"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 287: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)

Từ tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng nhuận cùng năm.

[1] Tháng giêng, mùa xuân, ngày Canh Tuất, xuống chiếu cho Ty Chuyển vận Hà Bắc, lệnh các quan địa phương thân hành đến các danh sơn, linh từ cầu đảo, vì có hạn hán.

[2] Ngày Nhâm Tý, sai các quan phụ chính cầu mưa.

[3] Phu nhân họ Trương, mẹ nuôi của Thần Tông, được phong làm Bảo Hựu phu nhân nước Ngụy, tước An Nhân, xin theo chiếu chỉ phong tặng hai đời, được chấp thuận. (Bà là nhũ mẫu của Thần Tông, năm Hi Ninh thứ 8 tháng 2, từ tước Sùng Quốc đổi phong làm Ngụy Quốc).

[4] Ngày Giáp Dần, Hữu Gián nghị đại phu, Đề cử Sùng Hi quán Trầm Lập mất.

[5] Ngày Ất Mão, Tập Hi quán sứ, Trấn Nam tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Vương An Thạch được bổ làm Tả bộc xạ, Quan văn điện Đại học sĩ, Tập Hi quán sứ, miễn việc chầu từ. An Thạch từ chối chức Sứ tướng, xin chỉ giữ chức quan văn lĩnh cung quán. Triều đình nhiều lần không chấp thuận, nhưng An Thạch vẫn kiên quyết từ chối, nên có mệnh lệnh này.

[6] Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức dâng biểu nói: “Kính được ban chiếu, theo lời thần xin, từ nay lại tiếp tục tuân theo chức cống, đã lệnh cho An phủ ty sai người vẽ định cương giới, không được xâm phạm. Thần đã vâng chiếu sai người đem phương vật đến, xin ban trả lại các châu huyện Quảng Nguyên, Cơ Lang.” Chiếu rằng: “Đợi sứ giả tiến cống đến kinh, sẽ có chỉ riêng về việc biên giới.”

[7] Lại xuống chiếu cho Ty Chuyển vận Hà Bắc kiểm tra và miễn giảm thuế thu và nợ đọng của dân bị thiên tai lũ lụt, gia hạn thời gian nộp thuế.

[8] Lại xuống chiếu cho Ty Chuyển vận Kinh Tây, Hoài Nam tìm các danh sơn, linh từ, giao cho các quan địa phương cầu đảo mưa tuyết.

[9] Quyền Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ tâu: “Tri Quắc châu Đặng Oản gần đây được phục chức Long đồ các đãi chế, dư luận trong ngoài đều cho rằng Oản khi giữ chức ngôn luận, đã làm nhiều việc tà ác, ngầm liên kết với các thuộc viên công phủ, nhiều lần xin ân huệ cho đại thần, xin bổ nhiệm con cái đại thần vào chức quán, việc này truyền cười khắp nơi, làm tổn thương quốc thể, từ xưa đến nay chưa từng có người giữ chức ngôn luận nào như vậy. Bệ hạ cho rằng Oản tâm địa lệch lạc, bản tính gian trá, bàn việc tiến cử người không tuân thủ phận sự, nên đã cách chức đuổi đi. Nay Oản rời chức chưa bao lâu, đã vội được phục chức gần, khiến sĩ phu xôn xao, không hiểu vì sao. Xưa Tô Tụng bị cách chức tám năm mới được phục chức Gián nghị đại phu, Tăng Bố năm năm mới được chức Đãi chế, Oản là ai mà được vượt cấp như vậy? Xin thu hồi mệnh lệnh đã ban, để thỏa lòng công luận.” Chiếu bãi chức Long đồ các đãi chế của Oản, cho giữ chức bản quan sung chức Tập hiền viện học sĩ, tri Hà Dương.

[10] Ngày Đinh Tỵ, chiếu giảm một viên chức Quốc tử giám thừa, chủ bạ.

[11] Ngày Mậu Ngọ, Phán Thái thường tự, Xu mật trực học sĩ Trần Tương, Sùng chính điện thuyết thư, Đồng tu khởi cư chú, Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý Hoàng Lý, Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Lý Thanh Thần, Bí thư thừa, Tập hiền hiệu lý Vương Tồn, cùng bàn định lễ văn tế tự ở giao miếu; Thái thường tự chủ bạ, Bí thư thừa Dương Hoàn, Ngự sử đài chủ bạ, Trứ tác tá lang Hà Tuân Trực, Quốc tử giám trực giảng, Mật huyện lệnh Tôn Ngạc sung chức Kiểm thảo quan. Trước đó, có chiếu rằng: “Lễ văn tế tự ở giao miếu có nhiều sai sót, nên lệnh cho Thái thường tự lập cục, cử một số quan định lễ, và cho phép tuyển dụng thuộc quan, thảo luận về sự thay đổi qua các đời, để xem xét được mất.” Vì thế mới cử Trần Tương và các người khác. Sách hoàn thành vào ngày 11 tháng 4 năm thứ 5. Ngày Giáp Ngọ tháng 12 năm Hi Ninh thứ 10[1], Hoàng Lý nói thêm. Cựu kỷ chép: Lệnh cho quan bàn định lời chúc văn ở giao miếu.

[12] Hoàng thành sứ, Đạt Châu thứ sử, Nhập nội phó đô tri Tô Lợi Thiệp được bổ nhiệm làm Hải Châu đoàn luyện sứ. Lúc đó, Lợi Thiệp xét tuổi chỉ đáng được thăng chức, nhưng chiếu chỉ cho rằng Lợi Thiệp từng phục vụ ở phủ đệ của tiên triều, nên đặc biệt có mệnh lệnh này.

[13] Giảm bớt và hợp nhất các đơn vị: Trần Lưu Phụng Nhật, Thiên Vũ quân thứ bảy, đệ nhất Vũ Kị đái giáp thặng viên; Bạc Châu đệ nhất Long Vệ đái giáp thặng viên; Trần Lưu đệ nhất, Bạc Châu đệ nhị, Uý Thị Kiêu Mãnh đệ nhị, Nam Kinh Hùng Uy đệ bát, Hàm Bình Hùng Dũng đệ nhị, đệ tam, Vận Châu đệ ngũ, Hứa Châu đệ lục, Quản Thành đệ thất, Bạch Mã đệ bát, tổng cộng mười ba chỉ huy. Mỗi quân chỉ đặt một chỉ huy, mỗi chỉ huy có năm trăm người, số còn lại được quản lý ngoài định biên.

[14] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty[2] xin phong trang số tiền lãi để phòng khi triều đình cần dùng, như đúc tiền, khai mỏ muối, những việc liên quan đến tiền của chuyển vận ty, đều lấy năm Hi Ninh thứ chín làm mốc, bản ty sẽ nhận số tiền đó và hoàn trả lại.

[15] Ngày Kỷ Mùi, An phủ sứ Kinh Hồ Nam Lộ là Tạ Cảnh Ôn tâu: “Thần vâng chiếu xem xét việc Chuyển vận ty xin bổ nhiệm chức danh và cấp bổng lộc cho các tộc người man ở Khê Động thuộc Huy Châu, Thành Châu. Thần xét thấy Chu Sơ Bình chiêu dụ Dương Quang Tiếm và những người khác, đều ban cho chức quan và lương bổng, những người quy thuận vẫn ở yên tại chỗ. Vì các tộc người man họ Dương vẫn luyến tiếc nơi ở cũ, vốn cũng không dám xâm phạm biên giới, từ khi được ban chức tước và lương bổng, họ yên ổn làm ăn như trước, nên các thủ lĩnh cấp cao đều tranh nhau ra nghe lệnh. Đến khi Chu Sơ Bình không mang theo binh giáp, tự mình vào chiêu dụ, họ sinh nghi ngờ, sợ triều đình sẽ chiếm đất của họ, nên Dương Xương Phổ và những người khác chặn đường, giết hại sứ thần, suýt nữa gây ra biên loạn. Nay nếu xây dựng thành trại, đóng quân đồn trú, họ ắt sẽ cho rằng triều đình muốn chiếm đất đai của họ, lập thêm châu huyện, dân chúng lo sợ phải di dời, tình thế nguy cấp, ắt sẽ hợp lại làm loạn. Nay các thủ lĩnh cấp cao đã nhận mệnh, hưởng lợi từ bổng lộc, các tộc khác tự nhiên không dám động, lại đã có hai trại Quan Hạp và Vũ Dương khống chế, không cần phải phòng thủ thêm. Nếu trong hai ba năm tới, ân tín thấm nhuần, người hướng hóa khuyên bảo lẫn nhau, sau đó mới xây dựng thành trại cũng chưa muộn. Việc muốn bổ nhiệm Dương Thịnh Kiên làm tuần phòng, vì Thịnh Kiên nổi tiếng gian hùng, người man sợ phục. Nay lòng trung thuận của hắn chưa thể đảm bảo, mà vội ban chức tước, e rằng hắn sẽ lợi dụng thế lực của triều đình để sai khiến các tộc man, kết bè kéo cánh, không có lợi cho ta, nên giữ nguyên như cũ là tiện.

Khi Chu Sơ Bình chiêu dụ, những người được sai đi như Dương Thịnh Thắng và những người khác, hoặc dẫn đầu mở đường, hoặc chiêu dụ đồng loại quy thuận, đều có công lao, nhưng chưa được ban ân. Còn năm mươi người quy thuận từ năm Hi Ninh thứ 5, hiện đang giữ chức nha dịch, xin theo lời tâu của Chuyển vận ty, ban ân theo thứ bậc. Ba châu, một trấn, trước khi quy thuận, mỗi năm tiến cống tổng cộng hai nghìn bốn trăm mân. Từ khi bổ nhiệm chức quan, cấp tiền lương và vải lụa, mỗi năm tốn ba nghìn bảy trăm mân, trừ đi số tiền tiến cống, mỗi năm chỉ tốn thêm bảy trăm chín mươi mân. Nếu theo lời xin của Chuyển vận ty, tiếp tục bổ nhiệm Dương Thịnh Thắng và những người khác, cấp lương bổng, thì số tiền cấp cho mỗi người chỉ bằng lương một tên lính, tính cả đời họ, so với thời gian, cũng chỉ hơn mười năm là hết.” Chiếu theo lời tâu của Cảnh Ôn, sai Chuyển vận ty trình bày danh mục và lương bổng cấp cho Dương Thịnh Thắng để tâu lên.

[16] Ban cho Ty Vận chuyển sông Quảng Tế 10 vạn thạch gạo thượng cung, giao cho châu Từ và quân Hoài Dương[3] để bán ra, cứu đói dân bị lụt.

[17] Tam ty tâu: “Năm Hi Ninh thứ 6, châu Kiến mua 32 vạn 9 nghìn cân trà, có trà xấu phải nộp tiền 3 vạn 6 nghìn quan, nên thu từ các hộ trồng trà và những người liên quan, dù đã qua nhiều năm, đến nỗi phá sản cũng chưa chắc trả được. Xin tính giá trị, cho họ nộp lại trà vào quan, để giảm bớt nỗi khổ bị thúc giục của dân xa.” Theo lời tâu. Bản chí có việc này, nhưng đổi “năm Hi Ninh thứ 6” thành “năm nay”, là sai.

[18] Đề điểm sự vụ Nam Giao Hướng Tông Nho xin từ cửa Đông Duy trong bố trí đường Hoàng Đạo đến vị trí Vọng Liệu, giao Lễ viện xem xét định ra, báo cáo vào thức. Theo lời xin.

