"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 295: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ NHẤT (MẬU NGỌ, 1078)

Từ tháng 10 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 12, ngày Tân Sửu mùng một, chiếu cho Ty Thiên giám tập hợp các quan làm lịch để khảo sát và tính toán sự khác biệt giữa lịch của Liêu, Cao Ly, Nhật Bản với lịch Phụng Nguyên của triều đình, rồi tâu lên. Sau đó, các quan làm lịch là Triệu Diên Khánh và những người khác tâu rằng: “Năm Kỷ Mùi của Liêu, khí và sóc đều hợp với lịch Tuyên Minh. Năm Mậu Ngọ của Nhật Bản, khí và sóc gần giống với lịch của Liêu. Năm Mậu Ngọ của Cao Ly, sóc hợp với lịch Phụng Nguyên, nhưng trong 24 khí có 7 khí về thời khắc và số ngày mặt trời đi qua các cung mỗi tháng thì khác nhau.”

[2] Ngày Nhâm Dần, chiếu cho các quan phụ trách văn thư của Ty Chuyển vận cử người làm tri huyện là quan Kinh triều, và các quan Kiểm pháp của Ty Đề hình, đều không được đi tuần tra cùng với cơ quan mình.

[3] Chiếu cho Đô đề cử Thị dịch ty: “Những hộ dân đã nộp đủ cả vốn lẫn lãi mà còn nợ tiền phạt lãi, thì được miễn giảm một nửa. Còn những hộ chưa nộp đủ vốn lãi, thì được gia hạn thêm nửa năm, đến khi nộp đủ cũng được áp dụng như vậy.” Cần tham khảo thêm với nội dung ghi ngày 8 tháng giêng năm sau.

[4] Quyền phán Binh bộ Hứa Tướng tâu: “Chi phí cho dân binh và nghĩa dũng ở phủ Khai Phong và năm lộ, chỉ dựa vào số tiền tiết kiệm được từ việc giảm binh lính, tiền thưởng và tiền thuê lính cung thủ để chi dùng. Xin cho bộ này ủy thác Ty Đề điểm hình ngục thu thập số tiền lương giảm và các khoản thưởng tế giao, áo mặc, chiết chi v.v., tính toán tổng số thực tế trong một năm để lập mức, hàng năm giao cho các cơ quan liên quan chia làm bốn quý chuyển về Ty Đề điểm hình ngục. Ngoài những vật dụng có thể dùng cho nghĩa dũng và dân binh, số còn lại đều đổi thành tiền để quản lý và chi trả. Cuối năm nếu còn dư, thì để dành.” Triều đình đồng ý.

[5] Ngự sử Hà Chính Thần tâu: “Gần đây tấu trình kiểm tra văn bản của phòng Hình sự Trung thư là Đỗ Hoành có nhiều điều lệch lạc gây hại chính sự, nghe nói phòng Hình sự đang xử lý việc Hữu Gián nghị đại phu Lữ Công Nhụ minh oan cho người bị kết án tử oan, nhưng lại bí mật qua lại với hối lộ, e rằng có sự nhờ vả riêng. Lại nghe nói Công Nhụ sai binh lính và xe cộ chở nhiều bơ và pho mát, gửi biếu các quan quyền thế ở kinh thành, khiến sản vật địa phương của Vĩnh Hưng cạn kiệt, gây ra nhiễu loạn, xin giao cho hữu ty điều tra tận gốc.” Chiếu chỉ: “Công Nhụ giao cho Thiểm Tây chuyển vận ty xác minh sự thật, đồng thời lệnh cho Đỗ Hoành trình bày rõ ràng để tâu lên.” Sau đó, Hoành trình bày rằng Công Nhụ không có việc minh oan án tử, chỉ gần đây gửi 40 cục pho mát và 3 cân bơ, thần đã sai người trả lại. Thêm nữa, thần từ trước đến nay không quen biết Công Nhụ, chưa từng có một chữ qua lại, chỉ vì lần này gửi bơ và pho mát, theo lệ phải có công văn, thấy ông ta đang ở nhà chờ chỉ dụ. Chuyển vận ty cũng tâu rằng số lượng bơ, pho mát và binh lính Công Nhụ sử dụng nhiều hơn so với năm Hi Ninh thứ 10. Do đó, chiếu chỉ phạt Công Nhụ 10 cân đồng, còn Hoành vẫn giữ chức vụ như cũ.

[6] Ngự sử Hoàng Liêm tâu: “Nghe nói vợ của dân thường Phó Trạch đã từng đến phủ Khai Phong xin phán quyết, vì chồng đi xa không biết tin tức, được cho phép cải giá, sau đó quan phán là Tô Quyên thuê làm nô tì. Gần đây, vì Trạch trở về nhà tranh chấp, hữu ty muốn định tội cho cha của vợ Trạch, nhưng đồng liêu còn nghi ngờ chưa quyết định. Xét thấy Quyên vốn là quan thuộc phủ Khai Phong, ắt biết vợ Trạch xin cải giá một cách sai trái, lại sai người mua chuộc vòng vo, xin điều tra tận gốc.” Chiếu chỉ giao quyền phát khiển phủ Khai Phong Hứa Tướng điều tra tận gốc để tâu lên, đồng thời tạm thời đổi chức phán viện Đăng Văn Kiểm là Đỗ Hi với Quyên. Sau khi điều tra xong, thấy việc thuộc diện xử nhẹ, nên chỉ cách chức Quyên và bổ nhiệm làm Tri châu Thọ Châu.

[7] Chiếu rằng: “Các quân quân sứ, đô đầu trở xuống, đều sung vào số quân trong ngạch, chính phó chỉ huy sứ trở lên, thì bổ trí ngoài ngạch, khi quân hành thì phân áp các đội. Lệnh cho Biên sắc sở cùng Điện tiền, Mã bộ quân ty chiếu theo phép đội tu bổ vào.” Sau đó, Vua phê: “Các quân dưới quyền tướng lĩnh nếu thiếu tướng hiệu, thì dùng thập tướng thay thế, còn tướng hiệu thì theo lệ các quân ở kinh bổ trí ngoài ngạch.” Lệnh liệt kê số người dâng lên, sau đó Xu mật viện dâng số lên, chiếu rằng các tướng hiệu ở sương giới cũng được bổ trí ngoài ngạch.

[8] Đề điểm tu hoàn kinh thành sở tâu: “Việc tu bổ đã hoàn thành, xin ban thưởng cho những người như hào trại được sai phái.” Chiếu ban thưởng tùy theo công lao nặng nhẹ, có chuyển tư, giảm năm, cấp phát khác nhau.

