"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 288: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)

Từ tháng 2 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng 3 cùng năm.

[1] Tháng 2, ngày Bính Ngọ (mùng 1), Đề cử Ty thị dịch là Du Sung tâu: “Lộ Vĩnh Hưng quân là nơi trọng yếu của hai Xuyên, Tần Phượng, Hi Hà, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, xin đều đặt Ty thị dịch, cùng với Ty kinh chế biên phòng tài dụng Hi Hà lộ đã đặt Ty thị dịch tương trợ lẫn nhau, để thu hút khách thương qua lại. Xin cho mượn 40 vạn quan tiền trong kho nội phủ làm vốn, đợi khi thu được tiền thị dịch ở Tần châu sẽ hoàn trả.” Chiếu cho Ty tài dụng cùng bàn bạc rồi tâu lên. Sau đó, Ty tài dụng tâu: “Lo rằng nếu để quan khác phụ trách, sẽ phân biệt tiền vật của các ty, khiến việc buôn bán qua lại bị cản trở, xin cùng với Ty kinh chế của bản ty bàn bạc, trình bày thứ tự thiết lập riêng.” Được chấp thuận.

[2] Ty chuyển vận Quảng Nam Tây lộ tâu: “Trước đây, người Giao quấy nhiễu biên giới, đại quân đi đánh dẹp, việc điều động quân phí rất nhiều. Bản ty trong lúc vội vàng, không theo quy chế thường, đã chọn các quan lại, cử nhân có năng lực phân công đốc thúc dân phu, lương thảo để ứng phó cho quân đội. Nay xin chia làm ba hạng theo công lao, để ban thưởng.” Chiếu cho Trung thư: “Nếu đã nhiều lần tâu mà chưa thi hành, có thể xét mức độ nặng nhẹ, lượng tình ban ân.” Tập ngự là tấu chương của Chuyển vận sứ Trương Giáp.

[3] Ngày Đinh Mùi (mùng 2), Ty đề cử Giang Nam Tây lộ tâu: “Huyện Vĩnh Hưng, quân Hưng Quốc còn nợ tiền dịch từ năm Hi Ninh thứ 6 đến năm thứ 9 là hơn 12.000 quan. Dân huyện này đất xấu, thuế nặng, lại nhiều lần bị thiên tai, tiền dịch cũng hơi nặng, xin đặc biệt miễn giảm.” Được chấp thuận.

[4] Chuyển vận ty tâu: “Theo tờ trát của Xu mật viện, quân Kiến Xương gần đây bị Liêu Ân cướp phá, nhân lúc dân tình muốn bảo vệ chỗ ở, có thể tu sửa thành trì, xin tính toán vật liệu và nhân công rồi tâu lên. Nay xét vật liệu và nhân công, nếu dân phường quách đóng góp không đủ, thì lệnh cho hai huyện Nam Phong[1] hộ loại ba trở lên đóng góp theo thứ bậc, nếu vẫn không đủ, thì xin cấp tiền của triều đình.” Vua nghe theo, nhưng phải đợi năm được mùa, chia làm ba đợt để tu sửa.

[5] Chiếu cho Thái Diên Khánh kéo dài thời gian khảo xét thêm hai năm. Lúc đó Diên Khánh bị khiển trách, giáng từ chức Long đồ các trực học sĩ xuống làm Thiên chương các đãi chế, theo phép phải khảo xét, nên đặc cách kéo dài thêm.

[6] Ngày Kỷ Dậu, sai các quan đại thần cầu mưa.

[7] Chiếu cho Tỷ bộ viên ngoại lang Tất Trọng Hùng giảm thời gian khảo xét hai năm; Hữu tán thiện đại phu Lý Hi giảm một năm, và được ưu tiên bổ nhiệm; cựu Quế châu quan sát chi sứ[2] Hoàng Trạch được thăng hai bậc; tiến sĩ Trương Tổ Lễ được bổ nhiệm vào ngạch. Trọng Hùng và những người khác vì lo việc quân nhu cho An Nam, Trạch và những người khác vì có công theo quân.

[8] Đề cử ty lộ Hoài Nam Đông tâu: “Thu mua và đổi được thóc lúa, ngoài số dự trữ, còn quản lý khoảng hơn tám triệu thạch. Lo ngại tương lai sẽ tích trữ lâu, khó di chuyển, hơn nữa lộ này rất thiếu tiền mặt, nghe nói Kinh Đông bị lụt, xin cho thu gom tiền vốn, chuyển đến các châu huyện gần lộ Hoài Đông; hoặc vận chuyển từ Thanh Hà, dùng lương thực hoàn trả, lại trên số tiền vốn đổi thóc cho phép tính lãi, việc vận chuyển bộ cũng cho phụ trách.” Lại có Hoàng Liêm, quan thể lượng an phủ lộ Kinh Đông Đông tâu: “Lộ Tây cùng Từ Châu, quân Hoài Dương có hơn một triệu khoảnh ruộng tốt, do nước rút chậm, không kịp gieo mạch, ruộng mùa thu cũng mất kế hoạch. Xin mượn mười vạn quan tiền Thường Bình từ các châu huyện trù phú dọc sông lộ Hoài Nam để mua thóc, hoặc mượn mười vạn thạch từ số lương thực nộp bằng tiền năm ngoái, tính theo giá đổi cũ để làm số tiền mượn, vận chuyển bằng đường thủy đến Kinh Đông, để phòng cứu tế, cho phép ty Nông tự điều động.” Chiếu cho các quan đề cử lộ Kinh Đông và Hoài Nam Đông họp bàn ở biên giới rồi tâu lên.

[9] Chiếu cho Tăng Hiếu Khoan sau khi mãn tang được khởi phục. Sách 《Trung thư thời chính ký》 ngày 26 tháng nhuận có thể tham khảo.

[10] Ngày Canh Tuất, Tiết độ sứ Chiêu Hóa, Đồng bình chương sự, tập tước Bộc quốc công là Tông Nghị mất. Truy tặng Thái sư, Trung thư lệnh, Quảng Lăng quận vương, thụy là Trang Hiếu, di biểu suy ân cho mười hai người, ban thưởng cho ba người.

[11] Quyền phát khiển Tam ty sứ, Thiên Chương các đãi chế là Lý Thừa Chi được quyền làm Tam ty sứ.

[12] Sở Tường định lễ văn tâu: “Việc tế Nam Giao, dâng hưởng ở cung Cảnh Linh, triều hưởng ở Thái Miếu, đại thể đều theo lễ nhà Đường, đến như đàn duy, vị thần, xe kiệu lớn, nghi trượng, nghi vật, cũng dùng chế độ các đời. Nếu đều dùng lễ tiên vương, vốn đã khác nhau, nếu đều dùng chế độ các đời, thì trong đó tình lý văn tự sai lầm rất nhiều. Có những quy mô sơ sài, mà đã theo lâu, khó thay đổi, có những việc làm theo nghi thức nhất thời, mà không đủ làm khuôn mẫu. Xin trước tiên trình bày một hai điều, chờ chỉ dụ, để làm thể thức.” Chiếu cho tường định những việc cần thay đổi rồi tâu lên.