[19] Ngày Canh Thân, chiếu cho quyền Ngự sử Trung thừa Đặng Nhuận Phủ, Hàn lâm học sĩ Hứa Tướng cùng Tam ty và Đô Lý Khiếm ty, cùng xem xét định ra các khoản nợ nên tha theo ân xá rồi tâu lên.

[20] Ngày Tân Dậu, chiếu rằng: “Quan các lộ Xuyên, Quảng, Phúc Kiến tại nhiệm bị thay đổi, chưa ra khỏi lộ mà mất, dù đã nhận tiền thuê người đưa đón, cho phép cấp một chiếc thuyền ngồi.”

[21] Lại chiếu rằng: “Các châu quân các lộ thiếu mưa tuyết hoặc mưa tuyết quá nhiều,[4] giao cho các ty đề cử mỗi tháng tâu lên Trung thư trình lên, lệnh cho Ty Nông tự ghi vào sổ.”

[22] Ngày Quý Hợi, chiếu từ nay học quan không phải yến công thì không được dự hội ca kỹ, theo lời xin của Tri Vĩnh Hưng quân Lữ Công Nhụ.

[23] Phán Tư nông tự Hùng Bản tâu: “Gần đây các lộ đều nói việc dùng giáp đầu để thúc thuế chưa tiện, nay xét định muốn lệnh cho các lộ theo số tiền định trước của phép dịch, thuê mộ hộ trưởng. Nếu chưa có người ứng mộ, thì căn cứ số thuế hộ nhiều ít, luân phiên lấy bảo đinh từ tứ đẳng trở lên để thúc thuế[5], mỗi đô bảo không được quá năm người, mỗi người phải thúc hơn một trăm hộ[6], tùy theo số thuế thúc được nhiều ít mà chi trả tiền thuê, tổng số không được vượt quá số tiền thuê hộ trưởng trước đây[7]. Vẫn theo lệ cũ, mỗi kỳ thuế thay một lần, ai muốn tiếp tục làm thì cho phép. Nếu có vi phạm, đều theo điều lệ cũ, giáp đầu giảm một bậc so với hộ trưởng.” Chiếu giao Tư nông tự xét định rồi tâu lên. Đặt chức giáp đầu thúc thuế vào ngày Ất Tỵ tháng 4 nhuận năm Hi Ninh thứ 8.

[24] Chiếu lệnh cho Ty Kinh chế Tài dụng Biên phòng Hi Hà Lộ kiêm Ty Tài dụng Tần Phượng Lộ, ngự phê đổi chữ “dụng” thành chữ “lợi”. Việc đổi “dụng” thành “lợi” là theo 《Ngự tập》, nhưng sau đó lại đều viết là “dụng”, không rõ nguyên do, cần xét lại. Ngày Tân Sửu tháng 12 năm Hi Ninh thứ 10, đã có chiếu lệnh cho Ty Kinh chế kiêm Tần Phượng, nay lại nhắc lại.

[25] Sai Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ Nguyên Nhật Tuyên đi Lưỡng Chiết Lộ, Văn Tư Phó sứ Tào Chiếu đi Giang Nam Đông Lộ để điểm duyệt và đoàn kết các quân.

[26] Giáng chức quan tiền tri phủ Chân Định, Long đồ các trực học sĩ, Lại bộ Thị lang trí sĩ Hàn Chí một bậc, truy thu lại cáo mệnh của cháu là Tư Thuần, chức Tướng tác giám Chủ bạ; Thông phán Trịnh Uyên, Thiêm thư phán quan Vương Khâm Thần đều giáng một bậc; Phán quan Hứa Chương, Thôi quan Lưu Xử Hậu[8] đều bị cách chức; Ty lệ tham quân[9] Lưu Thuấn Lý trở xuống ba người bị cách chức, chủ trại Bắc là Dương Sung Đức trở xuống ba người bị tước danh hiệu, biên quản, và không được hưởng ân xá giảm tội. Tội danh là do gửi công văn bắt trộm ở châu Dịch, nhầm lẫn coi Giải Tử Bình là đất của Bắc giới[10], gây ra tranh chấp biên giới. Việc này cần xem xét kỹ. Chí, cả truyện cũ và mới đều không chép việc này. Hàn Chí làm tri phủ Chân Định là vào năm Trị Bình thứ 2.

[27] Chiếu cho đề cử ty trà trường phủ Thành Đô các lộ Lý Tắc xem xét việc đặt trường mua trà[11], cho phép thương nhân ở lộ Hi Hà nộp tiền và lương thảo, định giá cấp dẫn, chỉ xạ xin bán lợi hại để tâu lên[12].

[28] Ngày Giáp Tý, chiếu rằng: “Nội thị tỉnh thiếu quan, bãi chức Đô tri Trương Mậu Tắc làm Đô đại đề cử tu bế khẩu sông Tào Thôn ở châu Thiền. Lệnh cho Long thần vệ Tứ sương đô chỉ huy sứ, Vinh châu Phòng ngự sứ Yến Đạt làm Đề cử binh mã tổng quản bản sở, lại sai 2000 quân cấm ở Bắc Kinh thuộc Tổng quản ty.”

[29] Chiếu rằng: “Quyền phát khiển Phó sứ Chuyển vận lộ Quỳ Châu Đổng Việt khi mãn nhiệm kỳ được thăng một bậc, lưu lại tái nhiệm. Từ nay, các chức Chuyển vận sứ, Phó sứ, Phán quan, Đề cử hình ngục lộ Quỳ Châu, nếu được lệnh tái nhiệm, đều do trên quyết định thăng chức hoặc giảm năm khảo khóa.”

[30] Viện Thẩm quan Đông trình bày: “Hai lộ Quảng Nam thiếu người tình nguyện đến nhậm chức. Xin chia các nơi có đất đai xấu, nước độc thành một bậc, các nơi nhiều việc khó khăn thành một bậc, còn lại thành một bậc, lệnh cho Ty Chuyển vận xác minh rồi tâu lên.” Triều đình đồng ý.

[31] Tư Nông tự tâu: “Các lộ, quan viên, sứ thần vì việc quân mà chết, con cháu không được hưởng ân miễn dịch, thì tiền dịch của hộ đó được giảm miễn trong năm năm.” Triều đình đồng ý.

[32] Xuống chiếu miễn tiền lương phong trang năm nay của Ty Chuyển vận hai lộ Kinh Đông và Kinh Tây. Vì hai lộ này tâu rằng bị thiếu hụt do lũ lụt.

[33] Ngày Ất Sửu, sai quan đi tạ mưa.

[34] Xuống chiếu: “Từ nay, các Phó thừa chỉ các phòng của Xu mật viện khi xuất chức, được hưởng lương bổng như Chủ sự, làm Châu Kiềm hạt.”

[35] Quyền phát khiển Tam ty sứ Lý Thừa Chi tâu: “Những năm gần đây, triều đình khoan hồng cho những người có tư cách hơi cao, vì họ già yếu hoặc không đảm đương được việc, chưa vội cho nghỉ hưu, nên đặt ra các chức Đề cử, Quản câu cung quan, ban bổng lộc hậu hĩ, để tỏ rõ ân ý từ đầu đến cuối. Không quy định số lượng, nên các quan lại tranh nhau xin chức nhàn hạ, tham bổng lộc, không biết xấu hổ, có người tinh thần chưa suy, tuổi còn tráng kiện, cũng tìm cách tránh việc, xin chức này. Điều lệ đã khoan hồng, ban đầu chưa sửa đổi, nên hiện nay trong ngoài có khoảng hơn trăm viên cung quan, không có việc gì nhỏ nhặt, mỗi năm tốn lương thực không dưới mấy vạn quan, thần thấy tiếc. Xin từ nay về sau, các chức Đề cử, Đề điểm, Quản câu cung quan ở kinh đô, tổng cộng không quá mười lăm viên, các lộ gấp đôi. Nếu có bổ nhiệm, thì lệnh phải chờ khuyết như lệ. Như vậy mới phân biệt được người siêng năng giữ chức, không phí phạm của công.” Xuống chiếu từ nay những người xin chức cung quan, phải trên sáu mươi tuổi mới được bổ, và không quá hai lần. Việc hạn chế tuổi và số lần làm cung quan, bản mực chép vào tháng hai ngày Tân Hợi, nay theo bản chu chép vào đây.

[36] Xuống chiếu vì Thái hoàng thái hậu lâu ngày chưa khỏe, lệnh cho Khai Phong phủ và các lộ tìm những người giỏi về khoa răng miệng, cấp tiền đi đường, cho đi ngựa trạm đến kinh đô.

[37] Lại có chiếu rằng: “Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty căn cứ xét những đất bị chiếm dụng trái phép làm quan trang, hạn trong một năm rưỡi cho dân tự trình báo, ruộng đất phương điền không thi hành nữa. Việc vay mượn chỉ chi trả bằng tiền, ngày nộp tính theo giá thị trường cho phép đổi lấy lương thực, thu lãi hai phần, ai muốn nộp tiền thì tăng thêm một phần.” Ngày 6 tháng 3 năm Hi Ninh thứ 7, lại ngày 17 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ nhất, có thể tham khảo.

[38] Ty Nông tự xin cho các lộ vẫn đặt ty nha như cũ, được chấp thuận.

[39] Ngày Đinh Mão, chiếu cho Đề cử Vĩnh Hưng đẳng lộ hình ngục công sự Vương Hiếu Tiên đặt ngục ở Kinh Châu, xét xử việc của Ma Đan Đương Bác. Ai tự trình báo thì được miễn tội; nếu tố cáo đúng sự thật thì được thưởng ban hàng. Việc này ghi rõ ngày Ất Mùi tháng 5 năm thứ hai.

[40] Ty trà trường Thành Đô phủ đẳng lộ tâu: “Nếu quan bán trà không đúng người, cho phép ty này tuyển chọn, đổi đi nơi khác việc nhẹ. Nếu thiếu chính quan, thì trong số quan đã thay thế đang chờ bổ nhiệm, hoặc chỉ định người để ty chuyển vận bổ nhiệm.” Được chấp thuận.

[41] Xu mật viện tâu: “Trước đây đã ban xuống mẫu cung khoát thiểm, lệnh Quân khí giám theo mẫu chế tạo. Nay đã hoàn thành 1.360 cái, 930 cái đã làm xong chưa bọc, 10.000 cái chưa tính toán nguyên liệu.” Chiếu rằng trong số đã hoàn thành và chưa bọc, trước hết cấp 2.000 cái cho Ty đề cử giáo tập mã quân. Ngày 21 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất có thủ trát.

[42] Ngày Mậu Thìn, cho con trai của Tam ban phụng chức Lưu Thông làm Tam ban tá chức. Thông theo quân đánh dẹp người Khương ở vùng núi phía sau, làm kị đội trung quân đại bộ tử trận. Cha là Xương Tộ tâu rằng Thông không có con, xin lấy con trai của em là Duy làm người kế tự. Chiếu cho Duy làm quan, kế tự cho Thông.

[43] Chiếu cho Phó chuyển vận sứ Tần Phượng đẳng lộ, đồng kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng, Thái thường bác sĩ Triệu Tế đợi khi công việc hoàn tất thì bổ nhiệm chức quán.

