"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 292: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)

Bắt đầu từ tháng 9 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 9, ngày Nhâm Thân (mùng 1), Lý Tắc, quan phụ trách trà trường ở Thành Đô phủ và các lộ khác, tâu rằng: “Gần đây, Bồ Tông Mẫn xin mua muối từ dân chúng ở Phượng Tường phủ, giới hạn một vạn tịch, chuyển tiền vốn vào Xuyên Trung để mua bán, nhưng tốc độ chậm nhanh khác nhau, khó đạt được số lượng này. Xin cho bản ty theo lệ như thương nhân, mua muối vào Xuyên Trung, biến đổi thành tiền vốn, mỗi năm không quá một vạn tịch.” Triều đình đồng ý, nhưng không được để các châu huyện bán ra hoặc có sự ép buộc.

[2] Lấy Lữ Gia Vấn, người đang giữ chức Tri Giang Ninh phủ, làm Tri Nhuận châu. Ty Chuyển vận Giang Nam Đông lộ tâu rằng Gia Vấn vi phạm pháp luật, không công bằng, xin chuyển ông đến một quận khác để dễ dàng điều tra, nên có mệnh lệnh này. Lúc này, Gia Vấn cũng tâu rằng muốn xét xử tội của Dương Trung Dung, Đô đại Tuần kiểm, và những người khác, nhưng Ty Chuyển vận lại ra lệnh cho họ tự thú tội. Gia Vấn xin cử quan lại không liên quan đến vụ việc để điều tra. Chiếu chỉ giao cả vụ việc cho Ty Chuyển vận xử lý. Gia Vấn nhậm chức Tri Giang Ninh phủ vào ngày 21 tháng 10 năm Hi Ninh thứ 10.

[3] Ty Chuyển vận Thiểm Tây tâu rằng các trường mua lương thảo ở biên giới các lộ Tần Phượng còn nợ thương nhân 59 vạn quan tiền nhập trung lương thảo. Triều đình ra chiếu chỉ cho Tam ty cấp thêm 30 vạn quan tiền muối ngoài hạn ngạch hàng năm, chia đều trong hai năm theo thứ tự ưu tiên.

[4] Chiếu chỉ: “Các lộ nộp vàng bạc, tiền tệ, lụa vải cho Nội tàng khố, giao cho Ty Đề hình giám sát. Nếu Tam ty, Ty Phát vận, Ty Chuyển vận tự ý thay đổi, chuyển dời, giữ lại dẫn đến thiếu hụt hạn ngạch hàng năm của khố, sẽ bị phạt tù hai năm.”

[5] Ngày Quý Dậu, Giao Chỉ dâng sản vật địa phương.

(Hai sự kiện này được ghi chép vào cuối năm.)

[6] Ngày Giáp Tuất, chiếu chỉ từ nay các kỳ thi khoa cử, khi tâu lên các câu hỏi sách lược, phải ghi rõ chức vụ và tên người soạn thảo. Trước đây, Vua thấy các quan coi thi biệt đầu soạn và tâu lên các câu hỏi sách lược, có những câu từ không phù hợp nhưng không biết ai là người soạn, nên có chiếu chỉ này.

[7] Xu mật viện xin rằng, ngoại trừ các chỉ huy kỳ đầu của cấm quân không ở kinh thành và dưới quyền tướng, thì mã quân và bộ quân đều lấy mười phần làm tỷ lệ: mã quân một phần tập luyện thương đao, còn lại tập cung; bộ quân hai phần tập cung, hai phần tập thương đao, còn lại tập nỏ. Ở khu vực phủ Khai Phong và năm lộ phía đông, tây kinh thành, những quân nhân lĩnh lương ba trăm tiền, ngoại trừ những người đã tập thương đao, những người hiện đang bắn cung hạng nhất thì làm cung tiễn thủ, còn lại cùng với những người mới chiêu mộ đều làm nỏ thủ. Được chấp thuận. Sách 《Binh chí》 chép: Năm Nguyên Phong thứ nhất, chiếu rằng cấm quân ở kinh thành và dưới quyền tướng, lấy mười phần làm tỷ lệ: mã quân một phần tập thương đao, còn lại tập cung; bộ quân hai phần tập cung, hai phần tập thương đao, còn lại tập nỏ. Quân sĩ năm lộ lĩnh lương ba trăm tiền, ngoại trừ những người đã tập thương đao, những người hiện đang bắn cung hạng nhất thì làm cung tiễn thủ, còn lại cùng với những người mới chiêu mộ đều làm nỏ thủ.

[8] Ngày Ất Hợi, chiếu rằng: “Quản câu Quảng Tây thường bình đẳng sự Lưu Nghị, căn cứ điểm kiểm ty chuyển vận Quảng Tây và đề cử Lưỡng Chiết thường bình sự Phạm Tuân, hội kế chi phí thực tế quân sự An Nam, tình hình quản lý hiện tại khác nhau, và liệt kê các khoản dự trữ ở đâu; những khoản ở vùng biên giới xa xôi không có phòng thủ, đều dời về các châu gần bên trong; những thứ không thể lưu giữ được, có thể bán đi; quân khí thì phân loại thu hồi; các lộ khác cũng gửi văn thư yêu cầu kiểm tra báo cáo.”

[9] Đô đề cử thị dịch ty tâu rằng, muốn lấy số tiền nợ một trăm vạn quan tiền muối dẫn của nội tàng khố mà thị dịch vụ thượng giới hiện đang thiếu, đợi khi thị dịch vụ bù đủ vốn, sẽ theo chỉ dụ triều đình hoàn trả đủ trong hai năm. Chiếu cho phép bắt đầu từ năm sau.

[10] Ngày Bính Tý, chiếu rằng ty chuyển vận và ty đề điểm hình ngục Giang Nam Đông lộ cùng điều tra các quan lại vi pháp pháp luật ở phủ Giang Ninh để tâu lên, suy quan Vương Giác và tả ty lý tham quân Quan Đạt tạm thời bị thay thế. Trước đó, chỉ lệnh ty chuyển vận điều tra, nhưng Lữ Gia Vấn sau đó có tấu trình, nên lệnh cho ty khác cùng xử lý.

[11] Ngày Đinh Sửu, chiếu rằng quan lại các châu huyện không được đón tiễn khách qua đường, trừ trường hợp phái sứ mệnh và các chức Thái trung đại phu, Quan sát sứ trở lên thì vẫn như cũ.

