VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 297: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 2 (KỶ MÙI, 1079)
Bắt đầu từ tháng 10 năm Nguyên Phong thứ nhất đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 3, ngày Canh Ngọ (mùng 1), Đổng Chiên sai Cảnh Thanh Nghi Đảng Lệnh Chi đến cống nạp sản vật địa phương. Vua hỏi ý nghĩa việc đến, họ đáp: “Đổng Chiên được ơn cho phép cống nạp, nên sai sứ đến tạ ơn.” Vua an ủi vỗ về, họ đều vui mừng nhảy múa lạy tạ.
[2] Quyền Giám sát Ngự sử Lý hành Thư Đản được bổ làm Tập hiền Hiệu lý. Do Vua phê rằng: “Đản giỏi văn chương, hiểu rõ việc quan lại, từ khi làm thừa thuộc Hiến phủ, đã lấy việc giúp đỡ triều đình chính sự làm trách nhiệm của mình.”
[3] Xuống chiếu cho Tiền Tảo tạm quyền Khai Phong phủ. Do Hứa Tướng liên quan đến vụ án Thái học, mà Ngự sử đài xét hỏi thường dùng lại dịch Khai Phong phủ. Tháng 8, ngày Bính Thìn, Hứa Tướng bị khiển trách.
[4] Quyền Ngự sử trung thừa Thái Xác tâu: “Khu vực kinh thành và các lộ thiếu mưa, hạt giống gieo trước chưa mọc, lại lo ngại dịch bệnh, Bệ hạ đã nhiều lần ban chiếu cứu tế người nghèo khó, lo lắng cho dân chúng, có thể nói là hết mực. Thần trộm nghĩ các nhà tù ở bốn phương nên được thanh tra kỹ lưỡng, giải quyết án tồn đọng và xử lý oan khuất, đủ để triệu tập khí hòa. Xin hạ chiếu cho các ty đề cử trong kinh thành, các lộ chuyển vận hoặc đề cử ty cử quan viên, cùng với các quan đề điểm các huyện, trấn và đề điểm hình ngục tuần tra các châu, huyện thiếu mưa, đốc thúc xử lý các công việc chưa kết thúc, nếu có việc oan uổng hoặc vô cớ kéo dài, đều xử lý và báo cáo, xử phạt quan lại tâu lên.” Tri gián viện Lý Định tâu: “Kinh Đông, Hà Bắc đói kém, các châu Thanh, Tề, Thương, Lệ đặc biệt nghiêm trọng, Bệ hạ đã ra lệnh cho các cơ quan cứu tế người nghèo, các khoản thuế nợ đều được hoãn, bán thóc giảm giá, cho vay tiền giống, ghi chép người đói yếu, cấp lương thực, nhưng vẫn nghe dân không yên ổn, dần có người lưu tán. Xin răn các giám ty kiểm tra châu huyện, nếu cứu tế không đúng phép, dẫn đến người chạy trốn hoặc chết, thì căn cứ số hộ khẩu để xử phạt.” Tri gián viện Hoàng Lý cũng tâu: “Tri châu Thanh Cung Đỉnh Thần, Tri châu Thương Trương Vấn, tính tuy hậu trọng nhưng kém trong ứng phó công việc, không đủ để cứu tế người nghèo và giải quyết việc gấp, xin chọn người khác thay thế Đỉnh Thần và Vấn sang châu khác.” Đều không được thực hiện. Bản Chu bỏ ba việc này.
[5] Chiếu: “Dân các lộ Lưỡng Chiết bị thiên tai, nợ tiền ruộng đất của hộ tuyệt, được gia hạn nộp quan thêm nửa năm.” Ban đầu lộ này xin gia hạn một năm, nhưng Tư nông tự cho là quá rộng rãi.
[6] Ban thưởng tiền đặc chi cho binh đinh châu Thần bắt giặc Dao.
[7] Ngày Tân Mùi, ban chiếu: “Việc định đoạt địa giới ở Cát Bá Câu, Hà Đông[1], không được làm ồn ào, hoặc gây ra sự việc, đợi khi tra xét rõ ràng, tâu lên nghe chỉ.” Do Quản câu Duyên biên An phủ ty Vương Sùng Chửng tâu: “Sai quan đi định đoạt, sẽ làm tăng thêm mưu kế gian xảo, chỉ nên răn dặn các Tuần kiểm địa phương, không được xâm phạm, vượt qua để canh tác mà thôi.” Vua cho lời tâu ấy là phải, nên có chiếu này.
[8] Lại ban chiếu: “Các chùa trong phủ Khai Phong chứa quan tài của khách qua đường, người nghèo không có tiền chôn cất, lâu ngày phơi bày. Nay lệnh cho các huyện cấp đất hoang không trồng trọt được từ ba đến năm khoảnh, cho phép người dân an táng, không có chủ thì quan phủ chôn cất. Dân nào muốn nhận tiền, quan phủ xuất tiền cho vay, mỗi tang lễ không quá hai nghìn, không thu lãi.” Chiếu cho Đề cử Thường bình đẳng sự Trần Hướng đảm nhiệm việc này, do Hướng đã dâng lời tâu. Sau đó, Hướng tâu: “Ở bốn Thiền viện trong kinh đô, đã phân định đất để chôn cất hài cốt vô chủ, năm Thiên Hi có sắc chỉ cấp tiền từ kho Tả Tàng, sau do các quan tâu xin cắt giảm, việc này bị bỏ dở. Nay xin lấy tiền từ tài sản vô chủ để chi phí chôn cất.” Đến tháng 6, Hướng lại xin tuyển chọn tăng nhân để trông coi, định ra ân điển, đều được chấp thuận. Chôn cất được hơn ba nghìn người, thì cho một người xuất gia, ba năm được cấp áo tía, đã có áo tía thì ban hiệu sư, lại lệnh quản lý thêm ba năm, ai muốn ở lại thì cứ theo đó. Hướng là người Đồng Lư. Trương Thuấn Dân có ghi chép để tham khảo. Cả sử cũ và sử mới đều chép: “Chiếu cấp đất cho dân nghèo trong kinh đô không có tiền chôn cất, cho vay tiền, không có chủ thì quan phủ chôn cất.”
