"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 291: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)

Từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng 7 cùng năm.

[1] Tháng 8, ngày Nhâm Dần, mùng 1: Quyền Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận Phán quan Mã Giam tâu: “Các châu[1] đã định xong số tiền công sứ hàng năm, xin cho phép dùng gạo và men để nấu rượu, được mượn tiền của ty này từ năm trước để làm men và mua gạo, sau đó sẽ khấu trừ dần vào số tiền được cấp trong năm sau, chia làm bốn kỳ.” Trước đó, Tri Kinh Nam Ngô Trung Phục tâu: “Thần từng làm Ngự sử, đã từng đàn hặc cha của nay là Đề cử Thường bình Triệu Đỉnh là Triệu Tông Đạo, nên khó cùng làm việc. Xin được làm Đề điểm Ngọc Long Quan.” Sau khi được chỉ chuẩn y, Triệu Đỉnh liền tấu hặc việc Ngô Trung Phục vi phạm pháp luật trong việc quản lý kho tiền công sứ, nên lệnh trước đó cho Trung Phục bị hủy bỏ. Đến lúc này, lại có chiếu: “Mã Giam phụ trách một đạo, lẽ ra phải lấy thân tuân theo pháp luật, khuyến khích các quan trong bộ, thế mà phủ Giang Lăng vi phạm pháp luật, tự ý mượn tiền công sứ, không những không xử lý ngay, lại còn tự ý cho Chuyển vận ty mượn hàng nghìn quan tiền. Nay bị Triệu Đỉnh phát giác, đáng lẽ phải ăn năn hối lỗi, lo sợ chờ hình phạt, thế mà lại dám công khai không kiêng sợ, che đậy lỗi lầm, bàn luận pháp luật[2], tình cảm quá thiên vị, lý lẽ không thể tha thứ. Nên cách chức trước, lệnh về Nhạc Châu chờ chỉ. Còn việc Ngô Trung Phục vi phạm pháp luật trong nhiệm kỳ trước, giao cho Kinh Tây lộ Chuyển vận Phán quan Hồ Tông Hồi điều tra tâu lên.”

[2] Chiếu: “Những người thuộc Ngũ lộ Thổ binh Đô ngu hậu được thăng lên hàng trước, nếu có công lao, do Xu mật viện bổ nhiệm, thay thế hoặc bổ sung khi có khuyết; những người không có công lao, do Tam ban viện bổ nhiệm thay thế khi hết hạn; những người tuy quá 60 tuổi nhưng tinh lực chưa suy, có thể đảm nhiệm chức Tuần kiểm, Trú bạc, bắt giặc, sai sứ, thì Xu mật viện xem xét rồi bổ nhiệm.”

[3] Chiếu cho Ty đề điểm hình ngục Quảng Nam Tây Lục điều tra việc Ty chuyển vận phát động dân binh chở lương, cùng việc dùng quần áo không bán được để thay thế tiền cấp quân phục, báo cáo rõ nguyên nhân. Tô Triệt bàn về việc Trương Giáp được bổ làm Hộ bộ thị lang không thích hợp, trong tờ tâu thứ hai có việc chở lương, việc thay thế tiền cấp quân phục chưa rõ. Triệt nói: Khi Giáp làm Chuyển vận sứ, có mấy ngàn phu chở lương từ An Nam trốn về[3], vì đã được ân xá nên được tha tội, mỗi người chỉ còn nợ quan 700 tiền gạo. Sau đó Giáp muốn sai người đến châu Toàn chở lương, bèn triệu Huyện lệnh Dương Sóc là Ngụy Cửu Ngôn, Huyện lệnh Lâm Quế là Lý Dịch Lặc, sai hai huyện bắt phu trốn đi đến châu Toàn chở lương. Lại sai Cửu Ngôn lấy lời khai của bảy người dân huyện mình là Mạch Phạn Nô, nói rằng nợ quan 700 tiền, tình nguyện đến châu Toàn chở lương để trả nợ. Trong bảy người đó lại có ba người không phải là phu trốn đi, chỉ lấy được lời khai tình nguyện của bốn người, liền sai mấy ngàn người đi; huống chi nợ chỉ có 700 tiền, mà đường thủy đến châu Toàn hơn hai mươi chặng, há có lý nào tình nguyện? Vì thế chết đuối không ít người, khiến dân chúng đến Ty đề cử khiếu kiện. Cũng nhờ Lưu Nghị tâu rõ sự việc, mới ngừng việc sai phu.

[4] Thôi chức Thư Châu đoàn luyện suy quan, Hiệu thư Sùng Văn viện, Tập học công sự phòng Lễ Trung thư là Thái Kinh làm Đại Lý bình sự, quyền Kiểm chính công sự phòng Lễ. Việc này xảy ra ngày mùng một tháng 8, theo 《Trung thư thời chính ký》 mà thêm vào.

[5] Ngày Quý Mão, ban chiếu: “Tri châu Dân Châu là Chủng Ngạc tập hợp các quan người Phiên là Xuất Nột Nhi Ôn và Lộc Tôn, đối diện với mọi người để minh xác tội trạng của họ, rồi xử tử bằng cách lăng trì; vợ con, ruộng đất của họ đều ban cho Bao Thành, con trai từ 15 tuổi trở lên phát phối đến Lao thành Quảng Nam, dưới 14 tuổi cho phép đi theo. Lấy chức quan đã phong cho Nột Nhi Ôn để phong lại cho Ca Ngô, bổ làm Tam ban Phụng chức, ban cho 200 tấm lụa, 1 áo gấm, 1 đai bạc; Kết Kim được thăng hai bậc, ban cho 100 tấm lụa.” Trước đây, vào niên hiệu Hi Ninh, Quỷ Chương xâm phạm biên giới, Nột Nhi Ôn và Lộc Tôn đã dẫn đầu bộ tộc làm phản và theo Quỷ Chương, đến khi biên sự vừa yên thì đến hàng[4], sau đó lại âm mưu với Đổng Chiên và Quỷ Chương. Chủng Ngạc tâu rằng e rằng sẽ gây họa cho biên giới, nên dâng lên thư từ của Đổng Chiên và Quỷ Chương cùng với bản chữ Phiên do Lộc Tôn tự viết[5], do đó mới có chiếu này.

[6] Đại Lý tự tâu rằng, Tri châu Thiền Châu, Hữu Gián nghị đại phu Hàn Thục, vì cử Giá bộ Lang trung Du Sĩ Long phạm tội tham ô, nên bị truất một chức và bãi nhiệm. Chiếu miễn cho Thục việc bãi nhiệm, vì Thục từng có công trong việc ứng phó với sông ngòi.

[7] Ngày Ất Tỵ, Kinh Tây Lộ Chuyển vận ty tâu: “Bọn giặc Hoàng Thanh không nhiều, phần lớn là bắt cóc dân chúng. Xin cho phép những phụ nữ và dân thường bị bắt cóc được đến các thôn ấp hoặc quan phủ để tự thú, dù từng bị ép buộc làm việc xấu, đều được tha tội. Nếu những người bắt giặc thấy người bị bắt cóc, thì cho phép gọi họ về, cũng được miễn tội. Nếu dám chống cự, thì cho phép bắt giết.” Trung thư đề nghị đồng ý, nhưng Vua phê: “Nay giặc đã tan rã, việc bắt giữ tàn đảng không khó, gần đây các ty An phủ liên tục tâu về việc chém được thủ cấp, e rằng có kẻ tiểu nhân vì thưởng mà hại đến người vô tội. Hãy nhanh chóng chỉ đạo, nếu còn người chưa bị bắt, cho phép bắt giải đến quan, không được chém lấy thủ cấp.”

[8] Chiếu phát tiền sao 10 vạn quan từ Ty Đề cử Hà Bắc Địch tiện để ứng phó cho Ty Chuyển vận Hà Bắc Lộ mua lúa mùa thu.