[12] Lại có chiếu cho Đô thủy giám xem xét cây du liễu dọc theo sông, lệnh cho sứ thần địa phương kiêm quản việc bóc vỏ, và cử quan đô đại đề cử, tâu rõ lợi hại lên triều đình.

[13] Ban thưởng áo tía cho Vương Cư Khanh, Lang trung Hình bộ, Đô đề cử Thị dịch.

[14] San định xong ba quyển sắc thức do cơ quan tại kinh đương trực biên soạn, xin lấy tên là “Nguyên Phong tân định tại kinh nhân tòng sắc thức” để ban hành. Triều đình đồng ý.

[15] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng từ nay các khoản tiền vật như thường bình, miễn dịch, phường trường, nếu các nơi tâu xin chuyển dùng, đã được chỉ, đều giao cho Tư nông tự chỉ huy.

[16] Ngày Kỷ Mão, Quảng Tây chuyển vận ty tâu rằng từ khi quân sự phát triển, tăng thêm quân đồn trú rất nhiều, lại mới lập châu Thuận, chi dụng thực sự lớn, xin lấy số lụa thưởng quân hiện có để ứng phó quân trang và các khoản thưởng khác. Triều đình đồng ý.

[17] Vua phê: “Lệnh cho Điện tiền ty và Mã bộ quân ty cùng Đề cử giáo tập mã quân là Vương Trung Chính và Địch Tư, dùng cung dài bạch hoa thường dùng với tên dài, và cung rộng hoàng hoa mới chế với tên ngắn giảm ngón, mỗi loại lấy lực kéo một thạch một đấu, thử nghiệm xem tên bắn mạnh hay yếu, vào vật sâu hay nông, xa hay gần, rồi tâu rõ lên.” Sau đó Trung Chính và đồng sự tâu lên, triều đình bèn chiếu rằng từ nay dùng cung hoàng hoa, lệnh cho Thừa chỉ ty lập pháp. Thừa chỉ ty tâu rằng các quân tuyển bổ vào thượng tứ quân, thượng tứ quân, thân tòng quan, kị ngự mã trực tiểu để tuyển bổ vào các ban trực, và các ban trực tuyển thập tướng, tướng ngu hậu, trưởng nhập chi hậu cùng người chuyển ban, xin từ nay khi dẫn kiến trình thí, theo điều cũ mỗi bậc lực kéo, dùng cung tên Nam khố đánh trụy hoàng hoa rộng, tên giảm ngón, nỏ thì tăng dần ba đấu. Triều đình đồng ý.

[18] Ngày Nhâm Ngọ, Tả ban điện trực Thành Trác xin từ chức Đề cử hữu giang binh mã tặc đạo đô tuần kiểm ở châu Ung, chỉ xin đến trú bạc ở trường Thanh Khê châu Anh hoặc trường Sầm Thủy châu Thiều để bắt giặc. Triều đình không cho từ chức, theo lời tâu của Quảng Nam Tây lộ kinh lược ty mà bổ nhiệm, lại theo điều lệ trước cho thăng chức, đợi khi mãn nhiệm thì bổ làm Cáp môn chi hậu.

[19] Tư nông tự xin các lộ nơi mùa thu được mùa, dân hộ còn nợ tiền và thóc của kho thường bình, miễn dịch, nếu từ ba phần trở lên thì cho phép tăng thêm tiền để chiết nạp[1], đều được chấp thuận.

[20] Tam ty tâu: “Đô chuyển vận ty Hà Đông xin tiếp tục cấp 30 vạn quan tiền sao hiện có để mua dự trữ quân lương. Nay muốn theo lệ mua lương thảo phong trang, xin trích 10 vạn quan từ tiền muối mạt, đổi thành giao dẫn của bản lộ, thu nộp cho chuyển vận ty để mua lương thảo ở vùng biên giới xa, sau đó dùng tiền muối mạt hoàn trả về tỉnh ty.” Được chấp thuận.

[21] Ty đề cử trà trường Thành Đô phủ và các lộ xin các châu quân xuất trà, hàng năm phải thông báo rõ cho các hộ trồng trà, nếu dám hái và chế biến trà già vàng mùa thu để bán, dù nhiều hay ít đều tịch thu làm của quan, lại xin hàng năm cử quan khác đến kiểm tra, nếu đã nộp loại trà như vậy thì đều đốt bỏ. Được chấp thuận.

[22] Quyền phát khiển Hà Bắc Đông Lộ đề điểm hình ngục là Uông Phụ Chi tâu rằng, gần đây đã lấy sách lệ công sứ của phủ Đại Danh để chiếu theo, lại có thêm một sách lệ đặc biệt mới được đặt ra. Hiện nay, các giám ty là Ngô Thẩm Lễ và Cao Bác thường nhận rượu đặc biệt ngoài lệ. Sách lệ này thần đã mang về bản ty, chuẩn bị để chứng nghiệm, mong triều đình biết được dấu vết tham lam hay thanh liêm của các quan ngoài. Chiếu chỉ cho Phụ Chi nhanh chóng trả lại sách lệ cho phủ Đại Danh.

Theo《Thiệu Bá Ôn văn kiến lục》 chép: Văn Ngạn Bác làm phán quan ở Đại Danh. Phụ Chi vốn là chuyển vận phán quan ở Hà Bắc Tây Lộ, chuyển sang Đông Lộ, đến yết kiến Ngạn Bác. Khi Ngạn Bác đang ngồi ở công đường, xem tờ yết kiến rồi để dưới án không hỏi, vào nhà trong, lâu sau mới ra. Phụ Chi đã không chịu nổi, khi gặp, Ngạn Bác đối đãi rất sơ sài, nói rằng: “Gia nhân vừa bảo ta gội đầu, quên mất việc gặp vận phán, xin đừng lấy làm lạ.” Phụ Chi rất bực tức. Theo lệ cũ, ba ngày sau khi giám ty đến, phủ tất phải mở tiệc, nhưng Ngạn Bác cố ý bãi bỏ. Phụ Chi gửi văn thư yêu cầu kiểm tra kho phủ trong ngày, thông phán theo thứ tự báo với Ngạn Bác, nhưng Ngạn Bác không trả lời. Hôm đó, Ngạn Bác cùng gia nhân dự tiệc, mọi việc trong ngoài đều không được thông báo, chìa khóa cũng không thể xin được. Phụ Chi tức giận, phá khóa kho giá các, nhưng cũng không thể kiểm tra được, bèn mật tấu Ngạn Bác không trị sự. Vua phê vào tờ tấu của Phụ Chi gửi cho Ngạn Bác, có câu: “Vì Thị trung là bậc đức cao, nên phiền ngài trấn giữ Bắc Môn, việc nhỏ không cần phải lo lắng. Phụ Chi là tiểu thần, dám vô lễ như vậy, sẽ có cách xử trí khác.” Ngạn Bác nhận được nhưng không nói gì. Một hôm, họp với các giám ty, Ngạn Bác nói: “Ta già yếu, không có tài trị sự, may nhờ các ngài khoan dung.” Các giám ty đều xấu hổ xin lỗi, rồi đưa tờ phê của Vua cho Phụ Chi xem. Phụ Chi hoảng sợ bỏ chạy về, viện cớ đi tuần tra để trốn đi. Không lâu sau, Phụ Chi bị bãi chức.