[9] Ngày Quý Mão, Vua phê: “Nhập nội tây đầu cung phụng quan Ngô Tuân Đạo chế tạo quân khí và các công việc trước mặt Vua hơn mười vạn, có thể giảm thời gian khảo xét sáu năm.”

[10] Chiếu cho Tam ty cấp giấy tờ, lệnh cho Ty đề cử xuất mại giải diêm mỗi năm dùng một vạn tịch muối, lấy từ trường muối ở Giải châu, số tiền bán được lệnh phong lại, cuối năm báo số lên.

[11] Ty đề cử Giang Nam đông lộ tâu: “Lữ Gia Vấn vi phạm pháp, không theo điều khoản hộ tuyệt, đem bạc lụa của tăng nhân đã mất cấp cho chùa Tịnh Tương, chùa Canh Minh, đã gửi văn thư cho phủ Giang Ninh điều tra.” Lại có tấu của Gia Vấn: “Thần với các giám ty Giang Đông đều có hiềm khích, từng xin sai quan khác lộ điều tra, nhưng gần đây khám ty lại bắt người sai khiến riêng của thần, sợ Hà Uyển đúc kết, chưa dám phái đi, đã báo lên Chế khám viện. Vì thấy chờ chỉ dụ triều đình, lo rằng Uyển lại vu cáo thần chống đối, xin sớm chỉ thị chuyển tống.” Lại có tấu của Chế khám viện: “Bắt bộc của Gia Vấn là Tôn Thọ làm chứng việc tăng nhân vào nhà, Gia Vấn cố giữ không chịu phái đi, nếu cứ thế này thì khó kết thúc. Xin bãi chức Gia Vấn ở Nhuận châu, phái đến phủ Giang Ninh để xét hỏi.” Chiếu giao Chế khám viện xét hỏi chung, những người bị bắt lệnh cho Gia Vấn phải phái đi ngay. Ngày Canh Tuất tháng 4 năm thứ 2, Gia Vấn bị bãi chức ở Nhuận châu.

[12] Ngày Giáp Thìn, ban chiếu cho Ty đề điểm phủ Khai Phong và các Ty giám sát ở các lộ xét xử tù nhân, những vụ án nhẹ và có liên quan đến việc xét xử thì xử trước.

[13] Ban chiếu cho Phó sứ Nội tàng khố, quyền Kiềm hạt lộ Thái Nguyên phủ là Trương Thế Củ thôi kiêm chức Tri quân Hoả Sơn. Ty Đô chuyển vận Hà Đông tâu rằng, theo chiếu chỉ, phải báo cáo những quan võ người địa phương làm Tri châu, Tri quân, nhưng Thế Củ lại đăng ký hộ tịch ở Phủ Châu. Ngày 17 tháng 4 năm thứ 4, Thế Củ bị bắt giam ở ngục Phủ Châu[1].

[14] Ty đề điểm phủ Khai Phong xin miễn việc phong trang lương bổng cho quân cấm vệ thiếu quân số. Chiếu chỉ miễn riêng tiền.

[15] Ty Thừa chỉ Xu mật tâu: “Theo văn bản của Tam ty gửi xuống, trong số lương bổng phong trang cho quân cấm vệ thiếu quân số ở kinh thành, tiền và lụa được miễn riêng, chỉ giữ lại gạo, còn các vật phẩm khác như áo quần đều do Tam ty cung cấp. Lúa mì đã hết, xin được miễn kiểm tra. Lương thực và quần áo cho quân sĩ ở phủ giới sẽ được phong trang theo lệ ngoại xứ. Nếu thiếu lúa mì, thì lệnh cho Tam ty dùng lương thực loại tốt để bù vào.” Được chấp thuận.

[16] Hôm đó, hai phủ tâu việc, bàn về lợi ích của việc làm ruộng bồi. Vua nói: “Sông lớn có nguồn sâu dòng dài, đều do phù sa màu mỡ từ núi sông thấm xuống, nên có thể tưới tiêu cho ruộng dân, biến đất chua mặn thành đất màu mỡ. Trẫm đã sai trung sứ đi lấy đất bồi về nếm thử, thấy rất mịn và ẩm.” Vua yêu thương và lo lắng cho dân làm ruộng đến như vậy. Có thể ghi thêm việc Vương Hiếu Tiên tâu về chi phí làm ruộng bồi.

[17] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu từ nay các Ty chuyển vận ở các lộ đều thôi kiêm chức Đề cử Ty thị dịch của lộ mình.

[18] An phủ ty lộ Định châu tâu: “Người phương bắc là Vu Duy Hiếu vì truyền đạt việc biên giới, bị người phương bắc bắt gấp, nay xin quy minh. Mong triều đình thương xót việc ông ta nhiều lần báo tin phương bắc, cùng từng tố cáo bắt người do thám phương bắc là Lý Cảnh, đặc biệt ban ơn.” Chiếu cho Vu Duy Hiếu làm Tam ban sai sứ, sung chức Giang Nam chỉ huy. An phủ ty duyên biên Hà Bắc từng bắt được ngựa phương bắc do dân biên giới Vương Tập mua, liền đưa đến quân Thuận Nghĩa, Vua nói: “Nghe nói người bán ngựa phương bắc đều bị xử tử, lại đày gia quyến, từ nay nếu giới này không có văn thư, có thể sai người đêm đến đầu giới không hỏi người bán ngựa, để tránh việc giết hại dân phiên.” Việc này theo bản mực ghi chép đức thánh, bản chu dán thiếp nói chuyển vào truyện Khiết Đan, kiểm tra truyện Khiết Đan lại không có, lại không biết năm tháng nào, tạm phụ vào ngày mùng 5 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ nhất dưới mục Vu Duy Hiếu, cần xem xét thêm.

[19] Quân khí giám tâu: “Kinh lược sứ Phu Diên là Lữ Huệ Khanh xin cấp đao kiểu mới, giao cho các lộ Giang, Chiết, Phúc Kiến chế tạo, cùng xin trước áo giáp v.v. dùng áo giáp Hổ Dực ứng phó.” Chiếu chỉ lệnh cho Nội cung tiễn nam khố cấp 55.000 thanh đao ngắn, còn lại theo tấu.