[44] Lại chiếu Ty Nông tự: “Số tiền và lương thực dự trữ thường bình còn lại một nửa, mỗi cuối năm tập hợp, sang mùa xuân năm sau kiểm điểm, vẫn phải khai báo rõ từng lộ để tâu lên.”

[45] Ban cấp 100 tấm độ điệp cho tăng nhân, giao cho Kinh Đông lộ Chuyển vận ty để bồi hoàn số tiền thường bình đã mượn trước đây dùng vào việc xây thành Từ Châu và dựng bờ kè gỗ.

[46] Tiền Ty môn lang trung Vương Bá Du xin đổi các trường muối ở bốn lộ Kinh Đông và Hà Bắc thành các ty mua bán muối, do quan mua từ các hộ làm muối[13] rồi bán cho thương nhân. Chiếu cho Đô đề cử Thị dịch ty triệu Vương Bá Du đến bàn bạc. Tô Thức gửi thư cho Hàn Giáng bàn về việc này. Tô Thức lúc đó đang ở Mật Châu, việc này xảy ra vào năm Hi Ninh thứ 8, cần xem xét thêm. Vương Bá Du được bổ nhiệm lại chức Đề cử thuế muối Hà Bắc và Kinh Đông vào tháng 12 năm Hi Ninh thứ 5.

[47] Chiếu cho Đồng đề cử thường bình các sự Kinh Hồ Bắc lộ, Trứ tác tá lang Trương Uyển bị cách chức. Vì tội vượt quyền bàn việc Trương Giáp ở Kinh Nam không đúng. Ngày Tân Mùi tháng 7 năm Hi Ninh thứ 10, Trương Giáp từ chức Kinh Nam soái chuyển sang làm Kinh lược Quảng Tây, ngày Kỷ Sửu tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất được bổ làm Hộ bộ thị lang. Tô Triệt[14] tấu trình việc Trương Uyển hặc tội, chú rõ vào thời điểm Trương Giáp chuyển từ Kinh Nam sang Quảng Tây ngày Tân Mùi tháng 7 năm Hi Ninh thứ 10. Trương Biện có con tên là Uyển, không biết có phải là người này không.

[48] Ngày Kỷ Tỵ, Trứ tác tá lang, quyền Kiểm tường binh phòng văn tự Phạm Dục được phục chức Hiệu thư Sùng Văn viện.

[49] Chiếu cho Hà Bắc lộ tạm ngừng việc chiết nạp. Vì vừa trải qua thủy tai, giá lương thảo đắt đỏ.

[50] Hình bộ Viên ngoại lang, Tri chế cáo Hùng Bản bị cách chức Tri chế cáo, giáng làm Đồn điền Viên ngoại lang, phân ty tại Tây Kinh, cư trú tại Nhiêu Châu. Đại Lý tự Thừa, quyền Ngoại đô thủy giám Thừa Trần Hữu Phủ giáng làm Dĩnh Châu Đoàn luyện Suy quan. Quyền Tri đô thủy giám Chủ bạ, Tư nông tự Chủ bạ, Vụ Nguyên huyện Thừa Sử Mạc bị truất hai chức, điều đến nơi xa xôi nhận chức vụ nhỏ. Quyền Ngoại đô thủy giám Thừa, Chủ khách Lang trung Phạm Tử Uyên bị truất một chức, giữ nguyên chức vụ, miễn bị cách chức. Quyền Hà Bắc Đông lộ Chuyển vận Phó sứ, Kim bộ Viên ngoại lang Trần Tri Kiệm bị truất một chức[15], bị thay thế. Văn Ngạn Bác được đặc xá. Các quan lại liên quan ở huyện Khấu Thị, Lâm Thanh, Thanh Bình thuộc Đại Danh phủ, cùng Đô đại ty phía nam bờ đông sông, đều giao cho Ty đề điểm hình ngục xét hỏi. Việc đặt đập trên kênh đào, giao cho Đô thủy giám xem xét lại.

Hùng Bản bị xử vì khám xét việc nạo vét sông không đúng sự thật, do việc nạo vét có được 22.300 khoảnh đất bồi ven sông, nhưng lại báo cáo không đúng sự thật; pháp luật quy định không được dự tiệc rượu ở châu quận nếu không vì công việc, nhưng Hùng Bản vi phạm pháp luật, dự tiệc với Văn Ngạn Bác. Phạm Tử Uyên báo cáo đất bồi ven sông tuy đúng, nhưng lại gộp số liệu hai năm thành một năm để tấu lên. Trần Hữu Phủ, Sử Mạc, Trần Tri Kiệm đều báo cáo sai sự thật, nên có mệnh lệnh này.

Công cụ nạo vét sông chỉ như trò trẻ con, lời tâu của Phạm Tử Uyên tuy nhiều điều hư vọng, nhưng Sử Mạc ban đầu khuyên Hùng Bản nên xem xét lợi hại của việc đắp đê, rồi mới gặp Văn Ngạn Bác, nhưng Hùng Bản nói Văn Ngạn Bác là cựu thần ba triều, việc nhỏ nhặt sao có thể lay chuyển được, lại còn tỏ lòng kính trọng riêng với Văn Ngạn Bác. Phạm Tử Uyên đem việc này tâu lên, nên Vua không hài lòng với Hùng Bản. 《Chu sử》 bỏ đi câu “công cụ nạo vét sông chỉ như trò trẻ con”“Vua không hài lòng với Hùng Bản”, chỉ dựa vào án xử cũ để tu định, bản mới đã khôi phục lại. Án xử cũ không thể bỏ qua, nhưng 《Mặc sử》 chép mới là sự thật. Ngày Quý Mùi tháng 12 năm thứ 9, bắt đầu sai Hùng Bản đi khám xét. 《Cựu kỷ》 chép: Hùng Bản khám xét việc đắp đê nạo vét sông, báo cáo sai sự thật[16], bị cách chức Tri chế cáo, phân ty tại Tây Kinh. 《Tân kỷ》 không chép.

Đặng Nhuận Phủ viết 《Hùng Bản thần đạo bi》 rằng: Khi ấy, hoạn quan Trình Phưởng muốn đào đê phía tây nam Vệ Châu để dẫn nước sông thông với Giang, Hoài, Đô thủy Thừa Phạm Tử Uyên lập Ty Sơ Tuấn, dùng “Thiết long trảo” nạo vét sông Hoàng Hà, cho rằng có thể thay đổi dòng chảy của sông, muốn lấy đất bồi ven sông làm công lao nạo vét. Việc giao cho Ty An phủ Hà Bắc xét, Suý thần Văn Lộ công nói rằng bọn tiểu thần khởi công để mưu lợi, đều không đúng sự thật. Vua xuống chiếu sai Hùng Bản đi xem xét lại, Hùng Bản về tâu: “Trình Phưởng nói việc đào sáu đê dẫn nước sông là không đúng, việc tính công nạo vét đều là hư vọng, xin trước hết bãi Ty Đề cử.” Sau đó, Gián quan luận tội Hùng Bản từng dự tiệc bàn việc công ở Đại Danh phủ, là vi phạm pháp luật. Bị giáng làm Đồn điền Viên ngoại lang, phân ty tại Tây Kinh, nhưng cũng bãi bỏ việc đào kênh, giải tán Ty Sơ Tuấn. Bia do Thái Biện viết. Bành Nhữ Lệ[17] viết 《Hùng Bản mộ minh》 rằng: Khi ấy, hoạn quan Trình Phưởng muốn đào kênh thông với Giang, Hoài, Đô thủy Thừa Phạm Tử Uyên dùng “Thiết long trảo” nạo vét sông, cho rằng có thể thay đổi dòng chảy của sông lớn, muốn lấy đất bồi ven sông làm công lao nạo vét. Văn Lộ công làm Phán quan Đại Danh phủ, nói rằng bọn tiểu thần khởi công để mưu lợi, lừa dối Vua, đều không đúng sự thật. Hùng Bản được lệnh đi xem xét lại, trước khi đi, Chấp chính lại dùng lợi hại dụ dỗ, Hùng Bản cười nhạt. Đến nơi, nắm được tình hình lừa dối, về tâu xin trước hết bãi Ty Đô đại Đề cử. Dần dần bất hòa với thời thế, Hùng Bản càng gấp gáp dâng tấu, người bàn tâu bèn chỉ trích Hùng Bản từng dự tiệc bàn việc công ở Đại Danh phủ, là vi phạm pháp luật, bị giáng làm Đồn điền Viên ngoại lang, phân ty tại Tây Kinh. Không lâu sau, kênh đào bị tắc, Ty Sơ Tuấn cũng bị giải tán.

[51] Ngày Canh Ngọ, triều đình ra chiếu cho Đồn điền lang trung, nguyên Tri châu Minh là Vạn Trách được miễn tội và thay chức khác, lệnh cho Đề điểm hình ngục lộ Hà Bắc Tây là Hàn Tông Đạo trình bày rõ việc xét xử Trách vi phạm chiếu chỉ một cách không đúng sự thật. Ban đầu, Tông Đạo tấu rằng Trách thi hành điều luật có sai phạm, nhưng Trách tự biện bạch, triều đình biết ông ta vô tội. Sau đó, Tông Đạo vì xét xử không đúng, bị phạt 10 cân đồng. Ngày 21 tháng 3 năm thứ 10, Hiến ty Hà Bắc tâu rằng Trách không đủ năng lực trị lý châu Minh[18], nhưng không ghi rõ chiếu chỉ thay chức.

[52] Ngày Tân Mùi, triều đình cử Độ chi viên ngoại lang, Bí các hiệu lý, Đồng tu khởi cư chú, Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự là An Đạo giả chức Tả Gián nghị đại phu, Sử quán tu soạn, làm Chánh sứ sang nước Cao Ly, Trứ tác tá lang, Tập hiền hiệu lý, Đồng tri Thái thường Lễ viện là Lâm Hi giả chức Hữu Chánh ngôn, Trực Chiêu văn quán làm Phó sứ. Trước đó, Quyền tri Cao Ly quốc vương là Vương Huy nhiều năm liền cử sứ sang triều cống, Vua khen ngợi lòng thành, đối đãi rất hậu, nên cử Đạo sang nước đó. Ngày 21 tháng 9, sứ đoàn trở về đến Minh châu. Sử cũ chỉ ghi việc cử quan, sử mới mới ghi rõ tên An Đạo.

[53] Triều đình ra chiếu cho các quân ở biên giới lộ Hà Bắc Đông dự trữ lương thực đủ dùng trong 3 năm, các châu quân khác dự trữ đủ dùng trong 2 năm, ngoài ra cho phép bán ra theo giá thị trường nhưng giảm giá, không được làm giảm giá gốc. Số tiền thu được phải để riêng, đợi năm được mùa mua lại đủ số lượng ban đầu.

[54] Triều đình ra chiếu cho Chuyển vận ty lộ Thành Đô phủ xét việc các quan phủ Thành Đô vượt quyền xử lý việc của Ty trà trường, nếu các hộ trồng trà có tội cũng phải xét xử; những việc đã xử xong phải trình bày rõ. Do Lý Tắc tâu rằng Tri phủ Thành Đô là Lưu Tường nhận việc tố cáo vượt cấp của Tri huyện Danh Sơn là Dương Thiếu Dật, không thể để Ty trà trường xử lý. Ban đầu, Thiếu Dật nhân việc dân kiện, đã trình bày với Tường, mong được tâu lên triều đình, đốc thúc lại Ty trà là Lộ Giới ăn cắp thư từ bưu chính mà giấu đi. Tường tâu việc này lên, và nói rằng việc độc quyền trà gây hại cho vùng xa, xin nghiêm trị Giới. Nhưng Tắc đang bảo vệ Giới, cho rằng Tường vượt quyền, nên mới có chiếu chỉ này. Việc này căn cứ vào 《Lã Đào chí Tường mộ》.