[13] Ghi chép: Hoàng thành sứ, quyền phát khiển Quảng Nam Tây lộ kiềm hạt, trú tại Thuận Châu là Giới Định, cháu là Thiên Hữu được bổ làm Tam ban tá chức. Giới Định theo Quách Quỳ đi đánh phương Nam, đi đến đâu cũng thường xông lên trước phá giặc, đến khi ở lại Thuận Châu mới lập, nuôi dưỡng quân sĩ, tu sửa thành lũy, vẽ bản đồ sông núi, đường sá, phương pháp chiến trận, đều có tiếng khen. Sau nhiễm lam chướng mà chết, không có con, nên có mệnh lệnh này.

[14] Xu mật viện tâu: “Các lộ đã tập hợp các tướng quan, áp đội sứ thần chuyên lo việc dạy bảo, ngoài ra nghe nói những nơi không thuộc quản lý của các tướng tập hợp binh lính, quan võ hoàn toàn không huấn luyện, tri châu cũng không đốc thúc kiểm tra, khiến võ nghệ trở nên kém cỏi. Xin lệnh cho các lộ kinh lược an phủ, tổng quản, kiềm hạt ty chỉ huy các quan tại chức, thường xuyên dạy bảo. Nếu triều đình sai quan đến kiểm tra, thấy võ nghệ kém cỏi, quan tại chức sẽ bị xử phạt nghiêm khắc.” Được chấp thuận.

[15] Quyền phát khiển đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, Tập hiền hiệu lý Thái Thừa Hi tâu: “Thần nghĩ rằng bệ hạ thương xót dân chúng, xuất phát từ lòng nhân ái, bàn về phép nghĩa thương, sai bọn thần thi hành. Nay cứ hai thạch thì nộp một đấu, thật là nhẹ. Thần quản lý hai mươi hai huyện, đã thực hiện ở chín huyện, mỗi năm thu được mấy vạn hộc, xin từ mùa hạ thuế năm nay, không cần báo lên triều đình mà cứ thi hành.” Bèn hạ chiếu cho các huyện trong kinh đều lập nghĩa thương, việc thuộc về Thường bình ty. Thực lục chép lời tâu của Thừa Hi rất sơ lược, nay theo bản chí. Ngày Quý Dậu tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10, lần đầu lập nghĩa thương.

[16] Hạ chiếu cho ty tu bế cửa đập Tào Thôn kiểm tra việc ăn uống của binh lính, nếu có bệnh tật, lệnh cho y quan hết lòng chữa trị, tâu lên đầy đủ từng li từng tí, sẽ bàn thưởng.

[17] Ngày Tân Hợi, ty trà trường Thành Đô phủ lộ xin từ nay các khoản chi trả cho các ty đều trả bằng tiền mặt, vàng lụa, không dùng trà để chiết khấu, để tránh việc các ty tăng giảm giá trà, gây hại cho phép trà. Được chấp thuận.

[18] Minh châu tâu: “Nhận được công văn của Thái tể phủ nước Nhật Bản nói rằng: Người đi theo sứ giả là Tôn Trung cử tăng nhân Trọng Hồi dâng 200 tấm lụa và 5.000 lạng thủy ngân. Bản châu xét thấy Tôn Trung không phải là sứ thần được cử đi, mà chỉ là thương nhân đi biển, nhưng lễ cống phụng lại không tuân theo quy định của các nước. Xin báo lại bằng công văn này, và xin giao lại tiền tứ vật cho Trọng Hồi.” Triều đình đồng ý.

[19] Ngày Nhâm Tý, Quyền Kinh Hồ Nam lộ Chuyển vận phó sứ Chu Sơ Bình và các quan tâu rằng theo chỉ dụ triều đình chiêu dụ ba châu, một trấn của Dương Quang Tiếm ra hàng, các sứ thần phụ trách chiêu dụ đã ở biên giới hơn một năm, vào sâu nơi hiểm trở, thực sự có công lao. Chiếu chỉ cho thăng chức và ban tặng lụa theo thứ bậc.

[20] Chiếu cấp 30 vạn quan tiền diêm sao cho Quần mục ty mua ngựa.

[21] Văn Tư sứ, Tri phủ châu Chiết Khắc Nhu được lĩnh chức Trung Châu thứ sử. Do Kinh lược sứ Hà Đông lộ Hàn Giáng tâu rằng Khắc Nhu đã kế tập được sáu năm, xin theo lệ của Chiết Kế Tổ, ưu đãi thăng chức. Lại tâu xin cho các cung thủ mua ngựa cao trên 4 thước 4 tấc, và buộc phải nộp thêm tiền bù chênh lệch giá. Triều đình đồng ý, nhưng miễn nộp thêm tiền.

[22] Chiếu phục chức cho tông thất là Tiền Hữu Giám môn suất phủ suất Thúc Truân và Bất Khi đều làm Hữu Nội suất phủ phó suất. Bất Khi vì vào điện trong thời gian để tang mà xông xáo, Thúc Truân vì đánh chết người hầu bị tội. Đến nay, đặc cách phục chức.

[23] Lại chiếu cách chức một bậc của Khắc trạch quan Tổ An Đạo. Khi ấy, Vua vì Tăng Công Lượng cử tang, An Đạo chọn ngày 21 là tốt, sau đó tự tâu rằng ngày đó xung với quốc âm, xin đổi sang ngày 22, nên bị trách phạt.

[24] Ngày Quý Sửu, Đô đề cử Thị dịch ty xin cho phép chuyển đổi hàng hóa tồn đọng trong ty theo giá thị trường, nếu bị lỗ so với giá gốc thì hàng năm sẽ so sánh và trừ vào khoản tiền dự phòng thất thoát. Triều đình đồng ý.

[25] Chiếu rằng: “Từ nay, khi thân hành tế lễ ở Thái miếu, đốt sách ở ngoài cửa Nam Thần. Khi tế lễ ở Giao khâu, dùng chén bầu để dâng lễ mà không dùng để rót rượu. Ở ngoài vòng trong của đàn tế, các vị trí sao xung quanh, cứ hai bước thì trồng một cọc tre và buộc ba vòng dây xanh để làm ranh giới.” Trước đó, Đề điểm Nam giao sự vụ Hướng Tông Nho tâu: “Xa giá đến Thái miếu hành lễ xong, đốt sách ở ngoài cửa Trai điện, quân cấm vệ ngồi giáp ở đây, đất đai chật hẹp. Xin đốt sách ở phía đông ngoài cửa Nam Thần.” Lại tâu: “Ở ngoài vòng trong của đàn Giao, các vị trí sao không có ranh giới. Xin theo vòng trong, dùng cọc tre và dây xanh để làm ranh giới.” Lại tâu: “Áo mũ và đồ dùng phần nhiều theo lễ hiện nay, chỉ có chén bầu theo cổ chế, e rằng không phù hợp. Lại rót rượu vào đĩa, e rằng giống như lễ dâng rượu, không hợp với ý nghĩa của việc không dâng rượu cho thần lớn. Xin giao cho quan Lễ bàn bạc kỹ.” Đến đây, Lễ viện tâu, cho rằng đốt sách ở ngoài cửa Nam Thần, dùng dây xanh để làm ranh giới cho các vị trí sao, và dùng chén bầu để dâng lễ mà không rót rượu, nên theo ý kiến của Tông Nho. Còn việc muốn trang trí chén bầu thì không phải là cổ chế, theo nghĩa thuyết của tiên nho[3], chỉ nói “chẻ bầu làm chén”, mà không nói có trang trí, lại lấy cái tự nhiên để tượng trưng cho tính chất của trời đất. Vì thế có chiếu này.