[9] Hàn Tồn Bảo, Đô đại Kinh chế Di tặc công sự Lô Châu, tâu xin từ khi khởi binh, lệnh cho bản đạo không được sai người chiêu dụ giặc Di, dù có kẻ đầu hàng cũng tạm thuyết phục chờ quan Kinh chế đến ngày chỉ huy. Triều đình đồng ý.

[10] Ngày Bính Ngọ, chiếu cho Xu mật trực học sĩ, Tri Định Châu Tiết Hướng về kinh, lại chiếu cho Hướng tự tiến cử người thay thế, đặc biệt sai trung sứ đón và ban trà thuốc. Đây là việc bí mật hứa giao trọng trách cho Hướng, mà các quan chấp chính chưa biết.

[11] Lại chiếu cho Tam ty mượn 50 vạn quan tiền sao muối Giải năm sau, giao cho Đô Chuyển vận Thiểm Tây Lộ mua lương thảo.

[12] Ngày Đinh Mùi, chiếu cho Ty Chuyển vận Hà Bắc sai quan đi xem xét các hộ bị lụt. Những nơi thiệt hại quá 7 phần thì kiểm tra lại, miễn thuế; chưa đến 7 phần thì kiểm tra rồi xử theo pháp luật.

[13] Đại Lý tự tâu: “Nước sông ở thôn Tào, Châu Thiền tràn bờ, quan lại không kịp xin tu sửa đê, Tuần hà Loan Văn Đức nên bị cách một chức và bãi nhiệm, Đô đại Đề cử Miêu Sư Trung, Đô thủy thừa Vương Cẩn Vi[6], Quyền Ngoại giám thừa Trần Hữu Phủ và Tri Châu Thiền Hàn Thục đều phải chuộc tội bằng đồng, nhưng đều được ân xá.” Chiếu rằng: “Loan Văn Đức bị biên chế ở Hoài Nam, Miêu Sư Trung bị cách chức và truất hai chức quan, Vương Cẩn Vi bị cách chức, Trần Hữu Phủ bị giáng một chức. Hàn Thục vì lo việc tu sửa đê vỡ, được lấy công chuộc tội.”

[14] Ngày Kỷ Dậu, Vua phê: “Giả Tả gián nghị đại phu, Sử quán tu soạn, Cao Ly quốc tín sứ An Đào, Giả Khởi cư xá nhân, Trực Chiêu văn quán, Phó sứ Trần Mục, đợi khi sứ đoàn trở về sẽ ban cho chức quan đã giả.” Sứ đoàn đi ngày 7 tháng 3, trở về ngày 22 tháng 9.

[15] Chiếu cho Hà Đông, Thiểm Tây Lộ theo chỉ huy của Kinh Đông, Kinh Tây Lộ thi hành phép nghĩa thương, bắt đầu từ vụ thu năm nay. Chiếu ngày Bính Dần 24 tháng 6 cần tham khảo.

[16] Tri Thuận Châu, Tây thượng các môn sứ, Khang Châu[7] Đoàn luyện sứ Đào Bật làm Đông thượng các môn sứ. Vì trước đây đã được chỉ dụ, Tri châu Thuận Châu trước thăng một chức, sau một năm lại thăng một chức, nhiệm kỳ mãn lại thăng một bậc, mà Bật đến nhiệm sở đã được một năm nên được thăng. Bật sau đó mất. Bật mất vào tháng 11 ngày Nhâm Ngọ, nay ghi chung.

[17] Chiếu cho Vĩnh Hưng quân, Tần Phượng lộ đề cử chiết nạp Lý Hiếu Bác, trình bày rõ việc vi phạm pháp lệnh bắt dân chiết nạp để tâu lên.

[18] Lại chiếu cho các lộ đề cử ty và chuyển vận ty, nếu có việc đổi chác, đều phải dùng tiền vật đối chiếu giao nhận; các quan hộ nợ tiền vật của thường bình, từ đẳng thứ tư trở lên dù gặp thiên tai cũng không được gia hạn hoãn nợ. Lại chiếu cho các lộ khi phát chẩn, đều phải từ giờ Thìn trở đi, theo thứ tự bảo phân, tư thứ mà phát cho từng người, lại phải dùng mực in chữ “Thỉnh ngật” trên tờ bảo làm bằng chứng. Nếu đã hẹn ngày mà vô cớ thay đổi, hoặc mượn cớ không phát, hoặc để người xin chẩn lưu lại qua đêm, quan chức đương nhiệm đều bị phạt đồ hai năm.

[19] Độ chi viên ngoại lang, Trực Long đồ các, Quyền tri Phúc Châu Tăng Củng làm Phán Thái thường tự, chưa đến nhiệm sở, đổi làm Tri Minh Châu. (Việc đổi làm Tri Minh Châu vào ngày 3 tháng 10, nay ghi kèm).

[20] Nhập nội cao phẩm Lý Cấu tâu, xin sắp xếp vật phẩm ban cho Đổng Chiên, xin giao cho cơ quan phụ trách cung cấp đến Tư thiện đường để sắp xếp. Theo lời tâu.

[21] Chiếu ban vật phẩm cho Đổng Chiên bằng chiếu, còn Quỷ Chương chỉ ban bằng sắc.

[22] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty tâu: “Theo chỉ dụ, xin định mức công sứ tiền của Hi Hà, Dân Châu, Thông Viễn quân, xin lấy số tiền công sứ mà chuyển vận ty hàng năm chi cho bốn châu quân, giao về ty này để phân phối, còn thiếu hai vạn quan. Ty này xin nhận trách nhiệm bù đủ số tiền, lại xin bãi bỏ việc buôn bán của các châu quân. Nay định Hi Châu bốn vạn năm nghìn quan, chuyên dùng khao thưởng bộ lạc; Hà, Dân hai châu và Thông Viễn quân mỗi nơi một vạn hai nghìn quan, trong đó hai nghìn quan chuyên dùng khao thưởng bộ lạc.” Theo lời tâu.

[23] Chiếu rằng từ nay các quan ty và quan viên, kỹ thuật, cử nhân, nếu ở các ty chiết bác chiếm mua diêm sao hoặc vượt cấp cấp sao, thì cả những người liên quan trong ty đó đều bị xử tội đồ hai năm, không được xá miễn. Người tố cáo mỗi người được thưởng một trăm quan tiền.

[24] Ngày Nhâm Tý, bổ nhiệm Khởi cư xá nhân, Tập hiền viện học sĩ, Tri Tuyên châu Thẩm Quát làm Tri chế cáo, Tri Đàm châu. Sau đó, Ngự sử trung thừa Thái Xác tâu rằng Thẩm Quát phản phúc, phụ hội, bị giáng chức chưa đầy một năm lại được phục chức vào hàng thị tòng, hình phạt quá nhẹ mà phục chức quá nhanh. Chiếu bãi chức Tri chế cáo của Thẩm Quát, vẫn giữ chức Tri Tuyên châu như cũ. Lời tâu của Thái Xác vào ngày 22 Quý Hợi, nay ghi chung. 《Thời chính ký》 chép lời Thái Xác rất chi tiết, nay chỉ theo 《Thực lục》. 《Trung thư thời chính ký》 ngày 19 tháng 8 chép lời Ngự sử trung thừa Thái Xác tâu: “Bệ hạ có chính sách cứu tệ phục cổ, nhưng quần thần chưa thay đổi thói quen thủ cựu; Bệ hạ có nỗi lo lắng khắc khoải, nhưng quần thần chưa bỏ được tâm lý cẩu thả, do dự. Không trung với chủ, mà trung với kẻ mình theo; không sợ nghĩa lý, mà sợ thói tục. Kết bè kết đảng, tôn nhau làm mẫu mực. Lúc này, không dùng pháp luật để sửa chữa, mà khoan dung chờ họ tự thay đổi, thì khác nào hô hào kéo lê mà muốn chữa khỏi bệnh trầm kha! Như Thẩm Quát phản phúc, phụ hội, bị giáng chức chưa đầy một năm lại được phục chức vào hàng thị tòng, hình phạt quá nhẹ mà phục chức quá nhanh.” Chiếu rằng Thẩm Quát vẫn giữ chức Tri Tuyên châu, lệnh trước đây không thi hành nữa.

