được 882 thủ cấp, và giết được thủ lĩnh Tông Ca. Ty này xét thấy Quỷ Chương dẫn quân Tông Ca, uy hiếp các tộc Khương thân thuộc, xâm phạm biên giới, nhờ có Bao Thuận, Mã Trung bí mật xin xuất quân, Ngạc, Thức nghe theo lời họ, tướng tá hợp lực, đón đánh giành thắng lợi.” Chiếu thăng Chủng Ngạc làm Dẫn tiến phó sứ, Khang Thức thăng một chức, làm Các môn chi hậu; Hoàng thành sứ Bao Thuận, Mã Trung đều thăng làm Dao quận thứ sử, Thuận làm Thứ sử Khang Châu, Trung làm Thứ sử Đạt Châu, mỗi người được ban ân cho hai con; Sùng nghi phó sứ Triệu Thiệu Trung làm Nội tàng khố phó sứ, Triệu Thuần Trung làm Lục trạch phó sứ, Văn tư phó sứ Ngụy Khánh làm Tả tàng khố phó sứ, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Bao Thành làm Cung bị khố sứ. Những người khác được thăng chức, giảm năm khác nhau. Thức là người Hà Nam.

[69] Chiếu rằng những người được tuyển chọn xét duyệt để đổi làm quan kinh triều, lần đầu nhậm chức phải làm Tri huyện, tuy không bị ràng buộc bởi chế độ thường lệ, nhưng không được tiến cử.

[70] Chiếu cho Chuyển vận ty Hà Bắc, Kinh Đông lộ, những tội cướp đáng chết nhưng được xét giảm án, chưa được xử, phải tâu rõ ràng, đợi khi giặc cướp ít đi sẽ lấy chỉ dụ. Vì giặc cướp phần nhiều do được xét giảm án tử, đày đi quận khác, trốn về quê hương, trả thù những người tố cáo bắt giữ, khiến người ta không dám tố cáo bắt giữ, nên giặc cướp càng nhiều.

[71] Chiếu cho Khách tỉnh sứ, Anh châu Thứ sử, Đạt châu Đoàn luyện sứ Vương Quân Vạn bãi chức Khách tỉnh sứ, làm Dẫn tiến sứ, lĩnh chức Anh châu Thứ sử, vẫn giữ chức Phó Tổng quản Hi Hà lộ; Dân châu Đoàn luyện sứ, Phủng Nhật Thiên Vũ tứ sương Đô chỉ huy sứ, Tri Hi châu Cao Tuân Dụ bãi chức Phủng Nhật Thiên Vũ tứ sương Đô chỉ huy sứ, làm Tri Dĩnh châu[7]; Từ bộ Viên ngoại lang, Tập Hiền Hiệu lý, Tri Hà châu Tiên Vu Sư Trung bãi chức Tập Hiền Hiệu lý, làm Giám Lãng châu Thương thuế; Quyền Phát khiển Tần Phượng lộ Chuyển vận Phó sứ, Đồn điền Lang trung Trương Mục Chi, Thái tử Trung xá, Thông phán Dân châu Hoàng Sát, mỗi người bị truất hai chức, lệnh đình chức; các chức khác được thay thế. Vì phạm tội vi phạm pháp luật trong việc kết địch và hồi dịch công dụng. Ngày 3 tháng 4 năm thứ 9, Thái Xác được cử đi xét án.

[72] Ngày Kỷ Sửu, Hiệu thư lang Trương Thái được thăng làm Điện trung Thừa. Đây là phần thưởng vì công lao bắt giặc.

[73] An phủ ty Thành Đô phủ, Lợi châu lộ tâu: “Mậu châu giáp biên giới với phiên, từ trước đến nay dân chúng bị cấm cất giữ binh khí, khi giặc phiên nổi loạn, không có gì để chống cự, xin nới lỏng lệnh cấm này.” Chiếu cho dân các châu Miên, Hán, Cung, Thục, Bành và quân Vĩnh Khang giáp biên giới với phiên, ngoại trừ binh khí và giáp nỏ bị cấm, được chuẩn bị các loại binh khí khác, nhưng phải đăng ký với quan phủ, không được mang vào khu vực cấm nếu không phải để bắt giặc.

[74] Kinh lược, Chuyển vận, Đề cử ty Hà Đông dâng sớ về việc Nghĩa dũng, Bảo giáp đến Tuần kiểm, Huyện úy theo thứ tự phiên gác thuận tiện. Được chấp thuận.

[75] Ngày Tân Mão, chiếu rằng việc giám sát tu sửa các kho ở kinh thành đã hoàn thành, Đề cử quan Ty phong Viên ngoại lang Lưu Chiêu Viễn, Ty huân Viên ngoại lang Thẩm Hi Nhan mỗi người được giảm hai năm khảo hạch; Thị cấm Trương Vĩnh Đức và những người khác được ban thưởng khác nhau.

[76] Ngày hôm đó, ngày Tân Mão mùng 10. Trên mặt trời có vết đen như quả mận, đến ngày Ất Tỵ thì tan. Ngày Ất Tỵ 24, theo 《Thực lục》 và 《Cựu kỷ》. Đến ngày Ất Tỵ thì tan, 《Tân kỷ》 bỏ đi.

[77] Ngày Quý Tỵ, Hàn lâm Thị độc học sĩ kiêm Bảo văn các học sĩ, Đề cử Sùng Phúc cung Lữ Công Trứ được bổ nhiệm làm Tri châu Hà Dương. Lữ Công Trứ tái nhiệm Sùng Phúc, đến lúc này mới được khởi dụng làm châu.

[78] Ghi chép về hai con trai của Quan Hoài Bảo, người trước đây làm Tuần kiểm huyện Lâm Thanh, Quán Đào thuộc phủ Đại Danh, chức Điện trực, đều được bổ làm Tam ban Sai sứ, ban tên là Thủ Trung và Kế Trung, lại gia tặng phụ tuất, vì Quan Hoài Bảo đã tử trận khi chiến đấu với giặc Vương Thành.

[79] Chiếu ban ruộng hộ tuyệt của huyện Cố Thủy thuộc châu Quang cho Quốc tử giám để cấp dưỡng sinh viên; xây dựng xạ phố ở cửa Tây Thái học, cho phép các sinh viên tập bắn vào ngày nghỉ. Đều theo lời thỉnh cầu của Quản câu Quốc tử giám Hoàng Lý.

[80] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng tiết xuân đã sâu, không còn lạnh giá nhiều, sứ Cao Ly sắp khởi hành, lệnh cho Đô thủy giám đẩy nhanh việc mở cửa sông Biện trong vòng năm đến bảy ngày.

[81] Chiếu rằng tông thất chức Sứ tướng dù đã đủ mười năm, không cần xin chỉ để khảo khóa. Trước đó, Tông Ngạc tự xin khảo khóa, Trung thư kiểm tra điều lệ về tông thất, phàm có thỉnh cầu gì đều phải trình lên Đại tông chính xem xét điều lệ rồi tâu lên. Tông Ngạc đáng bị phạt bổng, chiếu tha tội, và có mệnh lệnh này.

[82] Tháng này, tông thất các chức Đại tướng quân trở lên được khảo khóa thăng chức, tổng cộng 125 người. Số lượng thăng chức, từ cuối tháng chuyển vào. Sách 《Tuyển cử chí》 chép “năm nay”, nay theo 《Thực lục》.

[83] Chiếu cho Lý Hiến, người phụ trách kế hoạch và xử lý biên sự ở các lộ Tần Phượng, Hi Hà, vạch định ranh giới châu Dân.

[84] Ngày Ất Mùi, Phụng lễ lang Lữ Hòa Khanh được bổ làm Quân khí giám Thừa, lại chiếu rằng từ nay Thừa và Chủ bạ trong số viên chức được bổ nhiệm có thể hoán đổi người được chọn.

[85] Hứa Công Tôn, Huyện úy huyện Sa thuộc châu Nam Kiếm, được thăng làm Phụng lễ lang, vì có công bắt giặc.

[86] Quyền Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ tâu: “Trước đây có bề tôi chuyên lo việc lợi, bàn rằng cho phép dân xin khai khẩn đất ở lăng tẩm các đời Vua trước, mà Ty Nông đồng ý. Do đó, các lăng tẩm nhà Đường đều bị phá hoại, nghe nói cây cối ở Chiêu Lăng đã bị chặt phá hết. Lệnh Hi Ninh cấm chặt củi ở lăng tẩm các đời Vua trước, gặp lễ tế giao thì sai quan đến tế, ý tốt ấy thật là xa vời. Kẻ tiểu nhân tham lam, không nghĩ đến đại thể, dù thu được lợi lớn cũng không nên làm, huống chi lợi thu được rất ít ỏi! Xin hạ lệnh cho các nơi liên quan, theo lệ cũ cấm chặt củi và khai khẩn, đồng thời cách chức và trách phạt người đề xuất ý kiến đó.” Chiếu rằng các lăng tẩm nhà Đường, ngoài số đất đã quy định cấm khai khẩn theo điều lệ, những đất dân đã xin khai khân thì cho phép tiếp tục canh tác để làm hộ trông coi lăng, còn lại đều cấm. Ngày 28, Hùng Bản, Lữ Gia Vấn đều bị giáng chức và kéo dài thời gian khảo xét.