Xét, Phụ Chi vào tháng 4 năm Hi Ninh thứ 10, từ chuyển vận phán quan Hà Bắc Tây Lộ đổi sang Đông Lộ, tháng 2 năm Nguyên Phong thứ nhất thăng làm đề hình, tháng 6 năm thứ 3 được bổ làm Khai Phong phủ suy quan. Ở đây nói “không lâu sau, Phụ Chi bị bãi chức” là sai. Có lẽ vì chiếu chỉ Phụ Chi trả lại sách lệ cho phủ Đại Danh, mọi người vui vẻ, nên nói Phụ Chi vì việc này mà bị tội, nhưng thực tế không phải vậy.)

[23] Ngày Quý Mùi, ban chiếu rằng: “Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức trả lại những hộ dân bị cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì sẽ chấp thuận yêu cầu của ông ta, trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu Môn[2], cùng huyện Cơ Lang. Đồng thời, những thủ lĩnh gây loạn sẽ bị xử trí ngay tại biên giới.” 《Cựu kỷ》 ghi lại chiếu đáp rất chi tiết, nhưng 《Tân kỷ》 đã lược bỏ.

[24] Ban chiếu cho Tăng Bố, vừa được bổ nhiệm làm Kinh lược an phủ sứ Quảng Nam Tây Lộ kiêm Tri châu Quế Châu, đến Quế Châu để bàn giao công việc châu, và lệnh cho Triệu Tiết tiếp tục giữ chức Kinh lược an phủ sứ. Việc này là do Xu mật viện tâu rằng sự việc ở biên giới An Nam sắp kết thúc, cần để Triệu Tiết chuyên tâm xử lý từ đầu đến cuối.

[25] Nhập nội phó đô tri Vương Trung Chính xin rằng những người được tuyển từ mã quân lên thượng quân, và từ thượng quân lên các ban, đều phải bắn được cung một thạch khi cưỡi ngựa. Được chấp thuận.

[26] Ngày Giáp Thân, Trung thư tâu rằng, các huyện nên lập sổ sách phân loại hộ dân ở thôn xóm và phường quận theo đinh và tài sản, và ghi chép một bản sao gửi lên châu, đóng dấu và lưu trữ tại châu viện. Được chấp thuận.

[27] Ngày Ất Dậu, Đoan Minh điện học sĩ kiêm Hàn Lâm thị độc học sĩ, Bảo Văn các học sĩ, Hộ bộ thị lang Lữ Công Trước, Xu mật trực học sĩ, Công bộ thị lang Tiết Hướng, cùng được bổ nhiệm làm Đồng tri Xu mật viện sự. Lữ Công Trước nhậm chức xong, cùng các đồng liêu tâu việc xong, ở lại tạ ơn, nhân đó tâu rằng: “Thần già ở nơi nhàn tản, được bệ hạ thu dụng lúc tuổi già, chỉ biết hết lòng trung thành để báo đáp ân tri ngộ. Từ năm Hi Ninh đến nay, do triều đình bàn luận bất đồng, những người ngay thẳng, lương thiện đều bị tiểu nhân bài xích, chỉ trích là những kẻ phá hoại pháp độ, không thể dùng lại, điều này không có lợi cho quốc gia, mong bệ hạ lưu ý xem xét.” Vua nói: “Đúng vậy, nên lần lượt thu dụng họ.” Vua mới lên ngôi, Hàn Giáng liền đề nghị khôi phục nhục hình, đến lúc này, lại hạ chiếu cho các quan chấp chính bàn luận. Lữ Công Trước cho rằng đời sau lễ giáo chưa đầy đủ, mà hình ngục nhiều, nhục hình không thể khôi phục, sẽ bị chê cười là “giày rẻ chân đắt”. Ngô Sung đề nghị khôi phục việc đặt vòng đất, mọi người cho là khó thực hiện. Vương Khuê muốn lấy tội nhân tử hình ở Khai Phong để thử hình phạt cắt mũi và chặt chân. Lữ Công Trước nói: “Chặt chân mà không chết, thì nhục hình sẽ được thực hiện.” Cuối cùng, việc bàn luận này bị bãi bỏ. Theo 《Thời chính ký》, Lữ Công Trước nhậm chức ngày 17 Mậu Tý, Tiết Hướng nhậm chức ngày 22 Quý Tỵ.