[20] Tiến sĩ Kiến châu là Ngu Phiền dâng thư nói: “Giảng quan Thái học không công bằng, khảo thí các sinh viên, thăng bổ có tư tình. Huống chi bệ hạ sáng sớm thiết triều, mà giảng quan đến Thái học thường giờ Tỵ vào giờ Ngọ ra; bệ hạ ngày xem vạn việc, kinh diên khuyến giảng, còn không mấy năm đã xong Kinh Thi, nay giảng quan giảng Chu Lễ bảy năm, mới được bốn quyển.” Lại nói: “Luận Ngữ, Mạnh Tử là nơi đạo đức, việc thánh hiền, bệ hạ đặt khoa, khiến tham khảo đại kinh, nay chưa từng giảng. Xin lệnh giảng quan theo lệ các ty sớm vào giám, lại tập hợp sinh viên hỏi đáp, ngày rảnh lên giảng đường, ngày nghỉ lễ không ngừng giảng sách, cùng không vì cớ giả mà bỏ giảng.” Chiếu việc không công giao cho Khai Phong phủ xét trị tâu lên, việc thỉnh cầu trong nội lệnh cho chủ phán quan Quốc tử giám xem xét. Lưu Chí sớ nói: Phiền vì không được giải, nên dâng thư tố cáo học quan. Cần xem xét.

[21] Ngày Bính Ngọ, ban chiếu cách chức Giám cung nỗ tác của Tây tác phường, Phán quan Hữu quân tuần phủ Hà Nam là Tịch Diên Thưởng. Vì có chỉ phê rằng: “Diên Thưởng gần đây chế tạo cung nỏ không đúng mẫu, tuy đã bị cảnh cáo, nhưng chưa đủ để răn đe. Nay lấy thêm ba cây cung đều do chính xưởng làm ra, nhưng chất lượng kém xa, rõ ràng chỉ nghe theo thợ, không tự kiểm tra, việc chức vụ bỏ bê không xử lý, nên lệnh cho Giám cử người khác giỏi giang làm Sứ thần giám đương.” Vì vậy, việc này có thể ghép vào sau sự kiện cảnh cáo quan cung tác ngày Kỷ Hợi. Ngày Kỷ Hợi là ngày 29 tháng 11.

[22] Ban chiếu cấp 50 sắc cáo chức Trợ giáo châu, giao cho Đô chuyển vận ty lộ Thiểm Tây chiêu mộ người nộp tiền, mua vật liệu cho Cửu tướng và các vật dụng khác, phần còn lại giao cho Chuyển vận ty lo liệu, đồng thời gia hạn thêm ba năm để hoàn thành.

[23] Kinh lược sứ lộ Phu Diên là Lữ Huệ Khanh tâu: “Châu Hựu gửi công văn xin cử quan cùng với biên quan nước Hạ là Tô Ngự Đại lập văn tự, căn cứ lý lẽ để nhận biết, đồng thời phá bỏ đất canh tác bị xâm lấn, và giao trả người ngựa bị bắt giết ở biên giới phía tây. Bản ty gần đây nhận chỉ triều đình, đã viết công văn gửi năm con ngựa đến châu Hựu, đòi lại người ngựa bị bắt và xử lý nghiêm những kẻ cầm đầu gây rối.” Vua phê: “Nên trước hết lệnh cho Kinh lược ty Hà Đông kiểm tra văn tự ước thỏa trước đây giữa Tô An Tĩnh và người Tây Hạ có đầy đủ không, đồng thời bãi bỏ việc cử Chiết Cố, chọn thêm một Sứ thần am hiểu biên sự và đáng tin cậy, gửi công văn cho lộ Phu Diên báo với châu Hựu, hẹn ngày cùng với quan đã được cử ra biên giới, đưa ra văn tự để biện luận và giao hội. Còn hộ Nặc Nhĩ, nếu là người bỏ trốn trước khi kết minh, thì theo chiếu thư nên trả lại, hãy tâu rõ việc này.”

[24] Tri đô thủy giám thừa Phạm Tử Uyên tâu: “Vâng chiếu xem xét việc dẫn nước từ sông Lạc thông ra sông Biện, từ nay từ chỗ sông Thiêm cách huyện Hà Âm 10 dặm về phía tây, đo bước đến cửa Lạc, địa hình phía tây cao, phía đông thấp, có thể dẫn nước được, xin sai quan viên phụ trách việc nước xem xét lại.” Chiếu cho Tả gián nghị đại phu, Sử quán tu soạn, Trực học sĩ viện An Đào, cùng với Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc cùng xem xét. Ngày 15 tháng 6 có thể khảo sát. Ngày 17 tháng 6 năm thứ hai, sông Biện trong xanh hoàn thành, Chương Đôn làm bài ký.

[25] Chiếu: “Những dân làng xã nào muốn nộp lương thóc từ kho nghĩa thương vào kho huyện cho tiện thì cho phép.” Theo lời thỉnh cầu của Tri huyện Quản Thành là Triệu Tiếp. Bản chí không ghi người thỉnh cầu, ngày 15 tháng này nói rằng…, kỷ cũ chép việc này.

[26] Ngày hôm đó, trong mặt trời có vết đen như quả mận, tồn tại 13 ngày mới tan.

[27] Long đồ các trực học sĩ, Cấp sự trung Ngô Trung Phục mất.

[28] Ngày Mậu Thân, chiếu: “Ở khu vực phủ Khai Phong và các tướng dưới quyền ở Kinh Đông, Kinh Tây, cứ 10 binh lính chọn lấy 1 người, sai giáo đầu đi dạy tập bắn cung trên ngựa, được miễn các buổi tập khác. Còn các chỉ huy bộ binh và cung thủ ở kinh thành, lệnh cho Điện tiền ty và Bộ quân ty mỗi nơi chọn 10 quân sĩ trẻ trung có tính cách, giao cho Ty đề cử giáo tập mã quân dạy tập, đợi khi dạy xong thì cho về lại quân ty quản lý cũ, theo phép dạy quân mã hiện hành, căn cứ vào số người hiện có cũng cứ 10 người chọn 1 người để dạy tập luân phiên.” Sau đó Vua phê: “Tổng số cung thủ bộ binh ở kinh thành là 58 chỉ huy, nay chọn 20 người làm giáo đầu, thực sự e rằng phân chia dạy tập không đủ, nếu đợi dạy tập luân phiên thì chắc chắn sẽ kéo dài không thể thành tựu, có thể lại lệnh mỗi chỉ huy chọn 2 người, nếu tính cách chậm chạp khó dạy thì lập tức cho thay đổi theo thời gian.”

[29] Lại có chiếu rằng: “Từ Nội điện trực trở xuống, các ban trực nếu có khuyết ngạch, căn cứ theo số người quản lý của từng ban trực, nếu khuyết hai phần, thì lấy một phần theo lệ tuyển chọn để bổ sung, phần còn lại trong đó năm phần trăm lấy người phối trí ngoài ngạch để bổ sung, năm phần trăm để trống. Nếu khuyết hai phần trở lên thì theo như thế. Nếu không đến hai phần, hoặc tuy đến hai phần trở lên nhưng không có người phối trí ngoài ngạch, thì ngoài việc lấy một nửa theo lệ tuyển chọn để bổ sung, phần còn lại đều để trống.”