[87] Ngự sử Bành Nhữ Lệ tâu: “Trộm nghe ở Kinh Đông, Hà Bắc, giặc cướp không bị ngăn cấm, đến nỗi giữa ban ngày giết người giữa chợ, cướp phá các trấn ấp, bắt trói quan lại, tin đồn lan khắp bốn phương, không phải là điều làm vẻ vang cho triều đình. Gần đây nghe nói Tuần kiểm, Huyện úy được phép bổ nhiệm không theo chế độ thường, nhưng Tuần kiểm, Huyện úy có chức trách bắt giặc, việc chỉ huy thì còn phải chờ. Thần xem thấy ở Kinh Triệu nhà Hán nhiều giặc cướp, Vua dùng Vương Tôn từ chỗ bị bỏ lâu; ở Bột Hải náo loạn, dùng Cung Toại lúc tuổi già. Nếu các quận có được người như Tôn, Toại thì cũng không đến nỗi thế. Ở các châu quận có giặc cướp nổi lên, xin chọn bổ nhiệm quan lại có nhân từ, sáng suốt, mưu lược đến cai quản, nới lỏng kỷ cương, để họ tùy nghi xử trí, đồng thời ban lời dụ tốt lành, đặt ra phần thưởng hậu hĩnh, khiến bọn chúng tự tố giác lẫn nhau, bắt giết nhau, thì bè đảng của chúng dễ tan rã.”

[88] Lại nói: “Từ phương bắc đến, nhiều người đến gặp thần nói rằng, Hà Bắc năm nào cũng mất mùa, dân chúng ly tán đi nhiều; mùa thu năm ngoái hạn hán, qua mùa đông ít mưa tuyết, đến giao mùa xuân hạ, dân chắc chắn sẽ thiếu lương thực. Dân không có ăn, mà quan lại không thương xót, đó là bỏ rơi họ để họ trở thành kẻ cướp. Chỉ có đất Hà Bắc cứng rắn, phong tục thích loạn, giỏi trộm cướp, mười người, trăm người, ngàn người không cần kêu gọi, nay mầm mống đã không thể chặt đứt được rồi. Họa vốn ẩn trong chỗ nhỏ nhặt, mà phát ra từ chỗ người ta không để ý, điều này không thể không cảnh giác. Xin xét tình hình, thương xót, hơi nới lỏng các khoản thuế nợ, để yên ổn hộ dân nghèo, khiến người hiền lành cảm ân, mà không có lòng phản bội, thì kẻ gian ác ít đồng bọn, mà có xu hướng suy yếu dừng lại.”

[89] Chiếu bãi chức Cáp môn chi hậu của Phiền tuần kiểm, Điện trực Lưu Vĩnh Niên. Vì tội không phát hiện Lưu Bột Di thông đồng với người Hạ làm gián điệp.

[90] Ngày Đinh Dậu, chiếu rằng: “Các châu mỗi năm vào tháng mười, sai quan kiểm tra người già, bệnh, nghèo khó không thể tự nuôi sống được, ghi vào sổ, mỗi người mỗi ngày cấp một thăng gạo đậu, trẻ con một nửa. Ba ngày cấp một lần. Bắt đầu từ ngày mùng một tháng mười một, đến hết tháng ba năm sau.”

[91] Chiếu sai một viên nội thần cấp cao quản lý Đồng văn quán, khi Cao Ly vào cống, theo lệ của Đô đình Tây dịch mà sắp xếp. Theo lời thỉnh cầu của quán bạn Cao Ly sứ Tạ Cảnh Ôn và những người khác. Ngày mồng mười tháng tư năm Chính Hòa thứ nhất, có thể tra cứu.

[92] Ngày Kỷ Hợi, Xu mật phó sứ, Lễ bộ Thị lang Vương Thiều được bổ làm Hộ bộ Thị lang, Quan văn điện học sĩ, tri Hồng Châu. Vương Thiều lúc đó vì mẹ già xin ra ngoài, bèn dâng sớ kháng nghị rằng: “Thần trước đây từng bàn việc Quyết Lý và Quảng Nguyên Châu, cho rằng bề tôi lo việc nước, không nên tham hư danh mà quên họa thực, bỏ việc lớn mà chú trọng việc nhỏ. Chấp chính nghi ngờ thần có ý châm chích, đó là lý do tâm ý riêng của thần bị uất ức mà chưa được thỏa. Khi An Nam khởi sự ban đầu, thần đã tranh luận kịch liệt, muốn giảm bớt sức dân và tiết kiệm tài vật rất nhiều. Nhưng chấp chính không chịu nghe theo, mỗi khi nghe thần nói, ắt lấy việc Hi Hà để bác lại. Thực ra, ban đầu chỉ muốn không hao tổn triều đình mà có thể đến Y Ngô Lô Cam, chứ không muốn vội vàng lập Hi Hà làm lộ, Hà Dân làm châu, hao phí lớn mà tự chuốc lấy phiền toái. Thần trước đây nhiều lần tranh luận với Vương An Thạch về việc xét ngục ở Hi Hà, nay lại vì việc Quyết Lý mà bất đồng với chấp chính. Nếu thần không tự xin lui, ngày sau ắt sẽ bị bài xích.”

[93] Lại nói: “Lý Hiến muốn tập hợp sáu vạn quân để tính kế đánh dẹp, thần cho rằng dùng nhiều quân không bằng dùng ít quân. Quân nhiều thì tranh nhau lương thực, quân ít thì tranh với địch. Mong bệ hạ hối hận việc động binh An Nam, rút kinh nghiệm ở Hà Tây.”

[94] Vương Thiều khai phá biên cương, lập công quân sự mà lên đến chức chấp chính, nhưng lại đổ lỗi việc hao binh tốn của cho triều đình, Vua không vui, nên bãi chức ông. Sách 《Đông Hiên Tạp Lục》 của Ngụy Thái chép: Năm Hi Ninh thứ 10, kinh sư hạn hán, Vua rất lo lắng. Xu mật phó sứ Vương Thiều tâu: “Xưa Tang Hoằng Dương vì Hán Vũ Đế thu lợi thiên hạ, lúc ấy Bốc Thức xin nấu Hoằng Dương để cầu mưa. Nay Ty Thị dịch bóc lột dân, gấp mười lần Hoằng Dương, mà gần đây quan lại thi hành sai lầm, nhiều người bị cách chức. Nay đại hạn là do Lữ Gia Vấn đặt ra phép hại người, khiến hòa khí không đến. Thần xin nấu Gia Vấn để tạ thiên hạ, ắt mưa móc sẽ đến.” Việc này cần xét lại. Hạn hán ở kinh sư là việc năm thứ 7, Vương Thiều nói nấu Lữ Gia Vấn thì mưa, cần xét lại.

[95] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ tâu rằng đã sai Kiềm hạt Chủng Cổ đến trại Túc Viễn, tùy nghi xử trí các quan người Thổ Anh Bác và những người khác phạm tội. Chiếu ban thưởng hậu hĩnh để bắt người cầm đầu, còn những người Thổ bị ép theo thì đều tha, kinh lược ty vẫn phải chiêu dụ họ một cách hậu hĩnh.

[96] Xu mật viện tâu: “Những binh sĩ chết vì bệnh ở An Nam, nếu em trai, cháu trai, con cháu còn nhỏ, cấp giấy công để xuất doanh; đợi đến 15 tuổi trở lên, hữu ty xét giấy công hợp lệ thì cấp lương thực.” Được chấp thuận.

[97] Ngày Nhâm Dần, Thị ngự sử Chu Doãn tâu: “Chuyển vận phó sứ Kinh Hồ Nam lộ Chu Sơ Bình cùng Phán quan Triệu Dương đem quân đến nơi ở của Dương Quang Tiếm xây thành trại, người Man không nghe, giết hại quân quan, vây Sơ Bình và những người khác khoảng ba ngày mới được trở về, làm nhục ngoại di. Xin trước hết bãi chức giám ty của Sơ Bình, cử quan đi xét xử, nếu hư vọng sinh sự thì trừng phạt nặng.” Chiếu đợi khi Nội cung phụng quan Trương Hoài Đức đi sứ về sẽ lấy chỉ. Sau đó, Sơ Bình tâu: “Vì đi tuần phủ, ngủ lại nhà Dương Thịnh Chiếu, mấy trăm người Man nghi ngờ kéo đến đầy đường, xin tha tội. Sau đó đã tạm thời ổn định, trở về trại Vũ Dương rồi.”