[28] Tường định lễ văn nói: “Sách 《Lễ ký》 viết: ‘Lễ tế giao dùng bò đực, tế xã tắc dùng tam sinh (bò, dê, lợn)‘, lại viết: ‘Tế trời đất dùng bò có sừng nhỏ như kén tằm và hạt dẻ’, bởi vì công đức che chở và nuôi dưỡng của trời đất không có vật gì có thể sánh được, nên dùng bò có sừng nhỏ. Dùng bò con là lấy sự thành khẩn, lấy nhỏ làm quý; chỉ dùng bò đực, không dùng dê và lợn, lấy ít làm quý; dùng tổ tiên để phối hưởng, tổ tiên xa mà tôn quý, nên dùng đạo trời để thờ phụng, vì vậy cũng chỉ dùng bò đực. Sách 《Thư》 viết: ‘Dùng bò tế ở giao, hai con’, 《Xuân thu truyền》 viết: ‘Nuôi bò để tế, dùng hai con’ là vậy[3]. Tế cha ở minh đường thì có bò và dê, vì cha gần mà thân, nên dùng đạo người để thờ phụng. 《Thi》 viết: ‘Ta dâng lễ, chỉ dùng dê và bò’ là vậy. Nghi thức của triều đình hiện nay, tế Hạo Thiên Thượng Đế, Hoàng Địa Kỳ và tòa của Thái Tổ hoàng đế, mỗi nơi đều đặt ba mâm tam sinh, không chỉ phối vị dùng sai dê và lợn, mà chính vị cũng không chuyên dùng bò đực, không phải là ý nghĩa của việc coi trọng sự chất phác và thành khẩn. Xin thỉnh cầu sửa lại, khi tế ở viên khâu và phương trạch, chính vị và phối vị đều dùng bò con, không đặt mâm dê, lợn và đỉnh, thìa; việc tế tự do quan lại đảm nhiệm cũng theo như thế.” Được chấp thuận. Cả sử cũ và sử mới đều ghi chiếu tế trời đất và phối hưởng đều dùng bò đực.

[29] Lại nói: “Chính vị và phối vị không nên đặt quỹ, phủ, tôn, đậu, xin đổi dùng đồ gốm, vẫn dùng gỗ thiện làm thìa.” Lại nói: “Lấy lửa từ mặt trời, nên dùng để chiếu sáng đồ cúng và dùng trong nhà bếp thần. Xin cho bản sở tìm kiếm gương và phương chư để thử nghiệm, lấy nước trong. Lại xuống các châu Nhiêu, Tín ở Giang Nam, hái hoa uất kim, mong tìm được loại thật, để pha rượu sưởng.” Lại nói: “Ở Cảnh Linh cung và Thái miếu, đặt chậu rửa ở phía tây vị trí của hoàng đế là không đúng, xin đặt ở dưới thềm phía đông, phía đông của điện, và bỏ lửa quán ở Cảnh Linh cung.” Đều được chấp thuận. Lễ văn tế giao và tế miếu vốn có văn bản riêng, nay chỉ nêu những điểm chính, bỏ bớt lời rườm rà, các việc khác đều làm theo như thế.

[30] Tư nông tự xin từ nay lấy một nửa số tiền còn lại để mua lương thực, tách thành một khoản riêng, không cùng đánh giá chung với khoản thường bình cũ. Được chấp thuận.

[31] Tam ban phụng chức La Xương Hạo tâu rằng, trước đây được sai mang sắc thư và lễ vật đến nước Chiêm Thành, nay vẽ bản đồ từ Chiêm Thành đến Giao Chỉ để dâng lên. Vua phê: “Xương Hạo không ngại gian khổ, đi sứ đến vùng xa xôi, tuy không hoàn thành được công lao như lúc đầu nhận mệnh, nhưng chịu khó vượt biển, cũng đáng khen ngợi, nên thăng một bậc.” Lại phê: “Từ khi dùng binh ở An Nam, có hàng trăm người dâng kế đánh giặc, lời bàn về đường tiến quân đường thủy và đường bộ đều khác nhau, chưa biết ai đúng. Nên tập hợp các ý kiến thành sách, vẽ bản đồ kèm theo, để phòng khi cần dùng sau này.” Bèn hạ chiếu cho kiểm tường quan Vương Bá Hổ và Lương Đào biên soạn.

[32] Ngày Bính Tuất, Từ Hi, quan kế nghị biên phòng ở Hoàn Khánh lộ tâu rằng, từ Thiểm Tây lộ đến vùng biên giới, mùa màng bội thu khác thường, giá cả rất rẻ, xin mượn một triệu quan tiền chia cho các lộ kinh lược ty lo liệu, sau này lại bắt chuyển vận ty hoàn trả. Chiếu cho đề cử ty trà trường phủ Thành Đô và các lộ cấp mười vạn quan tiền cho Hoàn Khánh lộ, bốn mươi vạn quan chia cho Tần Phượng và Kinh Nguyên lộ, đều giao cho kinh lược ty mua lương thực dự trữ; lại lệnh cho tam ty chi năm mươi vạn quan tiền diêm sao cho chuyển vận ty Thiểm Tây lộ mua lương thảo.

[33] Trưởng tôn Lương Thần, quan tẩu mã thừa thụ ở Hi Hà lộ tâu rằng, hai tộc Lang và Khuê gồm hơn sáu trăm người, tuy từ trước đến nay mượn đất canh tác, nhưng cuối cùng không phải là đất của mình, xin ở gần Hà Châu hoặc trại Nam Xuyên, khảo sát đất bỏ hoang và ruộng bỏ trốn của dân cung tiễn thủ, cấp hai mươi khoảnh chia cho họ. Được chấp thuận.

[34] Ngày Đinh Hợi, chiếu cho tam ty, những khoản tiền mua đồng, chì, thiếc thuộc hệ tỉnh và thượng cung hàng năm, trừ số tiền vốn đã chi dùng, còn lại đều phải niêm phong theo quy định.

[35] Trung thư kiểm chính lại phòng công sự, Từ bộ viên ngoại lang Vương Trắc Thần được quyền phái làm Đề điểm hình ngục lộ Lưỡng Chiết, kiểm chính lễ phòng công sự, Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý Thôi Công Độ làm Đồng tri lễ viện, quản câu Quốc tử giám, kiểm chính hình phòng công sự, Thái tử trung doãn, Quán các hiệu khám Phạm Thang làm Chuyển vận phán quan lộ Lợi Châu, Xu mật viện kiểm tường hình phòng văn tự, Thái thường bác sĩ Lý Thâm được quyền làm Đề điểm hình ngục lộ Kinh Hồ Nam, kiểm tường lại phòng văn tự, Bí thư thừa Lữ Đại Trung làm Chuyển vận phán quan lộ Hà Bắc, kiểm tường binh phòng văn tự, Điện trung thừa Tiết Xương Triều làm Tri châu Bân. Ban đầu, Vua cho rằng các chức Trung thư kiểm chính và Xu mật viện kiểm tường đều đặt quá nhiều người, đến nay, giảm bớt sáu người là Trắc Thần và những người khác, những người tại chức đủ hai năm đều được thăng một nhiệm. Từ nay về sau, kiểm chính quan lấy bốn người, kiểm tường quan lấy ba người làm định ngạch.