[9] Ngày Quý Dậu, ban cho Chuyển vận ty lộ Tử Châu một trăm độ điệp để tu sửa thành các châu Toại, Nhung, Lô.
[10] Ngày Đinh Sửu, Vua phê: “Cao Ban Lương Kiên trước thuộc Nội thị tỉnh, vì tội tự ý lấy trộm tài sản khi giám sát lăng Tung Khánh, được tha tội chết, biên quản ở Tương Châu, đã được ân xá cho về tự do, nay nghèo khó không nơi nương tựa, các nội thần làm việc ở hai tỉnh, không còn chỗ nào khác để bố trí, có thể cho làm một chức Nội phẩm giữ cửa ở Nội thị tỉnh.” Sau đó được làm Tán nội phẩm ở Hậu uyển.
[11] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Du Sung tâu: “Bộ lạc người Thổ là Xương Ninh làm sứ giả giữ biên giới phía Tây, giả vờ đầu hàng để do thám việc biên giới, sau đó lại đến đòi hỏi. Cùng với đó, bộ lạc người Thổ quen thuộc là Tô Ni cũng vào lãnh thổ nhà Hán để do thám. Nếu xử trí Xương Ninh theo pháp luật, e rằng sẽ khiến họ nghi ngờ, xin gửi trả về biên giới phía Tây. Còn Tô Ni xin đày đi các châu quân gần trong.” Vua phê: “Tô Ni có hai tội chết, một là phạm tội Thập ác, theo pháp luật phải bị liên đới xử tội. Nay may mắn bị bắt, nên xử công khai để làm gương. Không biết có tình tiết gì đáng thương mà lại giảm nhẹ hình phạt. Xương Ninh tuy vốn là người phía Tây, nhưng tự vào Trung Quốc do thám, lý cũng không thể gửi trả. Dù có cho về, cũng không biết làm sao giải tỏa được lòng nghi ngờ của người Hạ đối với ta, rõ ràng là hoàn toàn vô nghĩa. Có thể cho xử theo pháp luật. Các quan người Thổ bắt được, nhanh chóng thưởng theo quy định. Tóm tắt tình tiết của Tô Ni, gửi văn thư cho Phu Diên lộ, bảo chuyển văn thư đến Hựu Châu để hỏi tội thủ lĩnh tự ý sai người vào Trung Quốc do thám, nghiêm khắc răn đe.” Bèn chém Tô Ni, còn Xương Ninh xử tử.
[12] Vua phê: “Gia quyến của các chức Trưởng, Nhị, Thừa, Chủ bạ ở Đại Lý tự đều không ở nơi làm việc, nếu gặp ngày nghỉ, nên chỉ để mỗi người luân phiên một người ở lại, còn lại về nghỉ ngơi, để chế độ có thể duy trì lâu dài, người ta không chán nản. Hãy ghi thành lệnh.”
[13] Tam ty tâu: “Kế toán thu chi năm Hi Ninh thứ 10 ở Hà Bắc Đông lộ thiếu hụt tiền, lụa so với số lượng mà Phó chuyển vận sứ Trần Tri Kiệm và Phán quan Uông Phụ Chi tâu ban đầu là hơn 73 vạn quan, Tri Kiệm và Phụ Chi thực sự không làm tròn chức trách, xin giáng chức để răn đe các lộ.” Chiếu cho Ty đề cử xét tội tâu lên. Phụ Chi bị đánh 70 trượng, Tri Kiệm 60 trượng, đều bị cách chức. Chiếu lệnh mỗi người phạt 20 cân đồng.
[14] Tri Đô thủy giám thừa là Phạm Tử Uyên tâu: “Tu sửa đê trị thủy ở bờ nam sông Hoàng Hà, xin cấp nhân công, vật liệu và tiền.” Chiếu lệnh điều 3000 lính, cấp tiền từ Quan trang ty và Thục dược sở tổng cộng 3 vạn quan, lại đặc biệt ban 200 quan tiền công dụng.
[15] Đề cử Hà Bắc Địch Tiện Lương Thảo Vương Tử Uyên tâu: “Việc mua lương thảo dự trữ cho quân biên giới đều do thương nhân đảm nhận, nếu năm nào mất mùa, họ ắt sẽ đòi giá cao, vì vậy nên thiết lập phương pháp mua lương thảo gửi ở các châu huyện nội địa để điều tiết giá cả. Từ nội địa dùng thuyền sông Ngự vận chuyển đến biên giới, lấy năm Hi Ninh thứ 8 làm ví dụ, cần 300 thuyền, sử dụng gần 2.000 binh lính và công nhân, mà lượng vận chuyển chưa đầy 8 vạn thạch. Tính ra, mỗi thạch lương thảo vận chuyển bằng thuyền quan đã tốn khoảng 70 đồng tiền. Nếu thuê thuyền tư nhân, trên quãng đường 100 dặm, mỗi thạch chỉ tốn 1 đồng 3 phân đến 5 phân, tính trung bình trên quãng đường 1.000 dặm, vẫn có thể tiết kiệm được một nửa chi phí so với thuyền quan. Vì vậy, nên thuê thuyền tư nhân thì tiện lợi hơn.” Triều đình giao xuống cho Tam ty bàn bạc, Tam ty xin giữ lại 220 chiếc thuyền quan để ứng phó khi thuyền tư nhân không đủ, còn lại thì làm theo đề nghị của Tử Uyên. Triều đình đồng ý, và lệnh cuối năm phải báo cáo số tiền tiết kiệm được từ việc thuê thuyền tư nhân.
[16] Ngày Mậu Dần, ghi công người Bắc giới là Trình Thuyên, Trình Tiết làm Tam ban tá chức, Trình Cảnh làm Tam ban sai sứ, Lý Bật được đưa đến Tương Châu, ban cho 2 khoảnh đất, mỗi tháng cấp 1.000 đồng tiền và 1 thạch gạo trong 3 năm. Trình Thuyên và những người khác từng giúp người biên giới dò xét việc Bắc, lại từng báo cáo bắt được gián điệp, sau khi sự việc bại lộ đã về hàng, nên An phủ sứ Định Châu xin ban ân.