[98] Chiếu cho các binh sĩ người Thổ và người Hán ở Phu Diên lộ cùng những người được mộ từ An Nam trở về đều được dẫn kiến để ban ơn.

[99] Chiếu cho các chức Tri châu, Thông phán, Thiêm thư phán quan, Kiềm hạt, Đô giám, Giám áp ở Quảng Nguyên đều được thăng một chức, đợi đến một năm lại thăng một chức, khi mãn nhiệm thì thăng một bậc. Các chức Mạc chức quan, Lục sự tham quân, Phán, Ty, Bạ, Úy, Tri huyện, khi mãn nhiệm đều được ban ơn. Hộ tào kiêm lý pháp, dùng các chức Văn học, Trưởng sử sung vào, khi mãn nhiệm thì cho làm Lệnh lục, ưu đãi về lương bổng, lại cấp thêm giấy dịch. Vì thu phục Quảng Nguyên, Cơ Lang, lập quận huyện, người ta ngại đi nên làm như vậy.

[100] Chiếu cho các chức Chuyển vận sứ, Phó sứ, Phán quan ở Vĩnh Hưng, Tần Phượng đều kiêm chức Đề cử ngân đồng khanh dã chú tiền, còn các chức Đề điểm hình ngục ty thì không kiêm lĩnh nữa.

[101] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình phân tích, đã gửi văn thư cho Kinh lược sứ Phu Diên lộ chỉ huy Bảo An quân chuyển văn thư đến Hựu Châu, hỏi về nguyên nhân xây dựng thành trại. Bản ty gần đây do thám được biên giới phía tây muốn ở Gia Mộc, Vĩnh Tông tập trung nhiều gỗ để xây dựng thành trại, vì nơi này cách biên giới của bản lộ rất gần, lo rằng Hạ chủ còn nhỏ tuổi không biết rõ điều khoản trong thệ chiếu, lâu ngày sẽ gây ra mối lo nơi biên giới, nên không kịp tâu xin chỉ dụ triều đình. Việc phân tích là có thật.” Vâng chỉ, Phạm Thuần Nhân được đặc xá tội. Việc này căn cứ theo sách 《Thời chính ký》 của Viện Mật viện ngày 11, nay thêm vào.

[102] Ngày Giáp Thìn, Thị ngự sử tri tạp sự Thái Xác tâu: “Ở Kinh Đông, Hà Bắc bọn giặc cướp tập hợp, đã lâu chưa dẹp yên, xin triều đình chọn quan chia nhau đến các lộ, kiểm tra việc bắt giặc.” Theo lời tâu, giao cho các quan đề cử kiểm tra.

[103] Cựu huyện lệnh Lâm Kinh, Nguyên Châu là Trương Duy bị tước chức, đưa đến Khang Châu quản thúc; Y học Hàn lâm là Triệu Hoán bị cách chức; Tây thượng các môn sứ, Tri quân Trấn Nhung là Trương Thủ Ước cùng chín người khác đều bị giáng một cấp. Do Trương Duy nhận hối lộ của Triệu Hoán, cho vay tiền bạc của quan với người khác, và Trương Thủ Ước cùng những người khác xin Trương Duy cho vay trái phép, tuy đã được ân xá, nhưng vẫn có lệnh này. Tháng 4 năm thứ 9, Thái Xác được cử đi xét án.

[104] Chiếu cho Ty chuyển vận Hà Đông, những nơi thiếu quan trọng yếu ở các trại và tuần kiểm trong lộ, cho phép chọn các sứ thần có tài võ và tâm lực tạm quản lý.

[105] Ngày Ất Tỵ, chiếu rằng từ nay Tri châu Kiền Châu không kiêm chức An phủ, Kiềm hạt, vẫn theo lệ cũ để Tri châu Hồng Châu kiêm lĩnh.

[106] Ngày Bính Ngọ, Tể tướng Ngô Sung cùng các quan dâng biểu chúc mừng việc bình định An Nam.

[107] Ban bố đại xá cho các châu quân thuộc Quảng Nam Tây Lộ, tha tội cho các quan lại, dân phu vận chuyển quan vật, nếu có trì hoãn, trốn tránh làm lỡ thời cơ quân sự, thì tâu lên xin xét xử, còn các tội khác đều được tha. Bãi bỏ chức An Nam đạo Kinh lược Chiêu thảo Đô tổng quản và ty Tuyên phủ Kinh Hồ Nam Lộ. Quân mã trong hành dinh, trừ số lượng để lại phòng thủ, còn lại đều cho về. Các hộ phường, thôn xã trong lộ bị giặc cướp, cùng những người trốn giặc mất việc làm, và gia đình thổ đinh bị giết, nếu năm trước đã được miễn thuế thì tiếp tục miễn, năm nay nếu đã miễn hai khoản thuế và tiền dịch thì tiếp tục miễn thêm hai khoản nữa. Những gia đình bị giặc giết hại, nếu còn người sống sót, cô độc nghèo khó không tự nuôi được, thì các châu quân nơi đó mỗi ngày cấp gạo: từ 15 tuổi trở lên một thăng rưỡi, dưới 15 tuổi một thăng, dưới 5 tuổi nửa thăng, đến 20 tuổi thì thôi. Những người ứng mộ làm cung tiễn thủ, dân binh, nghĩa dũng, thổ đinh hiệu dụng trong quân đội, nếu trước ngày nay còn nợ nần gì đều được xóa bỏ.

[108] Lấy châu Quảng Nguyên làm châu Thuận. Sách 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Bính Ngọ, Quách Quỳ đánh bại quân Giao Chỉ ở sông Phú Lương, đóng quân chần chừ không tiến, Lý Càn Đức dâng biểu xin hàng, khôi phục châu Quảng Nguyên. Tha tội cho tù nhân ở lộ Hồ Nam một bậc, tội đồ trở xuống được tha. Dân phải đi phục dịch chinh chiến được ưu đãi. Sách 《Tân kỷ》 chép: Vì khôi phục được các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, quần thần dâng biểu chúc mừng, tha tội cho tù nhân ở Quảng Tây một bậc, tội đồ trở xuống được tha. Ban thưởng tiền cho các quân trong hành dinh, gia đình dân chết vì phục dịch chinh chiến được ưu đãi, lấy châu Quảng Nguyên làm châu Thuận, tha tội cho Càn Đức, cho phép tiếp tục triều cống như cũ. Nên theo sách 《Tân kỷ》.

Sách 《Hà Nam Trình thị di thư》 chép, Tô Duyễn nói: Trình Chính Thúc bàn việc An Nam: “Ban đầu ở biên giới không ra lệnh cho các nơi gần đó tập hợp quân ứng cứu khẩn cấp, lúc đó tuy tướng sĩ binh lính phải vượt qua nắng nóng lam chướng, triều đình vì lo cho dân chúng, cũng không tiếc gì. Lúc đó không cứu ứng, để cho quân địch tự do tàn sát đến hàng vạn người. Nay đã muộn, lại không đợi đến mùa thu mát mẻ, suốt mùa đông thẳng tiến đánh giặc, cũng có thể dùng lương thực tích trữ ở phía bắc dãy núi chuyển vận sang phía nam. Nay lại đúng vào tháng bảy vượt núi, vì lam chướng mà chết tự nhiên đến mấy phần, qua biên giới lại thiếu lương thực. Tiến sâu vào sào huyệt giặc, dùng bè đưa năm trăm người qua sông, vừa chém vừa đốt, phá được mấy lớp trại tre nhưng không chiếm được. Lại chèo bè không quay về, tiếp tục đưa quân cứu viện, bị quân giặc hợp lại bắt giết, quân ta không được cứu, hoặc chết hoặc chạy, nên không thành công, chỉ cách nhau hai mươi lăm dặm. Muốn tiến đánh lần nữa, lại không có thuyền để qua sông, không có lương thực để phòng thủ, sự tính toán sai lầm chưa từng có. May mà lời lẽ của giặc có phần thuận, nên mới có thể nhận lời thỏa thuận, nếu lời lẽ của chúng vẫn chưa thuận, thì xử trí thế nào? Người vận chuyển lương thực chết tám vạn, quân chiến đấu chết vì lam chướng mười một vạn, còn lại hai vạn tám nghìn người sống sót trở về, phần nhiều đều bị bệnh, lại bị giặc giết chết mấy vạn người trước đó, tổng cộng không dưới ba mươi vạn người, sự mê muội thiếu mưu lược đến mức như vậy.” Đoạn này có chữ sai, tạm chú thích ở đây, nên khảo cứu kỹ, có thể bổ sung sửa chữa. Ban chiếu cho Lý Càn Đức, cho phép tiếp tục triều cống như cũ, trả lại dân số bị cướp ở đất tỉnh.