[25] Khởi cư xá nhân, Long đồ các đãi chế, Tri Quảng châu Tăng Bố làm Tri Quế châu.

[26] Đề cử thị dịch ty kiêm tại kinh chư ty khố vụ, Thái thường thừa, Tập hiền điện tu soạn Du Sung làm Hữu chánh ngôn, Thiên chương các đãi chế, tri Khánh châu. Vương Khuê biết Vua muốn đánh nước Hạ, nên tâu xin dùng Du Sung làm biên tướng, để mưu tính việc đó, nhằm hợp ý Vua, củng cố địa vị của mình.

Sách 《Thiệu Bá Ôn văn kiến lục》 chép: Năm Nguyên Phong đầu, Thái Xác bài trừ Ngô Sung bãi chức tể tướng, chỉ Vương Khuê là đồng đảng của Sung, muốn đuổi cả hai. Khuê sợ Xác, nên tiến cử Xác làm chấp chính. Lúc đó Khuê một mình làm tể tướng lâu ngày, Thần Tông chán ghét, nhưng Khuê không nhận ra. Xác khéo léo nhắc nhở, một hôm hỏi riêng Khuê: “Gần đây ý Vua đối với ông thế nào?” Khuê đáp: “Không có gì.” Xác nói: “Vua chán ông rồi.” Khuê hỏi: “Làm sao đây?” Xác đáp: “Vua lâu nay muốn thu phục Linh Vũ, chỉ lo không có người đảm đương, nếu ông nhận trách nhiệm này, thì có thể giữ được chức tể tướng.” Khuê mừng rỡ cảm tạ.

Đúng lúc Trương Uyển, quan chuyển vận Giang Đông, có việc phạm pháp, Vua bảo Khuê muốn cử quan đi điều tra. Khuê đem ý Vua nói với Đô kiểm chính Du Sung, Sung thân với Uyển, viết thư báo cho Uyển, Uyển dâng sớ tự biện. Vua hỏi Khuê: “Việc Trương Uyển chỉ nói với khanh, sao Uyển lại biết[8]?” Khuê tự biết đã lộ lời Vua, lui triều rất lo lắng, gọi Du Sung hỏi, Sung nói thật, Khuê bảo: “Ta cùng ông đều phạm tội rồi. Nhưng có một kế, nên cử ông làm tướng trấn Hoàn Khánh, gấp dâng sớ xin đánh Linh Vũ, Vua vui, tội có thể được miễn.” Bèn cử Sung làm Đãi chế, tướng trấn Hoàn Khánh. Sung quả nhiên dâng kế đánh Linh Vũ, chẳng bao lâu, Sung đột ngột qua đời, Cao Tuân Dụ thay thế. Có chỉ lệnh Tuân Dụ làm Tiết độ sứ năm lộ đại quân, tiến đánh Linh Vũ. Phó tướng Kinh Nguyên Lưu Xương Tộ dẫn quân bản bộ đến trước thành Linh Vũ, vì Tuân Dụ chưa đến, không dám tiến. Quân Hi Hà của Lý Hiến không đến. Phó tướng Phu Diên Chủng Ngạc một mình rút quân trước. Tuân Dụ đến, quân Hạ tập trung đông, phá đê sông Hoàng Hà đánh úp quân ta, chết vì lạnh, đói, chìm đắm không đánh mà chết hơn mười vạn người, Tuân Dụ tháo chạy, quân địch đuổi theo. Ngạc nắm quân không cứu, để chứng minh lời nói của mình. Xét ra nguyên nhân chiến tranh, là do Vương Khuê tránh tội lộ lời Vua mà ra.

Năm Thiệu Thánh đầu, cho rằng Khuê có ý kiến khác trong việc lập Triết Tông, xem là bề tôi bất trung, truy giáng chức, thực ra không phải tội đó, mà tội gây họa Linh Vũ mới là thật. Thái Xác tội càng lớn, bị giáng chết ở Tân Châu, là có lý do vậy! Xét ra, Thái Xác tháng 5 năm thứ hai làm Tham chính, Ngô Sung tháng 3 năm thứ ba mới bãi chức tể tướng, ở đây nói Sung đã bãi chức, Vương Khuê sợ bị đuổi, tiến cử Xác làm Tham chính, là sai. Du Sung bãi chức Đô kiểm chính ngày 5 tháng 12 năm Hi Ninh thứ 10, làm Tập hiền điện tu soạn, Đô đề cử thị dịch ty và tại kinh chư ty khố vụ. Ngày 4 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ nhất, Hướng Tông Nho thực làm Đô kiểm chính, Du Sung ngày 11 tháng 8 mới được cử làm Đãi chế, tri Khánh châu, lúc này Du Sung đã không làm Đô kiểm chính, Ngô Sung lúc đầu chưa bãi chức. Lại nữa, Trương Uyển làm Đề cử thường bình Kinh Hồ Bắc lộ, vì tội không đáng vượt chức nói việc tri Kinh Nam Trương Giáp bị cách chức, thực là ngày 20 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất, ở đây nói Ngô Sung bãi chức, Du Sung làm Đô kiểm chính, Trương Uyển làm Giang Đông chuyển vận, đều sai. Trương Uyển đúng ra là Hà Uyển.

Xét truyện Du Sung, Sung nhiều lần xin đánh Tây Hạ, tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 4 lại dâng sớ, tháng 6, Sung đột ngột qua đời. Như vậy lúc đầu cử Sung làm tướng trấn Khánh châu, chưa dâng sớ xin đánh Linh Vũ ngay, sớ xin đánh Linh Vũ là sau đó ba năm. Những việc chép trong 《Văn kiến lục》, đại thể không đáng tin. Hoặc Khuê dùng Sung làm tướng, ý vốn là để hợp ý Vua, nên sách 《Thực lục cựu truyện》 chép: “Sung chết, quân Tây bèn đại cử, thực ra là do Sung khởi xướng.” Nhưng những nguyên do chép trong 《Văn kiến lục》, đều sai lầm. Nay phụ chép ở đây, đợi xét kỹ thêm.

Du Sung sau vì việc án Hà Uyển tố cáo Lữ Gia Vấn, bị phạt 20 cân đồng, ngày 6 tháng 5 năm thứ hai. Tra hỏi Lữ Gia Vấn từ đâu biết việc án Hà Uyển, ngày 26 tháng 9 năm thứ nhất.

Tô Triệt trong 《Long Xuyên biệt chí》 chép: Năm Nguyên Hựu, Thái Xác vì việc của em là Thạc bị giáng làm Tri châu An Châu, làm thơ về Tắng Sơn công, ý có chỗ châm chích, các quan gián nghị bàn mà chưa quyết. Anh tôi là Tử Chiêm ra làm Thủ châu Hàng Châu, dâng mật tấu nói: “Nếu bỏ qua không xét Xác, thì đối với hiếu trị của hoàng đế hiện nay là chưa đủ; nếu không khoan hồng chút nào, thì đối với chính sách khoan dung của Thái hoàng thái hậu là có tổn hại. Thần cho rằng hoàng đế nên hạ chiếu xét trị, còn Thái hoàng thái hậu thì đặc biệt khoan thứ. Nếu Xác biết chút nghĩa lý, ắt phải cắn lưỡi tự tử.” Thái hoàng thái hậu cho là phải, khi anh tôi ra khỏi thành, đặc biệt sai trung sứ ban trà thuốc. Các đại thần giữ ý kiến về Xác không buông, Xác bèn bị đày xuống phía nam đến Tân Châu. Lúc ấy người bàn cho rằng dùng pháp quá nặng, nhưng Xác vốn từ chức nhỏ được cất nhắc, mỗi lần thăng chức đều nhờ xét án được thưởng, mọi người cho rằng báo ứng thiện ác không thể sai được.