[26] Ngự dược viện tâu: “Có một số dược liệu không có bán ở chợ, xin giao cho các lộ Chuyển vận sứ liệt kê các châu quân có sản xuất. Nếu thiếu, bản viện sẽ lấy các loại cần thiết để cung cấp.” Theo lời tâu.

[27] Quân khí giám tâu: “Kho da sừng quản lý da và sừng của trâu, hổ, báo, hươu, nai, tích trữ đến hàng vạn, xin cử quan viên kiểm tra, ngoài những thứ có thể dùng chế tạo vũ khí và keo, còn lại những da sừng kém chất lượng, phân loại rồi bán.” Theo lời tâu.

[28] Thượng phê: “Con của Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ, Hà Đông đệ lục tướng Trần Tế Mỹ là Tòng Thiện, trước làm Chỉ sử ở giáo tập Mã quân tại kinh, gần đây vì cha mất mà về chịu tang. Nên vì Tế Mỹ từng lâu ở Hà Ngoại, có nhiều chiến công, cho làm Chỉ sử ở Lân Phủ lộ, lại ban cho 200 tấm lụa.”

[29] Ngày Giáp Dần, Ung Châu quan sát sứ Tông Huy được phong làm Hoài Khang quân Tiết độ sứ, tước Bộc Quốc công. Hai kỷ sử đều chép việc này.

[30] Đô đại đề cử ty ứ điền tâu rằng, ở Kinh Đông và Kinh Tây có hơn 5.800 khoảnh đất cằn cỗi của quan và tư, xin theo lệ sai sứ thần đến quản lý. Triều đình đồng ý.

[31] Chiếu chỉ cho Tân tri Đơn Châu, Đô quan lang trung Lương Đoan được bổ nhiệm làm cung quan sai khiển; Tân quyền tri Thái Châu, Đồn điền lang trung Đoàn Phùng được bổ nhiệm làm hợp nhập sai khiển. Vì Tri gián viện Thái Xác tâu rằng Đoàn Phùng không có tài năng, xin thu hồi mệnh lệnh mới ban. Năm Nguyên Hựu thứ 2, tháng 2, ngày Tân Mão, chiếu chỉ cho Triều tán đại phu Đoàn Phùng được bãi chức trí sĩ, làm quản câu cung quan. Phùng vào thời Hi Ninh làm Tri Hưng Quốc quân, từng bàn việc miễn dịch không tiện. Đầu năm Nguyên Phong, Tể tướng Ngô Sung chuyên tiến cử những người có ý kiến khác với Hi Ninh, nên bổ nhiệm Phùng làm Tri Thái Châu. Gián quan Thái Xác tâu: “Xét thứ bậc của Phùng chỉ nên làm Thông phán, nhưng Trung thư lại bổ nhiệm làm Tri châu. Phùng vốn không có tài năng, chỉ vì từng chỉ trích tân chính nên được khen thưởng, làm tăng thêm tình trạng bội công khinh lệnh, khiến quyền thăng giáng của thiên tử bị bề tôi lợi dụng.” Chiếu chỉ cho Phùng được bổ nhiệm hợp nhập sai khiển, nên được làm Thông phán Lãng Châu. Phùng tránh xa, xin làm phân ty, nên được cho về hưu với chức vụ cũ. Đến lúc này, Tả ty giám Vương Địch tiến cử, nên có chiếu chỉ này. Sử mới bàn rằng: “Thái Xác mưu gian cầu tiến, chuyên nịnh Vương An Thách, cho rằng bàn luận tân pháp là bội công khinh lệnh.” Nay bỏ đi 12 chữ từ “Tể tướng Ngô Sung” trở xuống.

[32] Ngày Ất Mão, Phu Diên lộ Kinh lược sứ Lữ Huệ Khanh tâu rằng, gần đây đã chia quân mã thành chín tướng, đã soạn xong điều ước, xin sớm ban chỉ huy. Chiếu chỉ: “Huệ Khanh hãy xem xét tình hình, việc định đoạt quân tướng nên làm kịp thời, cẩn thận.” Sau đó, Vua phê: “Trong điều ước chín tướng, việc định tướng, phó, e rằng cần chọn lại.” Chiếu chỉ giao cho Xu mật thừa chỉ ty cùng Lữ Đại Trung, Tiết Xương Triều xem xét rồi tâu lên.

[33] Ngày Nhâm Tuất, Yến Quốc công chúa mất. Đây là con gái lớn của Vua, do Hoàng hậu sinh ra.

[34] Ngày Mậu Thìn, chia mệnh cho các phụ thần cầu mưa ở giao miếu và xã tắc, đồng thời ra lệnh cho các châu quân ở các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Hoài Nam đang gặp hạn hán, các trưởng lại phải cầu đảo ở các danh sơn và linh từ.

[35] Quyền phát khiển Hà Bắc chuyển vận phán quan, Thái tử Trung Doãn Uông Phụ Chi (chữ “Uông” nguyên bản viết là “Vương”, căn cứ theo điều tháng 3 ngày Ất Hợi trong quyển này và các điều ngày Nhâm Dần tháng 4 năm Hi Ninh thứ 10, ngày Kỷ Hợi tháng 5 năm Nguyên Phong thứ nhất trong sách này mà sửa lại) được bổ nhiệm làm Đề điểm Hà Bắc Đông lộ hình ngục. Do Tri châu Định Châu Tiết Hướng tâu rằng: “Phụ Chi trước đây đã tâu rằng quân lương ở châu này thô kém, sau khi xét định, triều đình đã điều Phụ Chi sang Đông lộ. Nay Hà Bắc đã hợp thành một lộ, xin cho ông tránh đi.” Vì vậy lại đổi chức cho Phụ Chi.

[36] Nhà Vua phê chuẩn tờ chiếu: “Trước đây, An Nam chiến trác đô giám Dương Tòng Tiên và những người khác, đã dẫn quân đơn độc, liều lĩnh xông vào vùng đất địch không lường trước được, tiến sâu vào lãnh thổ giặc, đánh lớn nhỏ mấy chục trận, tuy không thu được nhiều chiến công, nhưng quân ta cũng không bị tổn thất. Nay quân về, bị giam trong ngục, đã gần một năm, xét công lao phục vụ vương sự, thật đáng thương xót, huống chi trước đây đã được ân xá, nên tha bổng tất cả. Những tướng sĩ có công trong đoàn quân ấy, hãy tuỳ theo thứ bậc mà ban thưởng và tâu lên.” Sau đó, lệnh cho Tòng Tiên về kinh. Sử cũ chép đầy đủ tờ chiếu này.