[109] Trong trận này, Vua phê lệnh cho Trung thư, Xu mật viện báo cáo số lượng binh mã trong doanh trại, gồm 49.506 binh lính, 4.690 ngựa, trừ những người chết vì bệnh và tai nạn, hiện còn 23.400 người, 3.174 ngựa.

[110] Quách Quỳ, Đô tổng quản Mã bộ quân đạo An Nam, Kinh lược Chiêu thảo sứ, Tuyên huy Nam viện sứ, được bổ nhiệm làm Phán đàm châu. Phó sứ, Thiên chương các Đãi chế Triệu Tiết làm Tri quế châu. Khởi cư Xá nhân, Tri đàm châu Tăng Bố được bổ nhiệm làm Học sĩ Tập hiền viện, Tri quảng châu. Trực Chiêu văn quán, Tri quế châu Thạch Giám làm Tri ung châu.

[111] Chiếu chỉ các lộ Hà Bắc, Hà Đông không được dùng đồng và lô cam thạch để mua bán, thông qua biên giới phiên.

[112] Lại có chiếu chỉ từ nay các châu Thành Đô phủ, Tử, Lợi, Quỳ châu lộ, Tri châu, Thông phán không được cùng bổ nhiệm người Xuyên Hạp.

[113] Ngày Mậu Thân, chiếu chỉ bổ nhiệm Thông phán Lễ châu, Tỷ bộ Lang trương Trương Thục làm Thiêm phán quan tại nơi nhỏ. Do Thẩm quan viện tâu rằng Thục là người tầm thường, kém cỏi.

[114] Chiếu chỉ: “Từ nay các cơ quan Tỉnh, Tự khi xét xử các công việc của các huyện, trấn trong phủ giới, phải thông báo cho Khai phong phủ hoặc các ty Đề điểm, Đề cử thi hành. Các quan phủ giới nếu được các cơ quan Tỉnh, Tự mời vào kinh hoặc có công việc cần xin chỉ thị, trước tiên phải trình lên Trung thư, chờ chỉ huy, và không được ở kinh quá 10 ngày.”

[115] Tam ty tâu: “Vâng chiếu cùng chế trí giải diêm sứ Bì Công Bật bàn bạc kỹ về những lợi hại của phép dùng giấy muối ở Thiểm Tây mà trong và ngoài triều đã bàn. Đó là chiếu ngày 11 tháng 11 năm ngoái. 《Hội yếu》 chép chiếu này nhưng không có phần lợi hại, còn 《Trung thư thời chính ký》 chép chiếu cùng phần lợi hại rất chi tiết, nay chỉ căn cứ vào 《Thực lục》.

Tệ hại của phép muối là do giấy muối ở Hi Hà vượt định ngạch; giấy muối vượt định ngạch nên giá giấy hạ; giá giấy hạ nên giá lương thảo cao. Lại thêm ba lộ Đông, Tây, Nam ở các châu huyện thông thương đều độc quyền bán muối quan, nên thương nhân không buôn bán. Như thế, phép muối không thể không đổi, việc bán muối quan không thể không bãi. Nay muốn sửa đổi tệ hại trước, trước hết phải thu hồi giấy muối cũ, đóng dấu lên muối cũ, thi hành phép đóng thêm tiền. Sau đó kể từ ngày thay đổi phép, thu hết giấy muối cũ vào quan, những muối đã lĩnh ra, ấn định hạn cho người tự khai, theo giá mới đóng thêm tiền, đóng dấu lên chiếu muối, cấp giấy chứng nhận.

Nay liệt kê những việc thi hành[8]: Phép cũ ở Đông Nam: giấy muối một chiếu, không quá 3.500; giấy muối Tây một chiếu, không quá 2.500, thu hết vào quan, trước hết cho thương nhân mang giấy đến Giải châu Giác diêm viện và trường muốn đối chiếu, khắc dấu, mới được bán. Muối đã lĩnh ra, ấn định hạn thưởng khai báo. Cho phép thương nhân tự khai. Muối Đông Nam một chiếu đóng thêm 2.500; muối Tây một chiếu đóng thêm 3.000, đổi lấy giấy chứng nhận, ấn định hạn bán. Bãi bỏ việc độc quyền bán muối quan ở hai nơi, muối do ty Đề cử bán, đều theo giá thương nhân đóng thêm để mua giấy muối cũ, lấy ý nguyện của thương nhân để tính toán.

Xin Bộ Hạ ban xuống mẫu ấn gỗ khắc triện thư trên chiếu muối, giao các châu quân chế tạo, giao cho quan được sai kiểm tra dấu ấn, cấp giấy mới. Ở các địa phương thông thương thuộc Kinh Tây Nam Bắc, Tần Phượng Hà Đông lộ, giới Khai Phong phủ tại kinh, mỗi nơi cử một viên quan. Muối nguyên chiếu, trong vòng 10 ngày phải qua quan tự khai, đóng dấu, đóng thêm tiền; giao quan được sai kiểm tra số lượng, dùng dấu hiệu, hủy giấy cũ, cấp giấy mới. Tiền đóng thêm cho phép dùng vật thế chấp. Nếu thương nhân muốn dùng giấy muối cũ theo giá ước định để chiết khấu tiền đóng thêm muối thì cho phép, tùy tiện nộp ở nơi nào cũng được, xong thì niêm phong gửi ty Chế trí.

Nếu muối tư giảm bớt, muối quan tự nhiên lưu thông. Dân gian đã lĩnh muối hai lộ ước 35 vạn chiếu, đợi dân gian tiêu thụ hết, ước phải một năm. Lo biên giới chưa thu được tiền muối theo phép mới, lương thảo thiếu, xin tạm mượn số thóc gạo thiếu nợ năm ngoái tính theo giá vật để sung quân lương, đợi thu được tiền muối sẽ hoàn trả đủ. Các châu, quân, huyện, trấn thông thương, cuối năm giao ty Chuyển vận, Đề điểm, căn cứ số hộ dân nhiều ít như nhau, lấy số giấy muối thương nhân nộp và bán làm chuẩn[9], so sánh tăng giảm, theo biên sắc các lộ Giang, Hoài bán muối rượu, so sánh thưởng phạt.”

Chiếu trừ việc bán muối quan ở địa phận ty Đề cử xuất mại giải diêm đã có chỉ riêng, và muối ty Thị dịch đã mua, cũng theo lệ thương nhân đóng thêm tiền. Còn lại theo như đã định. Phàm các châu quân thông thương, ở Kinh Tây là muối Nam, ở Thiểm Tây là muối Tây. Nếu là đất cấm muối thì là muối Đông[10], chi tiết xem tháng 10 năm Thiên Thánh thứ 8. 《Tư mã ký văn》 chép lời Bì Công Bật “bán muối quan không có lợi”, ở đây nói “việc bán muối quan không thể không bãi”, nên sửa lại sự việc. Nhưng chiếu nói “địa phận bán muối quan, có chỉ riêng”, thì việc bán muối quan không bãi hẳn. Chỉ ngày 16 tháng 3, chính là chỉ riêng đó, ký lại sai lầm, chú rõ ngày 18 tháng 4 nhuận năm thứ 8. Ngự sử hặc tội giấy muối vượt ngạch, vào ngày 6 tháng 2 năm thứ 9.

[116] Thẩm Quát tự chép rằng: Trước đây, lợi nhuận từ muối ở Thiểm Tây đã mất đi hơn một nửa, nhưng chưa có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này. Quát chỉ ra bốn nguyên nhân gây hại cho muối: Thứ nhất, dân chúng đủ dùng muối, mỗi năm chỉ cần khoảng ba mươi lăm vạn bao, tương đương hai trăm mười vạn quan tiền. Tuy nhiên, lúc đó lại phát hành tới ba trăm năm mươi vạn quan tiền giấy, trong khi chi phí cho muối là cố định, còn việc phát hành tiền giấy thì không có giới hạn, khiến giá trị tiền giấy bị giảm sút. Ngoài số tiền thực tế sử dụng, có thể tăng thêm hai mươi vạn quan để phòng ngừa thiên tai hỏa hoạn. Nếu lấy hai trăm vạn quan làm mức cố định hàng năm, không tăng thêm, thì giá trị tiền giấy sẽ ổn định.