Tôn Hoà Phủ lúc ấy ở Viện Mật, tôi tình cờ gặp, hỏi về việc Tân Châu, tôi đem điều nghe được trả lời. Hoà Phủ nói: “Vốn ở Tây phủ, tôi từng thấy Thần Tông những năm cuối, vì việc không thành công, ngồi than thở, muốn triệu Tư Mã Quân Thật dùng. Lúc ấy Vương Vũ Ngọc, Thái Trì Chính đều ở ngôi tể tướng, nhìn nhau biến sắc, Vũ Ngọc lo lắng không biết làm sao. Trì Chính bàn kín, muốn đem quân sang phía tây đánh sâu vào sào huyệt địch, nếu kế này thi hành, ắt không triệu Quân Thật nữa, dù có triệu cũng không đến. Từ đó quân phía tây tiến đánh, người Hạ bị hại, chết không kể xiết, mệnh lệnh đày Tân Châu chính là báo ứng đó.” Từ khi dùng binh phía tây, Thần Tông thường giữ ý kiến đánh nhẹ, dù thắng bại đôi chút, vẫn chưa đến nỗi tổn thất lớn. Còn các tướng soái phía tây, quen việc binh, cũng không ai dám nói đánh sâu. Nếu không phải Vũ Ngọc, Trì Chính chưa từng làm quan ngoài, không quen việc biên cương, thì không ai dám đề ra kế ấy. Họa Tân Châu hẳn là từ đây mà ra. Xét, cuối tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 4, bàn việc đem quân vào cõi địch, ngày 5 tháng 7 Canh Dần, bèn hạ 16 điều chỉ huy, ngày 23 tháng 9 Bính Ngọ, mới hạ sắc bảng dụ nước Hạ, dường như có tham khảo ý kiến của Tôn Cố về việc kể tội đánh nhẹ. Ý kiến của Cố xem ở cuối tháng 6 năm ấy, lúc ấy Vương Khuê một mình làm tướng, Thái Xác chỉ là Tham chính, ngày 22 tháng 4 năm sau Quý Dậu, Xác mới cùng Khuê cùng làm tướng. Lời Tô Triệt nên xem cùng với lời Thiệu Bá Ôn.

[27] Chiếu rằng từ nay các kỳ thi khoa trường để tuyển chọn quan lại phụ trách hình pháp, đều do Trung thư cử quan viên phụ trách.

[28] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty xin được lưu lại Đồng quản câu kinh chế, Đề điểm hình ngục Hoắc Tường thường trực tại Hi Hà, không phải đi tuần tra các nơi khác. Chiếu cho Tường được miễn chức Đề điểm hình ngục Tần Phượng đẳng lộ, nhưng vẫn giữ nguyên thứ bậc, phẩm phục và bổng lộc.

[29] Vua phê rằng: “Kho triều phục và pháp vật có thể theo lệ như kho đồ tế tự ở Giao miếu, cử Hoàng thành sứ, Hải Châu đoàn luyện sứ, Nhập nội phó đô tri Tô Lợi Thiệp, Văn tư sứ, Trung Châu thứ sử, Nội thị áp ban Cao Cư Giản làm Đề điểm, từ nay không thuộc quyền quản lý của Ty đề cử nữa.”

[30] Ngày Quý Sửu, Quan văn điện đại học sĩ, Lễ bộ thượng thư, Tri Thái Nguyên phủ Hàn Giáng được điều làm Tri Định châu. Hữu chánh ngôn, Trực Long đồ các, Tri Quế châu Triệu Tiết được bổ làm Thiên chương các đãi chế, Tri Thái Nguyên phủ. Ban đầu, Vua định cử Tiết thay Tiết Hướng làm Tri Định châu, nhưng gặp lúc Giáng vì bệnh xin được chuyển về một quận gần kinh thành, nên có chiếu cho Giáng và Tiết đổi chỗ cho nhau.

[31] Trước đó, Vua dùng thủ tráp hỏi Tiết về tình hình nghịch thuận của người Giao Chỉ, họ sắp vào cống, đối với dân mới hàng ở vùng biên giới chắc sẽ có yêu cầu, nên ứng phó nhanh chậm và cho nhiều ít thế nào là phải? Tiết đáp rằng: “Giặc đóng quân chống cự ở Phú Lương, tù trưởng của chúng đều tụ tập bên bờ sông, thế cùng lực kiệt, rồi sau mới xin hàng. Nay việc biên giới vừa yên, nên ngừng binh để dân nghỉ ngơi. Còn các thủ lĩnh vùng khê động, dân đánh cá Khâm, Liêm vốn dựa vào giặc để kiếm lợi, khoa trương thanh thế để làm rối loạn tình hình biên giới, những kẻ nhẹ dạ thích gây sự đồng thanh hùa theo, e rằng sẽ gây thêm lo lắng cho phương Nam.

Thần xem thế giặc, có ba điều chúng không dám động: Trước đây, giặc Giao lấy bọn Lưu Kỷ làm mưu chủ, nay đều bổ làm quan ở Quảng Nguyên, Tư Lãng châu. Các mỏ vàng bạc, ruộng đất màu mỡ, thuế má đều thuộc về biên giới ta. Các khê động mới hàng, tự lập thủ lĩnh, chia bè kết đảng, thật khó hợp lại. Huống chi vùng biên giới đã được phòng bị, không thể dụ dỗ uy hiếp được. Ta đã chiếm được ngoại phủ của chúng, chặt đứt cánh tay phải, trong vài năm nữa, thế nào chúng cũng tự diệt. Càn Đức ngu muội, chính sự xuất phát từ nhiều nơi, người dân đang ly tán, tự bảo toàn còn không xong, đó là điều thứ nhất chúng không dám động.

Từ Giao Châu đến trại biên giới cũ hơn mười ngày đường, giặc đến chưa từng mang đủ lương thực, chỉ dựa vào bọn Kỷ cướp bóc để nuôi quân, không đủ nửa tháng, lại cướp phá, dân chúng rất oán hận. Bọn Kỷ trước kia kết giao với khê động trong đất tỉnh, dựa vào đó làm hướng đạo, mới dám xâm lấn. Nay rào giậu đã trống rỗng, chúng dựa vào đâu mà dòm ngó biên giới? Từ khi phản nghịch đến nay, không cày cấy đã hai năm. Dân trong đất tỉnh cũng bỏ bê nông nghiệp, thêm vào đó là điều động, dịch bệnh, chết chóc không kể xiết. Giả sử chúng có ý định tranh giành lại đất đai, vừa qua sông đã vào đất tỉnh, lấy ai làm hướng đạo? Dựa vào đâu để có lương thực? Quân giặc bao nhiêu để tự vệ? Đường thủy bộ chia làm nhiều ngả, quân ít khí suy, đó là điều thứ hai chúng không dám động.