[37] Ngày Kỷ Tỵ, ra chiếu: “Những khoản tiền tiết kiệm được từ việc nghĩa dũng, bảo giáp lên phiên, ngoại trừ lương thực được giữ nguyên, còn lại đều phải niêm phong. Các lộ nghĩa dũng, bảo giáp thuộc quyền quản lý của Đề điểm hình ngục ty, còn ở phủ Khai Phong thì thuộc quyền quản lý của Đề điểm ty.”

[38] Tri châu Lô Châu Nhâm Cấp tâu rằng, người Man ở trại Nạp Khê là Phủ Vọng Cá Thứ xin được cấp lương. Nhà Vua phê rằng, có thể cấp một lượng vừa đủ để vỗ về họ. Cấp là người Mi Sơn. Ngày 9 tháng giêng năm sau, ông và Trình Chi Tài kiện nhau.

[39] Ra chiếu rằng, các quan văn võ đang làm việc ở ngoài, nếu xin thi đổi chức, phải đợi khi đã thay người mới được thi.

[40] Ra chiếu cho Ty đề cử trà trường các lộ ở phủ Thành Đô, các châu quân có đặt trường bán trà, tri châu và thông phán đều kiêm chức đề cử; nơi nào có kinh lược sứ thì giao riêng cho thông phán kiêm nhiệm.

[41] Chiếu cho quan Tri châu Liêm châu, Phó sứ Cung bị khố Lý Thời Lượng giáng một bậc, Giám áp, Hữu thị cấm Vệ Lập Chi giáng hai bậc, Tham quân Ty hộ Khổng Nguyên Tôn bị cách chức. Vì tội không cứu hỏa, khiến khí giới bị cháy mất hai mươi bốn vạn, gặp lúc đại xá nên chỉ bị trách phạt nhẹ.

[42] Ngày Canh Ngọ, Đô chuyển vận sứ Hà Đông Trần An Thạch tâu: “Năm nay mùa màng bội thu, nên mở rộng việc tích trữ. Xin tạm ngừng việc mua thóc ở Hà Bắc, lấy ba mươi vạn quan tiền trong kho Kinh Sáo để mua lương thảo, phòng khi triều đình có việc cấp bách cần dùng. Nếu tích trữ lâu ngày, xin cho Chuyển vận ty đổi theo giá thường bình.” Chiếu cấp mười lăm vạn quan tiền, còn lại đều theo lời tâu.

[43] Chiếu rằng: “Các quân lính tử trận, tùy theo trận thắng hay thua mà cấp tiền tuất: Tướng hiệu ba mươi tấm lụa, binh lính hai mươi tấm; nếu trận thua, mỗi loại giảm một nửa. Dân binh cũng theo quy định này. Lập thành lệnh.”

[44] Lại chiếu: “Các thành, trại, bảo, trấn đã cấp tiền thường bình trong mười ngày, phải báo số lượng lên Ty Nông tự, cuối năm báo tổng số lên triều đình.”

[45] Tam ty tấu: “Việc chi thu ở các kho trong kinh thành quá nhiều, từ Ngự trù đến Điếm trạch vụ, xin cho các quan Giám được tiến cử.” Đều theo lời tâu.

[46] Ngày Tân Mùi, chiếu rằng: “Quyền Ty lý tham quân Quế châu Từ Bá Giai, Nhiếp Huyện úy Thạch Khang, Liêm châu Từ Bá Chuẩn đều bị thu hồi các văn bằng từ khi nhậm chức, cách chức, đuổi về, vĩnh viễn không được bổ dụng; dân thường Từ Kiến An đều bị đánh bằng trượng, đày đi biên quản ở Kinh Hồ Bắc lộ.” Vì không biết việc Từ Bá Tường trước khi được xá tội đã thông thư với Giao Chỉ, nên bị xử đặc biệt. Bá Tường trước đây là thường dân, chiêu mộ người đánh giặc Giao, được phong làm Hữu thị cấm, làm Tuần kiểm vùng duyên hải. Quân triều đình đến sông Phú Lương, Càn Đức sai người đưa thư của Bá Tường viết năm Hi Ninh thứ sáu, trong thư tự xưng là “Cự Tống du sĩ thần Bá Tường”, dạy cách quấy nhiễu biên giới, và cho rằng triều đình phụ công lao của mình, nên oán hận, muốn bỏ mồ mả, từ bỏ thân thích để về với họ. Do đó, chiếu bắt Bá Tường, Bá Tường liền tự tử, còn Bá Giai là anh cùng mẹ, Bá Chuẩn là em họ, Kiến An là con của Bá Tường. Bá Tường được phong quan vào ngày 22 tháng 3 năm Hi Ninh thứ chín.

[47] Ngày Nhâm Thân, ban chiếu cho quan chức hai huyện Quy Tín và Dung Thành thuộc châu Hùng, Tây đầu cung phụng quan Lý Trạch, và Hữu ban điện trực Chu Ngạn Đồ, vì tại nhiệm không gây phiền nhiễu, cùng việc tuần phòng không để xảy ra sự cố, nên Lý Trạch được thăng làm Cáp môn chi hậu, Chu Ngạn Đồ được thăng một bậc và tiếp tục tại nhiệm.

[48] Tháng 3, ngày Ất Hợi mùng một, lệnh cho Thái tử trung doãn, quyền phát khiển Đề điểm hình ngục lộ Hà Bắc Đông Lộ là Uông Phụ Chi, cùng Văn tư sứ, Đô giám ty Đồn điền là Tạ Vũ Khuê, cùng quản lý việc tu sửa đê điều.

[49] Chiếu lệnh cho sứ thần đi sứ Cao Ly, phó sứ và đoàn tùy tùng khi qua các châu quận, việc đón tiếp và chiêu đãi đều theo lệ như đi sứ Liêu.

[50] Tri châu Thuận là Đào Bật xin giám sát đạo quán Ngọc Long ở châu Hồng, nếu vượt quá số lượng nhân viên, thì xin được nghỉ hưu. Chiếu lệnh cho Triệu Tiết xem xét, nếu thực sự già yếu bệnh tật, thì chọn một quan viên có năng lực thay thế Đào Bật về Quế Châu.

[51] Chiếu lệnh cho Lễ bộ tổ chức thi cử.

[52] Ngày Mậu Dần, ty Chuyển vận lộ Kinh Tây Nam tâu: “Bí thư giám Cao Phú nói: Dân châu Đường xin được khai khẩn đất đai để nộp thuế, thực sự có lợi cho cả công và tư. Xin cho dân huyện Nam Dương thuộc châu Đặng[4] có đất mà không nộp thuế hoặc thuế ít đất nhiều, đặt thời hạn một năm để tự khai báo, căn cứ vào diện tích đất mà định mức thuế và cấp giấy chứng nhận, cho làm nghiệp vĩnh viễn, nếu hết hạn mà không khai báo, thì cho phép người khác tố cáo.” Được chấp thuận.

[53] Chiếu lệnh: “Đô thủy giám điều chỉnh dòng nước ở cửa sông Biện, tiếp nối sông Hoài và sông Biện để vận chuyển. Chỗ đê sông lớn ở thôn Tào bị vỡ, nước tuy đã trở lại dòng cũ, nhưng chưa thông suốt, nên dùng máy bừa sông để nạo vét, ba ngày một lần báo cáo tiến độ nạo vét.”