[30] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty tâu: “Ty thần đã thực hiện các công việc, đều đã có đầu mối, xin từ năm sau quản lý toàn lộ về việc tính toán chi tiêu hàng năm.” Chiếu yêu cầu trình bày cụ thể số thu nhập hàng năm để tâu lên. Sau đó ty này tâu, ước tính số tiền và lương thực thu nhập năm Nguyên Phong thứ hai khoảng hơn một triệu quan, thạc. Số thu nhập hàng năm của Hi Hà lộ tính bằng quan, thạc; từ ngày Đinh Tỵ tháng 2 năm Nguyên Phong thứ hai chuyển vào đây.

[31] Chiếu cho các lộ tướng phó, cho phép so sánh theo lệnh sắc phụ điền thời Hi Ninh để cấp chức điền, chính tướng xem như lộ phân đô giám, phó tướng xem như phiên phủ đô giám. Các châu Thanh, Vận tuy đã cấp đất bồi của sông Hoàng Hà và ruộng chức của các đô giám đã bãi bỏ cho tướng phó, nhưng số lượng nhiều ít chưa đều, đều ra lệnh sửa đổi.

[32] Xu mật viện tâu: “Quân khí giám tâu rằng Hà Đông lộ sắp xếp chín quân hội quân khí, cần chế tạo một nghìn sáu trăm tấm trường bài bằng trúc, nhưng thợ đều đang chế tạo bài cho ba châu Hà Bắc và lộ Phu Diên, không còn thợ khác, xin điều hai trăm thợ để ứng phó, đợi khi chế tạo xong bài cho ba châu và lộ Phu Diên thì cùng nhau chế tạo.” Chiếu cho Quân khí giám: “Bài đoàn của mã quân chỉ theo mẫu bài trúc đang chế tạo, bài dài của bộ binh theo mẫu ban hành tháng giêng năm nay, cho phép điều một trăm quân sương, phần còn lại theo như đã tâu.”

[33] Ngày Kỷ Dậu, phân mệnh các phụ thần cầu tuyết ở giao miếu, xã tắc.

[34] Lưỡng Chiết đề cử ty tâu: “Dân hộ ở Chiết Tây giàu có vật lực, từ Chiết Đông trở đi phần nhiều lấy ruộng đất làm kế sinh nhai. Những năm trước lập sổ sách, các huyện miền núi thường dựa vào thuế tiền, còn những nơi khác thì dựa vào vật lực để suy tính, không nhất thiết phải đồng nhất một phương pháp. Nay muốn thống nhất dùng ruộng đất, vật lực, thuế tiền, thóc gạo, v.v., mỗi thứ theo thứ tự suy tính, tùy tiện thu nạp, tiền dịch vụ chi phí, sức dân bỏ ra, nặng nhẹ đều đồng đều.” Được chấp thuận.

[35] Ngày Tân Hợi, xét xử các tù nhân bị giam ở kinh thành, những người phạm tội tử hình trở xuống đều giảm một bậc, tội đánh trượng trở xuống thì tha bổng. Các huyện thuộc kinh thành và ba kinh khác cũng áp dụng theo.

[36] Chiếu bãi bỏ buổi triều hội ngày Nguyên Đán năm sau.

[37] Ngày Nhâm Tý, Hoàng tử thứ bảy là Kiến Quốc công Giá mất, hưởng dương hai tuổi, được truy tặng Thái sư, Thượng thư lệnh, truy phong Vệ vương, thụy là Điệu Huệ, mẹ là Hình Uyển nghi. Hai kỷ đều chép là mất.

[38] Ngày Giáp Dần, chiếu cho các viên chức tại Thị dịch vụ thượng giới ở kinh thành: Bí thư thừa Ứng Du giảm thời gian khảo sát một năm, Tam ban tá chức Lý Tiệm hai năm, Đại Lý tự thừa Quách Quy chuyển một chức, giảm thời gian khảo sát một năm, Hàng Châu quan sát chi sứ Đổng Kinh đổi làm Đông đầu cung phụng quan, mỗi người được ban tiền khác nhau. Đều là do tính toán lợi nhuận mà ban thưởng.

[39] Chiếu cho các hộ làm giấm ở trấn Vĩnh Tế thuộc Đại Danh phủ bị thiên tai lũ lụt, theo như các xưởng rượu bị lụt, được miễn tiền mua danh.

[40] Ngày Ất Mão, chiếu cho dân nộp thuế không đầy một đấu thì được miễn nộp vào kho nghĩa thương. Sách bản chí có ghi chép, ngày mùng 6 tháng này.

[41] Ngày Bính Thìn, Quyền Ngự sử trung thừa Thái Xác tâu: “Sông Hoàng Hà vỡ đê ở Tào Thôn, đang bàn cách đắp đê chưa xong, nghe nói Chuyển vận sứ Vương Cư Khanh đề ra phương pháp đắp đê ngang, khiến chỗ vỡ đê ngừng chảy, thực sự có hiệu quả, nhưng khi tâu công thì Cư Khanh không muốn tự kể, nên bị bỏ sót. Xin xét hỏi về phương pháp đắp đê ngang của Cư Khanh, nếu có hiệu quả rõ ràng, xin lệnh cho Đô thủy giám ghi chép thành pháp.” Được chấp thuận, và lệnh khắc vào bia đền Linh Tân.

[42] Chiếu rằng dân Thanh Châu là Vương Uân được tha tội chết, chỉ bị đày đi lao dịch ở châu lân cận. Trước đây, cha của Uân là Cửu Tư bị Dương Ngũ Nhi đánh đập, bức bách đến chết, lúc đó Uân mới 7 tuổi, thường muốn báo thù nhưng còn nhỏ chưa làm được. Đến nay Uân 19 tuổi, dùng giáo đâm chết Ngũ Nhi, chặt đầu và tay để tế cha, rồi tự thú. Theo luật phải xử trảm, nhưng Vua thấy Uân giết kẻ thù để tế cha, lại tự nhận tội, nên tha tội chết.