Giặc Giao đánh thuế nặng vào các gia đình trung lưu, mỗi năm nộp hơn trăm quan tiền, cung cấp cho quan lại bốn phần, còn lại đều vào tay tù trưởng, thậm chí cướp đoạt tài sản, vợ con để bù đắp thiếu hụt, dân biên giới oán hận. Trước đây quân ta đánh dẹp, chỉ chủ trương chiêu an. Những kẻ hàng phụ đều được theo chiếu miễn thuế năm năm, lòng dân đều hướng về. Nếu chúng lại dụ dỗ uy hiếp, ai sẽ theo loạn? Đó là điều thứ ba chúng không dám động. Với ba điều không dám động, lại vừa bị tổn thương, mà lo lắng sẽ lại xúc phạm thiên uy, như vậy cũng là quá đáng. Xưa Địch Thanh đánh bại giặc Nùng, ngay ngày hôm đó rút quân, không quét sạch hang ổ, mà Nùng Trí Cao cuối cùng cũng bị bắt giết. Huống chi nay giặc Giao không có nước nào giúp đỡ, đều là kẻ thù, cô lập nguy hiểm như lá khô, diệt vong chỉ là chuyện sớm muộn.”

Lúc đó, có người bàn nên đánh lại, Vua xem tấu, bãi bỏ ý định, và tha cho Càn Đức, từ đó vùng Lĩnh Nam yên ổn. Vùng Nam xa cách kinh đô, quân đồn trú không có kỷ luật, một ngày có hai đội quân bỏ trại về nhà. Tiết gửi hịch cho tướng châu rằng: “Quân sĩ đóng quân lâu ngày ở ngoài, cho nghỉ một tháng rồi trở lại.”

Khi qua phủ, Tiết khao quân, gọi tướng sư đến hỏi, họ đều nói: “Đóng quân lâu ở vùng lam chướng, nhớ nhà thôi.” Tiết nói: “Mẹ ta tám mươi tuổi, muốn về thăm, được không?” Lập tức ra lệnh chém, còn lại đều đánh trượng rồi đày đi châu khác.

[32] Quân khí giám tâu: “Đã trang bị và phát đi áo giáp của Phu Diên lộ, xin hạ lệnh cho Kinh Tây lộ chuyển vận ty chỉ huy, các quan ty qua lại, cùng tuần kiểm, huyện uý, tuần phố, sứ thần v.v., tùy theo địa phận mà giao nhận, vận chuyển ra khỏi biên giới. Uỷ cho tri châu quản lĩnh, giám ty kiểm tra, nếu vi phạm, đều tâu hặc. Các lộ khác phát đi quân khí, cũng xin theo như thế.” Được chấp thuận.

[33] Ngự phê: “Đô giám đồn điền Hà Bắc Tạ Vũ Khuê, tính tình phóng túng, bàn việc chức vụ, phần nhiều không có quy củ. Những người trước đây không hợp với Vũ Khuê, nay đã thay đi, những người hiện đang cùng làm việc, hoàn toàn không có gì ngăn trở. Nên lệnh từ nay cùng với quan ty đồn điền Hà Bắc liên danh xử lý công vụ, không được một mình tâu trình, còn quyền phát khiển đề điểm hình ngục Hà Bắc Đông lộ Uông Phụ Chi, không cho cùng quản lý nữa.”

[34] Chiếu rằng chi phí tiền bạc của Hi Hà lộ năm ngoái, lệnh cho Triệu Tế trình bày số thực để tâu lên.

[35] Tri gián viện Hoàng Lí tâu, sắc lệnh mới về khoa cử, lấy điều lệ cũ về khẩu thụ các khoa, sửa thành pháp truyền nghĩa của tiến sĩ, thưởng hậu, chứng cứ khó rõ, áp dụng trong kỳ thi, e sinh ra vu cáo, xin sửa lại. Được chấp thuận.

[36] Ngày Giáp Dần, Tri chế cáo kiêm Thị giảng Hoàng Lí làm sứ sinh thần của Liêu chủ, Hoàng thành sứ, Nhã Châu thứ sử Diêu Hủy làm phó; Thái thường bác sĩ Chu Hữu Nhụ làm sứ chánh đán, Tây Kinh tả tàng khố phó sứ Dương Tòng Tiên làm phó. Sau đó, Kinh lược ty giữ Hủy lại để phòng thủ mùa thu, bèn lấy Đông thượng cáp môn sứ, Vinh Châu thứ sử Địch Tư thay thế.

[37] Kinh Nguyên lộ kinh lược sứ Thái Diên Khánh xin cử Lưu Duy Cát, Trương Chi Gián làm tướng thứ hai, thứ ba của lộ này. Ngự phê: “Gần đây Diêu Hủy đi sứ Liêu, lộ này hoàn toàn thiếu quan binh đáng tin cậy. Trương Chi Gián hiện ở Quảng Tây, cũng chưa có ngày về. Có thể trước tiên thay đổi, cử tân Cao Dương Quan lộ kiềm hạt, Hoàng thành sứ, Huỳnh Châu đoàn luyện sứ Lưu Duy Cát làm kiềm hạt Kinh Nguyên lộ kiêm tướng thứ hai.”

[38] Quân khí giám tâu xin lấy tơ trắng sống nhuộm đỏ để làm tấm che nước thay cho đuôi bò. Ngự phê rằng tơ đáng tiếc, nên dùng lông khác thay thế.

[39] Chiếu rằng tại kinh đô, số lượng tiến sĩ được phát giải dựa theo số người dự thi để định ra mức giải ngạch, tùy theo kinh điển mà họ chuyên trị, lấy mười phần làm tỷ lệ, đều lấy như nhau, Lễ bộ chuẩn theo điều này.

[40] Thiểm Tây lộ Chuyển vận phó sứ, Thái thường bác sĩ Triệu Tế được bổ làm Hữu chánh ngôn, Trực Long đồ các, Tri Hi Châu, thay thế Trương Sâm.

[41] Chiếu rằng khu vực phủ Khai Phong và Kinh Đông lộ, việc buôn bán da sừng vẫn tiếp tục thông thương như cũ. Ngày 11 tháng giêng năm Hi Ninh thứ 8 có thể tham khảo.

[42] Lại chiếu rằng các quan Đề cử Thị dịch ở các lộ, đều theo như trước, hàng năm so sánh để khen thưởng.

[43] Ngày Ất Mão, Vua nói với các đại thần: “Xưa Gia Cát Lượng muốn làm việc lớn ở Trung Quốc, trước hết phải dẹp yên man di, như Mạnh Hoạch bảy lần bị bắt rồi bảy lần được tha, chính là để phục tâm họ, tránh hậu họa, sau đó mới có thể hướng về phía đông tranh lợi với nước Ngụy và xác lập bá quyền. Như vậy, việc thiên hạ muốn làm, há có thể không có thứ tự sao?” Nói xong, nhắc đến việc Giải Tử Bình, Vương Khuê nói: “Người phương Bắc từ thời Lưu Lục Phù, Đỗ Phòng đã vạch kế sách, thường dùng việc nhỏ để quấy nhiễu Trung Quốc, nhằm thể hiện sức mạnh[9], cũng đủ để củng cố khoản tiền cống nạp hàng năm. Gần đây, họ thường tranh cãi về những việc nhỏ ở biên giới, ý đồ chính là từ đây mà ra.”

Vua nói: “Thời thế có biến, việc có lúc thích hợp, muốn giữ quan điểm thường hằng để ứng phó với biến cố vô cùng, chưa thấy lợi ích gì. Xưa Vương Mãnh sắp chết, Phù Kiên hỏi việc nước, Mãnh khuyên đừng đánh nước Tấn, Kiên không nghe, cuối cùng thất bại, bởi Mãnh biết mình sắp chết, thấy quần thần đều kém hơn mình, chắc chắn không thể thắng Tấn, nên mới khuyên Kiên như vậy. Nếu Mãnh còn sống, thì sau này đánh Tấn cũng không khó, việc này không thể đánh đồng được.” Ngô Sung nói: “Mộ Dung là kẻ thù truyền kiếp của nước Tần, là mối lo trong lòng, Phù Kiên không biết lo lắng điều này, lại chăm chú việc xa xôi, nên Vương Mãnh mới nói sâu sắc như vậy.”