[17] Ngày Canh Thìn, Vua ngự tại điện Tập Anh, ra đề thi cho các tiến sĩ của Lễ bộ. Sách 《Cựu kỷ》 có ghi đầy đủ đề thi.
[18] Lễ tân sứ, Gia Châu thứ sử Cao Công Hội được bổ làm Quần mục đô giám, Văn tư phó sứ Cao Tuân Lộ được cử quản lý cung Cảnh Linh. Công Hội là cháu họ của Hoàng thái hậu, còn Tuân Lộ là chú họ.
[19] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu: “Năm nay, những người thuộc diện đặc cách tấu danh môn Minh pháp sẽ thi đổi sang môn Tân khoa Minh pháp, thi ba câu đại nghĩa.”
[20] Lại ban chiếu: “Các quan kinh triều, tuyển nhân, ban hàng thi kinh sách, luật lệnh đại nghĩa, đoán án, người đạt loại ưu gồm ba người, được thăng một bậc; loại trung gồm ba mươi bốn người, được bổ nhiệm làm quan không theo thứ tự; loại thứ gồm bảy mươi người, được bổ nhiệm làm quan.”
[21] Ngày Nhâm Ngọ, thi đặc cách tấu danh tiến sĩ, lại thi võ cử tiến sĩ.
[22] Hình bộ tâu: “Chính tự Bí thư tỉnh Vương Củng, vì tội từng mượn sách binh pháp của Triệu Cư, đáng phạt trượng tám mươi, truất hai chức, bãi chức, đã được phục chức Chính tự Bí thư tỉnh, nay lại đã qua ba kỳ, nên phục chức Thái chúc Thái thường tự.” Vua phê: “Tội của Vương Củng giao kết với kẻ cực ác, tình tiết rất nặng, nhưng do lúc trước điều tra chưa hết, nên xử án theo pháp luật, tội nhẹ, có thể kéo dài thêm ba kỳ nữa rồi mới phục chức cũ.”
[23] Chiếu phát 2.000 quân tráng dịch, 1.000 quân sương Kinh Đông, 5 chỉ huy quân Sùng Thắng tuyển trung tu thành ở châu Bân, châu Lệ, cùng đến làm việc ở Lạc Khẩu.
[24] Ngày Quý Mùi, Vua ngự điện Tập Anh thi các khoa và khoa Minh pháp mới.
[25] Long Đồ các Trực học sĩ, Tri Vị châu Thái Diên Khánh quyền Tri Khai Phong phủ. Diên Khánh mới nhận được 《An Nam Cửu Quân Pháp》[2], đọc xong, bảo các tướng rằng: “Quân Hán và quân Phiên chưa chỉnh đốn, may nay không có việc gì, có thể theo phép này mà tập hợp lại, để chuẩn bị điều động.” Bèn lấy chính binh và cung tiễn thủ, người và ngựa, hợp thành chín tướng, gồm trăm đội, chia làm bốn bộ tả, hữu, tiền, hậu, mỗi đội có loại trú chiến và thác chiến khác nhau[3], bộ binh, kỵ binh và khí giới, mỗi tướng đều giống nhau. Lại lấy quân Phiên, người và ngựa, làm thành đội riêng[4], mỗi đội tùy theo nơi gần mà phân thuộc vào các tướng, số lượng mỗi tướng không quá một nửa chính binh, để kiểm soát họ. Đặt người già yếu ở trong thành trại, khiến quân Hán và quân Phiên không lẫn lộn, để phòng ngừa biến loạn. Viết thành sách dâng lên. Gặp lúc Phu Diên lộ cũng chia quân tướng, triều đình căn cứ vào tấu chương của hai lộ, sai Từ Hi nghị định, Hi tấu nên theo tấu chương của Phu Diên mà làm, bèn hạ lệnh cho các lộ, nếu có chỗ không đồng, phải trình bày rõ ràng để tâu lên. Diên Khánh liệt kê những điều trong tấu chương của Phu Diên chưa tiện, tâu lên đầy đủ, và nói rằng không dám phụ họa dưới quyền, để phụ lòng ủy thác. Vua cho rằng Diên Khánh đúng, còn Hi thì không đúng, bèn triệu Diên Khánh về. Thần Tông ban đầu cho rằng việc Diên Khánh chia quân tướng là đúng, sau đó lại có chiếu khen ngợi Từ Hi, và lệnh cho Hi thay Diên Khánh, thì dường như Hi là đúng. Truyện Diên Khánh chép: “Vua cho rằng Hi không đúng.” Cần xem xét lại. Chiếu khen ngợi Hi vào ngày Bính Tuất tháng này, 《Ngự tập》 ngày 18 tháng 4, năm đầu tháng 7 ngày Tân Mão cần xem xét kỹ hơn.
[26] Long Đồ các Đãi chế, Tri Tần châu Lã Đại Phòng Tri Thẩm hình viện. Ngự sử Thư Thiện tâu: “Đại Phòng quyết đoán trong việc lập dị, đủ làm lay động thói tục, nếu ở trong triều đình, đối với thánh chính chỉ có hại mà không có lợi, xin cho một chức vụ ngoài.” Vua không nghe.
[27] Chiếu rằng: “Nghe rằng ở các bộ lạc biên giới thuộc Phu Diên lộ có những khoản vay mượn tiền bạc, lương thực từ nhiều năm trước, các quan chủ sự thúc giục đòi nợ quá gấp, khiến những hộ nghèo khó khăn trong việc nộp thuế, thậm chí có người tự vẫn hoặc bỏ trốn ra ngoài biên giới. Nay cho phép gia hạn thêm nửa năm. Hoàn Khánh lộ cũng theo đó mà thi hành.”