Thứ hai, muối từ các ao muối trước đây được chia làm hai khu vực Đông và Tây, muối Tây bán thấp hơn muối Đông một ngàn quan mỗi bao, nhằm cạnh tranh với muối lậu từ ngoài biên giới, nhưng cuối cùng vẫn không ngăn chặn được, mà chỉ làm giảm giá muối Tây, gây thiệt hại cho lợi nhuận muối Đông. Muối Tây ngày càng chảy sang khu vực Đông, còn muối Đông thì càng khó bán, quan lại biên giới không thể ngăn cấm. Quát đề nghị hợp nhất giá muối Đông và Tây thành một, đồng thời giảm bớt hàng trăm quan lại và binh lính canh giữ biên giới.

Thứ ba, việc phát hành tiền giấy giao cho Ty Giải Diêm, nhưng các cơ quan ngoại vi thường nắm quyền điều chỉnh tăng giảm, không tính đến tình hình của Tam Ty, khiến tiền giấy mất giá, rồi lại phải dùng tiền từ Độ Chi để thu hồi tiền giấy ứ đọng, khiến kho bạc trung ương ngày càng trống rỗng, trong khi lượng muối xuất ra hàng năm lại tăng lên. Quát đề nghị các cơ quan ngoại vi chỉ tập trung vào việc thu chi, còn quyền phát hành tiền giấy phải thuộc về Tam Ty.

Thứ tư, quy định các cơ quan bán muối phải áp dụng chung một mức giá, không được tăng giảm tùy tiện để chiếm lợi của thương nhân, nhờ đó lượng muối bán ra hàng năm sẽ ổn định, việc tích trữ tiền giấy sẽ không có vấn đề, và tiền ứ đọng trong dân sẽ được thu hồi. Mặc dù biện pháp đã được thiết lập, nhưng chưa có cách nào để thu hồi tiền giấy trong dân, nên đã đóng cửa ao muối, ngừng xuất muối, và dùng giá thị trường để thu hồi tiền giấy cũ, vay hơn tám mươi vạn quan từ Thiếu Phủ để thu hồi tiền giấy ứ đọng, nhờ đó toàn bộ tiền giấy của công và tư đều được thu hồi. Lúc đó, tiền giấy đổi được hai ngàn năm trăm quan, nhưng sau khi thu hồi tiền giấy ứ đọng, giá trị tăng lên sáu ngàn quan, mỗi bao muối có lãi ba ngàn năm trăm quan, người tích trữ tiền giấy được lợi lớn.

Sau đó, phái năm sứ giả đi kiểm kê muối của công và tư, mỗi bao muối nộp ba ngàn quan, rồi mới được bán cho dân[11], thu được lãi năm trăm quan, việc thu hồi tiền giấy không mất một đồng nào, và lợi nhuận từ muối được khôi phục. Độ Chi hàng năm mua ba trăm vạn quan lương thực biên giới Hà Bắc, toàn bộ dùng tiền giấy muối Đông Nam, và lợi nhuận từ tiền giấy thu được hàng ngày của Giác Hóa Vụ là một vạn quan, nhưng lúc đó chỉ thu được hơn một ngàn quan. Quát cho rằng nguyên nhân là do pháp luật có nhiều kẽ hở, các cơ quan như Tỉnh, Tự thường mượn tiền giấy muối để ngầm mua bán hàng hóa, cho vay lấy lãi, tự ý định giá cao thấp. Dân chúng đổ xô theo lợi nhuận trước mắt, khiến giá trị tiền giấy của Độ Chi ngày càng giảm.

Các Ty Chuyển Vận ở các đạo được dùng giấy tờ ruộng đất, nhà cửa để thế chấp lấy muối, người ta không cần bỏ ra một đồng nào, chỉ cần giơ tay là lấy được muối trị giá hàng vạn quan, há còn cần dựa vào tiền giấy của Độ Chi? Hơn nữa, các nơi gửi tiền lên Thái Phủ để chiêu mộ dân đóng góp, Thái Phủ cầm giấy tờ để nhận tiền từ các châu bên ngoài, nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển. Việc này tuy có lợi, nhưng không biết rằng dân chúng thích ứng mộ, còn tiền giấy muối thì không bán được. Muối vốn là nguồn sinh lợi, lợi nhuận từ biển là vô tận, nhưng không bán được thì thành ra đất cát[12]. Tiền tuy chưa vào Thái Phủ, nhưng vẫn nằm ở các châu bên ngoài, thực chất vẫn còn đó. Chỉ tốn chi phí vận chuyển mà thôi.

Đóng cửa con đường tiền mặt, chỉ chuyên bán muối để kiếm lợi, không biết rằng dân chúng dùng muối có mức độ, còn tiền giấy thì ngày càng lan rộng, khiến tệ nạn chiết khấu ở Thiểm Tây lại chuyển sang Đông Nam. Hai biện pháp này muốn cân bằng nhau, nên lấy việc bán muối làm trọng tâm, dùng tiền mặt để điều tiết thừa thiếu, không thể chỉ dùng một biện pháp. Ba kẽ hở đã được bịt kín, và lợi nhuận một vạn quan từ Giác Hóa Vụ đã được khôi phục trong chưa đầy một tháng. Quát tự chép về việc thiết lập pháp lệnh tiền giấy muối Giải, chính là sự kiện được ghi trong 《Thực Lục》 vào ngày 27 tháng 2 năm thứ 10. Tuy nhiên, 《Thực Lục》 ghi chép đầy đủ văn bản quan lại, còn chép của Quát thì trau chuốt hơn. Ba mươi vạn bao tức là ba mươi lăm vạn tịch. Bốn nguyên nhân, trong đó nguyên nhân thứ ba, được 《Thực Lục》 ghi lại vào ngày Bính Thìn tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 2.

Theo: Việc bãi chức Thẩm Quát làm Tam ty sứ vào ngày mồng 9 tháng 7 năm Hi Ninh thứ 10. Khi Quát làm Tam ty sứ, lẽ ra phải thực hiện ngay ý kiến của mình, không rõ vì sao sách thực lục lại chép việc này sau khi Quát bị bãi chức Tam ty sứ một năm. Sách 《Thực hóa》 quyển 5 chép: Năm thứ 10, Tam ty tâu: “Phép bán muối có tệ hại là do số lượng muối bán ra ở Hi Hà vượt mức, nên giá muối rẻ mà giá cỏ lương thực đắt. Lại thêm ba vùng Đông, Tây, Nam đều bán muối quan ở các quận ấp thông thương[13], nên thương nhân không buôn bán. Nay phép bán muối cần thay đổi, việc bán muối quan nên bãi bỏ, xin trước hết thu lại các giấy muối cũ, đóng dấu nhận biết muối cũ, thực hiện phép thu thêm tiền. Quan phủ mua hết giấy muối cũ, số muối đã bán ra, ấn định thời hạn cho thương nhân tự khai báo, theo giá mới tăng thêm, đóng dấu vào tấm muối, cấp giấy chứng nhận. Theo phép cũ ở Đông, Nam, giấy muối mỗi tấm chỉ có 3.500 đồng, giấy muối Tây giảm 1.000 đồng, quan phủ mua hết, trước hết cho trường viện ở Giải Châu kiểm tra giấy muối của thương nhân rồi mới cho bán. Số muối đã nhận, ấn định thời hạn thưởng cáo, cho thương nhân tự trình báo. Muối Đông Nam mỗi tấm thêm 2.500 đồng, muối Tây thêm 3.000 đồng, để đổi giấy cũ, ấn định thời hạn cho bán. Bãi bỏ việc cấm bán muối quan ở hai nơi, Ty đề cử bán muối đều dùng tiền theo giá mới để mua giấy muối cũ, thương nhân nào muốn đối chiếu tính toán xin mua thì cho phép. Quan phủ đóng dấu nhận biết theo phép, các nơi thông thương đều cử một viên quan, muối nguyên tấm hạn trong 10 ngày tự khai báo, rồi cho nộp thêm tiền, đóng dấu nhận biết, cấp giấy mới, cho phép dùng giấy muối cũ để thay tiền nộp thêm.”

Đều thi hành, và quy định riêng địa phương bán muối quan. Chiếu cho Thị dịch ty đã mua muối cũng phải nộp thêm tiền. Việc trên vào ngày 27 tháng 2 năm thứ 10. Tam ty tâu: “Các châu Thiền, Bộc, Tế, Đơn, Tào, Hoài, Nam Kinh, các huyện Dương Vũ, Toan Tảo, Phong Khâu, Khảo Thành, Đông Minh, Bạch Mã, Trường Viên, Tộ Thành, Vi Thành, tuy cho thông thương, nhưng bị muối nơi khác lấn chiếm, hại đến việc buôn bán, xin khôi phục việc bán muối quan cho tiện. Các nơi Hà Dương, Đồng Hoa, Giải Châu, Hà Trung, Thiểm Phủ, Trần Lưu, Ung Khâu, Tương Ấp, Trung Mâu, Quản Thành, Uý Thị, Yển Lăng, Phù Câu, Thái Khang, Hàm Bình, Tân Trịnh, thử cho thông thương, nơi nào thu nhập không bằng bán muối quan thì quan phủ lại tự bán.” Theo lời tâu. Việc trên vào ngày 11 tháng 3. Lại chiếu: “Muối của thương nhân vào kinh, đều bán ở Thị dịch vụ, mỗi tấm không giảm dưới 10 quan, muối của dân đều mua ở Thị dịch, ai tư mua bán với thương nhân, cho phép tố cáo tịch thu muối.” Việc trên vào ngày 12 tháng 4.

