VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 290: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)
Từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng 7 cùng năm.
[1] Tháng 6, ngày Quý Mão, mùng 1, nhật thực.
[2] Quyền Tri châu Thiệu là Thị Kỳ Quán tâu rằng, người Dao ở núi Phù Trúc Thủy là Lương Nghĩa và đồng bọn nguyện xin quy phụ, được ghi vào sổ dân của triều đình, thuộc huyện Thiệu Dương, nộp tiền và gạo theo đầu người. Chiếu cho An phủ ty Kinh Hồ Nam lộ hỏi ý Lương Nghĩa, nếu không muốn đến Hồ Bắc thì cho ở lại Thiệu Châu. Hai bộ sử ký chép phụ cuối năm, đều gọi là người Dao Phù Sơn Trúc.
[3] Kinh Đông Thể lượng An phủ Hoàng Liêm tâu: “Đất quan bị bồi lấp ở châu Thiện và Kinh Đông, Hà Bắc đều là đất màu mỡ, xin chiêu mộ khách hộ, theo tập tục địa phương, họ tự cung cấp sức trâu, quan cung cấp giống, chia hoa lợi. Chọn hai viên quan hiểu biết về nông nghiệp đến Kinh Đông, Hà Bắc bàn bạc với Chuyển vận ty, Đề cử ty và các lệnh, tá huyện để xem xét, chiêu mộ khách hộ từ mùa thu này bắt đầu canh tác, và giao cho Tư Nông tự xem xét chi tiết điều ước.” Theo lời tâu, lệnh Chuyển vận ty chọn quan, nếu là đất chăn nuôi[1], thì giao cho Đề điểm hình ngục ty chọn cử.
[4] Đêm Giáp Thìn, phía đông nam có ánh sáng chiếu xuống đất, sao lớn xuất hiện ở chòm Bào Qua, vỡ ra ở Nội Giai, tiếng như sấm. Cả sử ký mới và cũ đều chép như vậy.
[5] Ngày Ất Tỵ, chiếu cho Thái thường bác sĩ Miêu Sư Trung, Cung bị khố sứ Chu Trọng Lập và 21 người khác mỗi người thăng một chức, vì có công trong việc đắp đê ngăn lũ sông.
[6] Kinh lược sứ Hà Đông Hàn Giáng tâu: “Người bản địa ở trại Ngân Thành châu Lân là Mệnh Tử Nguyên vào địa giới phía tây do thám, bị người Nhung bắt, con trai ông là Mãng Khiết đã được bổ làm Thập tướng, nay Tử Nguyên trốn về, xin ban cho chức vụ cao hơn, miễn truy thu lại ân mệnh của Mãng Khiết.” Chiếu bổ Tử Nguyên làm Thập tướng, Mãng Khiết được miễn truy thu.
[7] Chiếu cho Hi Châu tăng cường xây dựng tường thành phía tây nam, dần dần đặt thêm lầu canh, tổng cộng huy động 440.000 binh lính và dân phu. Do Cục Kinh chế tài dụng tâu rằng Hi Châu là căn bản của một lộ, nơi cư trú của người Hán và người Phiên cùng các doanh trại quân đội, chùa chiền đều nằm ngoài thành, không có gì che chắn bảo vệ, xin dựa trên nền tường thành cũ phía tây nam để xây thêm, cùng tường thành cao ba trượng.
[8] Ty Chuyển vận Kinh Hồ Bắc tâu rằng, sứ giả Giao Chỉ đến triều cống, lo ngại không đủ người phu, xin ưu đãi giá thuê và cấp tiền thuê. Triều đình đồng ý, từ nay các lộ đi qua đều áp dụng theo cách này.
[9] Thôi quan Đoàn luyện Dĩnh Châu, Giáo thụ Vũ học Thái Thạc được bổ làm Bình sự Đại Lý, gia hạn thời gian khảo sát hai năm. Thạc vì có công lao, đáng được thăng lên chức quan kinh đô bậc trung, nhưng do từng phạm tội gian dâm với hộ tạp, nên có mệnh lệnh này.
[10] Ngày Bính Ngọ, bổ nhiệm Đồng tri Lễ viện, Thái thường Thừa, Hiệu khám Quán các Lưu Chí làm Hiệu lý Tập hiền.
[11] Chiếu rằng: “Thuế ruộng chăn nuôi, các lộ giao cho Đề điểm hình ngục, phủ Khai Phong giao cho Ty Đề điểm thu nộp. Mỗi năm hạn thu thuế mùa thu, quý sau phải báo cáo số nợ lên Quần mục ty. Nếu nhiệm kỳ kết thúc không còn nợ, hoặc nợ dưới hai phần, Ty này phải bảo đảm và xin chỉ dụ. Nếu nợ từ ba phần trở lên, đều phải tâu lên để xử lý.”
[12] Lại chiếu cho Quyền Đô đại Quản câu Tuần hộ sông Huệ Dân Dương ( ), lệnh khi hết nhiệm kỳ được tái nhiệm, ban cho 50 độ điệp. ( ) tự tâu rằng, đã dùng lòng sông cũ ở huyện Hạ Tân làm sông lớn, bịt cửa sông đã vỡ ở Tào Thôn, tiết kiệm được hơn một triệu quan tiền nhân công và vật liệu, lại giảm bớt năm viên sứ thần ở năm đê, nên xin ân điển.
[13] Ngày Đinh Mùi, Viện Xu mật tâu rằng Phó đô thừa chỉ, Tây thượng Cáp môn sứ, Thứ sử Vinh Châu Trương Thành Nhất đang trong thời gian khảo sát. Chiếu rằng Thành Nhất là Phó đô thừa chỉ, đặc cách thăng làm Đoàn luyện sứ Dao quận, các chức vụ khác vẫn giữ nguyên. (Ghi chép bí mật).
[14] Ngày Kỷ Dậu, Ty Chuyển vận lộ Tử Châu tâu: “Việc đánh dẹp man ở trại Nạp Khê, châu Lô đã theo chiếu đợi đầu mùa thu tiến quân. Nay trừ kẻ cầm đầu chưa bắt được, thấy có nhiều người đến nộp khí giới và đầu hàng. Nếu cần dùng binh dẹp loạn, thì chưa rõ làm sao phân biệt người cần đánh bắt, tiền lương cần dùng lấy ở đâu, chia làm mấy đạo quân tiến đánh.” Chiếu cho các ty Kiềm hạt, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục cùng bàn việc lợi hại rồi tâu lên.
[15] Trước đó, dân trại Nạp Khê, huyện Giang An, châu Lô là Tô Tam Thập Bảy tranh chấp lưới cá với người Di La Cẩu là Mục Đặc Ý[2], vô tình đánh chết. Người Di kiện lên trại, trại báo lên huyện, huyện tiến hành pháp nghiệm xét. Người Di tức giận, nói: “Người Hán giết người ta, quan không chịu bồi thường, lại để lộ thi hài người Di.” Họ nguyền rủa nhiều ngày, rồi tụ tập đánh phá. Châu Lô xuất quân phòng thủ, tướng trại là Mã Trọng Thông vốn nhút nhát, bỏ trại chạy trốn. Người Di thừa cơ đốt phá bờ nam trại, gần như cạn sạch người, gia súc, nhà cửa. Chuyển vận sứ Cao Bỉnh và Phán quan Trình Chi Tài[3] cùng tâu: “Người Di những năm gần đây sợ uy không dám phạm người Hán, nay bỗng nhiên ngang ngược như vậy, nếu không trị tất thành hậu hoạn. Xin dùng binh bản lộ hỏi tội.” Triều đình đã đồng ý, Bỉnh và Chi Tài lại trình bày sự việc xin chỉ thị, nên ban chiếu này. Việc dùng binh ở Nạp Khê, 《Thực lục》 và 《Chính sử》 đều không ghi rõ. Nay lấy 《Nguyên Phong Bình Man Lục》 của Tông An Quốc bổ sung thêm. Ngày 2 tháng 7, sai Hàn Tồn Bảo.
[16] Kinh Đông lộ Thể lượng An phủ Hoàng Liêm tâu: “Lộ này khi mới bị lụt, xin ủy cho Giám ty xem xét các huyện lệnh không có năng lực trong việc cứu trợ thiên tai, cho phép đổi chỗ với các huyện không bị lụt hoặc công việc ít hơn; nếu thiếu người, thì cho phép bổ nhiệm người đang chờ thay thế không theo thường lệ; và xin ra lệnh cho các cơ quan kiểm tra kênh rạch, đợi mùa màng thuận lợi thì điều động dân phu nạo vét; hai hồ Lương Sơn và Trương Trạch nhiều năm bị bồi lấp, ngập ruộng dân, cũng xin nạo vét từ hạ lưu đến Tân Châu.” Triều đình đồng ý, việc nạo vét kênh rạch, lệnh cho Đô thủy giám cử quan cùng Chuyển vận ty kiểm tra vật liệu và công việc. Liêm nhận mệnh An phủ Kinh Đông vào ngày 9 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 10.
[17] Chiếu cho Hà Bắc lộ Chuyển vận ty, trước đây đã điều động dân phu khẩn cấp đắp đê ngăn lũ, đợi đến mùa xuân điều động dân phu thì tính ngày miễn trừ, và miễn thêm năm phần.
[18] Ngày Tân Hợi, chiếu cho Ty trà trường, người đi sứ tiến cống của Vu Điền mua trà được miễn thuế, trừ vào số tiền định mức hàng năm.
[19] Ngày Quý Sửu, lấy cựu Quyền phát khiển Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận phó sứ, Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lý Từ Hi làm Đồng tri Gián viện, kiêm Quản câu Quốc tử giám.