[28] Ban thưởng cho Đổng Chiên 463 con ngựa tiến cống, trị giá 11.200 quan tiền, 1.000 lượng bạc, 1.000 tấm lụa, cùng áo đối, đai vàng, đồ bạc, quần áo, v.v. Bổ nhiệm thủ lĩnh lớn tiến cống là Cảnh Thanh Nghi Đảng Lệnh Chi làm Thứ sử châu Trân, Lưu Dũng Đan Kết Cổ làm Thứ sử châu Phù. Những người đã có chức tước được thăng một bậc, người chưa có chức tước được bổ nhiệm tùy theo thứ bậc. Hàng năm tăng thêm cho thủ lĩnh lớn 17 tấm lụa lớn, thủ lĩnh nhỏ 5 tấm, và mỗi người 10 cân trà. Việc này là do Lý Hiến, quan kinh chế tài chính biên phòng Hi Hà, tâu rằng Cảnh Thanh Nghi Đảng Lệnh Chi có công trong việc hòa giải. Việc ban thưởng giá ngựa được ghi thêm vào 《Thời chính ký》 của Viện Mật, nhưng 《Mật ký》 lại không ghi về bạc và lụa, cần xem xét lại.
[29] Các quan ở Cáp môn tâu: “Vào tiết Đồng Thiên, khi các quan thần dự yến tiệc do triều đình ban sau khi làm lễ đạo trường, xin ban hoa theo nghi thức yến tiệc.” Triều đình chấp thuận.
[30] Thái thường bác sĩ Chu Trực Nho và các quan tâu: “Các vật dụng trang trí và nhạc khí ở các dịch trạm dọc đường quốc lộ đã cũ nát, xin cho sửa sang lại.” Chiếu rằng từ kinh thành, Quốc tín sở phải cử một viên giám sát đi kiểm tra và sửa chữa trước.
[31] Kinh lược sứ Tần Phượng lộ Lã Đại Phòng tâu: “Các hộ Hán và phiên ở châu Giai đã hiến nộp và khai khẩn được 520 khoảnh đất, có thể chiêu mộ thêm cung thủ.” Chiếu rằng theo phép biên giới, mỗi người được cấp 2 khoảnh đất.
[32] Ngày Bính Tuất, Long đồ các trực học sĩ, Tri thành đô Lưu Tường được thăng một bậc, làm Tri châu Tần.
[33] Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lý, Tri gián viện Từ Hi được bổ làm Hữu chính ngôn, Trực Long đồ các, Quyền phát khiển Vị châu, ban cho áo mũ màu đỏ, việc kế nghị và sắp xếp biên phòng vẫn như cũ. Việc kế nghị và sắp xếp như cũ, theo bản truyện của Từ Hi. Ban đầu, binh mã và dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Thiểm Tây cùng với quân Hán mỗi bên tự thành một đội quân riêng, mỗi khi chiến đấu thường lấy quân thiểu số làm tiên phong, còn quân Hán thì giữ thành, đợi thời cơ thuận lợi mới xuất quân, không phân biệt chiến đấu hay phòng thủ, mỗi lộ có vài tướng cùng chỉ huy. Lữ Huệ Khanh làm tướng ở Phu Diên, cho rằng việc điều động không thể nhanh chóng tập hợp, bèn thay đổi phép cũ, phối hợp quân Hán và quân thiểu số thành một đội, phân biệt chiến đấu và phòng thủ, cứ mỗi 5.000 người thì đặt một tướng, soạn điều lệ dâng lên[5]. Người biên giới và các nhà bàn luận đều cho rằng cách làm này không tiện. Vua phần nào nghe theo ý kiến của Huệ Khanh, muốn áp dụng phép này ở các lộ, nên sai Từ Hi đi bàn bạc. Từ Hi trước tiên soạn phép Hoàn Khánh dâng lên, sai quan sắp xếp ở Kinh Nguyên, nhưng tướng Kinh Nguyên là Thái Diên Khánh cho rằng không thể làm được, triều đình cũng đồng ý, và phản đối phép Hoàn Khánh của Từ Hi.
Từ Hi liệt kê những chỗ sơ sót và lộn xộn trong phép Kinh Nguyên, vẽ hình trạng, soạn phép khác tâu lên, và nói rằng phép Hoàn Khánh không thể thay đổi. Vua ban chiếu cho Huệ Khanh rằng: “Từ Hi bàn về việc sắp xếp tướng lĩnh, lòng đau xót khảng khái, lo việc nước không màng đến mình, đã lệnh thay Diên Khánh làm tướng Kinh Nguyên, khanh nên cố gắng hoàn thành, ngày sau sẽ là bề tôi giỏi của một đời.” Năm đầu, tháng 6, ngày Bính Dần, lần đầu sai Từ Hi đi bàn bạc. Tháng 7, ngày Tân Mão, có chiếu giao cho Từ Hi và các lộ. Năm đó, tháng 3, ngày Quý Mùi, Thái Diên Khánh nói như vậy, có thể tra cứu.
[34] Thái nguyên phủ lộ tẩu mã thừa Toàn Duy Kỷ báo cáo: “Binh lính ở trạm ngựa chuyển các công văn cơ mật biên giới của triều đình, vác hành lý của sứ giả, cùng các loại vận chuyển quân khí, vật liệu, áo quần, lụa vải, không được nghỉ ngơi, phải thuê thêm người vận chuyển, tốn kém gấp đôi tiền bạc, khốn khổ đói rét, xin được khoan hồng giúp đỡ.” Vua phê: “Đã lâu nghe tình cảnh khó khăn của binh lính trạm ngựa, thật đáng thương xót. Nay nhân Duy Kỷ đến kinh, hỏi rõ sự thật, kể rõ từng người áo không che thân, cơm không đủ no, người nhà thì không chịu nổi rét, nhiều người chôn vùi trong tro ấm để cố sống qua ngày. Khốn khổ đến thế, cần phải cứu giúp ngay, có thể giao cho Trần An Thạch nhanh chóng bày cách giải quyết rồi tâu lên.” Sau đó An Thạch tâu: “Xin cho các quân khí và vật liệu cùng áo quần, tất cả các chuyến vận chuyển đều sai quân sương vận chuyển, mỗi ngày cấp lương thực, nếu thiếu thì thuê thêm. Lại nữa, quân khí và vật liệu, trong đó có những thứ không dùng được và nặng nề, tốn kém phí tổn vận chuyển, xin giao cho cơ quan chuyên trách cử quan viên kiểm tra xem xét kỹ lưỡng, mới được phát đi. Những thứ cần phải cải tạo lại, hãy để nơi cần dùng làm trước một hai mẫu, gửi đến châu quân nơi phát đi để theo mẫu mà chuẩn bị ứng phó, như vậy sẽ giảm được chi phí vận chuyển và thuận tiện cho việc vận chuyển.” Vua xuống chiếu cho Giám quân khí xem xét rồi tâu lên. Giám quân khí tâu rằng như vậy thật tiện lợi. Vua đều chấp thuận.