Vua tiếp tục nói: “Bậc quân chủ phải tinh tấn đi đầu, xưa Tần Hiếu Công dùng Thương Ưởng, thưởng phạt nghiêm minh, nên mới dựng nên sự nghiệp. Triệu Vũ Linh Vương mặc y phục Hồ, người trong nước vui vẻ nghe theo, đến đời sau Bạch Khởi trong trận Trường Bình chôn sống 40 vạn quân Triệu, nhưng lòng dân không ly tán, Triệu vẫn còn tồn tại, há chẳng phải vì người dân quen theo pháp độ của Vũ Linh Vương sao? Người xưa nói ‘há không có Vua tàn bạo, nhờ tiền nhân mà thoát’ chính là vậy. Hơn nữa, phiên trấn đời Đường không mạnh bằng sáu nước thời Chiến Quốc, Tần thống nhất sáu nước, nhưng Đường không thể kiểm soát phiên trấn, ắt có nguyên do. Vì thế Mạnh Tử nói: ‘Trong nước không có pháp gia và bề tôi giúp đỡ, ngoài không có kẻ thù và nạn ngoại xâm, nước ắt diệt vong. Sau đó mới biết sống trong lo âu mà chết trong an lạc.’ Ví như Đường Minh Hoàng nếu chăm lo chính sự như thời Khai Nguyên, há còn có loạn An Sử sao? Về sau, các Vua Mục Tông, Cung Tông đều là hôn quân, không đáng bàn. Chỉ có Hiến Tông lúc đầu chấn chỉnh kỷ cương, tin dùng Bùi Độ, dẹp yên Hoài Tây, nhưng sau lại mê tín phương sĩ, ngoài không kiểm soát được phiên trấn, trong không kiềm chế được hoạn quan, cuối cùng dẫn đến biến loạn. Vì thế, việc thiên hạ phải luôn cảnh giác từ từ, pháp độ triều đình phải kiên định.”

Nguyên Giáng nói: “Nắm quyền cương là việc của quân chủ, bề tôi chỉ tuân theo pháp độ mà thôi.” Vua nói: “Bề tôi có khi vượt quá pháp độ, cầu xin ân huệ, tuy chưa gây hại, nhưng không thể để tiểu nhân quấy nhiễu chính sự.” Ngô Sung nói: “Xưa Nhan Uyên hỏi về việc trị nước, Khổng Tử còn khuyên tránh xa nhạc Trịnh, xa lánh kẻ nịnh. Kẻ nịnh gây hại, không thể không xem xét.” Nguyên Giáng bàn về việc nhà Tống hưng thịnh trăm năm, dùng hình phạt không bừa bãi, lòng dân được yên ổn là nhờ hình phạt công bằng. Từ xưa đến nay, trăm năm trung hưng không có việc gì, chưa từng thịnh vượng như vậy. Vua nói: “Đây là hiến chương của tổ tông, Trẫm há dám không kế thừa? Các khanh làm chính sự lâu ngày, Trẫm tin cậy, chỉ mong các khanh đồng lòng phò tá Trẫm.” Ngô Sung nói: “Thần đây tài hèn trí mọn, tuy biết khó làm được, nhưng nếu có điều gì nghe thấy, há dám không hết lòng. Huống chi đều được nghe lời dạy của bệ hạ, nguyện dốc sức sớm hôm.” Bèn dẫn các quan bái tạ. 《Thần Tông chính sử》 chép việc này trong truyện Ngô Sung, cho rằng ý Vua có chút kích động, nhưng nói Ngô Sung chỉ đáp “thực như lời thánh chỉ”, có lẽ chê Ngô Sung bất đồng ý kiến với Vương An Thạch, nay không chép theo. 《Trung thư thời chính ký》 chép việc này vào ngày 14, lời lẽ rất chi tiết, 《Thực lục》 chép vào ngày 13, nay theo 《Thời chính ký》, lời thì theo 《Thực lục》.

[44] Công bộ Thượng thư trí sĩ Lưu Hoán mất. Có thể bỏ đi sự kiện sao băng lớn như cái bát xuất hiện ở phương Bắc vào ngày Ất Mão trong sử cũ, vì dựa theo thực lục. Sử mới đã bỏ đi.

[45] Ngày Đinh Tỵ, Nội điện thừa chế, Cáp môn chỉ hậu Triệu Tư Tề được làm Lạc uyển phó sứ. Tư Tề tự trình bày đã phục vụ 10 năm không phạm lỗi, và Vua cho rằng ông là chắt trưởng của Triệu Phổ, nên đặc cách thăng chức.

[46] Điện tiền phó đô chỉ huy sứ Giả Quỳ tâu rằng, quân đội đi đánh An Nam trước đây, có người chết để lại quân trang, vàng bạc, quần áo ở các châu, xin ước tính bán đi để lấy tiền gửi về, cho phép gia đình họ đến nơi nhận tiền mặt. Chiếu rằng: “Nhập nội tỉnh cử một nội thị, từ kinh thành đến Quảng Tây, thu thập tất cả đồ đạc của binh sĩ chết vì bệnh hoặc chết trên đường về từ An Nam, ngoài số tiền đã cấp, đều chuyển lên kinh bằng thuyền quan. Các châu huyện phía bắc Đàm Châu trên đường bộ, sai nha tiền lo liệu phương tiện vận chuyển, hoặc dùng trạm dịch chuyển đi, tất cả giao cho Điện tiền, Mã bộ quân ty để trao lại cho gia đình.”

[47] Chiếu cho Kinh Đông lộ chuyển vận ty, huyện Chương Khâu, châu Tề bị lũ lụt, việc tu sửa thành huyện, kho tàng, nhà cửa quan lại đều cấp tiền của bộ, các hộ thuộc loại tư trở xuống còn nợ thuế mùa hè năm nay, tạm hoãn thu, còn nợ tiền thường bình, thuế thóc, thuế dịch, lệnh cho ty đề cử xin gia hạn. Sử cũ và sử mới đều chép lẫn vào cuối năm.

[48] Ban 600 độ điệp cho Đô thủy giám, chia cho Khai Phong phủ giới đề điểm và Hà Bắc chuyển vận ty bán, để mua sắm vật liệu sửa chữa sông ngòi, một nửa dùng mua cỏ về các đập.

[49] Ngày Mậu Ngọ, Quan văn điện đại học sĩ, Lễ bộ Thượng thư, Tri định châu Hàn Giáng làm Kiến Hùng quân tiết độ sứ. Sử cũ chép việc này.

[50] Ngày Kỷ Mùi, Tần Phượng lộ kinh lược sứ Lã Đại Phòng tâu rằng, những việc Hoa Ma báo cáo trước sau đều đúng, tỏ ra trung thành, xin theo lời yêu cầu của hắn, vẫn cấp lịch, tiền chi tiêu hàng tháng, lụa màu. Chiếu rằng nếu Lý Sư Trung trước đây đã từng cấp lịch, thì cứ theo đó mà cấp. Sau lại chiếu cho Đại Phòng, nếu Hoa Ma quả thật trung thành, thì bảo hắn viết chữ Phiên, mang đến kinh lược ty.

[51] Chiếu cho Tả gián nghị đại phu, Sử quán tu soạn An Đào, đợi khi đi sứ Cao Ly về, sẽ nhận chức Phán tướng tác giám.

[52] Trung thư kiểm cử quan chức trách nhiệm ở An Nam xin chỉ dụ, chiếu cho Quách Quỳ, Triệu Tiết đợi thêm ba kỳ nữa sẽ xin chỉ dụ, Lý Bình một hoặc hai kỳ, Chu Ốc một kỳ, Thái Diệp đợi khi mãn tang sẽ theo số kỳ của Lý Bình mà xét.