[20] Đồng đề cử Thành Đô phủ đẳng lộ Trà trường Bồ Tông Mẫn tâu, xin theo như Lý Tắc mà xét hạch quan lại. Chiếu cho Tông Mẫn được tính như Chuyển vận phán quan, những người được cử làm Kinh quan, Huyện lệnh và Sứ thần được thăng chức, so với số người Lý Tắc cử thì được cử một phần ba; các quan lại châu huyện có vi phạm chức vụ ở Ty trà trường, cũng cho phép xét hạch.
[21] Chiếu rằng: “Học sinh thượng xá Vũ học trong một năm không phạm lỗi thuộc loại thứ hai, giao cho chủ phán cùng quan học bảo đảm, miễn giải theo thứ tự trên, không quá hai người, trong đó những người theo pháp cống cử tự nhiên được miễn giải, và những người đã được miễn giải, sau đó lại học thêm hai năm trở lên không bị phạt, được miễn thi các[4].” Xét điều này văn nghĩa chưa rõ, nghi có sai sót.
[22] Ngày Giáp Dần, lệnh cho các quan phụ chính cầu mưa.
[23] Tri quân Trấn Nhung là Trương Thủ Ước tâu: “Trương Nghĩa bảo bốn mặt chịu địch, dễ công khó thủ, phía nam bảo một dặm có bảo cũ, ba mặt giáp vách, thành hai lớp, đều không chịu địch. Xin giữ bảo mới, sửa sang bảo cũ, dời kho, trường cỏ, và chức giám áp hiện tại hợp quản câu hai thành binh mã, yên hỏa, dời trụ sở đến bảo cũ.” Theo lời tâu.
[24] Ngày Ất Mão, Vua phê: “Binh làm việc ở đê Linh Bình chịu nắng nóng, rất cực khổ, ban tiền đặc chi có sai biệt.”
[25] Lại phê: “Binh làm việc ở sở tu sông bị giảm phóng nhiều người chết dọc đường, rất đáng thương. Nên chỉ huy chuyên ủy một viên quan đề điểm hình ngục các lộ, kiểm tra thúc đẩy, sớm cho về đến doanh châu quân.”
[26] Ngày Bính Thìn, chiếu: “Quan đề cử từ nay cùng chuyển vận phán quan lấy tư nhiệm tương đương cùng thứ tự, các khoản thiêm cấp, đương trực, tiếp tốn người thuyền đệ mã binh sĩ, đều theo lệ chuyển vận phán quan.”
[27] Kinh chế tài dụng ty tâu: “Các xạ thủ ở Hi Hà lộ, trước đây theo chỉ dụ triều đình, bốn người cùng cày một khoảnh ruộng công, nghe nói bị khổ sở vì việc sai dịch, dẫn đến thiếu hụt hai nghìn người. Xin bãi bỏ lệnh bốn người cùng cày ruộng, chỉ cho phép tạm thời ứng phó khi thu hoạch, ngoài ra không được sai dịch. Cùng với đó, binh lính phụ trách vận chuyển lương thảo ở Tần Phượng lộ chuyển vận ty đã được chiếu lệnh thuộc về bản ty, xin xét lại số lượng ban đầu, giao cho Thiểm Tây chuyển vận ty tuyển chọn quân sương để thay thế, dùng vào việc cày ruộng. Nếu không đủ, xin bổ sung thêm quân Bảo Ninh đã được tuyển chọn.” Triều đình đồng ý. Ngày 1 tháng 7, ngày 27 tháng 10.
[28] Vua phê: “Nghe nói ở các lộ gần kinh thành có nơi bị mưa lớn, lệnh cho chuyển vận ty cử quan lớn đến cầu đảo tại các danh sơn, linh từ, và lệnh cho Khai Phong phủ giới[5] Đề điểm ty đốc thúc các huyện khơi thông nước đọng, tâu trình thứ tự ruộng dân được trả lại. Các châu quân ở Kinh Đông Tây lộ giao cho chuyển vận ty thi hành.”
[29] Ngày Đinh Tỵ, Quyền Đô thủy giám thừa Phạm Tử Uyên[6] tâu: “Xin dẫn nước sông Lạc từ cửa Bắc trấn Dĩ Thủy vào sông Biện để thông đường vận chuyển, nhằm tiết kiệm công sức và chi phí đóng mở cửa sông Biện.” Chiếu đợi sang năm sẽ lấy chỉ dụ. Ngày 6 tháng 12 có thể tham khảo.
[30] Ngày Kỷ Mùi, chiếu rằng các vật liệu đắp đê sông thuộc Đô thủy giám, giao cho các lộ chuyển vận và Khai Phong phủ giới Đề điểm ty ứng phó, lấy số trung bình trong ba năm làm định mức, giao cho các ty quản lý và ứng phó tiền vật, báo lên bản giám để tính toán.
[31] Ngày Canh Thân, Trứ tác tá lang, Trực tập hiền viện Phạm Dục được bổ nhiệm làm Thái tử trung doãn, Kiểm tường xu mật viện binh phòng văn tự.
[32] Điện tiền đô chỉ huy sứ, An Vũ tiết độ sứ Hác Chất mất, xa giá đến viếng, truy tặng Thị trung, thụy hiệu Vũ Trang.
[33] Ngày Tân Dậu, ban chiếu cho các huyện Thanh Trì thuộc châu Thương, Nhiệm Khâu thuộc châu Mạc, Văn An Hạ Thành thuộc châu Bá, Thành Kỷ, Lũng Thành, Thanh Thủy thuộc châu Tần, Phu Thi, Diên Trường, Diên Xuyên thuộc châu Diên, An Hóa, Hợp Thủy thuộc châu Khánh, Thanh Tương, Quán Dương thuộc châu Toàn, Thiệu Dương, Vũ Cương thuộc châu Thiệu, Thạch Môn, Từ Lợi thuộc châu Lễ, tổng cộng 18 huyện, từ nay giao cho Tam Ban Viện tuyển chọn sứ thần làm chức Úy. Những chức Giám Đương khuyết trước đây do sứ thần đảm nhiệm, đều giao cho Lưu nội tuyển bổ nhiệm.
[34] Ban chiếu cho Điện Trung Thừa Trần An Dân bị truất một chức, bị cách chức, kéo dài thời gian xét duyệt ba kỳ; Thái Thường Bác Sĩ Ngô An Trì bị truất một chức, miễn cách chức, bị thay thế; Tiền Kiểm Chính Trung Thư Hình Phòng Công Sự Lưu Phụng Thế bị cách chức Trực Sử Quán, miễn cách chức, giữ chức Giám Lương Liệu Viện châu Trần; Tường Đoạn Quan Đậu Biền bị truất một chức, bị cách chức; Tường Nghị Quan Chu Hiếu Cung và Đại Lý Bình Sự Văn Cập Phủ đều bị thay thế. Trần An Dân từng làm quan ở châu Tương, vì liên quan đến việc xử án sai khiến Phùng Ngôn bị tội chết, thuộc hạ Văn Cập Phủ đã báo cáo với Tể tướng Ngô Sung. Ngô An Trì vì nhận lời của Văn Cập Phủ để thuyết phục Lưu Phụng Thế[7], Lưu Phụng Thế vì ra lệnh cho quan tòa chỉ định không cần xử án sai, Đậu Biền và Chu Hiếu Cung vì xác định không phải là xử án sai, những người liên quan bị tội còn có hàng chục người, Ngô Sung được tha không xét hỏi, Chu Thanh được thăng một chức.
[35] Ban đầu, Thái Xác điều tra vụ án này, muốn bẻ cong sự thật để hại Ngô Sung. Sau khi làm Trung thừa, bèn bắt giam Cập Phủ. Cập Phủ sợ hãi, liền khai như lời khai trước của An Dân, nói rằng đã từng báo cáo với Sung, Sung đồng ý, và còn nói đã từng nhờ con của Sung là An Trì. Xác lại bắt Phụng Thế. Phụng Thế trước làm Kiểm tường ở Xu mật viện, Sung từ Xu mật sứ lên làm Tể tướng, tâu cử Phụng Thế làm Kiểm chính Trung thư, Sung vốn tin tưởng và trọng dụng ông ta. Xác bảo quan lại Đại Lý nói rằng nhận chỉ thị của Phụng Thế, muốn xóa tội cho An Dân. Phụng Thế sợ hãi, cũng khai rằng vào ngày Khởi cư đã từng nhận lời nhờ của An Trì. Xác lại muốn bắt An Trì, chiếu chỉ ra lệnh thẩm vấn ngay. An Trì sợ bị bắt, cũng khai rằng thực sự đã nhờ Phụng Thế. Lúc đó, Tam ty sứ Lý Thừa Chi và Hộ bộ phó sứ Hàn Trung Ngạn đều được Vua yêu quý. Trung Ngạn là con của Hàn Kỳ, còn Thừa Chi từng làm Đô kiểm chính, Xác đều bảo tù nhân khai ra họ. Thừa Chi biết chuyện, nhiều lần tâu với Vua về tâm địa hiểm độc của Xác, Vua hơi nguôi giận, hối thúc kết án. Vụ án kết thúc, Trung Ngạn vẫn bị phạt 10 cân đồng, Sung dâng biểu xin từ chức Tể tướng và đóng cửa chờ tội ba bốn lần, Vua sai trung sứ đến triệu ra lệnh coi việc. Xác nhiều lần dẫn các quan Ngôn sự vào chầu, nói rằng tội của An Trì quá nhẹ. Vua nói: “Con em vì người quen biết mà nhờ vả, bất đắc dĩ phải đáp ứng, đó là chuyện thường, sao đủ để trọng tội. Các khanh chỉ muốn cùng nhau công kích Ngô Sung để hạ bệ ông ta, ý đồ này là gì!” Trả lại tờ tấu của Xác, những người dâng lời mới thôi. Bản mực chép: Vụ án kết thúc, người ta đều cho là oan. Bản chu bỏ đi. Nay kể rõ sự việc, thì tình trạng oan uổng tự nhiên rõ ràng.