[36] Chiếu rằng: “Chiêm Thành và Giao Chỉ là nước thù địch, việc khởi cư và dự yến trong cung cho phép tránh mặt, nếu muốn dự yến cũng được. Sứ Giao Chỉ và Chiêm Thành gặp ngày mùng một cùng đến điện Văn Đức, đứng chia đông tây; ngày rằm, sứ và phó sứ Giao Châu vào điện Thùy Củng, còn Chiêm Thành đến điện Tử Thần khởi cư; yến lớn, người Giao Chỉ ngồi ở điện Đông Đóa, Chiêm Thành ngồi ở dãy nhà phía tây.” Lúc đó, sứ và phó sứ Chiêm Thành xin tránh mặt người Giao Chỉ, Khách tỉnh tâu lên nên có chiếu này.

[37] Chiếu rằng: “Ung Châu trước đây bị giặc Giao Chỉ tàn sát nhân dân, đến nay khí độc vẫn chưa tiêu tan, nạn lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh liên tiếp xảy ra, gần đây lại có tượng đất rung chuyển, càng thêm kinh dị. Nên hạ lệnh cho Ty Chuyển vận cử quan cùng với trưởng lại bản châu, tập hợp các tăng nhân thanh tịnh ở các vùng lân cận, xây dựng đạo tràng thủy lục để cầu phúc cho người chết. Lệnh cho Tăng Bố, Trần Sai cùng bàn bạc về lợi hại của việc dời thành rồi tâu lên.” Trước đây, trong chùa ở châu có tượng Phật, từng một lần rung chuyển, và năm sau đó quân Giao Chỉ xâm lược. Đến lúc này lại rung chuyển, và hỏa hoạn thiêu rụi gần hết nhà cửa quan và dân. Sau đó, giặc man Nùng Trí Xuân[4] làm phản, tượng lại rung chuyển như cũ. Do đó, quyền tri châu là Tiền Sư Mạnh đã ném tượng xuống sông. Tiền Sư Mạnh quyền tri Ung Châu chưa rõ, việc Nùng Trí Xuân làm phản xảy ra vào ngày Giáp Thìn tháng 6 năm thứ hai.

[38] Ngày Mậu Tý, chiếu cho Ty Chuyển vận Thiểm Tây tìm kiếm các tăng nhân học Phạn ngữ Tây Thiên, cho họ đi ngựa trạm và cấp tiền trang phục để về kinh.

[39] Ty Tường định lễ văn tâu rằng: “Theo nghi chú tế Nam Giao của triều ta, hoàng đế lên đàn từ bậc Ngọ, Tư đồ dâng lễ vật cho Hạo Thiên Thượng đế, các quan Chúc sử đều lên từ bậc Ngọ; khi quan hữu ty đảm nhiệm việc tế, Thái úy cũng từ bậc Ngọ lên đàn. Bậc Ngọ là nơi thiên tử lên, là vị trí đáp lại dương khí, bề tôi cùng lên bậc với bậc tôn quý, đó là lý do Trình Nguyên Tố từng kịch liệt phản đối ở đời Đường. Có người nói lễ vật thần nên từ bậc Ngọ, điều này hoàn toàn không đúng. Theo lễ Thiếu Lao quỹ thực, lễ vật chỉ lên từ bậc Tây, chỉ có lễ Khải là từ bậc Tạc. Vì chủ nhân tự dâng lễ, nên lên từ bậc Tạc. Như vậy, việc lên bậc là tùy thuộc vào người, chứ không phải lễ vật. Bậc Đông của đàn Giao Khâu, bậc Tây của đàn Xã, giống như bậc Tây của miếu; bậc Ngọ của đàn Giao Khâu, bậc Bắc của đàn Xã, giống như bậc Tạc của miếu. Lễ lấy việc định tôn ty, phân biệt hiềm nghi làm gốc, xin rằng khi thiên tử thân hành tế ở đàn Viên Khâu, chỉ có thiên tử và các quan theo hầu lên bậc Ngọ như cũ, còn Tư đồ, Chúc sử nên lên từ bậc Đông; nếu quan hữu ty đảm nhiệm việc tế, thì Thái úy, Á hiến, Chung hiến cũng lên xuống từ bậc Đông, như vậy mới hợp với ý nghĩa của lễ.” Được chấp thuận. Ngày 17 tháng 9 năm Lễ Văn thứ nhất, theo lời tâu.

[40] Lại nói: “Xét kỹ ý nghĩa của lễ, chỉ có bậc quân vương mới được lên bậc tạc để hành lễ, tạc là bậc của chủ nhân. Dù tôn quý như thi, khi vào miếu cũng phải đi từ cửa bên trái; khi lên điện cũng phải từ bậc phía tây. Dù thân thiết như con, khi làm lễ gia quan cũng phải đặt chiếu ở phía đông, hơi lệch về bắc; khi đến vách phía đông để gặp mẹ cũng phải xuống từ bậc phía tây. Vì thế nói rằng, phàm không phải là chủ nhân thì lên xuống đều từ bậc phía tây, để tỏ rõ ý nghĩa tôn quý duy nhất. Nay trong nghi thức Thái miếu, lễ tế Hi Ninh, 《Khai Bảo Thông Lễ》, 《Khai Nguyên Lễ》, từ Á hiến, Chung hiến trở xuống, việc lên xuống đều qua bậc tạc, đó là sự sai sót do các quan cứ theo thói quen mà không xem xét kỹ. Kính xin từ nay khi hành lễ, Á hiến, Chung hiến, công khanh, chúc sử đều đi từ bậc phía tây, để phù hợp với ý nghĩa cổ xưa. Ở Cảnh Linh cung, Á hiến, Chung hiến, cùng Tư đồ, Tư không lên xuống bậc phía đông, cũng xin sửa đổi.” Chiếu cho ty Tường định xem xét lại.

[41] Lại nói: “Thần đã xem xét kỹ các kinh điển về lễ, không thấy ghi chép nào về việc bề tôi lên xuống bậc tạc, bậc tạc là nơi thiên tử đứng để hành lễ, không phải là nơi bề tôi được lên xuống. Nếu cho rằng dùng lễ khách để đối đãi với thi, mà thi lên bậc phía tây, thì thượng khanh cùng tể phu, chúc sử cũng lên bậc phía tây, như vậy há có phải là dùng lễ khách để đối đãi hay không? Những quan lại tùy tùng theo Vua lên xuống, đã đi theo Vua, tự nhiên phải đi từ bậc tạc.” Được chấp thuận. Ngày 5 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ nhất tấu lần đầu, ngày 18 tháng 9 tấu lại, mới được chấp thuận, nay phụ vào ngày 17.