[43] Ty An phủ vùng biên giới Hà Bắc tâu: “Theo chỉ của Xu mật viện, Bảo Châu báo rằng Ty Lưu thủ Yên Kinh ở phương bắc chỉ huy hai huyện Dung Thành và Quy Tín, kiềm chế các hộ thuộc hai bên sông Cự Mã không được nhận lương thải của Hùng Châu, xin giao cho ty này xác minh. Nếu đúng như vậy, thì chỉ thị gần đây của Trung thư về việc miễn thu lương thải của hai hộ thuộc Hùng Châu là Quy Tín và Dung Thành hãy tạm chưa thi hành. Ty này xét thấy, việc cứu tế và thu thuế các hộ thuộc hai bên nam bắc, các quan ty hai bên vẫn thường ngăn cản lẫn nhau, nhưng thực chất chỉ là văn bản suông. Nay phương bắc cũng chỉ theo lệ cũ, không phải là mới bắt đầu. Hơn nữa, hai huyện từ tháng 9 đến giữa tháng 11 chỉ nộp được hơn 3.000 thạc lương thải, từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12, phương bắc ngăn cản, nhưng đã nộp được hơn 10.000 thạc gạo. So sánh như vậy, tình hình rõ ràng. Gần đây Trung thư tấu xin tạm hoãn thu gạo của các hộ thuộc hai bên, đợi đến mùa thu mới thu, để giảm bớt gánh nặng cho hộ dân, xin cứ theo tấu này mà thi hành.” Vua đồng ý.

[44] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho Ty Đề cử đúc tiền lộ Thiểm Tây cấp 10 vạn quan tiền lớn, giao cho Ty Chuyển vận mua lương thảo. Vua phê: “Sau khi duyệt binh các quân dưới quyền tướng ở Kinh Đông và Kinh Tây, đã cấp đồ bạc, có thể lệnh cho Ty Đề điểm hình ngục tính giá trị để dùng lụa và lĩnh dự trữ của quân cấm thiếu ngạch để hoàn trả.”

[45] Ngày Mậu Ngọ, lấy quyền tri Thẩm hình viện, Độ chi lang trung Thôi Đài Phù làm Hữu Gián nghị đại phu, Đại Lý khanh; Đồn điền lang trung, Trực sử quán, quyền phát khiển Giang, Hoài đẳng lộ phát vận phó sứ Kiển Chu Phụ, Thái thường bác sĩ, quyền phán Đô thủy giám Dương Cấp làm Thiếu khanh; Thừa và Kiểm pháp quan lệnh cử quan tâu lên. Trước đó, Vua cho rằng việc bỏ Đại Lý ngục từ đầu triều là không đúng, muốn biết nguyên nhân việc bỏ Đại Lý ngục thời đầu triều. Vua hỏi Tôn Chu, Chu trả lời hợp ý. Do đó, Trung thư tâu: “Theo chiếu, Khai Phong phủ ty, Tả Hữu quân Tuần viện hình ngục đều là công việc của bản phủ, còn Tam ty, các tự, giám phàm có việc giam giữ đều gửi đến ba viện, tù nhân quá nhiều, khó phân xử riêng. Lại thêm nắng nóng, bệnh dịch lây lan, nhiều người chết, các quan mỗi người một ý, lại thuộc khổ vì thỉnh thị, việc bị đình trệ, kéo dài hàng năm, rất bất tiện. Xét theo lệ cũ, nên giao cho quan xét xử, nay xin lập lại Đại Lý ngục, các việc của Tam ty và tự, giám, trừ tội trượng, tội si của công nhân bản ty không cần truy cứu thì xử ngay tại chỗ, còn lại đều gửi đến Đại Lý ngục xét xử, những việc phải tấu và các án tấu trong thiên hạ đều giao cho Hình bộ, Thẩm hình viện xét xử. Đại Lý tự đặt một Khanh, hai Thiếu khanh, bốn Thừa, chuyên lo xét xử, hai Kiểm pháp quan, còn lại đều bãi bỏ. Những việc cần làm, giao cho bản tự tâu rõ.” Vua đồng ý. Đài Phù nhận mệnh xây Đại Lý tự, mười bảy ngày thì xong. Mười bảy ngày xong, theo ghi chép của Lý Thanh Thần, bản mực chép khác, bản chu bèn xóa đi. Kỷ mới chép việc Khai Phong tù nhân quá nhiều, lập lại Đại Lý ngục, kỷ cũ chép chiếu văn khá chi tiết.

[46] Chiếu từ năm nay, tiền phường trường khởi phát, không gửi nạp vào Thị dịch vụ nữa, mà gửi thẳng vào Nội tàng khố để ghi sổ, phong trang; tiền chi phí đón tiếp quan viên từ xa đến và chi phí áp tải của các lộ khởi phát về kinh, đặt kho ở Khai Phong hoặc Tường Phù huyện, vẫn do lệnh tá quản lý như cũ.

[47] Khai Phong phủ xin tu sửa hoàn chỉnh kinh thành, bốn mặt tường thành chừa lại mười bước, dùng tường làm vệ binh, bên ngoài để xe ngựa qua lại. Chiếu chỉ dừng lại ở việc xây tường cách bảy bước, lấy ba bước giảm bớt bên ngoài thêm hai bước, tổng cộng chừa lại năm bước làm đường, những nhà cửa công tư có chướng ngại thì chỉ căn cứ vào đất hiện tại, cách năm bước ngoài xây tường làm đường, và miễn phá dỡ.

[48] Lại chiếu cho ba người là Nhã Sấm và đồng bọn ở khu vực Chân Định phủ, núi Tháp Nhai Lĩnh, vốn là kẻ trộm chặt vành xe[2], không có ý đồ phạm tội khác, lệnh tha về Bắc giới.

[49] Tam ty tâu: “Theo lời tấu của Tống Xương Ngôn, phán Đô Thủy giám, xin cấp hai mươi vạn quan tiền, chia cho Khai Phong phủ và các đê sông ở Hà Bắc lộ mua cỏ cây. Nay chưa có tiền vật để cấp, muốn lấy mười vạn quan tiền muối mạt của hạ giới Thị dịch vụ, do Tam ty cấp phát cho bản giám, theo lệ tiền vật của triều đình mà phong trang, hàng năm đổi theo số lượng, không có chỉ dụ của triều đình và khi đê sông nguy cấp thì không được chi dùng, do Tam ty kiểm tra quản lý.” Được chấp thuận.

[50] Ngày Kỷ Mùi, chiếu bãi bỏ Đô đại đề cử tại kinh chư ty khố vụ ty, những việc thuộc quyền quản lý của ty này giao cho Tam ty phân chia về các cơ quan thuộc quyền. Lại chiếu từ nay Ty Nông tự, ngoài lương bổng của quan lại bản tự và lương thực, áo quần, muối của lại viên vẫn do Tam ty cấp như cũ, còn lại lấy từ các khoản tiền Thường bình, Miễn dịch, Đầu tử, Túc linh do bản tự quản lý. Theo lời xin của Thái Xác, phán Ty Nông tự.