[36] Ngày Quý Hợi, Mã quân phó đô chỉ huy sứ, Chiêu Tín quân Lưu hậu Giả Quỳ làm Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, Kiến Vũ tiết độ sứ. Cựu kỷ chép việc này.
[37] Chiếu rằng các quan lại trong ngoài trước đây tiến cử người có tài đức xứng đáng thăng chức, lệnh Trung thư xét nhân tài để lấy chỉ.
[38] Ngày Giáp Tí, Đồng đề cử trà trường phủ Thành Đô và các lộ là Bồ Tông Mẫn tâu: “Ty thần trước đây theo lệ mua muối Giải đưa vào Xuyên để chuyển đổi làm vốn trà, không cấm buôn lậu. Sau đó Lưu Tá độc quyền bán, dẫn đến lời bàn tán, cùng với việc ty muối Giải tâu trình, đều bị bãi bỏ. Thần kính nghĩ triều đình ngăn cấm ty thần bán muối là lo ngại cản trở thương nhân và làm hại tiền giấy. Nguyên nhân pháp chế muối Giải có tệ là do phát hành tiền giấy quá nhiều, xin trừ việc pháp độc quyền của Lưu Tá không thi hành, còn lại cho phép làm theo lệ cũ.” Chiếu cho Lý Tắc xem xét rồi tâu lên.
[39] Ngày Ất Sửu, Lý Tắc xin định rõ việc giám quan trà trường phủ Thành Đô, lộ Lợi Châu[8] mua trà không được lẫn tạp, giả mạo, thô xấu, khi mãn nhiệm kỳ do quan đề cử bảo đảm, nếu mua đủ 5.000 (Mã Khuyển) thì thưởng bậc 5, 10.000 (Mã Khuyển) thì thưởng bậc 4, cứ thêm 10.000 (Mã Khuyển) thì tăng thêm một bậc. Nếu mua trà thô xấu, giả mạo, lẫn tạp, ước tính thiệt hại thì xử theo tội tham ô. Giám quan cùng chịu thưởng phạt, được giảm một bậc, nếu tội đồ mà chưa đến mức cách chức thì đều bãi chức, còn việc mua bán trà ăn thì căn cứ vào lợi nhuận để thưởng. Triều đình chấp thuận.
[40] Vua phê: “Lộ Hà Đông chuẩn bị binh khí cho hai chín quân[9], gần đây Hàn Giáng nhiều lần tâu có việc trình bày thỉnh cầu, nếu có việc chưa được phê duyệt, nên khẩn trương ban hành.”
[41] Ngày Bính Dần, lệnh cho Thái tử Trung Doãn, Hiệu lý Bí các, Đồng tri Gián viện là Từ Hi tính toán việc phòng bị biên giới các lộ Hoàn Khánh. Xem thêm ngày Tân Mão tháng 7, ngày Quý Mùi tháng 3 năm sau, ngày Bính Tuất.
[42] Chiếu rằng: “Những viên chức quân sự có khả năng quản lý, từng được điều động làm việc, có tài năng và dũng cảm, có thể chỉ huy đội ngũ, thì các quan chức quản lý quân đội, tổng quản, kiềm hạt, đô giám các lộ và châu, cùng các tướng phó mỗi năm tiến cử lên Xu mật viện, tập hợp lại và ghi vào sổ, khi cần nhân tài thì lấy những người được tiến cử nhiều để bổ nhiệm.”
[43] Tri tướng tác giám chủ bạ Vương Cổ tâu: “Năm ngoái có chiếu khôi phục nghĩa thương, thử nghiệm ở các huyện thuộc kinh thành, đã thấy không gây phiền nhiễu mà có thể thực hiện được. Xin cho các lộ được mùa, giao cho đề cử ty xem xét các khoản thuế, tiền thường bình, miễn dịch còn thiếu chưa đến ba phần, thì triển khai trước, hy vọng trong vài năm sẽ thấy hiệu quả.” Chiếu cho các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam, Hà Đông, Thiểm Tây theo pháp nghĩa thương của các huyện thuộc phủ Khai Phong; các việc khác theo lời tâu, lấy mùa thu năm nay làm bắt đầu. Sách 《Bản chí》 chép: Tướng tác giám chủ bạ Vương Cổ tâu: “Pháp nghĩa thương, thử nghiệm ở các huyện thuộc kinh thành, đã thấy không gây phiền nhiễu. Xin giao cho đề cử ty xem xét các lộ mà thuế, tiền dịch còn thiếu chưa đến ba phần, thì triển khai trước.” Bèn chiếu cho các lộ Kinh Đông Tây, Hà Đông, Thiểm Tây, Hoài Nam lập nghĩa thương theo pháp của các huyện thuộc kinh thành. Ngày 8 tháng 8 Kỷ Dậu chép về thứ tự các lộ có khác, cần xem xét lại.
[44] Chiếu cho lộ Kinh Đông Đông, nơi dân kiện cáo việc đo đạc ruộng đất xác định độ màu mỡ chưa chính xác, thì trước hết chọn một huyện có nhiều kiện tụng nhất, căn cứ vào loại ruộng và hạng đất mà định mức thuế hợp lý, đợi khi xong việc mà không có ai khiếu kiện, thì lần lượt thi hành ở các huyện tiếp theo. Ngày 9 tháng 7.
[45] Ngày Đinh Mão, Ty chuyển vận lộ Kinh Hồ Bắc tâu: “Đồn điền vụ ở châu Nguyên từ khi mới lập đến nay, thu hoạch chưa bao giờ đạt mức. Nếu chiêu mộ người thuê trồng trọt nộp thuế, thì không tốn vốn của quan, lợi hại rất rõ ràng. Xin triều đình xem xét kỹ để thi hành, và giao cho thông phán châu này quản lý, cấp tiền ăn tháng.” Theo lời tâu, giao cho chuyển vận phán quan Mã Giam đề cử. Ngày 19 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 7, lập châu Nguyên; ngày 21 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 2, bãi bỏ đồn điền vụ.
[46] Chiếu cho các lộ đô tác viện, ủy thác cho Xu mật viện tuyển chọn và cử một viên quan đề điểm hình ngục của lộ đó làm nhiệm vụ đề cử và kiểm tra.
[47] Ngày Mậu Thìn, Kinh lược sứ Phu Diên là Lữ Huệ Khanh tâu: “Châu Hựu gửi công văn nói rằng người biên giới hai châu Lân, Phủ xâm chiếm và canh tác đất hoang, xin ban hành công văn trả lời cho châu Hựu.” Chiếu cho Quản câu lộ Lân Phủ quân mã là Cao Tuân Nhất và những người khác xác định lại địa giới mà người Tây Hạ đang tranh chấp, xem trước đây đã từng khai khẩn hay chưa? Có phải là đất không canh tác của cả hai bên hay không? Phải nhanh chóng báo cáo rõ ràng.
[48] Ngày Canh Ngọ, phân công các quan phụ chính cầu tạnh ở Giao miếu và Xã tắc.
[49] Trứ tác tá lang Hà Chính Thần được bổ nhiệm làm Thái tử trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lý hành. Chính Thần là người Tân Cam.
[50] Ngày Tân Mùi, quyền phát khiển Phúc Kiến lộ chuyển vận sứ, Đồn điền lang trung, Trực sử quán Kiển Chu Phụ kiêm đề cử việc muối của bản lộ. Trước đó, Chu Phụ tâu: “Thần phụng chiếu xem xét việc muối, muốn cho bốn châu trên tuyển người làm phố hộ, quan cấp ấn lịch, xin muối bán phân phối, giảm giá trị. Dời Nam Đài thương đến trấn Thủy Khẩu, tăng thêm binh tuần phòng, chọn quan lại điều tra. Kẻ buôn lậu, người dẫn dụ giao dịch, chứa chấp, vận chuyển, không được tha. Phạm ba lần trước sau đều bị đánh trượng, biên quản ở châu lân cận; đã biên quản mà tái phạm thì phối làm lính ở bản thành, cấm việc vận chuyển lẫn lộn, nghiêm pháp bảo ngũ bắt tố cáo.” Được chấp thuận. Chu Phụ phụng chiếu xem xét vào ngày 29 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 10.
《Thực hóa chí》 chép: Năm Hi Ninh thứ 10, giặc Phúc Kiến là Liêu Ân tụ tập đảng cướp phá châu huyện. Sau khi Ân bị dẹp yên, Ngự sử trung thừa Đặng Nhuận Phủ tâu: “Rừng núi Mân, Việt hiểm trở, kéo dài hàng ngàn dặm. Dân gian ác không có nghề nghiệp so với các lộ khác nhiều hơn, đại đa số là buôn lậu muối. Ân đã bình, nhưng không phòng bị, biết đâu không có kẻ nối gót Ân mà nổi dậy!” Bèn hạ chiếu cho Phúc Kiến lộ Kiển Chu Phụ xem xét lợi hại rồi tâu lên. Chu Phụ tâu: “Các châu Kiến, Kiếm, Đinh và quân Thiệu Vũ bán muối quan giá quá cao, các châu Chương, Tuyền, Phúc và quân Hưng Hóa nấu muối giá rẻ, nên nhiều kẻ buôn lậu bán sang nơi đắt. Trước kia, châu Kiến từng tính theo tài sản dân thu tiền mua muối, nhưng dân ngại đến quan, chỉ nộp tiền mà không được muối. Nay xin bãi bỏ, giảm giá muối ở các châu Kiến, Kiếm, Đinh và quân Thiệu Vũ, tuyển thượng hộ làm phố hộ, quan cấp khoán, định lượng bán hàng tháng, mua từ trường quan. Như vậy, dân dễ có muối, kẻ buôn lậu không thể mưu lợi lớn. Lại khôi phục kho cũ, chọn lại, tăng binh. Đặt pháp, nếu buôn lậu, người biết mà chứa chấp, không được tha, phạm ba lần đánh trượng, biên quản châu lân cận; đã biên quản mà tái phạm thì đánh trượng, phối làm lính ở bản thành.” Đều thi hành, mỗi năm tăng bán hơn 23 vạn cân, mà số muối quan bán ngoài định mức không tính. Năm Nguyên Phong thứ 3, Cổ Thanh… (xem năm đó).