[42] Lại nói: “《Giao Đặc Sinh》 ghi rằng đồ dùng trong lễ tế là đồ gốm, bầu, tượng trưng cho tính chất của trời đất, vì thế trong 《Khai Nguyên Lễ》, 《Khai Bảo Lễ》 khi các quan đảm nhiệm việc tế lễ, cũng dùng chén bầu. Trong lễ tế Hi Ninh, các quan đảm nhiệm việc tế lễ chỉ nói rửa chén, lau chén, mà không nói đến chén bầu, vì thế không dùng chén bầu, kính xin từ nay đổi lại.” Được chấp thuận. Ngày 17 tháng 9 năm thứ nhất theo lời tấu.

[43] Lại tâu rằng: “Hiện nay số lượng tôn di trong Thái miếu vượt quá cổ lệ, lại không theo bốn mùa mà thiết lễ triều hưởng riêng, hoặc lẫn lộn với lễ đông chứng và xuân từ, hạ dược. Trong đó, hai chiếc thận tôn vốn là dùng cho sơn xuyên bốn phương, xin căn cứ theo lễ mà sửa đổi. Lễ xuân từ, hạ dược dùng một kê di, một điểu di, hai hi tôn, hai tượng tôn, sáu lôi; lễ thu thường, đông chứng dùng một giả di, một hoàng di, hai trước tôn, hai hồ tôn, sáu lôi. Lễ đại hợp theo thuyết của Trịnh Chúng, dùng một hổ di, một dữu di, bốn đại tôn, sáu sơn tôn, sáu lôi, tổng cộng mười tám tôn; lễ đế hưởng giống như hợp, nhưng giảm hai sơn tôn, còn mười sáu tôn, căn cứ theo Chu lễ.” Được chấp thuận. Ngày 17 tháng 9 năm Nguyên niên, y theo tấu.

[44] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu: “Nghe nói ở quan trường châu Hi, Hà, giá gạo mua là một đấu một trăm năm mươi đồng, trong chợ chỉ một trăm hai mươi đồng, lệnh cho Diệp Khang Trực điều tra nguyên nhân tăng giá hư ảo rồi tâu lên.”

[45] Tường định lễ văn tâu rằng: “Theo chế độ nhà Chu, từ bậc mệnh sĩ trở lên, cha con ở cung khác nhau, tổ tiên và cha mẹ thờ ở miếu khác nhau, để tỏ lòng kính trọng mà không phạm thượng. Sách 《Tế pháp》 viết: ‘Thích sĩ có hai miếu’. Sách 《Xuân Thu》 chép: ‘Hoàn cung, Hi cung’. Lễ sính có câu: ‘Mỗ quân nhận lễ vật ở mỗ cung’. Sách 《Tăng Tử vấn》 viết: ‘Chủ ra khỏi miếu, ắt phải có người hầu’. Điều này cho thấy từ Vua đến mệnh sĩ[5], không ai không như vậy. Chỉ có hạ sĩ của chư hầu thì cha con cùng ở một cung, tổ tiên và cha mẹ cùng thờ chung một miếu. Đời Hậu Hán, Quang Vũ Đế tiết kiệm không đúng lễ, hợp miếu từ Cao Tổ đến Bình Đế làm một, các phòng khác nhau nhưng cùng một nhà, hạ mình từ bậc vạn thừa xuống ngang hàng với hạ sĩ nhà Chu, các đời sau cứ theo mãi không thay đổi. Thần cho rằng nên căn cứ vào 《Nghi lễ》 để tìm dấu vết, 《Nhĩ Nhã》 để biện giải tên gọi, 《Khảo Công ký》 để ước lượng kích thước, kính cẩn vẽ sơ đồ tám miếu ở cung khác nhau, đặt thủy tổ ở giữa, chiêu mục ở hai bên để dâng lên.” Chiếu giao cho Trần Tường và các quan khác xem xét định ra điển lễ có thể thi hành trong triều đình hiện nay rồi tâu lên, nhưng cuối cùng vẫn chưa thực hiện được. Sáu chữ “nhưng cuối cùng vẫn chưa thực hiện được” theo bản Chu mà thêm vào. Việc Tường định tâu lên điển lễ có thể thi hành vào ngày 21 tháng 11 năm thứ 4, bản mới không chép, bản Chu ghi kèm ở đây, nên xóa bỏ.

[46] Lại tâu: “Việc tế trời có lễ nhân sài, cũng như tế đất có lễ ế huyết, tế miếu có lễ loã sưởng, đều là để mời thần linh, không phải là đốt phần lễ vật còn lại sau khi tế. Người Chu coi trọng hương khí, quét đất mà tế, nên trước hết đốt củi trên gò để khói bay lên mời thần xuống. Từ đời Hán, Ngụy về sau, tế trên đàn, nên sau ba lần dâng lễ xong, thu hồi lễ vật, sách tế, gạo nếp, rượu, đồ ăn rồi đốt đi để tiễn thần. Nay lễ giao tế trên đàn, là theo lệ từ đời Hán, Ngụy về sau, nhưng sau khi tế xong mới đốt khói, không phải là lễ nhân tế coi trọng khí. Xin đợi khi nhạc mời thần dứt, trước hết đốt lễ vật để mời thần.” Chiếu giao Tường định xem xét lại.