[51] Ngày Nhâm Tuất, Đỗ Hoành, Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự, bị bãi chức Kiểm chính, thăng một bậc; Hoàng Liêm, Thái thường thừa, Giám sát ngự sử lý hành, được làm Tập hiền hiệu lý, cùng quyền phán Hình bộ. Liêm vẫn như cũ cùng kết thúc việc căn cứu công sự ở Ngự sử đài.

[52] Chiếu cho các quan lại Đại Lý tự và các công án hiện có đều thuộc về Hình bộ, những việc phải gửi đến Đại Lý ngục xét xử, từ tháng giêng năm sau trở đi thi hành theo chiếu chỉ ngày Mậu Ngọ.

[53] Chiếu cho quyền Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ, Thái thường Thiếu khanh Tôn Khẩn, vì có công đốc thúc bắt giặc Chiêm Ngộ, đặc biệt ban áo tía. Tây Kinh Tả tàng khố sứ, quyền Kinh Hồ Bắc lộ Đô giám Bành Tôn bày mưu giết Ngộ, bắt được 18 phụ nữ, 7 con ngựa, được thăng làm Sùng nghi sứ, Trung Châu Thứ sử, quyền Phát khiển bản lộ Kiềm hạt, lại ban 500 nghìn tiền. Đông tác phường sứ, quyền Đàm Châu Kiềm hạt Hà Thứ Công bắt được 34 tên giặc, 16 con ngựa, nhưng trước đó vì không cứu ứng Ngỗ Toàn, bị Tôn Khẩn hặc tội, đợi Khẩn tâu lên sẽ xử lý. Những người khác được thăng chức, giảm tuổi và ban tiền lụa có khác nhau.

[54] Ngự sử Trung thừa Thái Xác tâu: “Gần đây nghe có kẻ giả mạo thần viết văn bàn về khoa cử, truyền bá khắp kinh thành, Ngự sử Hoàng Liêm đã tâu lên, được giao cho hữu ty truy bắt nhưng chưa bắt được. Nghe nói văn bản giả mạo đã lưu truyền lâu ngày, cũng không khó xác minh, chỉ cần bắt được một người truyền bá, tra hỏi lần lượt, ắt sẽ tìm ra nguồn gốc. Mong tăng thêm tiền thưởng, truy xét chủ mưu, dù đã qua xét xử, cũng nên trừng trị nặng để răn đe thói xấu bịa đặt.” Chiếu chuyên giao cho Hứa Mậu truy xét, tăng thưởng 500 nghìn tiền. Hứa Mậu năm trước tháng 11 xin lấy dân đinh năm châu Quảng Đông làm thương thủ, không rõ nay giữ chức gì.

[55] Trung thư tâu: “Giang Nam Đông lộ Chế khám viện tâu, việc truy xét Lữ Gia Vấn, đợi Giang Tây Đề điểm Hình ngục Lý Mậu Trực đến viện kết án, nhưng Mậu Trực gần đây đã để tang mẹ.” Chiếu chỉ giao cho Tôn Khuê, Vương An Thượng, Chu Viêm cùng xét xử.

[56] Ngày Quý Hợi, lấy Hàn lâm Học sĩ, Khởi cư Xá nhân kiêm Thị độc, quyền Phát khiển Khai Phong phủ Hứa Tướng làm quyền Tri Khai Phong phủ.

[57] Trung thư tâu: “Đặt ra quy chế thi cung mã nghệ nghiệp để xuất quan cho các sứ thần lớn nhỏ: Bậc nhất, bắn cung bộ một thạc, phát hai mũi tên, bắn trúng ba lần trong mười lần, bắn cung ngựa bảy đấu, phát ba mũi tên, năm loại võ nghệ trên ngựa, hỏi đại nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo bảy phần, năm bài luận về thời vụ và biên phòng, văn lý xuất sắc, đại nghĩa luật lệnh thông thạo bảy phần, nếu đạt năm điều trở lên, được miễn nhiệm vụ ngắn hạn, giảm một nhiệm kỳ giám đương, ba điều trở lên được miễn nhiệm vụ ngắn hạn, thăng nửa năm thứ bậc, hai điều thăng nửa năm, một điều thăng một quý. Bậc hai, bắn cung bộ tám đấu, bắn trúng hai lần trong mười lần, bắn cung ngựa sáu đấu, ba loại võ nghệ trên ngựa, nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo năm phần, ba bài luận, văn lý rõ ràng, nghĩa luật lệnh thông thạo năm phần, nếu đạt năm điều trở lên, được miễn nhiệm vụ ngắn hạn, thăng nửa năm, ba điều trở lên thăng nửa năm, hai điều thăng một quý, một điều được xuất quan. Bậc ba, bắn cung bộ sáu đấu, bắn trúng một lần trong mười lần, bắn cung ngựa năm đấu, hai loại võ nghệ trên ngựa, nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo ba phần, ba bài luận, văn lý rõ ràng, nghĩa luật lệnh thông thạo ba phần, tính toán tiền lương và văn thư thông thạo ba phần trong năm, nếu đạt năm điều trở lên, thăng nửa năm, ba điều trở lên thăng một quý, hai điều được xuất quan.” Theo đó.

Sách cũ chép: Ngày Quý Hợi, chiếu rằng: “Võ thần nhập lưu tạp nhạp, làm quan cầm quyền không thể phân biệt được, nên đặt ra pháp thi nghệ nghiệp.” Khác với thực lục. Sách mới cũng bỏ đi, cần xem xét. Sách 《Tuyển cử chí》 cũng giống.