[55] Tam ty xin tăng tiền thuế rượu ở kinh thành, giảm 30 vạn cân rượu trong định mức hàng năm, nếu gặp năm nhuận thì tăng thêm 1 vạn cân để phân phối đều. Được chấp thuận.

[56] Kinh lược ty Hi Hà lộ là Trương Sân xin hạ lệnh cho các giám ty bắt giữ những người đi lại biên giới và đưa về nguyên quán. Chiếu chỉ cho kinh lược ty thi hành, cho phép người tố cáo, thưởng 100 ngàn tiền, người phạm tội không được hưởng ân huệ[19], quan viên phải tường trình vụ việc lên triều đình.

[57] Ngày Nhâm Thân, Quang lộc khanh, Tri châu Lộ Châu là Sử Chiêu được tái nhiệm, vì Chiêu có thành tích khảo khóa đứng đầu Hà Đông.

[58] Chiếu chỉ cho Xu mật phó đô thừa chỉ là Trương Thành Nhất cùng với sứ thần Cao Ly và phó sứ cùng bàn định các nghi lễ và vật phẩm.

[59] Thượng phê: “Đã mất Khang vương Tông Phác là thân thích gần của Tiên đế, con trai là Trọng Dung và Trọng Nhâm sau khi mãn tang đều được thăng một chức, hai con gái được phong làm Huyện chủ, sau này không được lấy làm tiền lệ.”

[60] Ngày Quý Dậu, Ty nông tự tâu: Đề cử ty Hoài Nam Đông lộ xin các huyện trong lộ dùng số tiền thực tế từ tài sản của dân hộ trong làng xã để thu thuế dịch. Được chấp thuận.

[61] Khôi phục trấn Tu Nhân ở Quế Châu thành huyện.

[62] Nhuận tháng giêng, ngày Bính Tý, mùng một, quyền phát khiển Hộ bộ phó sứ, Binh bộ lang trung Trần An Thạch được bổ nhiệm làm Tập Hiền điện tu soạn, Hà Đông đô chuyển vận sứ. Sau đó có chiếu rằng: “Mười ba châu thuộc Hà Đông lộ, hàng năm cấp tiền hòa địch hơn tám vạn quan, từ nay bãi bỏ, đem số tiền đó giao cho Chuyển vận ty mua lương thảo.” Trước đó, An Thạch đi ngựa trạm cùng với Tri Thái Nguyên phủ Hàn Giáng và Chuyển vận ty bàn bạc về lợi hại của việc dự trữ biên giới. Giáng xin đổi phép hòa địch, giảm bớt số lượng cũ ba phần, bãi bỏ việc quan chi tiền và vải, chỉ giảm bớt nỗi khổ vận chuyển, thì thực tế đã có ích cho dân, gặp năm mất mùa mười phần thì lại miễn trừ. Nhưng An Thạch nói: “Hai thứ thuế của mười ba châu, tính bằng thạch, tổng cộng ba mươi chín vạn hai nghìn thạch, còn số hòa địch là tám mươi hai vạn bốn nghìn thạch, vì thế năm mất mùa trước đây không được miễn trừ. Bởi vì thuế của mười ba châu nhẹ, lại là nơi dựa vào để dự trữ biên giới, lý không thể thiếu được. Việc hòa địch trước đây chi tiền và vải bằng nhau, số lượng đã lẻ tẻ, dân khổ vì phí tổn vào châu huyện, dùng giấy mua tiền ở chợ, hầu như không thu được một nửa. Nhà nước chi tiền thực, mà dân chỉ được hư danh. Xin từ nay bãi bỏ việc chi tiền hòa địch, hàng năm đem số tiền đó chi cho các châu quận ven biên mua lương thảo để dự trữ. Gặp năm mất mùa, căn cứ vào số dân không nộp được để bù đắp, nếu không có mất mùa, ba năm một lần miễn nộp, dùng lương thảo dự trữ để bù vào, không cần như Hàn Giáng giảm ba phần và miễn trừ mười phần khi mất mùa.” Triều đình cho là phải, bèn lệnh cho An Thạch làm Hà Đông đô chuyển vận sứ, thi hành tất cả, lại ban chiếu này. Chiếu là việc ngày mùng một0, nay chép chung vào.

Ngày 14 tháng 11 năm Hi Ninh thứ 9, Hàn Giáng nói thế; ngày 18 tháng 9 năm thứ 10, Giáng lại nói thế. 《Thực hóa chí》 quyển 5: Tháng 12 năm Hi Ninh thứ 9, Tri Thái Nguyên phủ Hàn Giáng nói thế. Tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất, chiếu sai Tam ty Hộ bộ phó sứ Trần An Thạch đến Thái Nguyên phủ cùng Giáng và Chuyển vận ty bàn bạc việc này. An Thạch nói: “Muối ở Đông, Tây giám Vĩnh Lợi, xin theo như trước năm Khánh Lịch, thương nhân nộp tiền ở các châu quân Lân, Phủ, Phong, Đại, Lam, Hiến, Hãn, Khả Lam, Ninh Hóa, Bảo Đức, Hỏa Sơn, bản châu quân cấp giấy, đến Đông, Tây giám lấy muối, để trừ tệ nạn thêm tiền và đổi lấy lương thảo. Lại lệnh cho thương nhân tự khai nơi bán, nếu muối đã vận đến trường vụ, thương nhân mua, thêm phí vận chuyển. Như thế, muối quan bình ổn, thương buôn thông suốt, việc đơn giản tiện lợi.” Triều đình nghe theo, bèn bổ An Thạch làm Hà Đông đô chuyển vận sứ[20].

An Thạch xin người phạm muối xanh trắng ở Tây Bắc, theo chiếu Hoàng Hựu định tội, chủ tòng đều bị biên phối; lại muối xanh trắng vào Hà Đông, người phạm tội đến lưu, quan lại qua lại không xét bị tội. Tháng 7 năm thứ 4, An Thạch tự nói: Năm Nguyên Phong thứ nhất[21], vâng chiếu trị việc muối, hàng năm có thừa, và tăng thuế muối ở hộ đúc nồi đất mặn châu Hãn[22], và thuế muối ở thành Mã Trì. Chiếu thăng chức An Thạch, thưởng thuộc hạ. Tháng 4 năm thứ 5, chiếu rằng những điều An Thạch trước sau tâu xin về hòa địch, muối, phèn, mỏ, đã thi hành xong, triệu về làm Hộ bộ thị lang, việc chức vụ giao cho Trang Công Nhạc, Thái Diệp thi hành. Ngày 11 tháng 9 năm thứ 3, bàn thưởng về muối.

[63] Hà Đông chuyển vận phó sứ, Quốc tử bác sĩ Triệu Tử Kỷ được cử làm người phụ trách các cơ quan Trướng ty, Câu viện, Ma khám ty của Tam ty, và từ nay về sau sẽ cử người theo quy chế của Tam ty phán quan.

[64] Đề cử tu bế cửa đê Tào Thôn ở Thiền Châu, Tổng quản binh mã Yến Đạt tâu: “Số quân lính dưới quyền rất đông, nếu có ai phạm tội vô lễ hoặc hô vạn tuế, xin được xử trảm ngay tại chỗ; nếu có kẻ xúi giục quân lính, cướp đoạt tài sản, hoặc kích động quần chúng, kẻ cầm đầu tình tiết nặng cũng xin được xử trảm rồi tâu lên, kẻ tòng phạm sẽ bị giảm tội và đày đi lao thành xa nghìn dặm.” Triều đình đồng ý, và ra chiếu sai Vân kị đệ lục nhất chỉ huy làm nha đội của Yến Đạt.

[65] Trung thư tâu: “Những nơi cử người tại kinh, xin cho cử các quan kinh triều hoặc sứ thần. Những người đang tại chức thì để họ mãn nhiệm, chỉ có các chức Giám quan, Kiểm cổ quan ở Thượng giới Thị dịch, dù là người tiến nạp cũng được cử.” Triều đình đồng ý, và sẽ thi hành sau khi những người đương nhiệm mãn nhiệm.

[66] Đề cử tu bế cửa đê Tào Thôn tâu: “Vào ngày Bính Tuất tháng này sẽ đắp đê Thiêm và khai thông sông Thoát Thủy.” Sai Quyền phán Thái thường tự Lý Thanh Thần đi tế cáo, và sai Tẩu mã thừa thụ Hàn Vĩnh Thức mang hương lập đạo trường ba ngày đêm, đồng thời lệnh đợi khi nước sông đục lại thì đóng cửa đê, không được để cát làm hại ruộng dân vùng Kinh Đông.

[67] Ngày Đinh Sửu, ra chiếu: Từ nay về sau, trong các đại lễ, cho phép Khởi cư lang[23] và Khởi cư xá nhân được tiến cử thân tộc. Đến năm thứ 6 thì lại bãi bỏ. Sách 《Trung thư thời chính ký》 chép: Tháng 11 năm Hi Ninh thứ 10, trong lễ Nam Giao tiến cử ân trạch, tổng cộng hơn 400 người, nhân đó có chiếu thêm cho hai sử quan được tiến cử.

[68] Kinh lược sứ Hà Đông Hàn Giáng tâu: “Đất ở trại Tĩnh Khương châu Lân, đất phố Mộc Qua, đất Tinh Tối Lãng đều là ruộng của tỉnh, không phải là đất bỏ hoang. Quản câu quân mã Hình Tá Thần có thành kiến sai lầm, trì hoãn không quyết định.” Trung thư dâng lên, Vua xuống chiếu trị tội Tá Thần. Sau đó Vua phê: “Sáng sớm xét việc Hình Tá Thần không xử lý việc phân định địa giới, e rằng có lý do riêng, hãy để ông ta trình bày rõ rồi tâu lên.” Sau đó Tá Thần tâu: “Đã được kinh lược sứ xem xét, há có thể không đúng sự thật? Xin được điều đến Hà Bắc một nhiệm kỳ.” Bèn điều ông ta làm Kiềm hạt châu Ân.

[69] Ngày Mậu Dần, Tam ty xin rằng các cơ quan nhà nước chi tiêu tiền vật của tỉnh, cùng việc bỏ xuống, tính toán, thu chi, chuyển dùng, đều phải báo cáo Tam ty xem xét chỉ đạo. Vua đồng ý.

[70] Ty Đề điểm hình ngục lộ Kinh Hồ Bắc xin ở thành Hội Khê châu Thần, trại Kiềm An theo lệ thành trại châu Nguyên, đặt nhà giam để xử án. Vua đồng ý.