[35] Ty An phủ vùng biên giới Hà Bắc tâu: “Dân hai hộ thuế ở Hùng Châu tránh việc bị Bắc giới bắt đi phu và thu gỗ để sửa thành Trác Châu, đều đem gia đình đến gần bản châu và cửa ải định cư.” Vua phê: “Dân hai hộ thuế trốn tránh việc phu, không khỏi lâm vào cảnh khốn cùng, hãy cấp lương thực cứu giúp, đợi khi Bắc giới giảm bớt việc phu, hãy khuyên họ trở về làm ăn.”
[36] Ngày Mậu Tý, Quản câu thường bình đẳng sự Quảng Nam Tây lộ Lưu Nghị tâu: “Nhà cửa quan và dân ở Ung Châu đều lợp bằng tranh, lại sau khi binh lửa, thành lũy biên giới chưa có lầu canh, xin tập hợp thợ gốm đốt ngói, chở ván gỗ từ Nghi Châu, lấy tre từ các động, lợp nhà cửa công tư, để tránh hỏa hoạn.” Vua chấp thuận. Xuống chiếu cho Nghị lên kế hoạch thi hành, Ty Chuyển vận phối hợp giúp đỡ.
[37] Thượng phê: “Hà Đông lộ thấy việc vận chuyển vật liệu đến vùng biên giới để chế tạo vũ khí quân sự, rõ ràng là lãng phí và gây náo động, có thể lệnh cho Quân khí giám nhanh chóng dừng lại việc này.”
[38] Kinh lược ty Quảng Tây tâu: “Tướng quân Hữu Thiên Ngưu vệ ở Diên Chúng trấn là Trương Trí Thường đã dụ dỗ chín đạo Bạch Y Phú và Lý Tụ Minh ở Nhã Châu đến quy phụ.” Chiếu thăng Trương Trí Thường làm Tướng quân Hữu Giám Môn vệ.
[39] Ngày Canh Dần, chiếu cho Nhập nội Đông đầu Cung phụng quan Tống Dụng Thần làm Đô đại Đề cử đạo Lạc thông Biện, bãi chức của Lô Bỉnh trước đây, không phái đi nữa.
[40] Ban đầu, vào tháng 5 năm ngoái, Tây đầu cung phụng quan Trương Tòng Huệ tâu rằng: “Cửa sông Biện hà năm nào cũng bị bồi lấp, lại phải tu sửa đê điều tốn kém công sức, mỗi năm chỉ thông thuyền được hơn 200 ngày. Trước đây đã có nhiều người đề nghị dẫn nước sông Lạc vào sông Biện, nhưng lo ngại sông Hoàng Hà ăn mòn núi Quảng Vũ, phải đào núi từ 15 trượng đến 10 trượng để thông kênh Biện, công trình quá lớn không thể thực hiện được. Từ tháng 7 năm ngoái, sông Hoàng Hà dâng cao bất thường so với mọi năm, nước rút và dòng sông hơi lệch về phía bắc, cách chân núi Quảng Vũ 7 dặm, bãi bồi cao rộng, có thể đào thành kênh dẫn nước vào sông Biện, tạo lợi ích muôn đời.” Tri châu Mạnh Châu, huyện Hà Âm là Trịnh Cát cũng tâu như vậy.
Lúc đó, Phạm Tử Uyên làm Tri đô thủy giám thừa, vẽ ra 10 lợi ích để dâng lên: Một là hàng năm tiết kiệm được chi phí đào bới cửa sông Biện; Hai là sông Hoàng Hà không chảy vào kinh thành, tiết kiệm được công sức phòng chống lũ lụt; Ba là đê sông Biện không lo bị vỡ; Bốn là thuyền bè không lo bị đắm do sóng lớn; Năm là không có người chết oan uổng; Sáu là thông thuyền được bốn mùa; Bảy là hàng hóa từ kinh đô, Lạc Dương và Đông Nam giao thông thuận tiện; Tám là hàng năm không lo nước sông không đủ, cản trở vận chuyển; Chín là thuyền chở hàng từ Giang, Hoài không bị binh lính đục thủng đắm chìm để ăn cắp của công, lại giảm được nhân công kéo thuyền ngược dòng; Mười là có thể cắt giảm sứ thần tuần tra sông, binh lính và vật liệu đóng đê dọc sông Biện.
Lại tâu rằng: “Nước sông Dịch chảy từ núi Vương Tiên[6], nước sông Sách chảy từ núi Tung Chử, cũng có thể dẫn vào sông Biện, hợp ba dòng nước lại, tích tụ độ rộng và sâu, được 2.136 thước, so với dòng sông Biện hiện tại còn dư 974 thước, do tốc độ chảy của sông Hoàng Hà và sông Lạc khác nhau, có thể bù trừ lẫn nhau, nếu sợ không đủ thì đắp đê bên cạnh làm hồ chứa, thẩm thấu lấy nước sông, cứ 100 dặm đặt một cái cọc gỗ[7] để hạn chế dòng chảy, hai bên đê có hồ, đầm đều có thể dẫn nước vào hỗ trợ, cấm lấy nước ở thượng nguồn sông Y, Lạc. Ước tính thuyền chở hàng trên sông Biện, mớn nước không quá 4 thước, nay sâu 5 thước, có thể đảm bảo vận chuyển. Từ núi Thần Vĩ huyện Củng đến đê Nhà Sĩ[8], đắp đê lớn dài 47 dặm để ngăn sông lớn. Từ Sa Cốc đến trạm 10 dặm huyện Hà Âm, đào kênh dài 52 dặm, dẫn nước sông Lạc vào kênh Biện, tổng cộng dùng hơn 3.570.000 nhân công.” Tấu chương dâng lên, Vua rất coi trọng việc này.