《Tuyển cử chí》 chép: “Chiếu cho đại sứ thần thi cung mã nghệ nghiệp để xuất quan, bậc nhất bắn cung bộ một thạc, mười mũi tên trúng ba, bắn cung ngựa bảy đấu, năm loại võ nghệ trên ngựa, nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo bảy phần, năm bài luận về thời vụ và biên phòng, văn lý xuất sắc, nghĩa luật lệnh thông thạo bảy phần, đạt năm điều trở lên, miễn nhiệm vụ ngắn hạn, giảm một nhiệm kỳ giám đương, ba điều trở lên miễn nhiệm vụ ngắn hạn, thăng nửa năm thứ bậc, hai điều thăng nửa năm, một điều thăng một quý. Bậc hai, bắn cung bộ tám đấu, mười mũi tên trúng hai, bắn cung ngựa sáu đấu, ba loại võ nghệ trên ngựa, nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo năm phần, ba bài luận, văn lý rõ ràng, nghĩa luật lệnh thông thạo năm phần, đạt năm điều miễn nhiệm vụ ngắn hạn, thăng nửa năm, ba điều thăng nửa năm, hai điều thăng một quý, một điều được xuất quan. Bậc ba, bắn cung bộ sáu đấu, mười mũi tên trúng một, bắn cung ngựa năm đấu, hai loại võ nghệ trên ngựa, nghĩa sách Tôn, Ngô thông thạo ba phần, ba bài luận, văn lý rõ ràng, nghĩa luật lệnh thông thạo ba phần, tính toán tiền lương và văn thư thông thạo ba phần trong năm, đạt năm điều thăng nửa năm, ba điều thăng một quý, hai điều đều được xuất quan. Bắn cung bộ đều phát hai mũi tên, bắn cung ngựa phát ba mũi tên, đều ghi thành quy chế. Đây là căn cứ vào bản chí thêm vào. Chí chỉ ghi là sắc lệnh đầu năm Nguyên Phong.”

[58] Đề cử Ty Thiên Giám tâu: “Trước đây vâng chỉ, các sách âm dương trong các quán các và của tư gia đều được sao chép, hiệu đính, lưu trữ trong kho. Nay đã biên soạn thành 719 quyển, xin được dâng lên triều đình.” Vua đồng ý.

[59] Ngày Giáp Tý, Uyển nghi họ Hình được tiến phong làm Hiền phi. Bà xin miễn lễ sách phong, Vua chỉ cho tiến hành lễ cáo. Cả hai bộ sử đều chép việc này.

[60] Vua ra chiếu bãi bỏ chức quan phụ trách việc tra xét của Tam ty, giảm bớt một viên chức Câu đương công sự của Quân khí giám, Thẩm quan đông viện, Lưu nội tuyển, Tướng tác giám, Tam ban chủ bạ, Tả hữu quân tuần phán quan.

[61] Lại ra chiếu: “Nghĩa dũng, Bảo giáp ở lộ Tần Phượng gần đây đã lên phiên, chưa cử quan Binh bộ đi kiểm tra, e rằng quan lại thi hành pháp lệnh không chu toàn, hoặc có sai sót. Nay lệnh cho Đồng phán Binh bộ Lý Thâm đi kiểm điểm rồi tâu lên.”

[62] Chiếu rằng: “Các tướng dưới quyền ở Kinh Đông, Khai Phong phủ thiếu ngựa, cho phép các tướng đó mua ngựa từ 4 tuổi trở lên đến dưới 10 tuổi, có thể dùng làm ngựa chiến, tiền mua ngựa được tạm ứng từ khoản tiền tiết kiệm do quân số thiếu hụt.”

[63] Phán Đại Danh phủ Văn Ngạn Bác tâu: “Theo đơn của An thị, vợ Quốc tử bác sĩ, Quản câu Ngoại đô thủy giám thừa Cảnh Uyển, thì Uyển được cử đi chỉ huy binh lính đắp đê, đến khi công việc hoàn thành thì qua đời vì cảm nắng ở đập Linh Bình, được ban 200 tấm lụa. Nay xin miễn ban thưởng, đặc cách ban ơn cho con trai là Mẫn. Xét thấy Cảnh Uyển thực sự vì chăm chỉ làm việc mà chết, mong được đặc cách bổ nhiệm con trai ông.” Vua ra chiếu cho Mẫn làm Giao xã trai lang.

[64] Dẫn tiến phó sứ, quan phụ trách việc duyệt xét võ nghệ của bộ binh và kỵ binh dưới quyền các tướng ở Kinh Đông, Kinh Tây là Trương Sơn Phủ tâu: “Tướng thứ 8 ở Kinh Đông là Trương Kiến Trung, số quân lính được huấn luyện đạt chuẩn so với các tướng khác là ít nhất.” Vua ra chiếu cho Kiến Trung tạm thời bị thay thế, lệnh cho Chuyển vận ty xem xét, nếu có tội trạng thì hặc tấu lên.

[65] Ngày Ất Sửu, ban chiếu: “Kinh lược ty của Hi Hà lộ chỉ huy Hi châu, từ nay nếu nước Vu Điền vào cống, nếu thực sự chỉ mang theo biểu của quốc vương và phương vật, thì cho phép đưa đến kinh đô, nhưng không được quá 50 người, số lượng lừa ngựa cũng theo quy định này, còn lại không được giải phát, chỉ lệnh cho Hi châu an trí, cử người quản lý, theo quy định cho phép buôn bán, đồng thời khéo léo giải thích, ngoại trừ nhũ hương vì vô dụng không cho phép tiến cống và mang theo lên kinh đô cùng các nơi buôn bán, còn các vật khác đều theo lệ thường tiến cống và buôn bán.”

[66] Ngày Bính Dần, Vua Liêu sai Ninh Xương quân Tiết độ sứ Gia Luật Long, Thái thường Thiếu khanh Sử quán Tu soạn Vương An Kỳ đến chúc mừng ngày Chính đán.

[67] Ngày Đinh Mão, Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ, Kiến Vũ Tiết độ sứ Giả Quỳ mất, được truy tặng Thị trung, thụy là Vũ Khác. Quỳ từng xin truy tặng ba đời, Vua dụ rằng sẽ giao cho hữu ty xem xét. Đến lúc này, gia đình Quỳ lại xin, Vua phê: “Quỳ là võ tướng, biết nhớ đến thân nhân không quên, tuy không đúng lễ giao, có thể đặc cách cho phép.” Theo 《Ngự tập》, Quỳ xin trước vào ngày 17 tháng 10, được chấp thuận vào ngày 15 tháng 2 năm sau, nay ghi chung lại.

[68] Lệnh cho Tây thượng các môn sứ, Xu mật viện Phó đô thừa chỉ Trương Thành Nhất kiêm Đô đại đề cử Yến thiết chư ty Ứng phụng sự.

[69] Mã quân Đô chỉ huy sứ Dương Toại quyền Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ.

[70] Ty Chuyển vận Đề điểm Hình ngục và Ty Kiềm hạt của Tử châu lộ và Quỳ lộ tâu: “Con của Phủ Vọng Cá Thứ là Khất Đệ dẫn quân báo thù giết người Di ở vùng biên giới, xin ban cho vật phẩm mà Dương Tam Ban đã hứa.” Chiếu cho Ty Chuyển vận và Ty Kiềm hạt lấy ý của bản ty dụ Khất Đệ rằng, trước đây quân triều đình đánh giặc Man, Phủ Vọng Cá Thứ đã tự kiềm chế bộ hạ người Di, bảo vệ địa phận, không hỗ trợ La, Hồ, Cẩu làm loạn, nên ban cho số vật phẩm mà Dương Thuấn Chi đã hứa. Đồng thời phải phòng bị, không để xảy ra xâm phạm. Theo 《Bình Man lục》 ghi: “Sai Chiêu an tướng Dương Văn Giản hẹn ước với Khất Đệ.” 《Thực lục》 lại ghi là Dương Thuấn Chi, nay theo 《Thực lục》. Nghi ngờ rằng trước sai Văn Giản, sau Tồn Bảo đến, lại sai Thuấn Chi. Nay không ghi lại tên Chiêu an tướng.