[51] Tiền Quốc tử bác sĩ Trần Sĩ Nho đánh đập nô tỳ, nô tỳ bỏ trốn, và tố cáo Sĩ Nho cùng vợ là Lý thị cùng các nô tỳ khác hại mẹ mình là Trương thị. Triều đình ra chiếu cho Khai Phong phủ xét xử. Sĩ Nho là con của Trần Chấp Trung. Theo 《Lữ Công Trước gia truyền》, vụ án Sĩ Nho được Khai Phong phủ xét xử trong tháng này, đến tháng giêng năm sau ngày Kỷ Mão, chuyển giao cho Pháp tự xử lý.
[52] Khôi phục trấn Phương Thành thuộc Đặng Châu thành huyện, thuộc về Đường Châu. Thiết lập huyện Nam Xuyên thuộc Nam Bình quân. Cắt pháo đài Già Dương thuộc Thông Viễn quân về quản lý của Dân Châu. Theo 《Thực lục》, tháng tám lại ghi chép việc khôi phục huyện Phương Thành, là sai. 《Cựu kỷ》 chỉ ghi việc thiết lập huyện Nam Xuyên và cắt pháo đài Già Dương. 《Mật ký》 ngày 26 ghi chép rất chi tiết.
[53] Mùa thu, tháng bảy, ngày Quý Dậu mùng một, Chủ khách lang trung Trịnh Dân Hiến được đặc cách thăng hai bậc, vì Dân Hiến khi làm nhiệm vụ trước đã có công lao trong việc kinh doanh ruộng đất ở Hi Hà lộ. (Ngày 9 tháng năm, ngày 14 tháng sáu, ngày 27 tháng mười).
[54] Chiếu chỉ: “Ngự sử đài có nhiệm vụ định đoạt hình danh và xử lý các vụ án theo chiếu chỉ, đều là những việc mà các cơ quan khác không thể quyết định được. Các quan chức phụ trách cần phải là người tài năng, để giúp đỡ quan trưởng, thực hiện chính sách thương xót của triều đình. Các quan Suy trực là Ngu Triệu và Phùng Như Hối tuổi cao sức yếu, tính tình lười biếng, không đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, nên đều chuyển giao cho Thẩm quan đông viện, để Ngự sử đài tiến cử người thay thế và báo cáo.” (Ngu Triệu được nhắc đến trong vụ án Tương Châu ngày 2 tháng tư).
[55] Cơ quan Tường định lễ văn xin bãi bỏ vị trí thờ Thiên Hoàng Đại Đế ở đàn Nam Giao. Triều đình không chấp thuận. Lại tâu: “Xưa kia, trâu tế lễ phải được nuôi dưỡng trong cung Địch ba tháng, để thể hiện sự trang nghiêm thanh khiết, thông đạt lòng thành với thần linh. Nay không có cung Địch và quy chế nuôi dưỡng, mỗi khi tế lễ trước ba tháng mua từ dân, nhưng các cơ quan quản lý không nghiêm túc, mọi việc đều qua loa. Xin hạ lệnh cho Tướng tác đốc tu sửa cung Địch, thiết lập quy chế nuôi dưỡng, yêu cầu các cơ quan liên quan kiểm tra, giao cho một viên chủ bạ Thái thường tự giám sát.” Triều đình đồng ý. 《Lưỡng kỷ》 đều ghi chép việc xây dựng cung Địch ở Nam Giao.
[56] Lại nói: “Xưa tế tự tất phải có ngũ tề, tam tửu, nay tôn lôi chỉ dùng pháp tửu để đựng, đó là danh vật còn mà mất thực chất. Xin xét theo lời giải thích của họ Trịnh về ngũ tề, tam tửu đều có tên gọi riêng, tìm gọi thợ rượu dạy sơ lược, thợ rượu nói có thể dựa theo cách cổ để nấu, xin giao cho bộ phận phụ trách thi hành.” Chiếu chỉ lệnh cho pháp tửu khố, nội tửu phường dùng các loại rượu hiện có để đựng. Tháng 8 năm thứ 2, ngày Mậu Ngọ, đổi phép làm rượu tề.
[57] Ngày Giáp Tuất, chiếu rằng: “Lấy Tây thượng các môn sứ, Trung châu đoàn luyện sứ, Kinh Nguyên lộ tổng quản Hàn Tồn Bảo làm Đô đại kinh chế Lô châu Nạp Khê di tặc công sự. Lại ở Vị châu và Kinh Nguyên lộ chọn 5.000 quân thổ binh hạ phiên, trong đó có 1.000 quân kỵ, và sai 20 viên sứ thần từng trải chiến đấu đi theo, cốt sao tiêu diệt hết các thôn ấp cố thủ từ trước, đợi khi quân giặc bị trừng phạt nặng nề, sợ uy xin hàng, thì cho phép tự đổi mới. Nếu có thôn ấp xin hàng trước khi quân mã đến, thì lệnh cho tập hợp tráng đinh, tự trang bị vũ khí, theo đại quân đánh giặc; nếu không tuân lệnh tập hợp, thì trừ người già, trẻ nhỏ, phụ nữ ra, giết hết. Toàn bộ binh mã của bản lộ đều nghe theo sự điều động của Tồn Bảo, lương thảo, tiền bạc giao cho Cao Bỉnh, Trình Chi Tài lo liệu theo quân, không được can dự vào quân sự. Bỉnh, Chi Tài tâu xin, ghi rõ ngày 6 tháng 6. Đề điểm hình ngục Mục Tuân lệnh về lại bản ty, nếu Hàn Tồn Bảo chưa đến, chỉ cần phòng bị nghiêm ngặt, không được khinh suất xuất quân.”
[58] Trước đó, Tuân tâu rằng: “Trại Nạp Khê cách Lô Châu chỉ ba mươi dặm, mà bọn giặc Di ở thôn La Cẩu ở phía tây nam trại chưa đầy năm dặm, tám họ hơn năm mươi thôn, người Di một nghìn hộ, trong đó vùng gần đất Hán tương đối bằng phẳng, tiến quân dễ dàng, nhưng phía sau thì rừng rậm hiểm trở, khó tiếp cận. Vào niên hiệu Hoàng Hựu, chúng từng ra cướp bóc, giết hại quan quân, hoành hành hơn một năm, rồi mới xin thề ước. Nay lại nhân việc gây chuyện, đốt phá nhà dân, khinh nhờn quan quân, khi ẩn khi hiện, rình rập biên giới. Trước đây tuy có người Di xin hàng, nhưng tính người Di xảo quyệt, không thể tin được. Dân biên giới hoang mang, chưa dám trở lại làm ăn. Gần đây nhận được báo cáo từ các nơi, triều đình ra chỉ chiêu an, sẽ khéo léo khuyên bảo người Di, để bắt giữ Tô Tam Thất tra xét xử lý, không được tiếp tục làm giặc. Điều này cho thấy thánh đức của bệ hạ bao dung rộng lớn, văn đức nhu viễn, nhân từ như trời đất, không so đo nọc độc của muỗi mòng, mà thương yêu dân chúng, thật sâu sắc và nồng hậu. Tuy nhiên, bọn giặc hung hãn, không biết ơn nghĩa, lại tụ tập như quạ kiến, xâm phạm Nạp Khê, khóa chặt đường thủy, nếu không trừng trị để dứt hậu họa, thì người Ô Man ở vùng biên giới sẽ nhìn vào mà gây hại không nhỏ. Thần ngu muốn xin bệ hạ quyết đoán, cử bề tôi thân tín, ban cho mưu lược, để chuyên lo việc quân sự hành dinh, mà chuyển vận, kiềm hạt cùng tham gia điều hành. Lại sai các chỉ huy Thần Hổ, Bảo Tiệp ở Thiểm Tây lộ gần đó năm bảy đạo để sẵn sàng điều động. Sau đó đánh thẳng vào hang ổ, tiêu diệt hết giống loài. Chiếm cứ nơi hiểm yếu để lập trại, lập hộ khẩu để dạy cày cấy và chiến đấu, khiến các bộ tộc Di ở biên giới phải vất vả nghe theo mệnh lệnh, mà người Ô Man ở vùng xa nghe tin ắt phải khiếp sợ, thật là thượng sách.”
Lúc đó, Kiềm hạt Tử Quỳ lộ là Vương Quang Tổ trước đã thống lĩnh quân bản bộ đóng ở Lô Châu, cũng tâu xin quân Thiểm Tây, nên triều đình giao cho Tồn Bảo. Cả sử cũ và sử mới đều chép Tồn Bảo kinh lý đánh dẹp người Di Nạp Khê, tháng 10 ngày Tân Hợi, tháng 11 ngày Giáp Thân tâu công.