[54] Ban thưởng tiền đặc biệt cho binh lính tham gia đắp đê chặn lũ, tổng cộng 18.407 người. Số liệu nhân khẩu căn cứ theo 《Ngự Tập》.

[55] Ty Đề cử lộ Hoài Nam Đông xin miễn giảm tiền dịch vụ tăng thêm của dân hộ ngoài định mức, được chấp thuận.

[56] Ngày Kỷ Mão, Ty Chuyển vận Quảng Nam Tây lộ xin hạ lệnh cho Ty Chuyển vận Kinh Hồ Nam lộ[5]chi trả lương thực từ hai châu Toàn và Vĩnh để làm quân lương dự trữ cho châu Quế. Chiếu chỉ cho Kinh lược ty cùng Ty Chuyển vận xem xét, giảm bớt quân đồn trú, cho quân lính đến Toàn, Vĩnh để ăn. Vì có chỉ dụ rằng: “Sắp vào hè nóng nực, quân phương Bắc không chịu được nắng, có thể di chuyển quân đồn trú ở Quế châu qua núi, đến Toàn, Vĩnh để ăn, không chỉ giảm bớt gánh nặng vận chuyển lương thực, mà còn có thể tiêu thụ lương thực tồn đọng kịp thời, không để lâu ngày hư hỏng.”

[57] Chiếu ban cho Cao Ly An Đào và những người khác hôm nay xuất phát ra đi[6], ban yến tiệc ở viện Vĩnh Ninh.

[58] Ban 50 độ điệp cho Ty Chuyển vận Kinh Đông Tây lộ để mua gỗ sửa cầu.

[59] Ngày Canh Thìn, quyền Ty Chuyển vận Thiểm Tây lộ, Độ chi Lang trung Bì Công Bật được bổ nhiệm làm Trực Chiêu Văn quán, giữ chức Đô Chuyển sứ.

[60] Thái tử Trung doãn Vương Tử Thiều được cử làm Tri Lễ viện, đồng thời đặt cục ở đường Tư Thiện để tu chỉnh 《Thuyết văn》. Ngày 9 tháng 6 năm thứ 5, sách hoàn thành.

[61] Ban 500 độ điệp cho Tam ty để đổi lấy 5 vạn quan tiền thượng cung, bồi thường cho Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ.

[62] Ngày Tân Tỵ, xét xử các tù nhân, giảm một bậc tội cho những người phạm tội tử hình trở xuống, tha những người bị tội đánh trượng trở xuống. Lệnh cho các Giám ty ở các lộ phải theo dõi xử lý các vụ án bỏ trốn, kết thúc các vụ án hình sự, không để kéo dài.

[63] Hạ lệnh cho Thái thường bác sĩ, Bí các Hiệu lý Trần Mục giả chức Khởi cư Xá nhân, trực Chiêu Văn quán, làm Phó sứ sang nước Cao Ly, thay thế Lâm Hi, Lâm Hi bị giáng làm Giám sát Lâu điếm vụ ở Hàng Châu. Do có chỉ dụ của Vua rằng: “Nghe nói Lâm Hi tuy bị ép buộc tuân theo mệnh lệnh triều đình, không dám từ chối, nhưng vẻ mặt lo lắng ủ rũ không hề giảm bớt. Hơn nữa, Cao Ly đã mong đợi sứ thần Trung Quốc từ lâu, nếu thấy vẻ mặt của Lâm Hi như vậy, chắc chắn không phải là cách để họ hiểu được sự quan tâm của triều đình, cũng như ý nghĩa của việc cử sứ thần sang giao hảo. Nay tuy đã lên đường, nhưng lý do vẫn chưa tiện, nên cử người thay thế.” Ngày 21 tháng 9, sứ thần trở về[7].

[64] Vua ngự tại Nhĩ Anh các, Thẩm Quý Trưởng tiến giảng về Bát pháp trong Chu Lễ. Vua hỏi: “Có khi nói là ‘bang trị’, có khi nói là ‘quan pháp’, ý nghĩa là gì?” Quý Trưởng đáp theo nghĩa.

[65] Ngày Nhâm Ngọ, Đồng tri Gián viện Hoàng Lí tâu: “Gần đây cử quan đi cầu mưa, nay lại giáng chỉ tha tội tù. Nghe nói ở Tam ty có hơn bảy mươi tội nhân, bị thiêu mà được tha có bốn người; ở Khai Phong có hơn một trăm người, bị thiêu mà được tha có năm người. Từ hai việc này suy ra, những người bị kéo dài chưa xử quyết hẳn là rất nhiều. Xin lệnh cho tùy theo tội nặng nhẹ mà ấn định thời hạn kết thúc, để nhiều người được hưởng ân huệ, và cảm động trời đất không lâu.” Chiếu sai Kiểm chính Trung thư Lại phòng Công sự Vương Trắc Thần, Kiểm chính Hình phòng Công sự Phạm Đang cùng các quan lại Tam ty, Khai Phong phủ xử xong các vụ án đang giam giữ, những vụ nghi ngờ thì tâu lên Trung thư, Xu mật viện.

[66] Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng giặc Hạ sai Ngôi Tâm đi do thám, và đồn đại rằng đang tập hợp đại quân để xâm lược, ẩn náu tại nhà của thổ dân Xuy Ninh. Chiếu lệnh cho Kinh lược ty tra hỏi, nếu không sai thì đều chém đầu rồi tâu lên.

[67] Hôm đó, Thị độc Lữ Công Trước đọc xong sách 《Hậu Hán thư》, Vua giữ lại Công Trước để bàn luận sâu về thể chế trị nước, đến đạo vô vi của Tam Hoàng, lý lẽ hư tịch của Phật, Lão. Công Trước hỏi Vua: “Đạo này cao xa, Nghiêu, Thuấn có biết được không?” Vua đáp: “Nghiêu, Thuấn há không biết?” Công Trước nói: “Nghiêu, Thuấn tuy biết, nhưng thường lấy việc biết người, an dân làm khó, đó là lý do họ trở thành Nghiêu, Thuấn.” Vua lại bàn về các đế vương đời trước, nói: “Hán Cao Tổ, Vũ Đế có tài năng lớn, Cao Tổ nói ‘Ta không bằng Tiêu Hà, ta không bằng Hàn Tín’, đến Trương Lương thì nói riêng ‘Ta không bằng Tử Phòng’, bởi vì Tử Phòng đạo cao, tôn trọng nên không gọi tên.” Công Trước nói: “Đúng như lời thánh dụ.” Vua lại nói: “Vũ Đế tuy cho Cấp Ám là ngốc, nhưng không đội mũ thì không gặp, sau dù phạm tội, vẫn cho hưởng lộc hai ngàn thạch đến cuối đời.” Công Trước nói: “Vũ Đế đối với Cấp Ám, chỉ có thể không giết mà thôi.” Vua lại bàn về Đường Thái Tông, Công Trước nói: “Thái Tông có thể thành nghiệp vương là nhờ biết khuất mình nghe lời can gián.” Vua trị vì lâu ngày, quần thần sợ uy nghiêm của Vua, không dám can ngăn. Đến lúc này, nghe lời Công Trước, Vua kính cẩn tiếp nhận. Việc này căn cứ theo 《Đế học》 của Phạm Tổ Vũ và 《Gia truyền》 của Lữ Công Trước.