[53] Chiếu từ nay các quan chức quản lý binh lính ở các lộ sẽ thay đổi lẫn nhau.

[54] Ty chuyển vận lộ Tử Châu tâu rằng, giặc Di ở Lô Châu gây loạn, thiếu tiền mặt để chi dùng, xin cấp ba vạn quan tiền từ kho thường bình. Triều đình đồng ý.

[55] Lại có chiếu: “Nghe nói ở Ung Châu còn tồn khoảng mười sáu vạn hai nghìn tấm lụa và ba mươi ba vạn thạch lương thực, đều được cất giữ trong những nhà tranh mới xây. Phương Nam khí hậu nóng ẩm, lương thực và vải lụa dễ hư hỏng, giao cho Chuyển vận sứ Trần Sai xem xét chuyển đổi. Đồng thời thăng Trần Sai làm Trực tập hiền viện, còn mệnh lệnh thăng chức trước đây không thi hành nữa.”

[56] Chiếu: “Các quan viên quản lý và phụ trách vận chuyển lương thực, khi đi qua các châu quân không được ở quá năm ngày nếu không có lý do chính đáng. Nếu vi phạm, Tam ty sẽ xét tội và tâu lên, đồng thời thu lại giấy phép sử dụng dịch trạm đã xin; nếu người phụ trách vận chuyển lương thực tự ý bỏ đi, sẽ bị đánh một trăm trượng.”

[57] Ngày Canh Thân, Quyền Độ chi phó sứ, Thái thường thừa, Tập hiền điện tu soạn Trương Hổ, vì kiêng tên húy của ông tổ năm đời, xin đổi tên thành Trương Tảo, triều đình đồng ý.

[58] Ngày Nhâm Tuất, Tri châu Ngạc Châu Vương Thiều tâu rằng, binh lính đào ngũ Điền Thắng đã nhiều lần bị xăm mặt và lưu đày, lại bỏ trốn về gây loạn, đã sai người bắt giết và thưởng tiền. Xin từ nay những binh lính bị lưu đày mà đào ngũ làm cướp, cho phép bắt giết, thưởng mười nghìn tiền. Chiếu ban hành điều lệ gửi cho Vương Thiều tham khảo, nếu tội tình nặng nhưng chưa đến mức tử hình, thì tâu lên xin xét.

[59] Ngày Quý Hợi, chiếu cho Lô Châu tạm thời thêm một nghìn quan tiền công dụng, lấy từ khoản tiền không thuộc ngân sách, đợi khi việc giặc Di yên ổn sẽ trở lại như cũ.

[60] Ngày Ất Sửu, Chuyển vận sứ lộ Lợi Châu tâu: “Giám Tế Chúng ở Hưng Châu mỗi năm đúc tiền cũ là 41.000 quan, chi phí vốn là 24.000 quan, lãi được 17.000 quan, cung cấp cho Ty Trà Trường. Nay theo lời tâu xin của Bồ Tông Mẫn, xin tăng thêm đúc tiền thường dùng hơn 31.000 quan, cộng với số tiền đúc cũ và tiền định mức tổng cộng hơn 72.000 quan, chi phí vốn hơn 42.300 quan, có thể thu lãi được 30.000 quan. Việc Tông Mẫn xin đúc một nửa tiền lớn, muốn đúc cả tiền lớn chiết hai, không chỉ thuận tiện cho việc sử dụng, mà còn tiết kiệm được chi phí công, thu lãi đủ cung cấp cho Ty Trà Trường, và xin hạn trong một năm hoàn trả vốn.” Được chấp thuận, nhưng lệnh chỉ đúc tiền hiện dùng của bản lộ.

[61] Kinh lược sứ lộ Tần Phượng Lã Đại Phòng tâu: “Muốn chọn người mang theo một lượng trà và lụa, lấy danh nghĩa đáp lễ giao cho Quỷ Chương; và lệnh thuyết phục răn đe Hà La, từ nay không được tụ tập người ngựa dụ dỗ uy hiếp các hộ quen thuộc ở Giai Châu.” Được chấp thuận.

[62] Ngày Bính Dần, Hữu ban điện trực Hác Anh được thụ chức Cáp môn chỉ hầu, quyền Đô tuần kiểm Thái Châu, Tín Dương quân. Vì đã chém được bốn tên giặc Hoàng Thanh, trong đó hai tên do Anh tự tay bắt được.

[63] Chiếu rằng: Tông thất từ hàng Ti ma trở lên, người được ủy chủ hôn, phải chọn con cháu trong ba đời có hai đời không phải là người xuất thân từ các ty, hoặc nạp tiến kỹ thuật, công thương, tạp loại, ác nghịch, mới được phép kết hôn. Ngày Nhâm Tý mùng 5 tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10, do Bành Nhữ Lệ bàn luận nên mới đặt ra lệnh này, nay lại xin làm rõ thêm. Thực lục năm ngoái ngày mùng 5 tháng 9 không chép, nay ghi cả hai.

[64] Chiếu rằng: Lang trung Đồn điền Lưu Tông Cổ được tha về quê. Vì Kinh Đông chuyển vận ty tâu rằng Tông Cổ mưu tính tài sản của người đàn bà góa họ Lý, cùng ở chung, mà lại vu cáo kiện tụng về tiền của.

[65] Chiếu rằng: “Các viên tập sự ở Đại Lý tự được phép phân nửa công văn, chưa đầy nửa năm, không được xử án tham nhũng của quan viên[10]. Đợi khi hoàn thành kỳ khảo hạch, cử quan viên xem xét, nếu đủ năng lực xử án như các quan chính thức, thì bảo đảm theo quy định của quan chính thức, đợi khi có khuyết sẽ bổ nhiệm[11]. Người được tuyển chọn nếu đã tập sự đủ hai năm trở lên, và tổng cộng các nhiệm kỳ đủ bốn kỳ khảo hạch, có hai người tiến cử, thì theo quy định của hai nhiệm kỳ bốn kỳ khảo hạch được thăng chức vào hàng kinh triều quan, và phải xét lại tư cách nhiệm kỳ; nếu chưa từng có kỳ khảo hạch nào, thì đợi khi tổng cộng thời gian tập sự và làm quan xét án đủ bốn năm, cũng áp dụng theo quy định này. Những người đã là kinh triều quan mà được cử đi tập sự, đều áp dụng theo quy định về nhiệm kỳ của các quan xét án.”

[66] Ngày Đinh Mão, chiếu rằng: Y quan sứ của Hàn lâm viện là Chu Hữu Chương chữa bệnh cho Tri Xu mật viện sự Phùng Kinh có công, đặc cách cho một người con được làm Hàn lâm y học. Phùng Kinh bệnh nặng, Vua ban đêm gọi tả hữu, vừa mơ thấy Phùng Kinh vào chầu, rất vui mừng, bèn ban chiếu rằng: “Nhớ mong hình dáng, không quên trong mộng.” Đến khi khỏi bệnh vào chầu, Vua đầu tiên kể lại giấc mơ cho ông nghe. Việc này nhân Chu Hữu Chương mà được ghi chép, cần xem xét thêm.

[67] Lễ viện tâu rằng, tháng Mạnh Đông tế Thái miếu nên đổi thành tế Hợp, thờ chung bảy tầng thần và các công thần được phối hưởng. Chiếu tuân theo.

[68] Ngày Mậu Thìn, chiếu ban bạc, lụa, lĩnh tổng cộng trị giá hai mươi triệu quan tiền[12] giao cho Kinh lược ty của Phu Diên lộ, theo lệ năm trước, không theo chế độ thường, chọn quan mua lương thảo để phong trang.