[71] Nguyên Tri châu Tào Lưu Ban tâu: “Thần thấy Tri huyện Tế Âm La Thích khơi thông sông Cổ Thục, tiêu nước lụt có công. Thích bàn rằng nếu sang xuân cho phép điều nhân công và để dân chúng tự nguyện góp sức thi công, thì từ đó về sau nạn lụt có thể vĩnh viễn trừ được. Xin hạ lệnh cho bản châu nhanh chóng đáp ứng.” Vua phê: “Có thể ghi tên Thích, đợi khi huyện khó khăn ở phủ giới có khuyết thì bổ nhiệm, để khảo sát thực tài trị lý của ông ta.” Bèn cho Thích làm Tri huyện Trần Lưu, lại xuống chiếu cho Thích lưu lại chức cũ, đợi khi quan đương nhiệm mãn nhiệm kỳ thì thay thế. Ngày 18 tháng 5 năm thứ 8, Ban đã tiến cử Thích, nay lại tiến cử nữa.

[72] Chiếu rằng: “Đề hạt tu kinh thành sở[24] trong quân sĩ Quảng Cố chọn người đủ tiêu chuẩn, cấp cho quần mục tư mã dạy tập võ nghệ, đợi khi tinh thục, dẫn vào yết kiến, bổ sung vào chỗ khuyết của các chỉ huy Vũ Kị Quản Thành, Bạch Mã Ninh Sóc.”

[73] Ngày Kỷ Mão, ty đề cử thường bình lộ Tần Phượng xin tăng tuyển người làm việc ở các châu huyện bị cắt giảm quá mức và tăng tiền thuê. Theo lời xin.

[74] Đông thượng các môn sứ Tào Bình làm Tây thượng các môn sứ. Do ân điển sinh thần Thái hoàng thái hậu.

[75] Ty kinh lược chiêu thảo đạo An Nam trước tâu rằng, trước đây quân quan chiếm ải Quyết Lý, lộ Phúc Kiến có 221 người ứng mộ. Chiếu rằng mỗi người theo thứ bậc công lao được thăng bổ và ban tặng lụa có khác nhau.

[76] Quyền chuyển vận phó sứ lộ Kinh Hồ Nam Chu Sơ Bình tâu: “Hạ ban điện thị Dương Xương Ái là con của Phụng chức Quang Trấn ở đoàn Hoàng Thạch, châu Huy, tự trình bày rằng ở ba châu, một trấn có rất nhiều người bổ làm hàng nhân, nhưng chưa có ai được ra làm quan, mong được ưu đãi ban ân.” Chiếu ban cho Xương Ái chức Tam ban tá chức, tăng thêm chức giám thuế châu Đàm.

[77] Chiếu rằng: “Các ty chuyển vận lộ Hà Bắc đông tây, Vĩnh Hưng, Tần Phượng, Kinh Đông đông tây, Kinh Tây nam bắc, Hoài Nam đông tây, đều theo như trước khi chia lộ, thống quản cả hai lộ, tiền lương thóc đều được điều chuyển sử dụng. Trừ Hà Bắc, Thiểm Tây ra, các nơi khác giảm một phán quan.”

[78] Ngày Canh Thìn, lệnh cho Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ, Tri chế cáo Tôn Chu cùng kiêm chức tường định trùng tu biên sắc.

[79] Chiếu cho Đề điểm phủ Khai Phong, các lộ Chuyển vận sứ, Phó phán quan[25]bãi chức kiêm Đề cử Thường bình ty.

[80] Lại chiếu cho Quyền Đồng phán Đô thủy giám Lưu Cáp kiểm tra lại công trình và vật liệu đắp đê chỗ sông vỡ ở Tào Thôn rồi tâu lên. Sách 《Tư Mã Quang ký văn》 chép: Mùa xuân năm Nguyên Phong thứ nhất, đắp đê chỗ sông vỡ ở Tào Thôn, huy động 50 vạn dân phu và 20 vạn lính[26], nói rằng muốn đào lại dòng sông cũ để dẫn nước, nhưng không thực hiện được, bèn cho đắp đê ở cửa sông Vương Mãng bờ bắc, để nước chảy tự do, vì sợ nước tràn về phía nam ngập đến kinh thành. Thiên Chương các Đãi chế Hàn Chẩn, Đô thủy giám Thừa Lưu Cáp, Hà Bắc Chuyển vận Phán quan Uông Phụ Chi đảm nhiệm việc này. Xét: Hàn Chẩn vào ngày Mậu Ngọ tháng giêng đi xem xét chỗ sông vỡ trở về, xin chỉ dùng dòng sông mới, tùy nghi đắp thêm. Sau đó không thấy Hàn Chẩn đốc thúc công việc ở bờ sông, không rõ vì sao Tư Mã Quang lại nói như vậy. Nay nhân việc Lưu Cáp kiểm tra lại công trình và vật liệu, chú thêm vào đây, cần xem xét kỹ hơn.

[81] Thượng phê[27]: “Gần đây giáng chức lại nhân ở Châu Tương xuống Pháp tự, vì tội xử oan người chết. Do hình ngục ở phủ Khai Phong và Pháp tự hàng ngày có liên quan, sợ rằng trên dưới e ngại, không tra xét tận tình, khiến cho những kẻ tham nhũng được may mắn thoát tội, nên chuyển giao cho Ngự sử đài.” Vụ án ở Châu Tương là do Pháp ty Phan Khai hối lộ, sách 《Thực lục》 có ghi đầy đủ tên họ, nhưng truyện Thái Xác chỉ nói là vụ án của Phùng Ngôn. Phùng Ngôn chính là người xử oan người chết, xem ngày Tân Dậu tháng sáu.

[82] Ban đầu, Hàn Kỳ làm phán quan ở Tương Châu, có ba người làm cướp, bị hàng xóm đuổi đánh nên chạy tán loạn. Sau đó, thủ lĩnh bọn cướp nói với đồng bọn: “Từ nay về sau, nếu có ai cứu người bị cướp, hãy giết họ trước.” Mọi người đều đồng ý. Một hôm, chúng lại cướp một nhà, bắt một bà lão đánh đập để đòi của cải. Hàng xóm không nỡ nghe tiếng kêu khóc của bà, bèn đến nói với bọn cướp: “Bà lão này không còn của cải gì khác, đánh chết thì thật đáng tiếc.” Đồng bọn lập tức đâm chết bà lão, quan phủ Tương Châu đều xử tử cả ba người.

Chu Thanh, vốn là quan pháp ty ở Giang Ninh phủ, sau làm đại tướng ở Tam ty, được Vương An Thạch tiến cử vào Trung thư, và đặt ra luật rằng: “Nếu quan phòng hình có thể bác bỏ việc xét án của Thẩm hình, Đại Lý, Hình bộ mà phát hiện vi phạm pháp luật và xử đúng[28], thì mỗi việc được thăng một chức.” Vì thế, các quan lại phòng hình ngày ngày xem xét lại các án cũ, soi mói để tìm ra sai sót. Chu Thanh nhờ đó mà từ chức đại tướng, trong bốn năm được thăng đến chức Cung bị khố sứ, làm việc ở đường hậu quan.

Vụ án Tương Châu đã xử xong nhiều năm, Chu Thanh bác bỏ rằng: “Theo luật mới, phàm kẻ giết người dù đã chết, nhưng kẻ tòng phạm bị bắt, dù bị tra tấn, nếu có thể nhận tội trước, đều theo luật án vấn dục cử mà giảm một bậc. Nay thủ lĩnh bọn cướp đã ra lệnh cho đồng bọn rằng ‘có ai cứu thì giết trước’, thì thủ lĩnh phải là kẻ cầm đầu. Đồng bọn nghe lời thủ lĩnh mà giết người cứu, thì là tòng phạm, lại đến khi bị bắt đã nhận tội trước, nên được giảm tội, nhưng Tương Châu xử tử, Hình bộ không bác bỏ, đều là xử oan tội chết.” Việc này được giao xuống Đại Lý, Đại Lý cho rằng lời thủ lĩnh “có ai cứu thì giết trước”, là chỉ những người cầm vũ khí đến đánh nhau[29]. Nay hàng xóm chỉ khuyên nhủ bằng lời lẽ tốt đẹp, không phải là cứu. Đồng bọn tự ý ra tay giết người, không thể coi là tòng phạm, Tương Châu xử án là đúng.

Quan tường đoạn là Đậu Biền, Chu Hiếu Cung đem việc này báo với Kiểm chính Lưu Phụng Thế, Phụng Thế nói: “Các ông là quan tư pháp, tự mình quyết định, cần gì phải hỏi ý tôi?” Hai người nói: “Như vậy thì không thể coi là xử oan.” Phụng Thế nói: “Các ông phải tự tuân theo pháp luật, lẽ nào tôi lại bắt các ông xử oan sao?” Vì thế, Đại Lý tấu rằng Tương Châu xử án là đúng. Chu Thanh vẫn giữ ý kiến trước, lại bác bỏ, việc lại giao xuống Hình bộ. Quan mới của Hình bộ cho rằng Chu Thanh bác bỏ là đúng, Đại Lý không phục. Đang tranh luận chưa xong, thì Hoàng thành ty tấu rằng quan pháp ty Tương Châu là Phan Khai đem của cải đến Đại Lý hối lộ để làm trái pháp luật. Ban đầu, Điện trung thừa Trần An Dân làm Thiêm thư Tương Châu phán quan, xử vụ án này, nghe Chu Thanh bác bỏ, sợ bị tội, bèn đến kinh sư, tìm khắp người thân quen để cầu cứu. Con trai của Văn Ngạn Bác là Đại Lý bình sự Cập Phủ, là cháu của An Dân, cũng là con rể của Ngô Sung. An Dân viết thư gọi Khai rằng: “Ngươi nên tự đến lo liệu việc pháp ty.” Khai đem hết gia sản vào kinh sư, muốn hối lộ lại dịch Đại Lý để hỏi tin tức. Người Tương Châu là Cao Tại đang làm lại dịch ở Ty nông tại kinh sư, tham của cải, cùng với mấy người lại dịch Trung thư tiêu xài hết số của cải đó, thực ra chưa từng gặp lại dịch Đại Lý. Việc bị Hoàng thành ty tấu, nói rằng đem hơn ba nghìn quan tiền hối lộ Đại Lý. Việc giao xuống Khai Phong xét hỏi, không có bằng chứng hối lộ, chỉ tìm được thư của An Dân gửi Khai. Gián quan Thái Xác biết An Dân có thân thích với Sung, bèn mật tấu rằng việc liên quan đến đại thần, Khai Phong không thể xử được, bèn chuyển vụ án sang Ngự sử đài. Đó là theo yêu cầu của Xác.

[83] Ngày Tân Tỵ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Bảo văn các học sĩ, kiêm Đề cử Trung Thái Nhất cung Lữ Công Trước được kiêm chức Đoan Minh điện học sĩ, tri Thẩm quan Tây viện. Trước đó, Vua phê rằng: “Công Trước là bề tôi cũ từng làm thị tòng, nên bổ làm Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, kiêm chức cũ.” Nhưng Công Trước lấy cớ tuổi cao sức yếu, từ chối không nhận, nên đổi thành mệnh lệnh này.

[84] Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Lưu Phụng Thế được bổ làm Trực sử quán, giữ chức Tu quốc sử viện Biên tu quan.

[85] Chiếu cho Khai Phong phủ điều tra quyền Hộ bộ phán quan, Chủ khách lang trương Trương Sung Tông, và Nội điện thừa chế, Câu đương Hữu Kỳ Kỵ viện Cao Tuân Chế về việc tiếp đón sứ giả Liêu có hành vi phạm pháp trên đường đi, trước tiên bị cách chức, chờ bị truy tố. Sau đó, Sung Tông và Tuân Chế đều bị giáng một cấp và cách chức, vì tội dùng vật cấm đền bù cho đồ đạc bị mất của sứ giả Liêu, và trong dịch xá có giao thiệp với dân tạp hộ. Án quyết được đưa ra vào ngày Kỷ Tỵ tháng 6, nay ghi chung vào đây.