Tam ty tâu: “Phép muối của Bì Công Bật, xét số muối chi ra ở hai trì trước sau, xin định mức mỗi năm là 2.300.000 quan tiền.” Việc trên vào ngày 23 tháng 4. Lại chiếu: “Ở kinh sư đặt 7 trường mua giấy muối Đông Nam, Thị dịch vụ nói số tiền là 593.000 quan, Tam ty nói thiếu tiền, trả lại một phần giấy muối, cho bán ở phía Tây. Người mua thì ba phần trả tiền, bảy phần theo giá biên giới cấp giấy mới, để thu lại giấy muối cũ trong dân, mà giấy mới dễ tiêu thụ.” Chiếu dùng lời tâu. Việc trên vào ngày 24 tháng 4. Sách thực lục không chép. Đặt chức Chế trí Giải diêm sứ. Bì Công Bật xin khôi phục phép cũ của Phạm Tường, ổn định giá thị trường. Chiếu cho vay 300.000 quan tiền của Tam ty, mua giấy muối ở kinh sư. Việc trên vào ngày 29 tháng 6.

Vua từng nói với các quan phụ chính: “Trước đây vì Thiểm Tây thiếu tiền chi dùng, cho mua giấy muối ở kinh sư, vốn muốn điều tiết giá muối, chuyển tiền ra biên giới, nhưng bỏ ra 5.000.000 quan tiền cũng không cứu được tệ hại. Triều đình bắt đầu thi hành chính sách, cần thận trọng, việc gì có lợi cho nước thì tạm yên ổn mà giữ lấy.” Việc trên vào ngày 26 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 2.

Trước đây, muối Giải chia làm Đông, Tây, muối Tây bán có phân vùng, lại thêm các châu quân biên giới mua cỏ lương thực cấp quá nhiều giấy muối, nên giấy muối và muối rất rẻ, thương nhân không buôn bán, giá quan tự chia làm hai. Bấy giờ Tam ty và Ty chế trí Giải diêm tâu, giá muối Đông cao Tây thấp, xin cho muối Tây được tự do tăng giá như muối Đông, để ổn định phép giấy muối, mỗi năm có thể tăng thêm 120.000 quan. Nhân đó lại không chia Đông Tây, bãi bỏ hết các quy định về muối Tây. Giấy muối ở trì Giải trước đây định mức là 2.200.000 quan, Chuyển vận sứ Bì Công Bật xin tăng thêm 100.000 quan để giúp việc mua lương thực ở biên giới. Đến đây, lại định là 2.420.000 quan. Tam ty lại tâu, thương nhân đã nhận muối Tây, nên cho nộp thêm tiền, để giá ngang với giá theo phép mới. Cả hai ý kiến đều được thi hành. Việc trên vào ngày 17 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 2.

[117] Chiếu phát 5.000 quân chính quy cùng với ty Kiềm hạt Quảng Nam Tây Lộ, chia nhau phòng thủ. Ghi nhận người quy thuận là Nùng Thiện Mỹ, cháu là Huệ Đàm, bổ làm Tam ban tá chức. Vì Thiện Mỹ cùng con là Thịnh Minh đến Tây Nông Châu chiêu tập dân chúng, bị giặc giết nên có lệnh này.

[118] Chiếu cho các chức Tư nông tự thừa và quan đề cử thường bình thương, đều chọn người từng làm tri huyện, huyện lệnh có thành tích khảo khóa ưu tú.

[119] Các chức Cảnh Phúc điện sứ, Lợi Châu quan sát sứ, Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc; Hoàng thành sứ, Trung Châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Lam Nguyên Chấn; Hoàng thành sứ, Đạt Châu thứ sử, Nhập nội phó đô tri Tô Lợi Thiệp, đều được ban sắc khen thưởng, mỗi người được ban y phục và đai. Vì có công cứu chữa vụ cháy trong cung.

[120] Sở Tường định biên tu chư ty sắc thức dâng lên 12 quyển sắc lệnh, cách thức của các ty, chiếu ban hành. Gồm: Hàn lâm y quan viện 5 quyển, Quảng Thánh cung 1 quyển, Khánh Ninh cung 1 quyển, Đại nội thược thị khố 1 quyển, Tư Thiện đường 1 quyển, Hậu uyển đông môn dược khố 1 quyển, Đề điểm quân khí đẳng khố 1 quyển, Nhập nội nội thị tỉnh sứ thần sai khiển 1 quyển[14]. Việc này căn cứ vào 《Hội yếu》 thêm vào, 《Nghệ văn chí》 cũng ghi tương tự. Là sự việc ngày 27 tháng giêng năm thứ 10.

[121] Ngày Kỷ Dậu, ban đức âm: “Giảm tội cho tù nhân tử hình ở Quảng Nam Đông Lộ, Kinh Hồ Nam Lộ, tội đồ trở xuống được tha. Đối với dân chúng bị sai dịch, thuế má để ứng phó việc quân, ty Chuyển vận phải tâu rõ số lượng vật phẩm vận chuyển, khoảng cách xa gần, cùng số thuế đánh vào từng hộ, sẽ có ưu đãi riêng; những người phụ trách vận chuyển vật phẩm đến Quảng Tây mà có thiếu hụt, hư hỏng, đang bị truy xét bồi thường, nếu không phải do tham ô, đều được miễn.” 《Tân kỷ》 chép việc xá tội ở Quảng Đông[15], Hồ Nam như Quảng Tây Lộ, 《Cựu kỷ》 chỉ chép việc xá tội ở Hồ Nam vào ngày Bính Ngọ, 《Cựu kỷ》 sơ sót.

[122] Cấp sự trung, Tri Trần châu Lữ Huệ Khanh được bổ nhiệm làm Tư chính điện học sĩ, Tri Diên châu. Ngự sử Thái Thừa Hi tâu rằng: “Thần từ tháng tư năm Hi Ninh thứ tám nhậm chức, lúc đó đã nghe nói Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh cùng các anh em đã bố trí khắp triều đình, lập ra bè đảng riêng, những kẻ được họ ưa thích dù không có tài cán gì vẫn được tiến cử, như Tăng Mân, Lý Định, Từ Hi chẳng hạn. Những người họ ghét dù vô tội vẫn bị giáng chức, như Phùng Kinh, Lưu Tải, Thời Hiếu Tôn, Tôn Ngao Biện chẳng hạn. Họ còn bao che cho người thân, kéo theo những người vô tội để chịu tội thay, như người thân của Huệ Khanh là Phương Hi Ích có tội, nhưng lại vu cáo cho Chu Ôn Kỳ, khiến cả hai đều bị phạt tiền. Lại còn sai khiến Chương Đôn dâng tấu tiến cử em mình. Những việc như thế, kể ra không hết được. Thần từng một mình phẫn nộ, ra sức biện bạch, may nhờ bệ hạ minh xét mà cách chức hắn, nhưng vẫn cho giữ chức Cấp sự trung để trấn thủ quận phiên. Huống chi Huệ Khanh từ chức Thái tử trung doãn, chưa đầy bốn năm đã lên đến chức vụ cao trong triều, không nghĩ đến báo đáp, mà lại làm những việc như vậy; lại thường xuyên dùng lời lẽ tầm thường, xúc phạm đến thánh thượng. Tuy nhiên, điều thần muốn nói là tội của Huệ Khanh không phải ở chỗ cưỡng ép vay tiền mua ruộng, mà là ở chỗ làm đại thần mà cậy quyền cậy thế, làm rối loạn pháp chế triều đình. Trước đây ở Tú châu xét án, tình cờ để lọt lưới, nay lại được ban chức điện, giao trọng trách biên cương, thì những kẻ làm ác sau này lấy gì để răn đe?”