[41] Mùa đông năm đó, sai Tả gián nghị đại phu, Trực học sĩ viện An Đào, Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc đi xem xét. Tháng giêng, Đào và những người khác trở về tâu: “Sông Sách ở dưới cửa sông Biển khoảng bốn mươi dặm, không thể dẫn nước được; sông Lạc và sông Dĩ, tích tụ chiều rộng và độ sâu chỉ được hơn hai trăm sáu mươi thước, không đủ dùng. Đường dẫn nước Sâm đào vào sông lớn, nếu chậm thì bị bồi lấp, nếu nhanh thì bị xói lở. Sông Lạc chỉ có phần dẫn nước từ Tây Kinh vào thành, hạ lưu lại chảy về sông Lạc, cấm đoán cũng vô ích. Đặt đập sợ địa thế cao thấp không đều, không thể hạn chế được sức nước. Sông Hoàng Hà cách núi Quảng Vũ chỉ khoảng một hai dặm, lại hướng về phía nam bờ, đất bãi bồi cứng không đến hai phần, cát chiếm tám phần, nếu ở đó đào sông đắp đê, đến mùa hè nước sông Lạc tràn vào trong, sông lớn dâng cao bên ngoài, sẽ có mối lo bụng lưng. Đê mới một khi vỡ, sông mới chắc chắn sẽ bị bồi lấp, thì hơn ba trăm vạn công sức đều thành vô dụng. Hơn nữa, Tử Uyên đề xuất việc này, vốn muốn tiết kiệm chi phí hàng năm ở cửa sông Biển, nay đặt đê, đập, cống, v.v., chi phí hàng năm e rằng không chỉ bằng một cửa sông Biển, mà còn có nỗi lo không thể bảo đảm. Tuy nhiên, tài lực là do con người, vẫn có thể làm được, chỉ là nguồn nước không đủ, thì sức người không thể cưỡng ép được. Vì sông Y, sông Lạc, núi sông, mùa hè tuy có dư, nhưng qua đó thường không đủ. Mưu đồ nghi ngờ không thành, xin bệ hạ xem xét.” Vua thấy kế hoạch của Tử Uyên có chỗ chưa tốt, bèn sai Dụng Thần kinh lý, cử Dương Khuê đi.
[42] Đến lúc này, viên thần được cử đi trở về, tâu rằng có thể làm được: “Xin từ thôn Sa Cốc đến cửa sông Biện, đào một con sông dài 50 dặm, dẫn nước sông Y và Lạc vào sông Biện, cứ 20 dặm đặt một đập nước, dùng cỏ và gỗ làm thành, để điều tiết dòng chảy mạnh. Lấy độ sâu một trượng để thông thủy vận. Dẫn nước từ sông Cổ Sách làm nguồn, đổ vào các đầm Phòng Gia, Hoàng Gia, Mạnh Vương cùng 36 đầm ở nơi cao, tích nước thành hồ, để phòng khi nước sông Lạc không đủ thì mở đập cho nước chảy vào sông. Lại từ phía bắc cửa ải Dị Thủy đào một con sông dài 500 bước, nối với sông Hoàng Hà, trên dưới đặt cửa đập, mở đóng để thông thuyền bè giữa hai sông Hoàng Hà và Biện. Tại cửa sông Lạc cũ đặt đập nước, thông với sông Hoàng Hà, để xả nước lũ từ sông Y và Lạc. Nếu sông Cổ Sách và các sông khác có lũ lớn, thì mở ba cửa đập Ngụy Lâu, Huỳnh Trạch và Khổng Cố để xả nước. Tính toán công việc cần hơn 90 vạn 7 nghìn nhân công.”
Lại xin giao cho Tử Uyên tu sửa đê phía nam sông Hoàng Hà để phòng ngừa nước lấn chiếm con sông mới. Chiếu theo kế sách của viên thần, nên có mệnh lệnh này. Bắt đầu xây dựng sông Thanh Biện, người chủ trương cho rằng không cần dùng nước sông Hoàng Hà mà vẫn đủ dùng, sau đó gặp hạn hán, nước sông Lạc không đủ, bèn lấy cớ thông thuyền bè mà mở cửa đập Dị Thủy, ngầm lấy nước sông Hoàng Hà bổ sung, triều đình không biết.
(Sách Chu Bản chép: “Sau khi sông Thanh Biện hoàn thành, mọi việc đều như dự đoán, dòng chảy êm đềm, hai bờ đê thẳng tắp, đường thủy thuận tiện gấp đôi, thuyền quan không còn lo bị nước xô đẩy, thuyền từ Giang, Hoài đi lại bốn mùa, ngày đêm không ngớt, đến nay công tư đều thuận tiện. Nếu không phải nhờ ý chí quyết đoán của bề trên, không bị lung lay bởi những luận điệu nông cạn, thì mối họa ngàn năm khó mà trừ được.” Đoạn này trong Chu Bản, bản mới đã bỏ đi, trên dùng bản mực. Kỷ mới chép ngày 26 tháng 4, ngày Giáp Tý, khởi công đào sông dẫn nước Lạc thông với sông Biện. Kỷ cũ chép ngày 17 tháng 6, ngày Giáp Dần, hoàn thành công việc mới chép.)
[43] Ngày Tân Mão, chiếu phạt Quyền phát khiển Quần mục phán quan, Thái tử Trung doãn Vương Khâm Thần 10 cân đồng, vì tội tự ý di chuyển quan lại dưới quyền.
[44] Ban cho Châu Đăng 100 độ điệp để tu sửa thành trì.
[45] Thượng phê: “Việc buôn bán ở trạm dịch phía tây, theo phép cũ, ngoài việc bán cho kho quan[9], còn lại đều cho phép giao dịch với người buôn và người môi giới. Gần đây, Ty Đề cử Thị dịch tâu xin để Thị dịch thượng giới quản lý tất cả, cấm buôn bán tư nhân, nghe nói người Nhung rất không vui. Trước đây, sứ giả ngày Chính đán cần vật phẩm, bản vụ lại không thể cung cấp đủ, không tránh khỏi phải mua ở chợ, nay tính toán số lợi nhuận cũng không nhiều, nên cho phép giữ nguyên như cũ.”