[86] Chiếu cho Kinh Đông lộ Chuyển vận ty được mượn 5 vạn quan tiền phong trang để sai quân thay dân phu, và Kinh Tây lộ Chuyển vận ty được mượn 10 vạn quan tiền phường trường để chuẩn bị cung cấp lụa và lĩnh.

[87] Ngày Nhâm Ngọ, Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu rằng: “Các trại, trấn ở biên giới có chức sứ thần đã hết nhiệm kỳ hoặc đang khuyết, không ai muốn nhận chức. Xin từ nay tạm miễn tội đồng[30], không cần phải nộp đơn xin nhận chức nữa.” Chiếu rằng: “Từ nay, các chức sứ thần ở trại, trấn biên giới thuộc lộ này đều theo điều lệ cử quan của năm lộ mà tâu cử, tạm miễn nộp đơn xin nhận chức, đợi khi sứ giả Giao Chỉ vào cống sẽ xin chỉ dụ.”

[88] Quyền Phát khiển bản lộ Đề điểm hình ngục Lưu Tông Kiệt tâu rằng, việc tu sửa thành trì ở Ung Châu không tuân theo kích thước do Tuyên phủ ty chỉ đạo, xin giao cho Kinh lược ty xem xét lại việc xây dựng. Chiếu rằng: “Các quan liên quan đều bị điều tra tội, riêng Đề cử quan Lưu Tông Kiệt tự mình tố cáo nên được miễn điều tra. Giao cho Kinh lược ty xem xét lại thành trì đã xây, nếu đủ vững chắc để phòng thủ lâu dài thì đốc thúc hoàn thành, nếu thấp yếu khó chống giặc thì tính toán lại công trình rồi tâu lên.”

[89] Lại đặt chức Thôi khu quan của Tam ty Trướng ty một người. Theo lời tâu xin của Lý Thừa Chi.

[90] Lễ bộ tâu: “Ngoài lễ Đế và Hợp, khi tế tự ở Thái miếu, đều cho công thần phối hưởng.” Vua nghe theo. Tháng 12 năm ngoái, ngày Giáp Thìn, lần đầu có chiếu, hai kỷ đều chép việc này.

[91] Chiếu cho Trung thư lập pháp thưởng phạt về việc cấp phát tiền và thóc từ kho thường bình để tâu lên.

[92] Lại có chiếu: “Tiền và thóc từ kho thường bình, nếu dân đáng nộp tiền mà muốn nộp thóc hoặc vàng lụa, quan phải định giá trung bình để báo cho dân biết. Nếu vật không đủ giá tiền thì phải thêm tiền; nếu tiền không đủ giá vật thì trả lại phần thừa. Tiền và thóc từ kho thường bình, phần ở dân thì có tiền thường, mùa xuân phát ra, thu lại theo thuế hạ và thu. Những trường hợp khẩn cấp thiếu thốn mà vay mượn, đều định mức thu lãi hai phần, thóc thì năm được mùa tăng giá để mua vào, năm đói giảm giá thời để bán ra nhằm cứu đói. Lại cho phép dân đổi vàng lụa lấy thóc, nhưng quan phải tăng thêm một ít giá trị vàng lụa. Phàm tiền và thóc đáng cấp hoặc bán ra, đều theo chiếu thư năm thứ 9 mà thu chung, giữ lại một nửa phần thừa.” Việc này căn cứ theo 《Thực hóa chí》 quyển thứ nhất, thuộc năm Nguyên Phong thứ nhất, nhưng chưa tìm được ngày tháng, nay phụ vào sau việc “Lập pháp thưởng phạt về việc cấp phát tiền từ kho thường bình”. 《Thực lục》 chép là “pháp thưởng”, e là chữ sai, nên là “pháp phạt”. Ngày 26 tháng 9 năm thứ 7, ngày 9 tháng giêng năm thứ 9, và ngày 22, đều nên tham khảo. Ngày 17 tháng 5, 《Thực lục》 có: “Chiếu cho tiền và thóc từ kho thường bình, nếu dân muốn nộp thóc hoặc vàng lụa theo giá trung bình trên thị trường, tính lãi hai phần để chiết nạp thì cho phép.” Tức là việc này, hoặc nên dời việc này phụ vào đó.

[93] Pháp tự tâu tội của Tăng Củng, người mới được bổ làm Tri Phúc châu, chậm trễ không đến nhậm chức, chiếu đặc biệt phạt 10 cân đồng.

[94] Ngày Quý Mùi, Tuyên huy sứ Vương Củng Thần xin dùng nữ đồng thay cho đội múa trẻ nhỏ trong yến tiệc lớn ở điện Tập Anh. Vua nghe theo.

[95] Tri gián viện Thái Xác tâu: “Thần thấy Trần Dịch lại được làm Tri chế cáo. Xét: Dịch nhơ nhớp xấu xa, tiếng xấu lan truyền khắp nơi. Trước đây ở Đặng Châu, đã gây ra họa trong nhà[31], con trai và con dâu cùng chết một đêm, mà Dịch vẫn ngạo nghễ không có vẻ đau buồn xấu hổ. Khi trở về kinh sư, âm thầm kết bè đảng với các thuộc quan Trung thư là Trương Ngạc, Luyện Hanh Phủ, nhân việc công mà nhận thư riêng của Trương Ngạc. Hành tung đã lộ, không thể để ô uế chức vụ thị tòng nữa.” Chiếu bãi chức Tri chế cáo của Trần Dịch, giáng làm Bí thư giám, Tập hiền viện học sĩ.

[96] Chém Nội điện sùng ban, Tuần phòng địa phận huyện Cơ Lang là Trần Tung, đày Tam ban sai sứ, người giữ thành huyện Cơ Lang là Hồ Thanh ra đảo Sa Môn. Vì tội bịa chuyện giặc đến, vô cớ bỏ thành trại mà chạy.

[97] Ngày Giáp Thân, lấy Quang lộc tự thừa Thượng Quan Quân làm Thái tử trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lý hành. Do Trung thừa Đặng Nhuận Phủ và Tri tạp Thái Xác tiến cử. Gia truyền của Quân chép: “Quân được Thái Xác tiến cử làm Ngự sử.” Ngày Ất Mão tháng 4 có thể thấy.

[98] Nội điện thừa chế Tạ Quý Thành quyền đề cử huấn luyện các quân đoàn kết ở Phúc Kiến lộ.

[99] Chiếu: “Sở biên tu minh đường thức sáp nhập vào Sở đề điểm nam giao sự vụ, Sở so sánh tài lợi Hi Hà sáp nhập vào Ty kinh chế tài lợi Hi Hà, việc biên tu lệnh thức và sắc lệnh của một ty đều sáp nhập vào Sở biên tu thức các ty trong nội, sắc lệnh của một lộ, một châu, một huyện đều sáp nhập vào Sở biên tu sắc lệnh, Sở tường định văn tự nhàn nhũng giao cho Khổng mục phòng kiểm chính quan kết thúc[32]. Những việc trên, ngoài những việc còn tồn đọng, đều bãi bỏ, các việc còn lại phải hoàn thành trong hạn định, quan lại quá hạn bãi bỏ phụ cấp.”

[100] Lại chiếu cho Hình bộ và Đại Lý tự, từ nay tâu cử người tập sự công việc, phải cử người đã từng thi hình pháp được thăng hai bậc trở lên.

[101] Ban cấp 100 tờ độ điệp cho Ty chuyển vận lộ Hà Bắc Đông để mua gỗ, cung ứng cho việc sửa chữa kho ở phủ Đại Danh và châu Thiền.

[102] Trước đó, vào dịp Thượng nguyên, Thái hoàng thái hậu bị đau răng không ăn được nên không ra xem đèn. Ngày Ất Dậu, Vua lại cho treo đèn ở lộ đài trong cấm thành, các kỹ nữ và nhạc công đều vào. Thái hậu bệnh chưa khỏi, uống vài tuần rượu rồi đứng dậy. Việc này căn cứ theo 《Tư Mã ký văn》.

[103] Ngày Bính Tuất, ra chiếu rằng tiền phạt đồng của các công nhân bắt trộm cướp đều sung vào quỹ thưởng bắt giặc của Ty chuyển vận.

[104] Ngày Đinh Hợi, Ngô Chương, chủ bạ huyện Nguyên Thành phủ Đại Danh, dâng lên 3 quyển sách chú giải 《Tư Mã Nhương Tư binh pháp》, Vua sai đưa đến Vũ học xem xét. Sau đó, Vũ học tâu rằng có chỗ đáng tham khảo, Vua ra chiếu cho Chương đợi khi Vũ học có khuyết giáo thụ thì thi một bài về binh cơ và một bài về thời vụ để xét bổ dụng.

[105] Ngày Mậu Tý, Bành Nhữ Lệ, Thái tử Trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lý hành, được bổ làm Hiệu khám Quán các, Phán quan Ty chuyển vận lộ Giang Nam Đông. Sau đó Nhữ Lệ từ chối chức Hiệu khám, Vua đồng ý. Khi từ biệt, ông lại dâng sớ bàn việc thời sự, nói rằng: “Không lo không có bề tôi thuận theo, mà lo không có bề tôi can gián; không lo không có bề tôi dám làm, mà lo không có bề tôi dám nói.” Vua thấy lòng trung của ông, an ủi khuyên bảo mãi.

[106] Sai Hướng Tông Nho, Viên ngoại lang Bộ Hình, Kiểm chính công sự phòng Lại Trung thư, và Tất Trọng Diễn, Thái thừa Thường thừa, Kiểm chính công sự phòng Hộ Trung thư, cùng biên soạn sách 《Trung thư bị đối》. Tể tướng Ngô Sung cho rằng thánh vấn thường vượt ngoài dự liệu nên xin soạn sách này. Câu “thánh vấn thường vượt ngoài dự liệu” căn cứ theo thư của Lý Thanh Thần gửi Hứa Tướng. Ngày 11 tháng 8 năm thứ 3, sách hoàn thành.

[107] Ngày Kỷ Sửu, ra chiếu: “Tặng Thượng thư lệnh Hàn Kỳ theo lệ của Triệu Phổ, không gia tặng.”

[108] Lại ra chiếu cho lộ Hà Bắc dùng thóc thường bình để cứu tế dân đói.

[109] Ngày Canh Dần, Ty thể lượng an phủ lộ Phúc Kiến tâu: “Bắt được Lý Viên và Dương Thiền, thuộc đảng của Liêu Ân, xin xử trọng tội ngoài pháp luật để những người bị thích chữ sung quân biết sợ mà không dám bỏ trốn.” Vua phê: “Đều xử trảm, bêu đầu để thị chúng.”

[110] Ngày Tân Mão, Sái Kinh, người tập học công việc ở phòng Lễ của Trung thư, tâu rằng: “Chỉ huy được phê chuẩn từ ngự bảo, chưa được biên chép thành sách, sợ rằng qua thời gian dài, đầu đuôi không còn đầy đủ, xin giao cho quan chức biên chép.” Được chấp thuận, và lệnh cho Sái Kinh quản lý việc này.