[59] Tri châu Nguyên Châu, Tây thượng các môn phó sứ[10] Tạ Lân được bổ làm Dẫn tiến phó sứ, Đô giám châu Thần, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Tôn Hoài Dụng được bổ làm Văn tư phó sứ. Vì có công trong việc chém giết bắt giữ giặc Dao và nhận sự đầu hàng của tên giặc Dao Đinh Tiên Phong cùng đồng bọn, nộp mộc khế, Chuyển vận phán quan Mã Giam bảo lãnh tâu lên, nên có lệnh này. Do đó, Giam cũng được ban sắc thư khen ngợi, thưởng 50 lượng bạc và 50 tấm lụa, các sứ thần trở xuống được thăng chức, giảm năm khảo khóa, người được tuyển chọn được thăng cấp theo thâm niên, quân sĩ và thổ đinh được thăng cấp, thưởng bạc lụa theo thứ bậc. Những người tử trận được cấp tiền tuất, quan chức và quân nhân được ban ân trạch cho con cháu, thổ đinh phòng thủ được cấp tiền để phụng dưỡng gia đình. Các ngày Tân Sửu tháng 3, Tân Dậu tháng 4, Kỷ Sửu tháng 5 đều nên tham khảo.
[60] Ngày Đinh Sửu, phủ Khai Phong tâu rằng, việc định đoạt ân trạch đại lễ cho gia đình Chiêu Hiến hoàng thái hậu, nên bắt đầu từ con cháu trực hệ của trưởng tử Thẩm Kỳ là Trọng Dung. Chiếu ban cho Đỗ Trọng Dung chức Tam ban tá chức, từ nay về sau việc ban ân đại lễ đều theo lệ này.
[61] Bổ nhiệm Như kinh sứ, Quyền Quảng Tây kiềm hạt Trương Chi Gián làm Hi Hà lộ kiềm hạt. Vì Chi Gián tự tâu rằng mẹ già bệnh lâu ngày ở thành Cam Cốc không có người phụng dưỡng, xin được chuyển về Thiểm Tây. Sau đó sai làm Tri châu Thuận Châu.
[62] Thượng chỉ phê: “Nghe nói ở Thục đang dùng binh, có nhiều kẻ vô lại, bất chính là các cử nhân xin gặp tướng quân để cầu được sử dụng, mong được ban thưởng công lao. Lệnh cho Chuyển vận ty và Hàn Tồn Bảo không được để một người nào đến.”
[63] Chiếu ban cho Tam ban phụng chức Lưu Phú đặc cách thăng làm Hữu ban điện trực. Trước đó, Khách tỉnh tâu rằng: Phú mang chiếu chỉ ban thưởng cho quốc vương Chân Lạp và quản lý cống vật của nước này đưa về kinh, Trung thư lúc đầu chưa từng định thưởng, mà lệnh cho Khách tỉnh đưa về bản lộ. Thượng chỉ phê: “Trước đây triều đình vì giặc Giao Chỉ phản loạn, lệnh cho Quảng Châu tuyển mộ Phú đi sứ Chân Lạp tuyên dụ. Nghe nói đi lại trên biển cũng rất vất vả, có thể lượng ban thưởng, đợi khi có bảo lãnh tâu lên, sẽ ban chỉ riêng.” Đến khi Quảng Đông kinh lược tâu lên, nên có lệnh này.
[64] Cơ quan Tường định lễ văn tâu: “Theo nghi thức cũ ở Nam Giao, khi xa giá ra vào các cửa Tuyên Đức, Thái Miếu Linh Tinh, Chu Tước, Nam Huân đều phải khám xét tên. Vào niên hiệu Hi Ninh, theo đề nghị của Tham tri chính sự Vương Khuê, đã bỏ việc khám tên, nhưng nghi thức khám ấn vẫn còn. Theo nghĩa lý trong 《Xuân Thu》, không dám đem điều mình không tin mà áp dụng với bậc tôn quý, tiếng sấm động, trời đi, không thể nghi ngờ. Nếu bắt phải xét hỏi rồi mới qua cửa, thì không hợp với điển lễ. Xét kỹ nguồn gốc sự việc, không thấy ghi trong 《Khai Bảo Lễ》, đến niên hiệu Hàm Bình mới chép vào nghi chú, đó là lỗi của quan lễ thời đó. Xin từ nay khi xa giá ra khỏi cửa thì bỏ việc khám ấn.” Vua theo lời tâu.
[65] Chiếu tước bỏ sắc cáo thăng chức của Tây Kinh Tả Tàng Khố Phó sứ Dương Trung Quảng vừa được bổ nhiệm. Trước đó, Trung Quảng được thăng chức vì quản lý việc đắp đê, đến nay biết được rằng khi làm việc ở trên sông, ông thường xin nghỉ vì bệnh, nên không đáng được thưởng. Các quan Đô đại đề cử tu sửa sông ngòi là Yến Đạt và những người khác bảo lãnh không đúng, được đặc cách tha.
[66] Lại có chiếu: “Những người thi ở Khai Phong phủ và Quốc Tử Giám, đều lấy chung số người được cử và cùng thi; các châu không đủ 100 người, giao cho Chuyển vận ty lấy số người được cử ở các châu gần đó, dùng số người được cử của địa phương mình, tập trung thi ở một châu.”
[67] Ngày Canh Thìn, chiếu: “Tước một chức của Tiền Phúc Kiến Chuyển vận Phó sứ, Chức phương Lang trung Từ Ức, miễn bị cách chức, cho về hưu. Tước chức của Tiền Tri Phúc Kiến[11], Tư phong Lang trung, Trực Long Đồ các Nguyên Tích Trung. Tước một chức của Trú bạc Trần Đức Dụng, Tuần kiểm Trương Vĩnh và 8 người khác, điều đi nơi khác, miễn bị cách chức.” Vì tội để Lộc Ân cướp bóc, xử trí sai lầm và không đuổi bắt.
[68] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ xin dùng tiền bạc của ty này và của Thường bình, nhân mùa thu thu hoạch mua thóc nhiều, nếu sau này không có việc gì khác dùng đến, thì theo giá mua đổi cho Chuyển vận ty. Vua theo lời xin.
[69] Ngày Tân Tỵ, sai Tây thượng các môn phó sứ Trương Sơn Phủ, Nhập nội đông đầu cung phụng quan[12], Câu đương Nội đông môn ty Phùng Tông Đạo cùng xem xét võ nghệ của các quân mã bộ thuộc các tướng ở Kinh Đông, Kinh Tây. Do có chỉ phê “theo lệ của Khai Phong phủ mà đặc sai” nên thực hiện như vậy.
[70] Chiếu cho các lộ Vĩnh Hưng quân đề cử ty, căn cứ vào các huyện chưa thực hiện phương điền quân thuế, hoặc đã thực hiện phương điền nhưng do dân kiện tụng, từng sai quan xét lại và xác nhận là không công bằng, nếu lúa hạ chín, mạ thu tươi tốt, có thể thấy rõ thứ bậc được mùa, thì một mặt theo điều lệ phương lượng quân thuế sai quan xem xét xong, trước một tháng báo lên Trung thư xin chỉ. Ngày 24 tháng 6.
[71] Lại có chiếu: “Truy tặng cho cố Tây Thiên dịch kinh tam tạng, Hồng lư khanh Nhật Thành thụy hiệu là Xiển Giáo, vẫn theo lệ của Pháp Hộ, ban ân cho độ tăng bảy người, chùa Huệ Biện mỗi năm tăng thêm một người được độ làm tăng.”
[72] Chiếu: “Từ nay các chức Thừa ở tự, giám, nếu sai người có thứ bậc thông phán trở lên, nếu là người đang làm tri huyện thì sung làm chủ bạ, quyền phát khiển thừa sự.”
[73] Chỉ phê: “Các tướng mới tập hợp ở lộ Phu Diên và các đồn bảo phòng thủ được phân định, nếu thiếu khí giáp và đồ dùng[13], thuộc trách nhiệm của Quân khí giám và Chuyển vận ty cung ứng, nên chỉ huy cho Kinh lược ty gửi văn thư đến, trong vòng nửa năm phải cung ứng đầy đủ.”
[74] Ngày Quý Mùi, Phán Ty nông tự Thái Xác[14] xin cho các chức Thừa, Chủ bạ ở ba cục kiêm nhiệm việc san tu điều lệ của bản tự mà không ảnh hưởng đến chức vụ[15]. Theo đó.
[75] Chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông, Thiểm Tây chỉ huy các thành trại dọc biên giới thăm dò động tĩnh của người Hạ, chuẩn bị phòng bị. Vì có lời phê của Vua rằng: “Bỉnh Thường mới bắt đầu thân chính, mùa thu này việc điểm tập rất nghiêm ngặt, lại ở khu vực Phu Diên, Lân Phủ thường có kỵ binh đi lại, tình hình người Khương khó lường, nên sớm phân chia công việc chuẩn bị chiến đấu và phòng thủ.”
[76] Chiếu cho Tiết độ suy quan Trấn An quân, Tri huyện Vệ Nam, châu Thiền là Lý Di Bạch được thăng một bậc. Vì đập Linh Bình thiếu cỏ, Di Bạch đã mua hơn mười vạn bó cỏ để ứng dụng, Đô thủy giám xin ban ân huệ đặc biệt, Trung thư định cho là có công lao, nhưng Vua phê rằng: “Số cỏ Di Bạch mua không đủ để ban thưởng nhiều, nhưng nghe nói đã cứu được việc cấp bách, thực sự có công, có thể đặc cách thăng một bậc[16].”
[77] Ngày Giáp Thân, chiếu cho các lộ Chuyển vận ty tại châu sở tại đặt ty Đấu Xứng, giao cho Đô giám quản lý, theo mẫu của tỉnh mà chế tạo, cử quan khác kiểm định, phân phối đến các châu Thương thuế vụ để bán[17], nếu mua về mà tự ý tăng giảm hoặc tư chế tạo để sử dụng, đều bị đánh một trăm trượng.
[78] Tặng vợ của Hoàng thành sứ Lộ Khánh Tôn là Hoắc được giảm một chức của con trưởng là Chí Minh để cho con rể là Chung Mẫn. Chiếu rằng vì Khánh Tôn chết vì việc nước, cho phép truy giảm chức Tả ban điện trực của Chí Minh và ban cho Mẫn chức Tam ban sai sứ.