[47] Lại nói: “Kinh Lễ chép: Đốt lửa để khói bay lên là để báo với trời, tế âm thì bắt đầu bằng máu. Vì thế họ Hùng nói rằng, phàm các đại tế đều có ba bước đầu tiên, tế trời thì dùng khói để bắt đầu việc thần hưởng; tế đất thì dùng việc chôn để bắt đầu việc thần hưởng. Như vậy thì việc đốt khói, chôn máu để mời thần linh, không thể không làm trước. Tuy nhiên, sau khi đã mời thần linh rồi, mới tiến hành các nghi lễ, đến khi lễ xong, thì đem các thứ như sinh tế, lụa mà đốt hoặc chôn, rồi sau đó mới là kết thúc lễ. Vì thế, nghi lễ tế trời thì đốt củi, tế đất thì chôn máu, họ Trịnh cho rằng như vậy là lễ tế đã hoàn tất, đầy đủ. Trong 《Chu Lễ》, Ty Vu chép: ‘Phàm việc tế lễ thì giữ việc chôn’[6], mà họ Trịnh cũng cho rằng việc giữ đó là vì lễ tế chưa xong, như thể còn có việc phải làm, lễ tế xong thì bỏ đi. Cách giải thích này là đúng. Còn các nho gia trước kia có người cho rằng ngay từ lúc bắt đầu đốt, chôn, đã dùng các thứ như sinh tế, lụa, điều này vừa không thấy trong kinh điển, lại chưa kịp dâng lên thần, đã vội đốt, chôn, như vậy là làm đủ trước mà thiếu sót sau. Đến đời sau, biết đốt, chôn sinh tế, lụa vào cuối lễ, mà không biết mời thần ngay từ đầu, như vậy là làm đủ sau mà thiếu sót trước. Xin rằng khi tế ở Nam Giao, Bắc Giao, trước hết hãy làm lễ đốt khói, chôn máu, đến khi lễ dâng tế xong, thì vẫn theo lệ cũ, đốt, chôn các thứ như sinh tế, lụa ở đàn, hố, như vậy thì lễ từ đầu đến cuối đều đầy đủ.” Được chấp thuận. Ngày 5 tháng 7 năm Lễ Văn thứ nhất, đưa đến sở Tường định để tham khảo thêm, ngày 18 tháng 9, theo lời tấu.

[48] Lại nói: “Xem xét kỹ lễ tế, chỉ có chủ nhân được nhận lộc, nên trong lễ đặc sinh quỹ thực đều nói là ban lộc cho chủ nhân, dù là chủ phụ cũng không được ban lộc. Phàm không phải chủ nhân thì đều không được nhận lộc. Sách 《Tăng Tử vấn》 nói: ‘Nhiếp chủ không được ban lộc, không được dự tế.’ Vì muốn nhận phúc, trước hết phải giảm bớt thóc gạo, thịt lợn dê theo lễ dâng lên. Nay tránh chủ nhân, không dám nhận lộc, vì không được ban lộc nên không dự tế. Lương Minh Sơn Tân bàn rằng, xin ở lễ giao miếu chỉ có hoàng đế lạy hai lần để tỏ rõ thần linh ban phúc, bề tôi không dám ngang hàng. Chiếu theo lời bàn đó. Lễ Khai Bảo và nghi chú, nghi thức tế tự Hi Ninh, khi thiên tử thân hành tế lễ, mà các quan Á hiến, Chung hiến uống rượu phúc, quan hữu ty nhiếp sự, Thái úy uống rượu phúc, nhận thịt tế, thì không hợp lễ. Xin từ nay về sau, khi thiên tử thân hành tế lễ, chỉ có hoàng đế uống rượu phúc, nhận thịt tế, để chuyên nhận phúc từ thần linh, sau đó ban thịt tế cho bề tôi, để tỏ ý chia đều phúc. Việc ban thịt tế và quan hữu ty nhiếp sự dâng thịt tế lên thiên tử, vẫn theo nghi thức thường lệ.” Chiếu cho bàn lại. Ngày Đinh Sửu tháng 7 năm thứ nhất.

[49] Lại nói: “Bề tôi chúng tôi xét rằng, các quan Á hiến, Chung hiến là do quân mệnh giúp hoàn thành lễ. Quan hữu ty nhiếp sự cũng là do quân mệnh thay làm việc đó. Chủ tế đã là thiên tử, thì việc uống rượu phúc, nhận thịt tế vốn không phải là việc bề tôi nên làm, chỉ khi quân vương ban cho thì mới được. Như vậy bề tôi có thể nhận từ quân vương, chứ không thể tự nhận từ thần linh. Việc các quan Á hiến, Chung hiến uống rượu phúc khi thiên tử thân hành tế lễ, và việc quan nhiếp sự uống rượu phúc, nhận thịt tế nên bãi bỏ, cuối lễ ban thịt tế, lạy hai lần, vẫn theo nghi thức thường lệ.” Theo đó. Xét, văn lễ ban đầu gửi đến sở tường định để bàn lại, là ngày Đinh Sửu mùng 5 tháng 7 năm thứ nhất, được chỉ chuẩn y, đến ngày Kỷ Sửu 18 tháng 9. Văn lễ nhân ngày Tân Hợi 21 tháng 8 năm thứ 3, sở tường định xin sửa đổi nghi chú việc hoàng đế uống rượu phúc, nhận thịt tế, nên gộp vào ngày Tân Hợi tháng 8 năm thứ 3. Nay vẫn chép theo ngày tháng năm đó.

[50] Ngày Canh Dần, Nội điện thừa chế Vương Dư Ứng xin được kế tập quản lý Phong Châu, chiếu chỉ cho làm Đô giám Lân Châu, đợi đủ hai năm sẽ bổ làm Tri châu Phong Châu.

[51] Chiếu chỉ cho Tam ty tiếp tục chi 20 vạn quan tiền muối mạt giao cho Hà Đông chuyển vận ty mua lương thảo.

[52] Ngày Nhâm Thìn, An Đào và Trần Mục tâu rằng đã rời Cao Ly vượt biển, ngày Ất Hợi tháng này đến huyện Định Hải, Minh Châu, chiếu chỉ cho Đào và người khác nhanh chóng về kinh. (Họ đi vào ngày 7 tháng 3, đến ngày 8 tháng 8 thì nhậm chức chính thức).

[53] Ngày Quý Tỵ, Ngự sử Hà Chính Thần tâu: “Gần đây giảm bỏ chức Kiểm tường quan của Xu mật viện là Lý Thâm, bổ làm Đề điểm hình ngục Kinh Hồ Nam lộ. Xét Thâm là người khắc bạc, âm hiểm, nay làm Giám ty, sĩ luận đặc biệt không đồng tình. Nghe nói vợ Thâm là Hoàng có việc gian dâm ở An Châu, đúng nơi biên giới, mà giao cho chức vụ tra xét, thực là làm nhục triều mệnh[7], mong truy bãi chức.” Chiếu chỉ đổi Thâm làm Tri châu Thọ Châu.