[111] Chiếu rằng từ nay các việc tu chú do Tuyên Huy viện và các nơi khác báo cáo, cuối tuần và cuối tháng không cần báo cáo lên Khởi cư viện nữa, mà trực tiếp báo cáo lên sở Nhật lịch của Biên tu viện.

[112] Ngày Nhâm Thìn, lấy Tôn Cố, quyền Tri Khai Phong phủ, Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, làm Đồng tri Xu mật viện sự; và Tô Tụng, Hữu gián nghị đại phu, Tập hiền viện học sĩ, Đồng tu quốc sử, làm Tri Khai Phong phủ.

[113] Ngày Quý Tỵ, chiếu rằng các quan thí hình pháp ở vùng biên giới và địa phận Hoàng Hà, đều phải làm đủ nhiệm kỳ; nếu thời gian chờ bổ nhiệm trong một quý, cũng áp dụng như vậy.

[114] Tam ty xin định giá các loại vải lụa mua trước ở các lộ, Quần mục ty xin đặt trường mua ngựa ở quân Đức Thuận, đều được chấp thuận.

[115] Chiếu rằng Vương Khâm Thần, Đại Lý tự thừa, bị kéo dài thời gian khảo hạch thêm bốn năm, lệnh giáng một chức trước đây không thi hành nữa, các sắc phong chuyển làm Thái thường thừa và giáng làm Thái tử trung doãn đều bị thu hồi. Vì xử lý việc phân định địa giới ở Giải Tử Bình không chính xác, án chưa trình lên, đến kỳ thăng chức, đã đổi làm Thái thường thừa, khi án được trình, có chỉ đặc biệt tước một chức, mà theo pháp luật thì phải giáng từ khi chưa thăng chức.

[116] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng: “Các chức đề cử đều do triều quan đảm nhiệm, tư cách, phẩm phục, bổng lộc, ban thưởng, thứ tự quan chức, tùy tùng đều theo lệ của chuyển vận phán quan. Số lượng quan được cử ở Khai Phong phủ giới đề điểm, các lộ chuyển vận sứ phó phán quan, đề điểm hình ngục, đều giảm bớt.” Sau đó lập pháp: các lộ đề cử tổng cộng 209 người, trong đó 101 người được giảm bớt và điều chỉnh. Sách mực bản ghi chép này, sách chu bản dán thẻ nói: “Số liệu thu thập được mỗi nơi khác nhau, cũng không cần ghi chép, nên xóa bỏ.”

[117] Chiếu cho huyện Thọ Trương[33] tri huyện Phạm Quy và huyện Vận Thành, châu Tế là Ngưu Tại Thiên đều được bổ nhiệm vào chức vụ trong triều. Vì huyện bị lũ lụt, họ đã dẫn dân bảo vệ thành, có công lao.

[118] Lại chiếu rằng: “Ty Thiên giám gần đây đã hiệu chỉnh thời gian nguyệt thực, so với hai pháp Sùng Thiên và Minh Thiên, đã thấy lịch mới chính xác hơn. Lại nữa, trước đây tháng nhuận năm Mậu Tý, nay lại nhuận vào năm Mậu Ngọ, e rằng lý cũng không sai, nên không cần xem xét thêm. Các quan chức được cử nghiên cứu lịch mới đều bãi nhiệm, cấp cho Vệ Phác 20 nghìn tiền lộ phí.” Trước đây, Vệ Phác vào đầu niên hiệu Hi Ninh đã soạn lịch mới, đến năm thứ 10, có người cho rằng dự đoán nguyệt thực sai, nên lại triệu tập Vệ Phác bàn luận. Đến nay, bãi bỏ việc này. Ngày 27 tháng giêng năm Hi Ninh thứ 9, Thẩm Quát tấu và chú thích, đều nên tham khảo. Bản mới bỏ đi, từ “trước đây” trở xuống là bản Chu thêm vào.

[119] Lại chiếu cho Chuyển vận sứ hai Chiết là Tô Giải cùng Tri châu Minh là Lý Định cùng lo việc đóng tàu vượt biển để đi sứ Cao Ly, nếu có việc khác theo chỉ triều đình, đều được phép báo cáo với Đề điểm hình ngục hoặc Chuyển vận phán quan.

[120] Lại chiếu rằng: Các quan chức vì việc mà dùng tiền hối lộ, dù ở nơi thi hành luật Thương, nếu không phải là hành vi bất chính thì không bị trị tội, người nhận tiền sẽ bị xử theo pháp luật.

[121] Ngày Bính Thân, Trung thư tâu rằng: Chuyển vận sứ Thiểm Tây được kiêm chức Chế trí giải diêm sứ, các chức Phó sứ, Phán quan đều bãi kiêm nhiệm; An Đào tâu xin cử Hiệu thư lang Phong Tắc sung chức Thư trạng ty. Đều được chấp thuận. Phong Tắc là người huyện Ngân.

[122] Ban tên cho tháp chùa Can Minh ở Từ Châu là Linh Huệ, ban hiệu cho sư Chân Tịch là Linh Huệ đại sư. Trước đó, Từ Châu tâu rằng: “Nước sông gây họa hơn 90 ngày, thành châu rất nguy cấp, quan trưởng cùng các thuộc hạ đến tháp làm lễ cầu nguyện, hẹn trong 10 ngày nước rút sẽ tâu xin ban tên hiệu. Đến ngày thứ 6, nước quả nhiên rút. Nhưng mưa dầm liên tiếp, nước trong thành không thoát được, dân chúng lo sợ bệnh tật, lại cầu nguyện ở tháp, trời lập tức quang đãng. Chân Tịch họ Trương, tên Nhân Tiết, người Hà Đông. Vào niên hiệu Khai Nguyên, Thiên Bảo đời Đường, ông trụ trì chùa Tiên Phúc ở huyện Hu Di, châu Tứ, ứng hóa rất giống tăng già. Người già truyền rằng, cuối đời Đường loạn lạc, thân xác ông được đón từ châu Tứ, ngược dòng lên, dừng ở Bành Thành. Dân châu cùng nhau lập chùa Can Minh, đến niên hiệu Khánh Lịch mới xây tháp hiện nay. Xin ban hiệu sư và tên tháp để ghi nhận linh ứng.” Truyện Trương Nhân Tiết có trong tập của Lý Chiêu Côn.

[123] Ngày Đinh Dậu, bỏ Ty đề điểm Hi Hà Phiền bộ.

[124] Ty chuyển vận Quảng Nam Tây lộ tâu: “Trước đây trả lại biểu của người Giao Chỉ vì phạm húy, cùng việc trả lại dân và phái sứ sang cống. Nay người Giao Chỉ đã sửa đổi, nhưng viên câu đương công sự của Ty kinh lược là Dương Nguyên Khanh không chịu nhận, sợ gây hiềm khích.” Chiếu rằng: “Nguyên Khanh và các người khác phải nhanh chóng nhận biểu gửi về triều, phái sứ cống đến kinh. Việc phân định biên giới và trả lại dân sẽ có chỉ dụ riêng.” Lại tâu: “Trại Thái Bình ở châu Ung xin theo lệ vùng biên Thiểm Tây, thêm một viên chủ bạ.” Đều chấp thuận.

[125] Ngự sử đài và Cáp môn tâu: “Ngày kỵ ở điện Thần Ngự hành hương, từ nay lệnh quần thần đứng dưới điện, một vị tể tướng lên điện thắp hương quỳ trước lư hương.” Chấp thuận. Trước đó, Tam ty sứ Lý Thừa Chi tâu: “Thần thấy ở điện Thần Ngự dâng rượu, đặt vị trí hoàng đế dưới sân, lên xuống lạy hai lạy, nhưng ngày quốc kỵ, hai phủ đứng trên điện, so sánh nặng nhẹ, về nghĩa không ổn.” Nên có chiếu cho Ngự sử đài và Cáp môn bàn định rồi ghi thành lệnh.

[126] Thượng phê: “Cứ theo lời tâu của Cao Tuân Dụ, việc người Tây Hạ đòi bắt người tên Ất Ngoa, ắt là do có dân thục hộ vượt biên giới, vì đòi không được nên đã phóng hỏa ở chợ để trút giận nhất thời. Rất lo người Khương sẽ trả thù, gây nên mối họa biên giới, nên nhanh chóng chỉ huy Kinh lược ty lộ Phu Diên, chỉ làm theo điệp văn của lộ Hoàn Khánh, điều tra nghe nói dân thục hộ ở trại Nhu Viễn vì đòi người đã từng tự ý xâm nhập địa phận Tây Hạ, hiện đang truy xét. Gửi văn thư đến châu Hựu để thông báo, để tù trưởng người Khương biết đây không phải ý của triều đình, cũng cho thấy bản lộ chưa từng dung túng việc xâm nhiễu.” Sau hơn mười ngày, lại phê lệnh Lữ Huệ Khanh xem xét kỹ tình hình người Khương cấp bách hay không, nếu vạn nhất chưa từng xâm phạm địa giới của họ thì đừng gửi điệp văn này. Tháng 8 năm Hi Ninh thứ 10, ngày Nhâm Ngọ, tháng 9 ngày Ất Mão cần xem xét. Tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2, Tuân Dụ bị tội. Tháng 5 năm Nguyên Phong thứ nhất, ngày Mậu Tuất, Phạm Thuần Nhân bị giáng chức, cần tham khảo.

[127] Ngày Mậu Tuất, Tri châu Khánh là Cao Tuân Dụ tâu xin tránh Chuyển vận phán quan Tôn Huýnh. Chiếu cho Huýnh chuyển sang lộ Hà Bắc. Tuân Dụ và Huýnh từng kiện nhau về việc chợ búa[34], và vì việc kết địch khởi tố nên mới thế.

[128] Ngày Kỷ Hợi, Thái phó kiêm Thị trung trí sĩ, Lỗ quốc công Tăng Công Lượng qua đời, thọ 80 tuổi. Vua thương tiếc, khóc lóc, ngừng triều chính ba ngày, truy tặng Thái sư, Trung thư lệnh, được phối hưởng trong miếu đường của Vua Anh Tông, thụy hiệu là Tuyên Tĩnh. Đến khi an táng, ân lễ được so sánh như Hàn Kỳ, khắc trên bia đầu đề là “Lưỡng triều cố mệnh định sách á huân chi bi”. Một ngày trước đó, xa giá lại đến viếng, đây là ân điển đặc biệt, không theo lệ thường. Vua từng nói với các quan phụ chính: “Công Lượng cẩn trọng chu toàn, trong ngoài không có gì sơ hở, được ủy thác phụ chính, có đầu có cuối, có thể sánh với Trương An Thế đời Hán.” Công Lượng thích tiến cử người tài, được nhiều người giỏi, nhưng tính tình keo kiệt, tích lũy của cải đến hàng vạn, giữ lộc để củng cố ân sủng, bị người đời chê cười. Cuối đời mắc bệnh mê muội, ngày đêm đắm chìm trong ca hát. Ban đầu, chiếu chỉ ngoài di biểu còn tăng thêm ân điển cho hai người, con trai là Tỷ bộ viên ngoại lang Hiếu Tông được thăng một chức, Điện trung thừa Hiếu Thuần được ban cho đồng tiến sĩ xuất thân, các cháu là Thái chúc Thuyết, Vịnh, Nghị, Sân đều được thăng một chức. Sau đó, Hiếu Thuần từ chối xuất thân, xin đem ân điển được ban cho người trong họ chưa được làm quan, Vua đồng ý. Việc Hiếu Tông được ban ân điển, theo bản Chu, được chép từ ngày Kỷ Hợi tháng 2 năm thứ 3. Bản Mực chép về khuyết điểm của Công Lượng, bản Chu đều xóa bỏ vì không có căn cứ, bản mới lại giữ lại. Có chỗ đã chép kèm vào tháng 9 năm Hi Ninh thứ 3.