[68] Ngày Quý Mùi, xuống chiếu chọn ngày sai quan cầu mưa ở Phong Bá, Vũ Sư.

[69] Quyền Phát khiển Phúc Kiến lộ Chuyển vận sứ, Đồn điền Lang trung Kiển Chu Phụ được bổ nhiệm làm Trực sử quán.

[70] Kinh lược sứ Quảng Nam Tây Lộ xin lấy động đinh hai sông (Tả Giang, Hữu Giang) tổ chức thành các chỉ huy, tạm bổ nhiệm người quản lý, và lập xã nuôi ngựa; xin ban 500 độ điệp để mua 1000 ngựa chiến, cấp cho động đinh, đợi khi huấn luyện thành thục có thể chiến đấu, thì lần lượt cho họ tự mua ngựa để tập luyện. Chiếu chỉ rằng động đinh chỉ nên tập luyện võ nghệ sở trường của người vùng núi, không dạy đánh trên ngựa, còn lại đều chấp thuận. Trước đó, quyền tri Ung Châu Lưu Sơ nhận chỉ soát điểm động đinh Tả Giang, Hữu Giang, tổ chức thành các đội bảo, xin cứ 500 người làm một chỉ huy, bổ nhiệm riêng hai người làm chánh, phó sứ và năm người làm đô đầu để thống lĩnh và huấn luyện. Lại tâu: “Động đinh trước đây thấy quân triều đình đánh dẹp người Giao, nhờ ngựa mà thắng, nên muốn học đánh trên ngựa. Xin chọn động đinh dũng cảm ở hai sông, lập thành xã nuôi ngựa, mỗi người tự mua ngựa Man, mỗi con quan cấp ba vạn tiền. Nếu chết, thì mua bù, chủ ngựa chịu một phần ba, còn lại do xã đóng góp. Nếu ai luyện tập võ nghệ xuất sắc, thì ưu tiên thăng bổ. Lại lệnh cho Ty đề cử giáo duyệt, khi thi thố thì ghi vào sổ, nếu ba lần thi không đạt thì ghi vào sổ, lấy ngựa đó cấp cho người giỏi.” Vì thế có chiếu chỉ này.

[71] Chiếu cho các văn thần tại kinh làm Giám sát ngự sử lí hành, tại ngoại các lộ làm Đề điểm hình ngục, Phủ giới đề điểm trở lên, các võ thần tại kinh làm Cáp môn phó sứ, tại ngoại các lộ làm Lộ phân kiềm hạt trở lên, mỗi người tiến cử một người ứng thi võ cử. Sách này chỉ chép là đầu năm Nguyên Phong.

[72] Ngày Đinh Hợi, Vua phê: “Chú của Hoàng thái hậu là Quang lộc tự thừa Cao Tuân Huệ[8] có thể bổ làm Quân khí giám thừa.”

[73] Chiếu cho Ty biên tu chư thức trọng tường định thể thức chôn cất của tông thất và ngoại thần rồi tâu lên.

[74] Chiếu rằng: “Nguyên Tri Cát Châu, Giá bộ lang trung Trương Giám lên điện tâu việc không có gì đáng lấy, lại dùng chữ sai lầm, các ty giám sát và đề cử ở bản lộ trước kia tiến cử trị trạng của ông ta rõ ràng là không đúng, đặc cách miễn tội.”

[75] Chiếu ban tên cho các thuyền mới đi sứ Cao Ly vượt biển: một chiếc tên là “Lăng Hư Trí Viễn An Tế Thần Châu”, chiếc thứ hai tên là “Linh Phi Thuận Tế Thần Châu”.

[76] Ngự ở Nhĩ Anh các, giảng quan Hoàng Lí tiến giảng 《Chu Lễ》 “Bát bính”, Vua hỏi: “Ngồi mà bàn đạo, gọi là Tam công, nhưng Bát bính lại không phải là việc Thái tể được tham dự, tại sao vậy?” Lí đáp: “Bát bính dùng để cai quản quần thần. Cai quản là đạo của Vua, nên không phải việc Thái tể được tham dự.” Vua khen: “Hay.”

[77] Ngày Mậu Tý, Hữu Gián nghị đại phu Tô Thái được làm Cấp sự trung. Thái từ chức Tri Quảng Châu trở về, theo lệ cũ nên được thăng chức.

[78] Ngày Canh Dần, xuống chiếu: “Mưa thuận không đều, sai quan cầu đảo Nguyên Minh và Ngũ tinh.”

[79] Vua phê: “Ngự sử đài xét việc lại pháp ở Tương Châu, bắt giam nhiều quan viên, nên nhanh chóng kết thúc, thả những người vô tội; còn những người có tội, nếu không phải là nhận hối lộ hoặc tội đồ trở lên thì không nên giam giữ.”

[80] Kinh lược ty Lộ Hi Hà tâu: “Người Tây Hạ bắt giam bộ lạc Ngột Thắng của tộc Phiên Toả Châu Vượng vào ngục tối, năm ngày sau thả về.” Xuống chiếu ban thưởng cho Ngột Thắng theo lệ bị thương nặng, lại lệnh cho Bảo An quân gửi văn thư đến Hựu Châu để răn đe.

[81] Ngày Tân Mão, sai quan tạ ơn trời mưa.

[82] Ngự ở Nhĩ Anh các, giảng quan Thẩm Quý Trưởng tiến giảng 《Chu Lễ》 “Cửu phú”, Vua hỏi: “Có người nói ‘quan thị chi phú’, có người nói ‘quan thị chi chinh’, là sao?” Quý Trưởng đáp theo nghĩa.

[83] Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu: “Ngày tiếp kiến sứ Liêu đến chúc mừng tiết Đồng Thiên, ban yến, hạ tiết ngồi riêng một hàng.” Trước đây, sứ chúc mừng Tết Nguyên đán gửi văn thư đến Quán bạn sở, nói: “Theo lệ cũ, khi dự yến, thượng tiết và trung tiết ngồi riêng một hàng, hạ tiết ngồi dựa tường, nay lại cho cả ba tiết ngồi chung một hàng.” Quán bạn tâu lên, nên có chiếu này.

[84] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu cho Chuyển vận ty Hà Bắc: “Số cỏ khô mượn của Thủy lợi ty để đắp đê ngăn lũ, lệnh cho Thiền Châu bồi thường giá trị, lại lệnh cho ty này mua đủ khi mùa thu tới.”

[85] Quyền Phát khiển Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận phán quan Mã Giam tâu: “Người Dao ở núi làm loạn, đã theo lệ bắt Trương Phụng mà đặt ra phần thưởng, chiêu mộ người Quy Minh đi bắt giết, và xin triều đình hạ chỉ cho quan bắt trộm cướp ở Thiệu Châu phối hợp.” Theo lời tâu, lại lệnh phải báo cáo số đảng tặc Dao hiện còn.