[69] Hôm đó, Hoàng Lý giảng về chức vụ của Tể phu, vào đầu năm, “ghi chép những người có năng lực và những người tốt, rồi báo lên trên”. Vua hỏi: “Có người nói ‘Chiếu Vua bãi chức’, có người nói ‘Dùng hình phạt quan lại để báo lên Trủng tể mà xử tội’, có người nói ‘Báo lên mà xử tội’, có người nói ‘Báo lên trên’, là sao?” Lý đáp: “Báo lên Trủng tể, chỉ là báo lên Trủng tể thôi; việc báo lên mà xử tội, trong việc báo lên trên, có khi báo lên Vua, có khi bao gồm cả Vua và các quan lớn, đều không được tự ý.” Vua nói: “Có khi ba năm, có khi cuối năm, thì ghi chép năng lực để báo lên, làm cơ sở bãi chức, sao riêng đầu năm lại làm thế? Chẳng phải là việc khảo sát năm trước, ghi chép để báo lên sao?” Lý nói: “Đúng vậy.”

[70] Ngày Kỷ Tỵ, ra chiếu: “Dân bị lũ lụt ở ba châu Tân, Lệ, Thương thuộc hạng tư trở xuống, cho phép mười hộ trở lên lập bảo để vay lương thường bình, hộ bốn người trở xuống được vay một thạch năm đấu, hộ năm người trở lên được vay hai thạch, miễn lãi; buôn bán nhỏ các vật như tre gỗ, cá trái, than, v.v., thuế dưới một trăm tiền được tạm miễn một mùa.”

[71] Quyền Phát khiển Quảng Nam Đông Lộ Chuyển vận Phó sứ, Đồn điền Viên ngoại lang Thẩm Thúc Thông bị giáng một chức, đồng thời bị cách chức. Do khi làm Đề điểm Phúc Kiến Lộ Hình ngục, để xảy ra việc Liêu Ân cướp bóc, xử lý không đúng cách.

[72] Ngày Canh Ngọ, Phán Bắc Kinh Lưu ty Ngự sử đài, Long đồ các Trực học sĩ Trần Tiến được bổ làm Bảo văn các Học sĩ, Đề cử Lễ Tuyền quan. Trước đó, Tiến bị bãi chức ở Thanh Châu, được bổ làm Lưu đài Bắc Kinh, định về quê ở Hình Châu, Vua thấy đường gần kinh đô, đặc cách cho vào yết kiến, rồi có mệnh lệnh này.

[73] Chiếu rằng: “Tam ty lệnh cho các lộ chuyển vận ty khám xét các châu quân thuộc quyền, trong ba năm trước năm Hi Ninh thứ 10, các khoản thu chi, tiền vật hiện có, trừ những thứ tạp nhạp và vật nợ không cần kê khai, còn các khoản thu chi không rõ ràng, hoặc các nơi vay mượn, cùng các khoản miễn trừ nợ, đều phải khai rõ, trong vòng nửa năm phải làm thành bản tường trình[13], gửi đến đề điểm hình ngục ty để xét duyệt và bảo đảm, rồi trình lên trung thư điểm kiểm. Nếu có điều gì không đúng, sẽ bị phạt tội đồ hai năm, không kể đã thôi chức, và sẽ trị tội cả những quan lại đã bảo đảm; nếu xét ra có tiền vật ẩn giấu, sẽ được thưởng theo thứ bậc. Từ nay cứ ba năm một lần phải báo cáo, lập thành lệnh.” Vì trung thư tâu rằng các lộ tài phú, thu chi hàng năm, chuyển vận ty thường không hết lòng, chỉ kêu thiếu hụt, nên cần có phép kế toán thu chi, để xét sự tăng giảm, biết chỗ dư thiếu.

[74] Lại chiếu rằng: “Dân chạy lụt ở ba châu Thanh, Tề, Truy, đến các châu huyện, chiêu mộ thanh niên làm việc; còn người già, trẻ nhỏ, bệnh tật không nơi nương tựa, từ ngày mùng một tháng mười một, theo lệ người ăn xin cấp lương thực, đợi khi về quê, hoặc có thể tự lo được, hoặc đến mùa xuân ấm áp thì ngừng cấp.” Hai kỷ phụ vào cuối năm.

[75] Phủ Khai Phong, ty Đề điểm, thủ phân Phùng Tĩnh tự trình bày rằng đã từng tố cáo các huyện Ung Khâu thuộc phủ Khai Phong để mất số tiền thuế hơn 5.800 quan, xin được ban thưởng. Chiếu chỉ ban cho một nửa số tiền đó làm phần thưởng. Việc này căn cứ theo sự việc ngày 28 tháng 8 trong 《Ngự tập》, còn 《Thực lục》 thì ghi chép ở đây. Xét việc đặt thành Thiết Thành ở châu Dân đã thấy ở cuối tháng 6 năm Hi Ninh thứ 10[14].


  1. Chữ 'chư' trong 'chư châu' nguyên bản bị khuyết, căn cứ theo bản trong các bổ sung.
  2. Chữ 'pháp' trong 'sức phi nghị pháp' nguyên bản là 'ngoại', căn cứ theo bản trong các sửa lại.
  3. 'trốn về' nguyên bản là 'trốn đi', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại.
  4. 'Cập biên sự tài tức nãi lai giáng' chữ 'tài' nguyên bản là 'kế', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 6-14 mà sửa lại.
  5. 'Nhân thượng đổng chiên quỷ chương sở dữ thư cập lộc tôn thân thư phiền tự' trong 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 6-14 viết là 'thượng đổng chiên sở dữ lộc tôn phiền tự'.
  6. Vương Cẩn Vi, chữ 'Cẩn' trong 《Tống hội yếu》 chức quan 66-4 viết là 'Thận', các chỗ sau đều theo đó.
  7. 'Khang' nguyên là 'Liêm', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 334, 《Đào Bật truyện》 sửa lại.
  8. Uyển sao lại biết 'Cố', sách 《Thiệu Bá Ôn văn kiến lục》 quyển 13 chép là 'tòng'. Nghi ngờ là đúng.
  9. Sở dĩ thị cường 'thị' nguyên tác 'Sự' , cứ các bản cải.
  10. 'tham nhũng' nguyên bản là 'chức vụ', căn cứ vào bản trong các và 《Tống hội yếu》 chức quan 24-5 sửa lại
  11. 'khuyết' nguyên bản là 'chỉ', căn cứ vào bản trong các và sách trên sửa lại
  12. Hai mươi triệu quan, theo 《Tống sử》 quyển 179, chí về thực hóa, kinh phí chiến tranh ở Thiểm Tây chỉ khoảng ba mươi ba triệu quan, Phu Diên là một trong sáu lộ của Thiểm Tây, số bạc lụa ban ở đây rõ ràng quá lớn, có lẽ là 'hai mươi vạn quan' là sai
  13. Hạn nửa năm làm thành bản tường trình, chữ 'Đô' nguyên bản thiếu, theo các bản và bản hoạt tự bổ sung.
  14. Xét việc đặt thành Thiết Thành ở châu Dân đã thấy ở cuối tháng 6 năm Hi Ninh thứ 10, căn cứ theo quyển 283, tháng 6 năm Hi Ninh thứ 10, mục 'Tháng này' trong sách này, chú thích: '《Thực lục》 có ghi chép việc này, lại thấy ở cuối tháng 8 năm Nguyên Phong thứ nhất, nay chỉ lưu lại ở đây.' Vậy thì đây nên là chú thích của phần chính văn 'Đặt thành Thiết Thành ở châu Dân', chữ 'dĩ' nguyên nằm dưới chữ 'thử', nay đã sửa lại. Xét theo ý nghĩa của chú thích trước 'nay chỉ lưu lại ở đây', phần chính văn 'Đặt thành Thiết Thành ở châu Dân' có lẽ đã bị xóa bỏ.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.