[71] Trước đó, chuyển vận phán quan Trình Chi Tài tâu: “Làng La Cẩu là nơi trọng yếu trên con đường ra vào của người Ô Man. Những năm gần đây, họ thù địch với người Ô Man, khiến người Ô Man không dám hoành hành. Nếu bình định được La Cẩu, xin được lập trại ở đó để kiểm soát người Ô Man.” Triều đình hạ chiếu cho Tồn Bảo điều tra. Ban đầu, chuyển vận ty bàn việc La Cẩu, Khất Đệ sai thuộc hạ là Nhất Mao đến trại Nạp Khê xin đem quân giúp nhà Hán. Chuyển vận ty sai tướng Chiêu An đến báo rằng: “Không cần đem quân đến giúp. Nếu có thể khống chế các bộ tộc, bắt giữ những kẻ còn lại của La Cẩu đưa đến quan phủ, sẽ được thưởng.” Tồn Bảo đến, lại tâu xin thực hiện kế hoạch này. Sau khi Tồn Bảo bình định La Cẩu, chỉ lập một trại bên sông để phòng thủ La Cẩu, nhưng con đường của người Ô Man lại thông suốt không còn bị kiểm soát, lại thêm việc không trao thưởng.

Khi Tồn Bảo chia quân đóng ở vùng Tử, Toại, Khất Đệ thấy không còn lo ngại về việc La Cẩu chặn đường, bèn dẫn theo bộ tộc La Thủy Đảng và 12 làng dọc sông Yến Châu, tổng cộng khoảng năm, sáu nghìn người, từ khe Kinh Thanh tiến đánh các làng Lạc Thoái, Lại Bồi thuộc địa giới Châu Nhung và bảy họ, mười chín họ người Di ở huyện Giang An, đốt phá làng mạc, cướp bóc người và gia súc, khắc bia ép họ nộp lễ vật, rồi kéo đến dưới thành Giang An đòi những thứ Tồn Bảo đã hứa. Dân huyện hoảng loạn, tri huyện Hà Tông Phạm nghiêm ngặt phòng bị và ra lệnh, ba ngày sau chúng mới rút đi. Chúng để lại Man phán La Nhất và Man nô Nhất Mao, dùng một con cá và một con ngựa tạ ơn Tông Phạm, rồi quay về qua làng Di Lao, Nhất Mao bị người Di giết. La Nhất chạy về huyện xin được đưa về, huyện cho rằng hắn vốn là lính đào ngũ nhà Hán, bèn xiềng lại giam ở Châu Văn, Châu Văn báo lên chuyển vận ty, kiềm hạt ty, kiềm hạt ty báo lên triều đình, xét xử xong rồi chém. Người Ô Man biết mệnh lệnh từ triều đình, không dám oán hận, chỉ nói rằng kẻ giết Nhất Mao là người làng Di Lao. Ngày 26 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 3, sách 《Thực lục》 chép việc Khất Đệ xâm phạm Giang An, có chỗ khác với 《Bình Man lục》, cần tham khảo để sửa lại.

[72] Năm đó, có năm mươi người con của tông thất được ban tên và bổ nhiệm làm quan[3].

[73] Thiên hạ theo số liệu từ Hộ bộ, chủ hộ là 1.099.5133, đinh là 16.511.061; khách hộ là 5.497.498, đinh là 7.815.041.

[74] Xử án tử hình 1.104 người.

[75] Ban chiếu cho phép bán phèn ở khu vực kinh thành và năm lộ phía đông, tây kinh đô là Tấn, Thấp; từ Đồng Quan về phía tây thuộc Thiểm Tây, phía nam Hoàng Hà, đến các châu Quân, Phòng, Tương, Đặng, Kim thuộc Kinh Tây thì bán phèn Phường Châu; phèn khai thác từ Tây Sơn, Bảo, Bá Châu thì bán ở các lộ Thành Đô, Tử Châu; phèn khai thác từ quân Vô Vi thì bán ở các lộ còn lại. Cấm buôn bán phèn trái phép và vượt biên giới, xử theo luật buôn phèn lậu. 《Thực hóa chí》 ghi sự việc này vào năm Nguyên Phong thứ nhất, nay phụ chép vào cuối năm.

[76] Hoàng đế thường căm phẫn trước sự ngang ngược của người phương Bắc, khảng khái có chí khôi phục U Yên, bèn cho tích trữ vàng lụa ở kho Cảnh Phúc điện để làm quân phí. Năm nay, bắt đầu đổi tên kho, tự làm thơ để ghi rằng: “Ngũ đại mất cương, Hiểm Doãn hung hãn, Nghệ Tổ dựng nước, nghĩ cách răn đe. Bèn lập nội phủ, dùng để chiêu mộ sĩ, cháu chắt giữ gìn, đâu dám quên chí.” Tổng cộng 32 kho[4]. Sau này tích lũy được nhiều của cải, lại làm thơ ghi rằng: “Mỗi đêm lo sợ, mong noi di nghiệp, xét tài võ kém, ngày nào thắng giặc.” Theo 《Thực hóa chí》, việc dùng thơ đổi tên kho thực ra là vào năm Nguyên Phong thứ nhất[5], nay phụ chép vào cuối năm, lại lấy bản chép tay năm Nguyên Phong thứ 8 do sử thần soạn trong thiên “Tự thánh đức”, có thêm chút chỉnh sửa.


  1. Các bản ghi chép đều ghi là 'Xuất Củ', nhưng theo chính văn, có lẽ 'Xuất' là sai, đúng phải là 'Thế'
  2. Nguyên văn 'nghiên', theo bản khác sửa thành 'chước'
  3. Nguyên văn là 'thiên', căn cứ theo các bản khác sửa lại là 'thập'.
  4. '32 kho', chữ 'nhị' nguyên bản là 'tam', theo 《Cương mục bị yếu》 quyển 20 sửa lại.
  5. 'Nguyên Phong thứ nhất', chữ 'nguyên' nguyên bản là 'lục', theo bản trong các các và sách trên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.