[79] Ngày Ất Dậu, chiếu cho các lộ Chuyển vận ty và Khai Phong phủ giới Đề điểm ty quản lý tiền lương của quân Cấm bị khuyết. Lệnh cho các ty không cần hỏi số quân hiện có thiếu hay thừa, chỉ căn cứ vào số tiền lương tháng theo nguyên định, giao cho Đề điểm hình ngục và phủ giới Đề cử ty thu lại, phân biệt quản lý tại chỗ; những binh lính chưa giải ngũ hết, thì chi trả từ số tiền lương trên, cuối năm báo số lên Xu mật viện.
[80] Ngày Kỷ Sửu, lệnh cho Xu mật trực học sĩ, Đề cử Trung Thái nhất cung Tôn Vĩnh giám tu sửa chữa và chỉnh lý sách 《Trai tiếu khoa nghi》.
[81] Tri Hà Dương, Binh bộ lang trung, Tập hiền viện học sĩ Đặng Oản được làm Long đồ các đãi chế, Tri Kinh Nam.
[82] Ngày Canh Dần, quan Tri Lễ viện, Đại Lý tự thừa, Tập Hiền hiệu lý là Tăng Triệu kiêm chức Tu quốc sử viện Biên tu quan. Triệu tâu: “Thần về sử học không bằng anh thần là Tăng Củng, xin trả lại chức vụ đã nhận.” Vua không nghe.
[83] Chiếu cho Tam ty khám xét việc ở Giang Nam Tây lộ Chuyển vận ty, nếu như năm trước việc vận chuyển lương thực đã hoàn thành, thì ngoài việc miễn đổi tiền mặt, vẫn hạ lệnh cho Phát vận ty trình bày rõ việc phân bổ tiền không đều ở sáu lộ và việc cử quan đến Giang Nam Tây lộ để thu gom tiền, báo cáo lên.
[84] Trước đó, có chỉ cho Phát vận ty căn cứ vào số lương chưa vận chuyển của các lộ là một triệu thạch để đổi thành tiền mặt, nhưng Giang Tây Chuyển vận ty tố cáo rằng họ đã hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển theo định mức năm, và triều đình cũng có chỉ lệnh đổi tiền đều ở sáu lộ, nhưng Phát vận ty lại chỉ bắt Giang Tây lộ đổi sáu mươi vạn thạch, lại còn cử quan riêng đến lộ này để thu tiền mặt, không chừa lại chút nào, vi phạm quy định trong biên sắc là phải để lại một phần tiền để dự trữ mua lương thực trong ba năm, vì thế mới có chiếu này. Rốt cuộc thế nào?
[85] Lại chiếu cho Quảng Tây Đề cử ty, các châu Quế, Chiêu, Tân, Tượng, Ngô, Đằng, Cung, Tầm, Quý, Hoành trước đây có hộ vận chuyển lương thực làm phu dịch, hạng nhất và hạng nhì trở lên được miễn thêm một phần thuế dịch là hai phần; hạng ba được miễn một phần năm phần; hạng tư và hạng năm trở xuống được miễn hoàn toàn hai phần.
[86] Ngày Tân Mão, chiếu rằng từ nay các võ quan có tước Dao quận trở lên xin về phân ty, nếu trong quá trình làm quan không được thăng chức do chiến công và chưa từng giữ chức quản quân hoặc Hoành hành, thì đều bổ làm Nam ban quan về phân ty.
[87] Chiếu: “Việc dự trữ cỏ ở các châu Thiền, Định và phủ Đại Danh đã lâu chưa xong, có thể lệnh cho Thông phán phủ Đại Danh là Mã Hiến Khanh, Thông phán châu Thiền là Lương Ngạn Minh, Thông phán châu Định là Dương Cảnh Phân hội họp với các quan phụ trách dự trữ trước đây để mua đủ số lượng kịp thời. Vẫn lệnh cho các lộ An phủ ty thúc giục, các quan Câu đương trước đây đều bãi chức.”
[88] Lại có chiếu rằng: “Trước đây Lữ Huệ Khanh đã phân chia lại quân đội ở Phu Diên và các điều ước liên quan đều đã thi hành, nay sai Từ Hi đến Hoàn Khánh lộ để phân chia quân đội, lệnh cho các lộ kinh lược ty căn cứ theo các điều ước đã định ở Phu Diên lộ mà thi hành; nếu có việc gì khác biệt hoặc cần bàn bạc thêm với Huệ Khanh thì tâu lên, đồng thời gửi văn bản cho các lộ để thông báo.” Tháng 6, ngày Bính Dần, sai Từ Hi đi, có thể xem lại vào tháng 3 năm thứ 2, ngày Quý Mùi và Bính Tuất.
[89] Lại có chiếu cho Trương Sơn Phủ thuận tiện đến Bạc Châu để kiểm tra việc huấn luyện và tập hợp các quân đội.
[90] Ngày Giáp Ngọ, Quản câu Ngoại đô thủy giám thừa, Điện trung thừa Cảnh Uyển kiêm chức Đề cử Hà Bắc ứ điền thủy lợi ty, đồng thời từ nay bãi bỏ ty ứ điền. Bản mực chép: Từ nay ty ứ điền bãi bỏ, đồng quản câu quan. Nay theo bản chu.
[91] Chiếu cho Lân Châu Tinh Tối Lãng, Mộc Qua Phố, từ năm Hi Ninh thứ 8 trở đi, những đất mới khai khẩn, lệnh cho Lân Phủ lộ quân mã ty chỉ huy, từ nay để lại hai khu đất không canh tác, người Tây Hạ đi tuần tra ngựa đều phải đi qua chỗ cũ; đồng thời gửi văn bản cho Hà Đông lộ kinh lược ty để thông báo, đợi khi Tây giới hỏi lại, chỉ trả lời rằng bản ty đã thi hành như vậy.
[92] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng: “Gần đây sai Kinh Tây Nam lộ đề điểm hình ngục Trương Phục Lễ đốc thúc bắt giặc cướp ở Thái Châu, nay hợp các nơi quân đội đã nhiều, lo rằng thống nhất không tốt, mỗi nơi chỉ lo tránh né, kéo dài, khiến bọn giặc càng tập hợp, gây rối loạn châu huyện. Nên lệnh cho Phục Lễ không được chỉ ở châu huyện xử lý văn bản, phải nhanh chóng tập hợp quân đội các nơi, không kể xa gần, phải bắt được toàn bộ bọn giặc trong thời gian gần đây, nếu quân hiệu không tuân lệnh, lập tức thi hành quân pháp, quan viên bị trói giam chờ chỉ dụ. Tất cả việc bắt giặc đều nghe theo chỉ huy của Phục Lễ.”
[93] Ngày Bính Thân, chiếu rằng: “Trương Sơn Phủ và những người khác kiểm tra quân đội ở Kinh Đông, Kinh Tây, các loại cung nỏ cần dùng khi đi đường, có thể theo như trình diễn ở điện tiền, lực kéo cung lấy mức chia bia làm đủ, nỏ ba thạch thêm năm đấu, ba thạch năm đấu thêm bảy đấu, lệnh cho Sơn Phủ và những người khác tự tay kiểm tra, không được giao cho cấp dưới.”
[94] Thượng phê: “Các lộ phân trang quỹ khuyết ngạch cấm quân xin nhận, có thể lệnh cho Xu mật thừa chỉ ty chuyên sai lại viên ghi chép. Những lộ nào tự tiện chi dùng, xử theo luật tự ý chi dùng tiền lụa trong kho phong trang.”
[95] Chiếu cho Xu mật viện dẫn kiến các tướng xuất thân từ Ngự long trực, ba người Ngu hậu đáng bổ làm Thần vệ đô đầu, vì từng cầm đồ vật theo hầu, đặc cách bổ làm Thiên vũ đô đầu, và chỉ huy từ nay những người cầm đồ vật theo hầu phải được chọn cả về nhân tài và võ nghệ.
[96] Ngày Đinh Dậu, chiếu rằng: “Từ nay các mức khen thưởng, hạng nhất: Kinh triều quan, đại tiểu sứ thần thăng một chức; tuyển nhân, phán, ty, chủ bạ, úy qua năm kỳ khảo; chức quan sơ đẳng, tri lệnh, lục qua bốn kỳ khảo; chức quan lưỡng sứ, lệnh, lục qua ba kỳ khảo; chi, chưởng, phòng, đoàn, tiết, sát phán quan, và những người có quân công, bắt giặc không hạn kỳ khảo, đều thăng vào chức kinh triều quan tương ứng, những người chưa đủ tư cách khảo thì thăng hai bậc. Hạng nhì: giảm thời gian khảo hạch ba năm; tuyển nhân thăng một bậc, được đường trừ sai khiển một lần; quân công, bắt giặc thăng vào chức kinh triều quan thứ đẳng. Hạng ba: giảm thời gian khảo hạch hai năm, tuyển nhân thăng một bậc. Hạng tư: miễn đi xa, miễn làm việc ngắn hạn, miễn thi[18]; không có gì để miễn thì mỗi người được thăng một năm trong danh sách. Hạng năm: mỗi người thăng nửa năm. Những người được khen thưởng hai lần trở lên thì được tính cả thưởng và thăng, nếu muốn để dành cho nhiệm kỳ sau thì tùy ý.”
[97] Quan Đề điểm khai thác mỏ và đúc tiền các lộ Giang, Chiết là Tiền Xương Vũ tâu: “Trường bạc Vĩnh Hưng ở huyện Lưu Dương, châu Đàm từ năm ngoái bạc và đồng khai thác được nhiều, xin hạ lệnh cho các lộ chuyển vận ty ứng phó cho bản ty thu mua đồng bạc để tăng đúc tiền.” Theo lời tâu. Và cho mượn mười vạn quan tiền thượng cung của Hồ Nam, đợi khi đúc tiền xong sẽ hoàn trả, và lệnh cho Ty nông tự trong số tiền nhận hoàn lại nội tàng khố hàng năm chi ra mười vạn quan, chuyên chở bạc về kinh.