[123] Lại nói: “Thần từng bàn về việc Lữ Huệ Khanh ngang ngược phạm pháp, tờ tâu trước đã nói rõ. Nghe đồn có người cho rằng thần nịnh theo ý Vương An Thạch mà đả kích Huệ Khanh. Vả lại, thần vào tháng 4 năm Hi Ninh thứ 8 được ơn sung làm Ngự sử, từ tháng 5, tháng 6 trở đi, liền bàn về anh em hắn. Thần vốn không biết anh em Huệ Khanh lúc nào mất lòng An Thạch, chắc rằng bệ hạ đã từng biết. Nhưng thần và An Thạch bàn luận khác nhau, vốn không giống nhau, như Trầm Khởi, Lý Định, Thẩm Quý Trưởng, Từ Hi đều là những người bệ hạ biết thần không cùng phe với An Thạch. Giả sử thần ham tiến thân vội vàng như lòng dạ Huệ Khanh, thần cũng không đến nỗi nịnh theo ý An Thạch. Nhưng thần trước đây cậy vào việc bệ hạ ắt biết điều này, nên không cần biện bạch. Nay nghe nói Huệ Khanh vừa mãn hạn liền được bổ làm Tư chính điện học sĩ, tri châu Diên, mới biết chiếu chỉ năm trước của bệ hạ, mà tờ tâu trước đây của thần há quên sao? Thần bắt đầu nghi ngờ; lại có người nói: ‘Há chẳng phải lời của Ngự sử trước đây về việc Huệ Khanh cưỡng ép mượn tiền mua ruộng, không liên quan đến Huệ Khanh mà lại có mệnh lệnh này sao?’ Điều này lại càng đáng nghi, vả lại chiếu trách năm trước và tờ tâu của thần đều không nhắc đến việc ở Tú Châu, sao lại lấy đó mà bổ nhiệm?

Vả lại, điều thần nói về Huệ Khanh, chỉ là việc lạm dụng hình phạt và ban thưởng, dựng lập bè đảng, không tuân theo phép tắc, tội của đại thần không gì nặng hơn thế, nên bệ hạ may mắn nghe theo mà trục xuất rõ ràng. Còn việc ở Tú Châu, tuy không phải do thần nói, nhưng sự việc cũng có thể suy đoán được, nay Trương Nhược Tế bị tội chết vì phạm pháp, mà trước đây vì sao lại được tha? Nếu không phải Huệ Khanh thông đồng với quan ngoài thì sao dám làm thế? Thần tạm kể một việc này, đủ biết vụ án chưa xét hết. Nhưng nhiều năm bị giam cầm, chứng cứ bắt bớ nhiều, tình thực không nỡ, đâu dám làm phiền triều đình thêm? Nên thần cũng không nói lại. Thần từng nghe lời vàng, từng hận rằng bề tôi bàn việc không thể như thời Nhân Tông phụng mệnh đức âm, lo sợ run rẩy, ngày đêm nghĩ cách đền đáp, mà lời nói thô thiển, chỉ có việc này, trong ngoài đều vui mừng.

Nhưng thần chưa rời khỏi Hiến phủ, Huệ Khanh đã được thăng chức biên nhiệm, thần e rằng triều trước chưa từng có việc này. Từ nay về sau, những bề tôi giữ nghĩa mang lòng trung, có người vì triều đình đánh đuổi kẻ mạnh gian đảng, xem việc này hoặc cũng có kẻ lười biếng mà lấy thần làm gương. Kính mong bệ hạ đặc biệt xem xét lại, quyết đoán mạnh mẽ, bãi chức vụ của Huệ Khanh, cho hắn đất nhàn, khiến người lương thiện được yên, kẻ gian ác sợ hãi, thiên hạ may mắn lắm thay! Nếu không, xin giải chức Ngự sử của thần, để tránh việc Huệ Khanh tiến thân, đừng để quan lại vì thần mà coi thường chức quan phong hiến.” Không nghe theo.

(Chương tâu trước của Thừa Hi, sách 《Thời chính ký》 chép vào ngày 28 tháng 3, 《Thực lục》 theo đó, bản Chu cho là không thi hành nên xóa đi, nay theo bản Mực vẫn chép vào sau khi Huệ Khanh được bổ làm Tư chính, tri châu Diên.)

[124] Tri Diên Châu, Bảo Văn các đãi chế Lý Thừa Chi làm Kiểm chính Trung thư ngũ phòng công sự. Ngày 24 tháng 12 năm thứ 8, Lý Thừa Chi nhậm chức Tri Diên Châu, Thái Thừa Hi bàn rằng do chấp chính tiến thoái quan vọng, cải canh trát tử rằng: “Năm trước Lý Thừa Chi được sai làm Tri Doanh Châu, ngày 19 tháng 4 nhuận năm thứ 8 nhưng không đi. Bệ hạ từng hận việc tiến cử người quá nhanh, đã được danh vị mà không chịu thi hành. Thần từng nghe trực tiếp lời dạy của bệ hạ, rằng ghét kẻ tiến nhanh mà cứng đầu không đi, lưu luyến chức Kiểm chính ngũ phòng. Có người cho rằng Vương An Thạch ghét việc này, không biết có đúng không? Đã được danh vị mà không thi hành, việc này không chỉ Vương An Thạch ghét, mà cả thiên hạ đều rất ghét. Vương An Thạch nghe xong thôi, mọi người đều truyền rằng Vương An Thạch không đúng, lại đã sai làm Tri Diên Châu[16] nên không cần bàn. Nay nghe lại sai làm Kiểm chính ngũ phòng, việc này khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không thể không nghi ngờ và quan vọng.” Thừa Hi lại bàn hai việc, tạm ghi lại đây, cần xét kỹ bản mạt của Thừa Chi.

[125] Quyền Phát khiển Hộ bộ phó sứ, Độ chi lang trung Vương Khắc Thần làm Tập Hiền điện tu soạn, Tri Vận Châu. Ban đầu, bàn việc chọn người cai trị Kinh Đông, Vua sai Trung thư nhanh chóng chọn một hai người có tài trị loạn để tiến cử. Trung thư nói Vương Khắc Thần cùng Kiển Chu Phụ, Vương Cư Khanh có thể dùng, chiếu dùng Khắc Thần. Sách mới và sách cũ đều chép rằng, đầu năm Nguyên Phong Kinh Đông nhiều trộm cướp, bổ nhiệm Khắc Thần làm tướng Vận, sai lầm vậy. Cuối năm Hi Ninh, Kinh Đông vốn đã nhiều trộm cướp, nay theo thực lục và ngự tập.

[126] Hoàng thành sứ, Khang Châu đoàn luyện sứ, Tri Ung Châu Đào Bật được bổ làm Tây thượng các môn sứ, Tri Thuận Châu. Ban đầu, Quách Quỳ dùng trọng binh áp sát biên giới giặc, sai Đào Bật dẫn quân tinh nhuệ làm hậu quân. Lý Càn Đức đã đầu hàng, Quỳ muốn rút quân, sợ bị giặc tập kích, không báo trước mà nửa đêm cho trung quân rút lui. Quân lính tranh nhau đi trước, giày xéo lẫn nhau. Giặc đóng trại bên kia sông, âm thầm rình rập. Bật ra lệnh cho thuộc hạ không được động, đến sáng mới chỉnh đốn đội ngũ rút lui từ từ. Quỳ đang xây thành Quảng Nguyên, lại sai Bật đến xem xét. Sau khi tâu lên, dùng Bật làm Tri Thuận Châu. Giặc nhiều lần xâm nhập, lại chiếm huyện Cơ Lang, hô hào muốn đánh thành châu. Bật chỉ huy tướng sĩ cố thủ, vốn được lòng người, nên mọi động tĩnh của giặc đều biết. Bắt được gián điệp, nhân đó sai dụ giặc về họa phúc, nếu không sẽ ra quân. Giặc bắt đầu sợ, Thuận Châu được yên.

[127] Chiếu cho Tri chế cáo Hùng Bản, Ty huân viên ngoại lang Lữ Gia Vấn, Đại Lý tự thừa Cao Bác, Tán thiện đại phu Tăng Hiếu Xước, Điện trung thừa Thạch Hoàn, Trứ tác tá lang Đỗ Thường, Trương Cận đều bị kéo dài thời gian khảo xét một năm. Thái thường tự thừa, Tập hiền điện tu soạn Trương Hổ, Bí thư thừa Trang Công Nhạc đều bị kéo dài hai năm; Thái tử trung doãn Vương Phụ Chi, Tiền phán Tư nông tự Trương Ngạc, đợi khi được bổ dụng, sẽ kéo dài thời gian khảo xét ba năm; Tuyển nhân Hoàng Thực, Diêm Lệnh, Sử Mạc, đợi khi thăng chuyển làm kinh quan, đều bị kéo dài một năm. Tất cả đều vì tội xin bán đất miếu.

[128] Hữu chánh ngôn, Bảo Văn các đãi chế, quyền phán Tây Kinh lưu ty Ngự sử đài là Thường Trật mất. Chiếu rằng: “Trật lâu nay có đức hạnh tốt, được khen ngợi ở quê nhà. Triều đình đặc cách bổ nhiệm, đặt vào hàng thị tòng, mà ông vẫn giữ mình thanh tĩnh, không thay đổi phẩm hạnh. Nên ban tặng hậu để khuyến khích người liêm chính. Tặng chức Hữu gián nghị đại phu, ban 300 tấm lụa.”