[46] Quan Ngự thí biên bài Lý Thừa Chi tâu: “Năm Hi Ninh thứ 9, thi Ngự thí khoa Minh pháp, có 39 người chính thức đỗ, chỉ xếp hạng theo thứ tự thông thạo sơ sài, nay có 146 người, gấp mấy lần trước, xin lấy hai lần thông thạo làm tiêu chuẩn đỗ, chia làm hai hạng.” Được chấp thuận.
[47] Lệnh cho Viện Xu mật biên soạn văn tự, Đại Lý bình sự Thái Thạc cùng biên soạn sắc lệnh về tướng quan, Ty Thừa chỉ tu định. Vì Đô thừa chỉ Hàn Chẩn tâu rằng, từ khi ban hành sắc lệnh về tướng quan, các đề nghị không thống nhất, lo ngại việc sửa đổi không rõ ràng, các tướng chưa hiểu rõ, sợ thi hành sai lầm.
[48] Ngày Nhâm Thìn, chiếu rằng: “Gần đây đã cử Tống Dụng Thần làm Đô đại đề cử đạo Lạc thông Biện, nay lệnh cho Phạm Tử Uyên tu sửa xong bờ nam sông Hoàng Hà, để lại 2000 quân, cấp cho Dụng Thần thi công, lại lệnh cho Chuyển vận phó sứ Lý Nam Công chuyên lo việc ứng phó, cử một người Đô tuần kiểm phủ Hà Nam đến cửa Lạc để biên chế và kiểm soát. Phần ban thưởng cho Dụng Thần, theo như lệ cấp cho các chư ty sứ.”
[49] Tri châu Diên Châu Lữ Huệ Khanh xin chiêu mộ dũng sĩ, cứ 10 người làm một giáp. Được chấp thuận.
[50] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Ở châu Lân có người phương Tây trước đây bắn tên và bắt lính Lã Trọng, muốn gửi thư đến châu Hựu để răn đe.” Chiếu rằng: “Người và ngựa đã đòi lại được, số tên không nhiều, không cần gửi thư nữa.”
[51] Chiếu rằng: “Tiền mua bán ở các trường vụ bị thua lỗ, người bảo lãnh phải bồi thường, giao cho Ty Đề cử liệt kê thời gian nợ, năm được mùa hay mất mùa, và sức lực của người bảo lãnh, ấn định thời hạn trả, trình lên Ty Nông tự xem xét và chỉ đạo.” Theo lời thỉnh cầu của Ty Nông tự.
[52] Ngày Quý Tỵ, tại điện Tập Anh, ban cho các tiến sĩ, minh kinh và các khoa khác từ Khai Phong Thời Ngạn trở xuống đỗ đệ, xuất thân, đồng xuất thân, đồng học cứu xuất thân, tổng cộng 602 người. Sách cũ trong truyện Đặng Oản chép: “Oản làm chủ khảo khoa thi năm Hi Ninh thứ 6, xin cho tiến sĩ đệ ngũ giáp vẫn được ban bản khoa xuất thân như cũ, không để họ xấu hổ vì đồng học cứu. Không được chấp thuận. Sau đó, năm Nguyên Phong thứ 2 lại xin, cuối cùng được chấp thuận.” Sách mới biện luận: “Năm Hi Ninh thứ 6 có xin nhưng không được chấp thuận, năm Nguyên Phong thứ 2 ban cho tiến sĩ đỗ đệ, xuất thân, đồng xuất thân, cũng có người được đồng học cứu xuất thân, cuối cùng chấp thuận lời xin của Oản, là sai.” Nay bỏ đi. Sách cũ chép số người được ban đỗ đệ và bổ nhiệm làm quan là 1.380 người, sách mới cũng giống, có lẽ là tính cả số người được ban ngày Quý Tỵ.
[53] Khách tỉnh tâu: “Xa giá đi chơi bắn cung, theo lệ cũ mỗi khi bắn trúng, các tể thần, thân vương trở xuống dâng ngựa, xin từ nay lần đầu bắn trúng thì quần thần dâng ngựa và ban ngựa cho quần thần như cũ, những lần bắn trúng sau đều miễn dâng.” Theo lời tâu.
[54] Chiếu cho Thẩm hình viện và Hình bộ, từ nay nếu để tồn đọng công án quá 200 đạo, quan lại sẽ bị cách chức.
[55] Ngày Giáp Ngọ, ngự tại điện Tập Anh, ban cho các tiến sĩ đặc cách, minh kinh và các khoa khác đồng học cứu xuất thân, thí chức Tướng tác giám chủ bạ, Quốc tử tứ môn trợ giáo, Trưởng sử, Văn học, Trợ giáo, tổng cộng 778 người. Sách mới và sách cũ đều gộp vào ngày Quý Tỵ.
[56] Hùng Châu tâu: “Dân hộ ở biên giới phía bắc bị quấy nhiễu do phân phối sai dịch, có người hoảng sợ bỏ chạy. Châu Trác gửi văn thư nói rằng quan huyện ở biên giới phía nam dùng binh mã ngăn cản, không cho họ ứng dịch, xin hãy nhanh chóng đưa họ trở về.” Triều đình ra chiếu cho Hùng Châu trình bày rõ nguyên nhân việc xâm phạm và quấy nhiễu, đồng thời cảnh cáo hai huyện tăng cường tuần phòng, đợi khi việc sai dịch ở biên giới phía bắc giảm bớt thì khuyên những hộ dân đã bỏ chạy trở về làm ăn[10]. Sau đó, Ty An phủ vùng biên tâu: “Những người bỏ chạy phần lớn là khách hộ, tự nói nếu biên giới phía bắc chưa chịu bãi bỏ phu dịch, họ muốn đi nơi khác làm ruộng để kiếm sống.” Xu mật viện xin ra chiếu cho Hùng Châu khuyên bảo dân chúng kịp thời làm ruộng, nuôi tằm, không nên bỏ nhà cửa đi xa, đợi khi việc sai dịch ở biên giới phía bắc giảm bớt, có người gọi về thì mỗi người trở lại làm ăn. Vua phê: “Những hộ hai nơi bỏ chạy khắp nơi, Hùng Châu cho là bất tiện, chỉ sợ ruộng đất họ từng canh tác bị người phương bắc chiếm hết. Nay những người bỏ chạy phần lớn là khách hộ, thì dân lưu tán dù có phân tán đi nơi khác cũng không gây hại gì lớn, chỉ cần ra bảng yên ủi họ trở về làm ăn.” Cả 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép: “Ra chiếu cho những hộ hai nơi ở Hùng Châu đã di cư về phía nam trở về làm ăn.”