[86] Quần mục phán quan Vương Khâm Thần xin mua lụa, bông, gấm và da hổ, báo để đổi lấy ngựa. Theo lời xin.

[87] Hoàng đế ngự giá đến Nhĩ Anh các, giảng quan Hoàng Lí tiến giảng chương “Cửu thức” trong sách 《Chu Lễ》, Hoàng đế hỏi: “Lễ tiếp đãi khách quý đứng sau lễ tế tự, nhưng trong ‘Bát chính’ thì điều thứ bảy lại là ‘Tiếp đãi khách quý’, là vì sao?” Hoàng Lí đáp theo ý nghĩa.

[88] Ngày Ất Mùi, Hoàng đế ngự giá đến điện Sùng Chính duyệt việc thuyên chuyển các tướng sĩ, tổng cộng ba trăm người.

[89] Ngày Bính Thân, ban chiếu cho các huyện thuộc phủ Khai Phong và các lộ chuyển vận đề cử ty tạm ngừng thu nợ của các hộ thuộc đẳng thứ tư trở xuống, đợi đến mùa hạ thu hoạch xong mới thu nạp.

[90] Phán ty Nông tự Thái Xác[9] tâu: “Ty Nông tự này phụ trách các phép tắc mới, công việc nhiều và nặng, không thể so với các tự, giám khác. Các quan thuộc tuy được chọn vì tài năng, nhưng đều không được tính riêng về thâm niên. Xin cho các chức Thừa, Chủ bạ đều hai năm tính là một nhiệm kỳ, nếu được bổ nhiệm sang chức khác thì phải đợi hoàn thành nhiệm kỳ. Khi có chỗ khuyết, ngoài việc triều đình đặc cách bổ nhiệm, thì chức Thừa được chọn từ các Chủ bạ, tương đương với chức Chuyển vận phán quan; chức Đô thừa được chọn từ các Thừa trong các cục, tương đương với chức Đề điểm hình ngục. Những người thâm niên còn ít, thì bổ nhiệm tạm quyền hoặc quyền phát khiển.” Được chấp thuận, và ban chiếu rằng sau khi tính đủ thâm niên từ Chuyển vận phán quan trở lên, thì ba năm tính là một nhiệm kỳ.

[91] Ban chiếu rằng tất cả các quân viên trong các quân nếu có tên trùng với các quan văn võ trong triều, đều phải đổi tên.

[92] Ngày Đinh Dậu, ban chiếu rằng các chức Đề cử thị dịch quan hai năm một lần so sánh để quyết định thăng giáng.

[93] Sở Tường định chư ty sắc thức tâu: “Nay tu định các sắc thức của Học sĩ viện[10], Long Đồ, Thiên Chương, Bảo Văn các, nếu sau khi được chỉ thi hành mà có chiếu chỉ mới, xin cho sở này tường định rồi biên vào; và các lệnh thức của các ty trong nội đang tu định, nếu có việc liên quan đến các ty phụng hành, thì đều phân vào các ty đó.” Được chấp thuận.

[94] Ty Đô kiềm hạt Kinh Hồ Bắc lộ tâu: “Giặc người Dao ở Thần, Nguyên cướp phá gần biên giới, hai tháng chưa bắt được, đã điều quân ở Nguyên châu phòng ngự, đánh dẹp và giết chúng, xin hạ lệnh cho Hồ Nam phối hợp.” Vua phê dụ cho Mã Giam: “Nếu bọn giặc đông, cần huy động chính binh và các quan võ cao cấp, thì gửi công văn đến ty Kiềm hạt điều động, và tạm cử Đô giám Kinh Hồ Bắc lộ là Bành Tôn đến. Những thổ binh đã điều động, sợ mùa xuân sâu sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, hãy chọn những người không có năng lực cho về trước, những người không cho về thì cấp thêm tiền gạo.”

[95] Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Trước đây theo chỉ dụ triều đình: ‘Lệnh cho Tây lộ Diên Châu cùng Đô tuần kiểm ứng cứu Hoàn Khánh lộ, Đông lộ tuần kiểm Khánh Châu ứng cứu Phu Diên lộ. Nếu giặc đại quân tập trung đánh vào một lộ, thì quan chủ binh dẫn quân ứng cứu, nếu bản lộ có việc binh, lệnh cho Kinh lược tùy cơ xử lý, cử tướng khác ứng viện.’ Thần trộm nghĩ, giặc động binh đến hàng chục vạn, chia quân đánh hai lộ, thì nơi nào cũng có giặc, làm sao biết chúng đánh vào đâu? Nếu biết ta có phép ứng cứu, mà muốn đánh Phu Diên, tất sẽ bày binh thế ở Hoàn Khánh, Hoàn Khánh cầu cứu, thì Phu Diên xuất binh ứng cứu; muốn đánh Hoàn Khánh, tất sẽ bày binh thế ở Phu Diên, Phu Diên cầu cứu, thì Hoàn Khánh xuất binh ứng cứu. Ít quân thì không đủ ứng phó giặc, nhiều quân thì bản lộ tất sẽ bị bỏ trống không phòng bị. Như vậy, không chỉ quân ta phải chạy vội mệt mỏi, có nguy cơ rơi vào ổ phục kích của giặc, chúng lại còn chia quân đánh vào chỗ trống để tập kích ta. Đây không phải là cách đánh giặc hay. Thần nghĩ rằng các lộ có việc binh, lộ lân cận chỉ nên tập hợp quân để làm thanh viện, hoặc tùy theo điều lệ mà xử lý việc kiềm chế, không cần lập thêm phép ứng cứu lẫn nhau, để tránh khi có việc bị ràng buộc bởi văn bản, phạm vào điều cấm kỵ của nhà binh.”

Chiếu cho Phu Diên lộ theo lời tâu, các lộ khác nghe chỉ huy riêng. 《Thực lục》 chép việc này, 《Thời chính ký》 của Viện Mật lại càng chi tiết, nay chỉ theo 《Thực lục》. Có người lại nói năm xưa Lưu Bình vì cứu lộ lân cận mà tử trận, từ nay nên bãi bỏ việc ứng cứu lộ lân cận. Phó Tổng quản Hoàn Khánh lộ Lâm Quảng cho rằng: “Các lộ cùng hợp lực, là kế sách lâu dài của quốc gia để chế ngự giặc. Nếu giặc tập trung binh lực đánh một lộ, mà lộ lân cận không cứu, dù là danh tướng thời xưa cũng không làm gì được. Lưu Bình thua trận, không phải là lỗi của quân ứng cứu.” Do đó, phép ứng cứu lẫn nhau không bị bãi bỏ. Việc này căn cứ theo 《Lâm Quảng truyện》, phụ sau lời kiến nghị của Lữ Huệ Khanh.

[96] Thủ tướng tác giám chủ bạ Vương Đắc Quân được bổ nhiệm làm đường trừ sai khiển. Đắc Quân là con của Quảng Uyên. Vua phê rằng: “Quảng Uyên trước đây từng được Anh Tông trọng dụng”, nên đặc biệt có mệnh lệnh này. Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》, cuối năm thứ hai có thể gộp vào [cuối năm thứ hai, chữ “mạt” nguyên bản viết là “vị”, theo bản các sửa lại].