Trật từng là một ẩn sĩ, khi vào triều đình thì làm việc tầm thường, không có gì nổi bật, danh tiếng ngày càng suy giảm, bị người đời chê cười. Sách 《Quyển du lục》 của Trương Sư Chính chép nhiều việc về Trật, và nói rằng Trật tự tử bằng cách thắt cổ. Vương Đắc Thần trong 《Chủ sử》 từng biện luận rằng không phải như vậy, nay không theo. Sách 《Đông hiên lục》 của Ngụy Thái chép: Thường Trật từ ẩn sĩ được bổ làm Hữu chánh ngôn, trực tập hiền viện, phán Quốc tử giám. Chưa đầy một năm làm đãi chế Bảo Văn các, kiêm phán Thái thường tự, trong thời gian đó xin nghỉ về quê ở Nhữ Âm, Vua đặc cách ban chiếu triệu về. Việc hai chế ban chiếu bắt đầu từ Trật.

Khi thi tiến sĩ, bảng vàng đề tên Từ Đạc, Trật bí mật ghi tên những thái học sinh có hành vi kém vào sổ, giấu trong tay áo, mỗi khi xướng danh, nếu có tên trong sổ thì chỉ ra và tâu lên xin đánh trượt, làm như vậy ba bốn lần. Vua đang xem xét quyển thi, hoặc nói chuyện với các quan chấp chính, thường không để ý lời Trật, Trật cảm thấy bị ngăn trở, bèn xin nghỉ không vào triều. Một hôm, Hàn lâm học sĩ Dương Hội đang ngồi trong cung, bỗng có người báo lại nhân Thái thường tự đến viện, Hội trước kia từng phán tự, liền cho gọi vào, là lại cũ, hỏi lý do đến, thì nói rằng Thường đãi chế xin nghỉ hơn một tháng, chưa có chiếu triệu về, sai đến dò tin tức. Dương nói: “Đây là cung cấm, ngươi dám vào sao? Nếu ta bắt ngươi giao cho lại quan, thì sẽ liên lụy đến đãi chế, ngươi hãy mau ra khỏi đây để tránh họa.”

Trước đó, khi Trật chưa xin nghỉ, Vua sai ông lo việc tang lễ của Hướng Kinh. Đến lúc tang lễ Kinh đủ trăm ngày, Vua thân hành tế lễ, quan hộ tang theo lệ phải đón giá, Trật không đợi vào triều, mà ra đón giá ở cửa nhà Kinh. Vua tế xong, lên xe đi, cũng không để ý đến Trật, Trật càng thêm bất mãn. Có người tố cáo việc Trật không vào triều mà ra làm việc, lại từng dò xét trong cung, các quan ngự sử muốn tâu lên. Trật rất sợ, bèn xin về Nhữ Âm vì bệnh. Sau đó mất. Có người nói lúc sắp mất, Trật cuồng loạn như người mắc bệnh tâm thần muốn tự sát, nhưng chưa rõ chi tiết.

Lời Ngụy Thái nói về việc Trật cuồng loạn muốn tự sát, giống với ghi chép của Trương Sư Chính, muốn ghi lại[17]. Việc Trật ghi tên những thái học sinh có hành vi kém, cần xem xét thêm. 《Dã sử》 của Lâm Hi chép rất chi tiết về cuộc đời Trật, đã chú thích vào ngày Giáp Tuất tháng 4 năm thứ 4. Hi còn nói: Trật mắc bệnh tâm thần hơn một tháng, nhiều lần đòi dao, người nhà canh giữ, cuối cùng tự đâm chết. Ghi chép này giống với Trương Sư Chính, cần xem xét thêm. Người có hành vi kém đó là Tào Tướng Mỹ. Những gì Hi chép, nay phụ chú ở đây.

Hi nói: Tháng 3 năm thứ 9, Vua ngự ở điện Tập Anh xướng danh tiến sĩ, các khoa, quan quán chức, hiệu thư đều vào điện đứng hầu. Lệ này đã bỏ lâu, Trương Sô xin khôi phục. Vua thân xem quyển thi, lâu. Mở quyển xướng danh Từ Đạc, Vương Nhiệm, đến thứ ba là Tiền Duật, trước ban cho người thứ năm đỗ, để trống thứ ba và thứ tư, thăng Trần Sư Tích, Trương Dật lên thay. Lý Cách Phi từ giáp thứ tư thăng lên cuối giáp thứ nhất, hai con của Đặng Oản là Tuân Vũ thăng giáp thứ hai, Tuân Nhân thăng giáp thứ tư. Tào Tướng Mỹ từng bị đuổi khỏi trường, khi xướng danh, Thường Trật bước ra tâu việc này, bị giáng xuống cuối giáp. Xướng danh tiến sĩ, các khoa, đặc tấu danh, khảo đồng Ngũ kinh, Tam lễ, học cứu, giám bạ, văn học, trưởng sử sáu hạng. Trương Kiệt ở Bộc Châu, 93 tuổi, chống gậy đến, Vua đặc cách ban 50 tấm lụa. Người đỗ võ cử, hạng nhất được làm điện trực, hạng nhì được phụng chức, lại giảm tuổi, hạng dưới được sai sứ, đều ban áo tía, hốt ngà, đai bạc, đây là lệ mới.


  1. Bắc Lộ những năm gần đây bãi bỏ quân Kinh Môn, đổi thành huyện Trường Lâm. 'Niên' nguyên bản là 'ngôn', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. Xét: Năm Hi Ninh thứ 6 bãi bỏ quân Kinh Môn, đổi thành huyện Trường Lâm, xem 《Tống sử》 quyển 88, phần Địa lý chí, và 《Tống hội yếu》 phần Phương vực 6, mục 37.
  2. Chữ 'Thạch' nguyên bản là 'Cổ', căn cứ theo bản trong các kho và văn bản dưới sửa lại.
  3. Chữ 'Dĩnh' trong 'Lâm Dĩnh huyện' nguyên bản viết là 'Dĩnh'. Xét: Thời Tống không có huyện 'Lâm Dĩnh', phủ Dĩnh Xương có huyện Lâm Dĩnh, xem 《Tống sử》 quyển 85, 《Địa lý chí》, theo đó sửa lại.
  4. 'Lệnh tái nhiệm', chữ 'lệnh' nguyên bản là 'kim', theo bản trong các kho sách sửa lại
  5. chữ 'Chu' ở đây khó hiểu, nghi là chữ 'Vấn' viết nhầm.
  6. Vì đi sứ đến Trác Châu, Nam Cao, sắp xếp chỗ ngồi không đúng, chữ 'Cao' ở đây khó hiểu, căn cứ vào câu dưới 'Nhân giả bệnh không đến đình phía Bắc tiễn đưa', nghi là chữ 'Đình' viết nhầm.
  7. Dĩnh châu, chữ 'Dĩnh' nguyên bản viết là 'Dĩnh'. Xét: Nhà Tống không có 'Dĩnh châu', Kinh Tây Bắc lộ có Dĩnh châu, xem 《Tống sử》 quyển 85, 《Địa lý chí》, theo đó sửa lại.
  8. 'Kim' trong 'Kim điều cụ sở thi hành sự' nguyên là 'lệnh', căn cứ 《Tống hội yếu》 Thực hóa 24-13 sửa.
  9. 'Trú' trong 'tướng chước nạp thương nhân trú mại diêm dẫn đa thiểu vi chuẩn' nguyên là 'chú', căn cứ sách trên sửa.
  10. 'Đông' trong 'nhược cấm diêm địa tắc vi đông diêm' nguyên là 'thái', căn cứ quyển 109 ngày Nhâm Thìn tháng 10 năm Thiên Thánh thứ 8 và 《Tống sử》 quyển 181 Chí Thực hóa sửa.
  11. 'Bán' nguyên văn là 'cho vay', theo bản in hoạt tự sửa lại.
  12. 'Đất cát' nguyên văn là 'hư hỏng', theo các bản sửa lại.
  13. Chữ 'giác' trong 'giác mại quan diêm' nguyên bản viết là 'Duy', căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 181, 《Thực hóa chí》 và 《Tống hội yếu》 quyển 24, mục 13 sửa lại.
  14. Chữ 'sứ' trong 'Nhập nội nội thị tỉnh sứ thần' nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung
  15. Chữ 'thư' trong 'Tân kỷ thư xá Quảng Đông' nguyên bản viết 'tận', theo các bản khác và văn dưới sửa lại.
  16. Diên Châu nguyên bản là 'Diên An', theo các bản và văn trên sửa lại.
  17. Muốn ghi lại, theo văn nghĩa, nghi 'muốn' nên là 'cố'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.