[129] Ngày Canh Tý, trong mặt trời có vết đen như quả mận, từ đó đến ngày Mậu Ngọ, tổng cộng 19 ngày.

[130] Tăng thông sự nước Nhật Bản là Trọng Hồi đến cống nạp sản vật địa phương.

[131] Tri gián viện Thái Xác cùng Ngự sử đài xét vụ án xử oan chết người ở Tương châu, Thẩm hình viện và Đại Lý tự định đoạt không đúng, các quan lại liên quan lệnh cho Khai Phong phủ xét hỏi. Việc của Phan Khai bị giam ở ngục Ngự sử hơn mười ngày, kết quả điều tra không khác gì Khai Phong, bèn hạ chiếu cho Xác cùng Ngự sử xét hỏi. Xác dùng thủ đoạn đánh đập để tiến thân[35], Ngô Sung vốn ghét tính cách của ông ta. Khi Sung xin nghỉ, Vương Khuê tâu xin dùng Xác. Vua nghe theo lời thỉnh cầu của Khuê[36]. Việc này theo 《Tư Mã Quang ký văn》.

[132] Ngày Tân Sửu, ban chiếu rằng: Thiêm thư Xu mật viện sự Tăng Hiếu Khoan gặp tang cha, cho phép vẫn giữ chức vụ cũ như trước. Việc này căn cứ theo mật ký, cần xem xét lại. Ngày mồng 4 tháng 2, đợi sau khi mãn tang sẽ khởi phục.

[133] Ngày Nhâm Dần, Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng: Hai châu Hoàn, Khánh thiếu thốn bộ lạc người Phiên và dân quân cung tiễn, năm ngoái còn nợ thuế, xin được hoãn lại 7 phần như hộ người Hán, đến mùa thu năm sau mới nộp. Triều đình đồng ý.

[134] Chuyển vận ty lộ Quảng Nam Tây tâu rằng: Châu Quế tăng thêm binh mã, xin được điều 20 vạn thạch lương từ các châu Toàn, Vĩnh và cấp 10 vạn quan tiền từ giám đúc tiền châu Hoành để chi dùng. Chiếu rằng: “Lương thực lấy từ Chuyển vận ty lộ Kinh Hồ Nam, tiền lấy từ số tiền năm ngoái chưa nộp của lộ này là 5 vạn 3 nghìn quan để bổ sung, đồng thời báo cáo số dư từ việc quân hưng, số đã chi và số hiện còn.”

[135] Ngày Quý Mão, Nhập nội phó đô tri, Kinh chế biên phòng tài dụng lộ Hi Hà Lý Hiến tâu: “Các quan cùng kinh chế và đồng quản câu kinh chế khi đi tuần tra đến các châu quân, đều tự xưng là quan lại của hành ty, trên dưới khó tuân theo. Xin rằng từ quan cùng kinh chế trở xuống, khi đi tuần tra, nếu việc liên quan đến biên phòng, bộ lạc người Phiên, dân quân cung tiễn, điều động quan lại, điều binh lính, thay đổi sắp xếp, đợi về ty mới bàn bạc kỹ với trưởng quan, để trên dưới dễ tuân theo.” Triều đình đồng ý, cho phép thêm hai chữ “Đô đại” vào chức vụ của Hiến, các quan quản câu trong ty đều phải trình báo lên lộ.

[136] Ty tu bồi đê vỡ ở Tào Thôn tâu rằng: Trước tính toán công việc tu bồi cần 2 vạn binh lính, nhưng hiện chỉ có hơn 1 vạn 5 nghìn người. Chiếu cho lộ Hà Bắc Đông và phủ Khai Phong điều động thêm 1 vạn người.

[137] Ngày Giáp Thìn, Quyền Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Hồ Nam Chu Sơ Bình xin dùng trâu bò để đổi lấy khí giới, lại xin lấy số lương thảo dư từ việc quân hưng ở lộ Quảng Nam Tây để bổ sung vào số lương thực phải nộp. Triều đình đều đồng ý.

[138] Chiếu rằng: Những hộ bị lũ lụt ở Hà Bắc, nếu qua sông đi kiếm ăn, thì cử quan đến cầu Hà Dương huyện Bạch Mã để cứu tế.


  1. Tháng 12 nguyên bản chép là tháng 1, căn cứ theo các bản khác và quyển 286 cùng năm cùng tháng cùng ngày sửa lại.
  2. Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty, chữ 'ty' nguyên bản thiếu, căn cứ vào văn bản dưới bổ sung.
  3. Quân Hoài Dương, chữ 'Dương' nguyên bản viết là 'Âm'. Theo 《Nguyên Phong Cửu Vực Chí》 quyển 1, Kinh Đông Lộ và 《Tống Sử》 quyển 85, Địa Lý Chí, thời Tống không có 'quân Hoài Âm' mà có quân Hoài Dương, năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 7, lấy huyện Hạ Bì của châu Từ đặt ra. Lại theo 《Nguyên Phong Cửu Vực Chí》 quyển 5, Hoài Nam Lộ và 《Tống Sử》 quyển 88, Địa Lý Chí, châu Sở có huyện Hoài Âm. Chỗ này 'quân Hoài Âm' chắc là nhầm của quân Hoài Dương, nên sửa lại.
  4. Thiếu mưa tuyết hoặc mưa tuyết quá nhiều, ba chữ 'hoặc mưa tuyết' nguyên bản thiếu, theo 《Tống Hội Yếu》 Chức quan 26.10 bổ sung.
  5. Luân phiên lấy bảo đinh từ tứ đẳng trở lên để thúc thuế: chữ 'đẳng' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 65-20 bổ sung
  6. Mỗi người phải thúc hơn một trăm hộ: chữ 'tu' dưới nguyên bản thừa chữ 'cố', theo sách trên đã xóa
  7. Tổng số không được vượt quá số tiền thuê hộ trưởng trước đây: chữ 'nguyên', sách trên cùng trang viết là 'sung'
  8. Chữ 'Thôi' dưới nguyên có chữ 'Phán' thừa, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66/1 mà bỏ.
  9. 《Tống hội yếu》 chép là 'Ty lục tham quân'.
  10. Chữ 'giới địa' nguyên bản đảo ngược, theo sách trên mà sửa lại.
  11. Chữ 'lộ' nguyên bản thiếu, theo văn dưới và 《Tống hội yếu》 thực hóa 30/14 mà bổ sung.
  12. Chữ 'hại' nguyên là 'tức', theo sách trên mà sửa.
  13. 'Mua' nguyên bản là 'viên', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 24-16 sửa lại.
  14. 'Triệt' nguyên bản là 'Thức', căn cứ theo bản trong các, quyển 283 năm Hi Ninh thứ 10 tháng 7 ngày Tân Mùi và bài 'Luận Trương Giáp bất khả dụng tráp tử' trong 《Loan thành tập》 quyển 45 của Tô Triệt sửa lại.
  15. Chữ 'lang' trong 'Kim bộ Viên ngoại lang Trần Tri Kiệm' nguyên bản bị thiếu. Theo 《Tống sử》 quyển 163, Chức quan chí, Hộ bộ thuộc có Kim bộ Lang trung, Viên ngoại lang, nay bổ sung.
  16. 'Hội' trong 'báo cáo sai sự thật' nguyên bản viết là 'hạ', nay theo chính văn sửa lại.
  17. 'Lệ' trong 'Bành Nhữ Lệ' nguyên bản viết là 'Lệ', nay theo các bản khác sửa lại. Xem 《Tống sử》 quyển 346 có truyện Bành Nhữ Lệ, Nhữ Lệ từng giữ chức Giám sát Ngự sử Lý hành, Giang Tây Chuyển vận Phán quan, Đề điểm Kinh Tây Hình ngục.
  18. Chữ 'Minh' nguyên bản viết là 'Lạc', căn cứ vào bản trong các sách và chính văn sửa lại.
  19. Chữ 'dụng' nguyên là 'đồng', theo bản trong các kho sửa lại.
  20. 'Đô' chữ nguyên thiếu, theo các bản, văn trên và 《Tống sử》 quyển 183 《Thực hóa chí》 bổ.
  21. 'Nguyên' nguyên là 'cửu', theo các bản sửa.
  22. 'Địa' nguyên là 'thành', theo 《Tống sử》 quyển 183 《Thực hóa chí》 sửa.
  23. Chữ 'lang' nguyên bản là 'tức', theo các bản khác sửa lại.
  24. Chư lộ chuyển vận sứ phó phán quan (hai chữ 'sứ phó' nguyên bản đảo ngược. Xét: Các lộ chuyển vận sứ, phó sứ và phán quan đời Tống đều gọi là tào thần, việc quan trọng không nên bỏ qua sứ mà giao cho phó sứ và phán quan. Cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 43-4, năm Hi Ninh thứ 9 'ngày 12 tháng 10, chiếu rằng tiền thường bình, lương thóc, trang sản, ruộng đất hộ tuyệt, bảo giáp, nghĩa dũng, nông điền, thủy lợi, sai dịch, phường trường, sông đò, giao cho ty đề cử chuyên quản, chuyển vận sứ, phó sứ, phán quan kiêm lĩnh', chỗ này 'phó sứ' rõ ràng là đảo ngược của 'sứ phó', nên đổi lại.
  25. 28
  26. Chữ 'hai' trong 'hai mươi vạn' nguyên bản viết là 'một', căn cứ theo các bản khác và sách 《Tục thủy kỷ văn》 quyển 15 sửa lại.
  27. Chữ 'phê' trong 'thượng phê' nguyên bản viết là 'chiếu', căn cứ theo các bản khác và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 65 chuyện Thái Xác muốn hãm hại Ngô Sung sửa lại.
  28. 'Ngục' nguyên là 'hậu', theo sách trên và 《Tục thủy kỷ văn》 quyển 15 sửa
  29. 'Giả' nguyên thiếu, theo các bản và sách trên bổ sung
  30. 'Đồng' nguyên văn là 'Vấn', theo các bản khác sửa lại.
  31. Họa trong nhà 'họa' nguyên là 'quá', theo các bản sửa lại.
  32. Lệnh Khổng mục phòng kiểm chính quan kết thúc 'lệnh' nguyên là 'hợp', theo các bản sửa lại.
  33. Thọ Trương, chữ 'Trương' nguyên bản là 'Trưởng'. Xét: Nhà Tống không có huyện 'Thọ Trưởng' mà châu Vận có huyện Thọ Trương, xem 《Tống sử》 quyển 85, 《Địa lý chí》, 《Nguyên Phong Cửu vực chí》 quyển 1, chữ 'Trưởng' ở đây rõ ràng là sai, nên sửa lại.
  34. 'Từng' nguyên là 'đương', theo nghĩa văn mà sửa.
  35. 'Bác' nguyên là 'Chuyên', theo các bản khác sửa lại.
  36. 'Tòng' nguyên là 'Phê', theo các bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.