[98] Ngự sử Hoàng Liêm tâu: “Năm trước, số người trúng tuyển trong các kỳ thi khoa cử không đều, như ở kỳ thi riêng, những người học Kinh Thi thì mười người lấy bốn năm, còn người học Kinh Thư thì chỉ đạt đến mức quy định về số người được lấy[19], điều quý là thu nhận đều các sở trường, để chuyên về việc học của sĩ tử.” Chiếu rằng từ nay các kỳ thi tại kinh đô và kỳ thi ở Nam tỉnh[20], Kinh Thi và Kinh Dịch mỗi loại lấy ba phần mười[21], Kinh Chu Lễ và Kinh Lễ Ký chung lấy hai phần mười.
[99] Lại tâu: “Các sinh viên Quốc Tử Giám viết sách và bàn luận, đều là học theo tàn dư của các giảng quan, sau này cứ theo lệ sai các quan đi coi thi, sợ rằng khi quyết định lấy hay bỏ, có lúc không thể phân định rõ ràng, tuy chưa chắc đã vì tư tình mà làm rối loạn danh thực, nhưng việc tham khảo sở trường, phần nhiều là theo ý mình, đó là điều mà tình người không thể tránh được. Như vậy, những người ở xa phương xa, nếu không hợp ý, sẽ bị đánh trượt, điều đó rất trái với ý của triều đình là thu nhận rộng rãi. Thần ngu muốn xin sau này chỉ chọn những người đỗ khoa mới trong những năm gần đây làm quan coi thi[22], hoặc sai các giáo thụ ở các quận gần.” Chiếu rằng đợi đến ngày sai quan sẽ lấy chỉ.
[100] Quan Đề điểm ở các kho tại kinh đô tâu: “Các kho tại kinh đô có những tên gọi trùng lặp, xin đổi lại. Ngoại trừ các kho Diên Thất, Vĩnh Tế, Quảng Tử mỗi kho thứ nhất vẫn giữ tên cũ, xin đổi kho Diên Khẩu thứ hai thành kho Nguyên Phong, kho Vĩnh Tế thứ hai thành kho Vĩnh Phong, kho Quảng Tích Nam thành kho Đại Doanh, kho Quảng Tế Thuế thành kho Quảng Phụ.” Theo lời tâu. Xét thấy tên các kho Diên Thất, Diên Khẩu, Quảng Tử, Quảng Tích, Quảng Tế trước sau khác nhau, hẳn là có nhầm lẫn.
[101] Chiếu rằng: “Trước đây, Tây Phiên Đổng Chiên sai thủ lĩnh đến triều cống, lòng trung thành đáng khen, nên sai Cung phụng quan Quách Anh mang chiếu đến ủy lạo, và ban cho áo đối, đai vàng, đồ bạc, quần áo mỗi thứ ba trăm bộ; lệnh cho Kinh lược ty lộ Hi Hà theo lệ năm Trị Bình thứ hai sai sứ thần ban sắc cáo, Kinh lược ty thêm tặng năm tấm gấm pháp lớn, năm mươi tấm gấm lớn, năm mươi cân trà bột nhỏ và năm mươi cân trà rời.”
[102] Tướng thứ sáu Kinh Tây tâu rằng, Tướng quan Lý Diên Ngộ tuyển mộ năm trăm binh sĩ, đến các huyện Đồng Bách thuộc châu Đường để bắt giặc. Vua phê: “Tướng quan đi bắt giặc, tự mộ binh theo, vốn không có điều lệ rõ ràng, đây là do Diên Ngộ sợ giặc, nhút nhát, làm lớn chuyện, không chỉ không đủ để trấn áp quân sĩ, mà còn làm lan truyền khắp nơi, gây ra sự khinh thường, nên đặc cách cách chức.”
[103] Chiếu rằng những người dân và cung thủ bị giặc giết ở Kinh Tây, nên xét theo lệ mà cứu tế, và xem xét những người đi bắt giặc và cứu trợ bị thương nặng nhẹ, chiếu theo điều lệ mà ban thưởng.
[104] Tam ty tâu: “Nay xin trình bày số lượng quân cấm thiếu ngạch và tiền lương tại kinh đô và phủ giới cuối năm Hi Ninh thứ mười, xin miễn phong trang.” Chiếu rằng tại kinh đô đặc cách theo lời tâu. Ngày Bính Thân, Vua phê chuẩn và thêm vào việc này.
[105] Ngày Kỷ Hợi, sai Quyền phát khiển Hà Bắc Chuyển vận Phán quan, Điện trung Thừa Cao Bác đến các châu Tân, Lệ xem xét tình hình thành trì bị hư hại do mưa gió và mùa màng bị thiệt hại, đồng thời lệnh cho Kinh Đông Chuyển vận ty xét lại các quan lại huyện Chương Khâu thuộc châu Tề, nếu không chuẩn bị cứu hộ, khiến dân bị nước lũ gây hại, thì lập tức hặc tội tâu lên.
[106] Ngày Canh Tý, lấy Hữu gián nghị đại phu, Tập hiền điện tu soạn Trương Cảnh Hiến làm Tri Hà Dương. Cảnh Hiến từ Doanh Châu trở về, tâu với Vua rằng: “Những năm gần đây thiên tai liên tiếp, dân chúng tích chứa nợ nần, năm nay mới được mùa nhỏ, các châu huyện lại thúc giục đòi trả nợ, dân gian đồn đại rằng việc này còn hại hơn cả năm mất mùa. Mong bệ hạ hãy khoan dung một chút để cứu giúp dân lành.” Vua đồng ý, hạ lệnh cho các cơ quan xem xét. Lúc đó, người Man ở Tây Nam xâm phạm biên giới, triều đình đang xuất quân đánh dẹp. Cảnh Hiến tâu: “Bậc thánh nhân lấy thiên hạ làm mực thước, đối với tứ di có gì không thể bao dung? Nay bọn tiểu nhân nhảy nhót, chỉ là do quan lại biên giới quấy nhiễu mà thôi. Hơn nữa, hang ổ của chúng hiểm trở xa xôi, nếu tiến quân đánh dẹp tận gốc, vạn nhất lương thảo không đủ, thì quân ta sẽ bị vây khốn, dân biên giới sẽ chịu thiệt hại trước.” Vua nói: “Khanh nói phải, nhưng triều đình cũng có việc bất đắc dĩ.” Hai việc của Cảnh Hiến, bản Chu chỉ còn lưu lại lời can ngăn xuất quân, chính sử đã bỏ đi, nay xin ghi chép cả.
[107] Ban đầu, sông Hoàng Hà ở châu Thiền bị vỡ đê rồi lại được đắp lại. Lữ Công Trước dâng sớ nói: “Thần trộm thấy trước đây đê Tào Thôn ở châu Thiền bị vỡ, toàn bộ dòng sông đổ về phía đông, lòng Thánh thượng đau xót, liền bàn việc đắp đê. Quyết đoán mạnh mẽ, vượt qua mọi nghi ngờ. Công việc chưa đầy một mùa đã hoàn thành, tai họa chưa đầy một năm đã được dẹp yên. Tuy trên dưới đều ra sức, cuối cùng đã làm cho dòng sông trong sạch trở lại, thực ra là do lòng thành của bệ hạ lo cho dân, yêu vật, nên trời giúp, thần phù, chứ không phải do sức người. Từ đó có thể thấy đạo trời thông minh, ngày ngày giám sát dưới trần, phù trợ người có đức, ứng nghiệm không chậm trễ. Làm người trên, há chẳng nên kính sợ sao? Kính nghĩ bệ hạ, đức thánh nhân hậu, xuất phát từ bản tính trời sinh, đối xử với kẻ dưới, cai trị muôn dân, có ánh sáng như mặt trời mặt trăng, có lượng bao dung như trời đất, thực sự không phải kẻ tầm thường có thể đoán được.
Đến nay nhiều lần mở ngục chiếu, bắt giam khá nhiều người, các cơ quan ra sức tra tấn, mọi người đều kinh sợ, đến khi xét xử, phần lớn đều được giảm nhẹ. Xưa kia Vu Công chỉ là một viên lại nhỏ coi ngục ở một quận, còn nhờ âm đức mà được báo đáp, làm rạng rỡ con cháu, huống chi bệ hạ là bậc tôn quý vạn thừa, cai trị cả thiên hạ, ban bố đức ân, tất nhiên sẽ được hưởng phúc vô cùng, truyền đến muôn đời. Tuy nhiên, thần mong bệ hạ dù có được điều đó từ bản tính, vẫn nên thêm lòng thánh. Trên thờ trời, dưới tiếp xúc với người, thêm tinh tế, chí thành, nắm lấy cốt yếu, hành động giản dị. Đạo cao hơn trăm Vua mà khiêm tốn tự rèn, học thông suốt sáu nghệ mà khiêm nhường tiếp nhận người. Dù uy nghiêm với muôn loài, cũng không thể nói là dưới không có kẻ lừa dối; dù trí tuệ soi rõ tình người, cũng không thể nói là việc không bị che lấp. Gần gũi người chính trực, xa lánh kẻ gian tà, ắt phải nhẫn nhịn để thành công, suy lòng nhân từ để đối xử với người[23]. Nhờ đó đề cao lòng trung hậu, bảo toàn sự hòa hợp. Như vậy, điều mà 《Kinh Dịch》 gọi là ‘được trời giúp, tốt lành vô cùng’, 《Kinh Thi》 gọi là ‘hưởng lộc trăm phúc, con cháu ngàn ức’, ắt sẽ ứng nghiệm tương tự. Thần vốn vô tài, được ở gần bệ hạ, trộm ngưỡng mộ nghĩa khuyên can hết lòng của người xưa, mong bệ hạ xét cho.”