[97] Ngày Mậu Tuất, ban tặng cho nhà cũ của Vệ vương Cao Tuân Phủ trước đây mượn một khu nhà. Tuân Phủ là cha của Hoàng thái hậu. Và sai quan khác làm đề cử hạ lưu đê tảo.

[98] Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ, nguyên là An Nam đạo hành doanh chiến trác đô giám Dương Tòng Tiên [Dương Tòng Tiên, chữ “tiên” nguyên bản viết là “quang”, theo bản các và 《Tống hội yếu》 phiên di 4-37 sửa lại] tâu rằng: “Trước đây ở cảng Đông Kinh của Giao Chỉ, đã lâu không nghe tin tức và thanh thế của đại quân, bèn sai hiệu dụng Phàn Thực, Hoàng Tông Khánh đến biên giới Chiêm Thành và Giao Chỉ để dò la tin tức, và dụ Chiêm Thành không viện trợ Giao Chỉ, sợ giặc Giao Chỉ chạy trốn, nên lệnh cho quân chặn đường. Nay theo lời tâu của Thực và Khánh rằng: ‘Chiêm Thành sai 7.000 quân Phiên chặn đường yếu của giặc Giao Chỉ, nhận được thư và văn thư hồi đáp của quốc chủ Phiên, hiện đang ở viện chế Đàm Châu.’ Xin lấy xem xét và khen thưởng, để khuyến khích ngoại di. Thực và Khánh đều được phong làm tam ty quân tướng.” Chiếu cho Hồ Nam chuyển vận phán quan, đô quan viên ngoại lang Triệu Dương nộp bản thư và văn thư hồi đáp của Phiên, còn Phàn Thực và Hoàng Tông Khánh vẫn phải đến kinh đô.

[99] Ngày Canh Tý, cho con của nguyên nhập nội đông đầu cung phụng quan, ký cung bị khố phó sứ Bùi Dục là Hiếu Tiên làm tam ban tá chức. Vì Dục đã làm việc ở nội đông môn 10 năm [chữ “câu” nguyên bản thiếu, theo bản các bổ sung], có công lao nên được ban thưởng.

[100] Ngày Tân Sửu, Kinh Hồ Bắc Lộ chuyển vận phán quan Mã Giam tâu rằng, châu Thiệu dò biết người Dao làm loạn có ý quy thuận, nếu không nhân cơ hội này chiêu an, e rằng họ sẽ tập hợp ngày càng đông. Trung thư định lệnh Mã Giam rằng: “Đầu mục giặc Dao theo lệnh đã ban trước đây mà thi hành, còn những kẻ đồng đảng khác đều cho phép đến đầu hàng, tha tội, lại lập phần thưởng để chiêu mộ người bắt giết, hoặc cho phép trong bọn chúng giết lẫn nhau hoặc bắt nộp lên quan. Những người trong nhóm Đinh Tiên Phong được cấp 100 tấm lụa, 4 con trâu, nếu muốn nhận chức thì cho mượn chức; những đầu mục khác được cấp một nửa, nếu muốn nhận chức thì đều được làm Hạ ban điện thị. Dán bảng ở những nơi quan trọng.” Vua phê: “Nên lệnh cho Mã Giam xem xét lại, nếu trước khi mệnh lệnh này đến, những người không được phép đầu thú đã hối tội đầu hàng, thì không thi hành nữa, nhưng không được tiết lộ, niêm phong kín gửi tâu lên.” Tháng 4 ngày Canh Tuất có thể tra cứu.

[101] Chiếu cho các lộ Hà Đông, Vĩnh Hưng quân mỗi nơi thêm một viên đề cử quan. Vì phán Tư nông tự Thái Xác tâu rằng: “Theo chế độ gần đây, đề cử thường bình quan không cho các ty khác kiêm nhiệm, thật là tiện lợi, nhưng những nơi có địa bàn rộng lớn như bốn lộ này, e rằng một người không đủ xử lý công việc.”

[102] Ban cấp 200 độ điệp cho ty chuyển vận Hà Bắc, để mua vật liệu tu sửa sông ngòi trong năm.

[103] Ty đề điểm hình ngục Kinh Đông Tây Lộ tâu rằng, Phó tướng thứ bảy, Cung bị khố phó sứ Trương Vĩnh Xương tính tình khinh suất, hiếu thắng tự chuyên, vì tướng quan Dương Khuê xuất thân từ quân ngũ, thường khinh thường ông ta, mỗi khi có việc công, không chịu hợp tác. Chiếu giáng Trương Vĩnh Xương một chức, điều đến làm giám đương ở nơi xa thuộc Hoài Nam.


  1. Theo 《Nguyên Phong Cửu Vực Chí》 quyển 6 và 《Tống Sử》 quyển 88, địa lý chí, quân Kiến Xương có hai huyện Nam Thành và Nam Phong, ở đây chữ 'Nam Phong' có lẽ thiếu hai chữ 'Nam Thành'.
  2. Nguyên bản viết 'Quan sát độ chi sứ', theo các bản khác và 《Tống Sử》 quyển 167, chức quan chí sửa lại.
  3. Theo nghĩa thuyết của tiên nho, 'Án' nguyên là 'Nhu', theo các bản sửa.
  4. Huyện Nam Dương thuộc châu Đặng, nguyên bản viết là 'Đăng', căn cứ theo 《Nguyên Phong Cửu Vực Chí》 quyển 2 và 《Tống Sử》 quyển 85, Địa lý chí, huyện Nam Dương thuộc lộ Kinh Tây Nam châu Đặng, chữ 'Đăng' là sai, nên sửa lại.
  5. Chữ 'Nam' trong 'Kinh Hồ Nam lộ' nguyên bản là 'Tây', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại.
  6. Câu 'Chiếu ban cho Cao Ly An Đào và những người khác hôm nay xuất phát ra đi' khó hiểu. Theo 《Tống sử》 quyển 328, truyện An Đào: 'Năm Nguyên Phong đầu tiên, Cao Ly mới thông sứ, mượn An Đào làm Tả Gián nghị Đại phu đi báo đáp', nghi ngờ chữ 'ban' thiếu chữ 'sứ'.
  7. Ngày 21 tháng 9, sứ thần trở về, hai chữ 'sứ hoàn' nguyên bản bị đảo ngược. Theo quyển 292, ngày Nhâm Thìn tháng 9 năm Nguyên Phong thứ nhất, 'An Đào, Trần Mục tâu rằng đã rời Cao Ly vượt biển, ngày Ất Hợi tháng này đến huyện Định Hải, Minh Châu', hai chữ 'hoàn sứ' rõ ràng bị đảo ngược, nên sửa lại
  8. Chữ 'Tuân' trong 'Cao Tuân Huệ' nguyên bản viết là 'Tôn', theo bản khác sửa.
  9. Chữ 'quan' dưới chữ 'Phán' vốn là chữ thừa, căn cứ theo điều Tân Sửu ở dưới và 《Tống sử》 quyển 471, truyện Thái Xác mà bỏ đi.
  10. Chữ 'kim' nguyên là chữ 'lệnh', căn cứ theo các bản khác mà sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.