[54] Ngày Bính Thân, lấy Tri châu Minh Châu, Thái thường thừa, Tập hiền điện tu soạn Lý Định làm Hữu chánh ngôn, Bảo văn các đãi chế, Đồng tri gián viện kiêm Đồng phán Quốc tử giám.

[55] Ngày Mậu Tuất, Tam ty tâu xin từ tiền mua lương tạm dừng ở Địch tiện ty chuyển thêm 10 vạn quan, ứng phó cho Hà Bắc lộ chuyển vận ty nhân thời cơ thu mua quân lương. Theo đó.

[56] Chiếu chỉ rằng các quân sắp xếp Trưởng hành sung làm Thừa cục, Áp quan, nếu không có cung đao thủ thì dùng số cấp bậc còn thiếu, lấy 6 phần làm mức, trước lấy 2 phần nỏ thủ, 3 phần thương thủ, sau lấy 1 phần bài thủ, định làm lệnh.

[57] Ngày Kỷ Hợi, chiếu chỉ rằng Kinh triều quan, Tuyển nhân và Sứ thần đổi sang văn chức, nếu thi đỗ hạng nhất bậc trên thì ban cho Tiến sĩ xuất thân, hạng trung khá ưu tú thì cho đường trừ sai khiển, hạng dưới thì cho chức quan không theo thứ tự. Trong đó, người chưa xuất quan thì cho xuất quan, người đã xuất quan thì miễn đoản sứ, người không có đoản sứ thì thăng nửa năm thứ bậc. Đoạn này có sai sót, bản Chu và Mực đều giống nhau, nên kiểm tra lại 《Trung thư thời chính ký》.

[58] Lữ Gia Vấn tâu: “Theo chiếu chỉ hặc tội thần vi pháp, nghe rằng việc này xuất phát từ việc Chuyển vận phán quan Hà Uyển cử tấu. Huống chi Uyển từng bao che cho lại viên nhận hối lộ và bản thân cũng có tội tham nhũng. Vì trước đã tấu việc phủ này vi pháp, nên cần biện chính xong mới dám cử phát. Thế mà Uyển lại vu cáo thần, há chẳng phải đảo ngược sao? Nay Uyển sai quan hặc tội thần, ắt sẽ chọn người bè phái hại người ngay, không chỉ bịa tội thần mà còn khiến dân lành bị tra khảo oan uổng. Mong sai quan từ nơi khác đến xét.” Chiếu rằng: “Những việc Uyển tấu về Gia Vấn, giao cho Giang Đông Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử ty cùng xét. Lại lệnh Gia Vấn trình bày rõ từ đâu biết việc Uyển phát giác sự thật, kết tội rồi tâu lên.” Ngày 6 tháng 3 năm thứ 2, Du Sung bị phạt tiền đồng.

[59] Đông Tác phường sứ Trương Chi Gián được làm Cung uyển sứ, liền sai quyền Tri Thuận Châu, quyền Quảng Nam Tây lộ Kiềm hạt kiêm An phủ đô giám, Duyên biên khê động đô Tuần kiểm. Trước đây, vì Triệu Tiết từng tâu Thuận Châu Đào Bật già yếu bệnh tật, không thể trông cậy, nên đã lệnh Chi Gián quyền Phát khiển thay Bật.

[60] Ngày Canh Tý, Đồng tri Xu mật viện sự Tiết Hướng xin hạ lệnh cho Đề cử Địch tiện sở, từ nay mua thóc gạo nhập quan, vẫn theo yêu cầu của các quân dùng tiền mặt, ngồi kho thu mua. Theo lời xin.

[61] Đô Tiến tấu viện tâu: “Theo truyền tuyên lấy các văn tự gửi xuống Giang Ninh phủ từ tháng 9 trở đi, lệnh liệt kê tên từng loại.” Chiếu rằng: “Các văn tự của quan ty không ghi rõ nguyên nhân việc đã gửi đi, đều giao xuống các nơi cung cấp kiểm tra, tâu nạp Trung thư. Trong đó nếu có kèm theo thư tín riêng, cũng phải chép đầy đủ cùng tâu. Các thư riêng của thần liêu gửi đi, giao Khai Phong phủ xuống từng nhà lấy bản sao; nếu không có bản gốc, lệnh nhớ lại chép lại, tâu phủ nộp lên. Nếu dám giấu giếm không đầy đủ, cho phép người khác tố cáo, người phạm tội bị cách chức, người tố cáo được thưởng 1000 quan tiền, trong đó nếu là quan viên không muốn nhận tiền thì cứ 300 quan được thăng một bậc.” Lúc đó Lữ Gia Vấn và Hà Uyển tố cáo lẫn nhau việc phạm pháp, Uyển vừa tâu lên thì Gia Vấn đã biện luận ngay, Uyển cho rằng có người báo cho Gia Vấn từ trong triều, nên có chiếu lấy các thư riêng để khảo thực.

[62] Chiếu rằng các ban trực thương nỗ thủ bị khuyết, theo lệ cũ về số người, ngoài việc chọn bổ từ quan thân tòng thân sự[8], còn lại đều chọn từ các tay cung tiễn của phủng nhật, long vệ, còn những tay nỗ thủ bị bãi bỏ, theo chỉ huy đã được ban.


  1. 'Tiền' nguyên bản là 'sao', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 chức quan 26-11 sửa lại
  2. Chữ 'Môn' trong 'Quảng Nguyên, Tô Mậu Môn' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các sách và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 4-38, 《Tống sử》 quyển 488, truyện Giao Chỉ bổ sung.
  3. 'Nuôi bò để tế, dùng hai con' nguyên văn là 'Ngưu', theo 《Xuân thu công dương truyền》 năm Tuyên công thứ ba sửa lại.
  4. Nùng Trí Xuân, chữ 'Trí' nguyên bản là 'tri', theo bản trong các các và chú văn sửa lại.
  5. Chữ 'thị' dưới nguyên có chữ 'lệnh', theo bản các đời mà bỏ.
  6. 'Phàm việc tế lễ thì giữ việc chôn', chữ 'sự' nguyên là chữ 'tự', theo 《Chu Lễ》 Ty Vu mà sửa
  7. thực là làm nhục triều mệnh, chữ 'triều' dưới nguyên có chữ 'Đình', theo các bản khác mà bỏ
  8. chữ 'thân' dưới 'thân tòng thân sự quan' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 194, chí Binh bổ.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.