[108] Tháng đó, Công Trước vào chầu, Vua đón và nói: “Xem tờ tấu của khanh, thật sâu sắc đạo lý bề tôi hết lòng can gián.” Lúc đó, ngục tù ngày càng nhiều, mà Vua chưa có nhiều con nối dõi, lời tâu của Công Trước ôn hòa mà ý lại thiết tha, nên Vua rất tán thưởng.
[109] Công Trước nhân đó tâu rằng nên tăng thêm người tuyển vào các cơ quan văn phòng: “Thần nghe nói ‘Đông đảo hiền tài, Vua Văn Vương nhờ đó mà yên ổn’. Khi nhà Chu hưng thịnh, đến cả người đặt bẫy thỏ cũng có thể đảm nhận chức vụ tâm phúc, phòng thủ. Nay chức vụ ở Tam Quán, Bí Các là chức vụ cao quý của triều đình, từ xưa đến nay, các danh thần tướng tài phần nhiều xuất thân từ đó, số người tài giỏi được tuyển chọn khó mà kể xiết. Thần vào thời Hoàng Hựu, Chí Hòa, từng làm việc ở các cơ quan này, những người cùng thời với thần, sau này cũng thường đạt đến địa vị cao sang. Những năm gần đây tuy có tuyển chọn, nhưng số lượng chưa nhiều. Trong số đó, có người được thăng chức nhờ công lao, lại đều được bổ nhiệm ra ngoài, triều đình bình thường khó thu nhận, khi cấp bách ắt thiếu người sai khiến, đến nỗi gần đây phái sứ sang Cao Ly, khiến bệ hạ phải bận tâm lựa chọn. Người xưa có câu: ‘Kẻ sĩ không được nuôi dưỡng từ trước, thì không thể làm trọng trách quốc gia.’ Đến lúc có việc mới vội vàng tìm kiếm, đó không phải là cách tôn trọng triều đình. Thần cho rằng thiên hạ chưa từng thiếu nhân tài, chỉ cần tìm kiếm thì họ sẽ đến, sử dụng thì mới biết được tài năng. Thần mong bệ hạ xem xét ý kiến của mọi người, tự mình quyết định, tuyển thêm những người tài giỏi, thông minh, tăng thêm số lượng người được tuyển vào các cơ quan văn phòng. Bình thường họ có thể rèn luyện, khi cấp bách thì tùy ý sử dụng, để làm vẻ vang cho triều đình.”
[110] Lại bàn nên nới lỏng chế độ huyện lệnh rằng: “Thần xin Thẩm quan viện và Lưu nội tuyển xét vì chức tri huyện, huyện lệnh khuyết nhiều, phàm những người được tuyển chọn được cử làm chức quan hoặc chuyển làm kinh quan, đều phải đảo ngược mà bổ làm tri huyện; những người đã được bổ nhiệm, nếu không qua cử tịch thì không được tránh miễn. Thần nghĩ rằng khi quốc gia thịnh trị, giao cho họ trăm dặm đất, trọng trách dân nhân xã tắc, thì kẻ sĩ đáng lẽ nên muốn làm. Nay lại đặt ra mệnh lệnh cứng nhắc, ép buộc những điều họ không muốn, chẳng khác gì những kẻ phạm tội ngồi ở điện. Điều này có lẽ do pháp luật quận huyện quá chặt chẽ, mà đạo khuyên răn không rõ ràng.
Có những quan lại hết lòng tuân pháp, trị sự minh bạch, nhưng chưa từng nghe được khen thưởng gì, chỉ cần vướng vào một chút lỗi nhỏ[24], thì không thể tự thoát khỏi sự khiển trách. Thêm vào đó, những năm gần đây triều đình thay đổi pháp độ, quan lại quận huyện có người không thể thi hành. Vì vậy, ngoài pháp luật thông thường, lại thêm hình phạt nghiêm khắc, dù được ân xá bãi chức, cũng không được tha thứ. Tích lũy năm tháng, những người vì thế mà bị liên lụy ngày càng nhiều.
Thần nghĩ rằng đối với chức trưởng lại, triều đình nên nới lỏng một chút. Nếu không có tang chứng rõ ràng hoặc bị bãi chức vì không đủ năng lực, thì dù phạm lỗi nhỏ, cũng không nên dễ dàng thay đổi. Lại nên ban chiếu cho các lộ Giám ty, Mục thủ, những lệnh trưởng thuộc quyền, nếu có người phụng công yêu dân, trị hiệu xuất sắc, mỗi năm nên tiến cử riêng hai ba người, thỉnh thoảng khen thưởng, đãi ngộ không theo thứ tự. Những người khác như chức sự tuân thủ, có người tiến cử, hợp lệ chuyển làm kinh quan, thì đặc cách theo lệ các châu Giáo thụ, tại chức cải quan, cho phép tái nhiệm. Như vậy, người cần kiệm liêm chính sẽ được tự bảo vệ, người có tài năng sẽ được khích lệ, người tầm thường cũng đủ sức cố gắng, hiệu quả khác thường sẽ không bị trì trệ.”
Vua rất cho là phải, liền ban chiếu cho Trung thư lập pháp, nhưng cuối cùng pháp luật không thành.
- Chữ 'Như' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 2-5 bổ sung. ↵
- Mục Đặc Ý, chữ 'Đặc' nguyên bản là 'Trì', theo các bản và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Trình Chi Tài, chữ 'Trình' nguyên bản là 'Trần', theo văn sau và 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Vũ học thượng xá đến miễn thi các, điều này nguyên chú: 'Văn nghĩa chưa rõ, nghi có sai sót'. Xem 《Tống hội yếu》 Sùng Nho tam chi ba mươi ghi: 'Ngày 25 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ nhất, chiếu rằng: 'Những người đã từng làm đại tiểu sứ thần không phạm tội tham nhũng, cho phép triệu hai quan bảo đảm, lượng thí nghiệm sung vào học sinh ngoại xá Vũ học'.' Còn lại giống nguyên bản, chỉ có 'thượng' đổi thành 'ngoại', và không có chữ 'kỉ', 'canh', toàn bộ điều này nghĩa dài hơn, ghi lại để tham khảo. ↵
- Chữ 'phủ' trong 'Khai Phong phủ giới' nguyên bản thiếu, căn cứ vào ý văn và đoạn dưới ngày Kỷ Mùi bổ sung. ↵
- 'Phạm' nguyên bản viết là 'Triệu', căn cứ vào quyển 295 sách này, quyển 94 《Tống sử》 Hà cừ chí, 《Tống hội yếu》 phương vực 16.10 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 77 Tuấn Biện Hà sửa lại. ↵
- Ngô An Trì vì nhận lời của Văn Cập Phủ để thuyết phục Lưu Phụng Thế, chữ 'thụ' nguyên bản là 'lệnh', căn cứ theo văn bản dưới và 《Tống Hội Yếu》 Chức Quan 66.3, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 65 'Thái Xác muốn hãm hại Ngô Sung' sửa lại. ↵
- Giám quan trà trường, chữ 'giám' nguyên bản là 'diêm', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 184 《Thực hóa chí》, 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-15 sửa lại. ↵
- Lộ Hà Đông chuẩn bị binh khí cho hai chín quân, chữ 'cửu', các bản và bản in hoạt tự đều giống nhau. Nghi ngờ là chữ 'châu' viết nhầm. ↵
- Tây thượng các môn phó sứ, 'Tây thượng' nguyên bản là 'Đông tây', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 330, 《Tạ Lân truyền》 sửa lại ↵
- Tri Phúc Kiến: Phúc Kiến là tên lộ. Thời Tống, các quan đứng đầu lộ không gọi là 'Tri', chỉ có các châu mới có Tri châu, nghi ngờ chữ 'Kiến' ở đây là sai, nên là 'Châu'. ↵
- Chữ 'quan' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 166, Chức quan chí, Tống Nhập nội nội thị tỉnh có chức Nội đông đầu cung phụng quan, nên bổ sung. ↵
- Chữ 'giáp' nguyên bản là 'dụng', căn cứ theo bản các và sửa lại. ↵
- Chữ 'tự' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 Chức quan 26-11 bổ sung. ↵
- Dưới chữ 'kiêm' nguyên bản thừa chữ 'san', căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 Chức quan 26-11 bỏ. ↵
- Chữ 'nhất' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 phương vực 15/3 bổ sung ↵
- Chữ 'tống' nguyên bản thiếu, theo bản các bản bổ sung ↵
- chữ 'miễn' nguyên bản là 'đoản', theo bản khác sửa lại ↵
- Các mức quy định về số người được lấy, chữ 'định' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 tuyển cử 3-46 và 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 thượng bổ sung. ↵
- và kỳ thi ở Nam tỉnh, chữ 'tỉnh' nguyên bản là 'kinh', căn cứ vào bản trong các và hai sách trên sửa lại. ↵
- Kinh Thi và Kinh Dịch mỗi loại lấy ba phần mười, bản trong các và 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 thượng giống nhau. 《Tống hội yếu》 tuyển cử 3-46 phía dưới có thêm bốn chữ 'Kinh Thư lấy hai phần mười'. ↵
- những người đỗ khoa mới trong những năm gần đây làm quan coi thi, chữ 'mới' nguyên bản là 'một', căn cứ vào hai sách trên sửa lại. ↵
- suy lòng nhân từ để đối xử với người 'suy' nguyên văn là 'Duy', căn cứ theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 phần trên mà sửa ↵
- Một chút lỗi nhỏ 'lỗi' nguyên là 'quái', theo bản sửa. ↵