[57] Ngày Bính Thân, Cáp môn thông sự xá nhân, Phó sứ An phủ vùng biên Hà Bắc là Lưu Quản xin những người hai nơi đã định cư ở phía nam không được trở lại vùng đất hai nơi. Triều đình ra chiếu cho Hùng Châu đã đưa những hộ dân trở về làm ăn, giao cho lân bảo giám sát.
[58] Ngày Đinh Dậu, ra chiếu cho tân tiến sĩ theo lệ cũ được ban 500 nghìn tiền làm phí yến tiệc, ngoài ra đặc biệt ban thêm 1.000 quan, các khoa khác 300 nghìn.
[59] Ra chiếu cho Đại Lý tự mỗi tháng báo cáo số người đang bị giam và đã xử án lên Trung thư.
[60] Ban cho đặc tấu danh tiến sĩ Tôn Bảo hiệu Dưỡng Chân xử sĩ. Vì Tôn Bảo phạm lỗi không thi đỗ, được ơn bổ làm Nhiếp trợ giáo nhưng không nhận, tự nói có thuật tu luyện, xin một danh hiệu để về núi. Tôn Bảo là người nào?
[61] Hình Châu xin tạm ngừng việc thu tiền lụa của Ty Thị dịch trong châu để giảm bớt gánh nặng cho dân. Chiếu chỉ cho Đô đề cử Ty Thị dịch xem xét các châu huyện có nhiều hộ dân nợ thuế, không được cấp tiền.
[62] Giáng chức Đông thượng các môn sứ, Thứ sử Quả Châu, Phó tổng quản lộ Tần Phượng là Hạ Nguyên Kỷ xuống làm Đô kiềm hạt. Vì trước đây khi làm Tri quân Trấn Nhung đã xử án oan người chết. Ngày Kỷ Tỵ tháng 5 lại bị khiển trách.
[63] Phu nhân của Kỳ vương Hạo là cháu gái của Thị trung Phùng Chửng, bị Kỳ vương ghét bỏ, phải sống biệt lập ở hậu các đã mấy năm. Mùa xuân năm đó, cung điện của Kỳ vương xảy ra hỏa hoạn, nhưng lửa được dập tắt ngay. Phu nhân nghe tin có cháy, liền sai hai người hầu gái đến xem. Kỳ vương thấy hai người hầu, liền hỏi họ đến làm gì. Hai người hầu trả lời: “Phu nhân sai chúng tôi đến xem tình hình của đại vương.” Nhũ mẫu của Kỳ vương vốn ghét phu nhân, cùng hai người thiếp yêu của vương vu cáo rằng: “Hỏa hoạn có lẽ là do phu nhân gây ra.” Kỳ vương nổi giận, sai Nội tri khách tra xét việc này. Hai người hầu không chịu nổi tra tấn, đành phải nhận tội: “Phu nhân sai chúng tôi phóng hỏa.” Kỳ vương đánh đòn hai người hầu, rồi khóc lóc kể với Thái hậu: “Tân phụ làm những việc như vậy, thần không thể cùng sống với nàng được.” Thái hậu tức giận, bảo Vua nhất định phải xử tử phu nhân. Vua vốn biết hai người không hòa thuận, chắc chắn là do tả hữu hãm hại, nên từ tốn đáp: “Nàng là con nhà công khanh, sao có thể xử tội ngay được! Hãy đợi tra xét rõ rồi mới bàn.” Vua liền triệu hai người hầu, sai Trung sứ cùng Thị giảng Trịnh Mục tra xét tại Hoàng thành ty. Mấy ngày sau, vụ án kết thúc, không có bằng chứng thực tế. Vua lại sai Dực thiện Phùng Hạo ghi chép lời khai. Vua bèn đem kết quả vụ án báo với Thái hậu, rồi triệu phu nhân vào cung. Phu nhân rất sợ hãi, muốn tự tử. Vua sai Trung sứ an ủi: “Ngươi vô tội, đừng sợ.” Và lệnh cho phu nhân đến thẳng cung Thái hoàng thái hậu. Thái hoàng thái hậu an ủi và giữ phu nhân lại.
Thái hậu và Vua lần lượt đến, tra hỏi về vụ hỏa hoạn. Phu nhân khóc lóc, lạy tạ tội, rồi nói: “Phóng hỏa thì không có, nhưng thiếp là con gái nhà thường, phúc mỏng, thực không xứng với Kỳ vương, mong được tha chết, xin cạo tóc đi tu làm ni cô.” Thái hậu hỏi: “Nghe nói ngươi từng chửi rủa Kỳ vương, có đúng không?” Phu nhân đáp: “Thiếp trong lúc tức giận có thể đã làm vậy.” Vua bèn trị tội nhũ mẫu và hai người thiếp, sai Trung sứ đưa phu nhân đến Dao Hoa cung, không bắt phải xuất gia, lương tháng cũ là 50 quan tiền, nay tăng gấp đôi, cấp dưỡng hậu hĩ, và nói: “Đợi khi Kỳ vương nguôi giận, sẽ đón nàng về.” Việc này căn cứ theo 《Ký văn》, ghi chép vào cuối tháng.
[64] Lại đặt lại huyện Địch Đạo thuộc châu Hi. 《Cựu kỷ》 vẫn không ghi chép việc này.
[65] Mùa hạ, tháng tư, ngày Canh Tý, Nội tàng khố sứ Trương Nhược Nột thay Chủng Ngạc làm Tri châu châu Dân, Lễ tân phó sứ Khang Thức thay Dương Vạn làm Tri quân Thông Viễn. Do có chỉ của Vua: “Ngạc, Vạn cùng với ty Kinh chế biên phòng tài lợi nhiều lần tranh luận công việc, từ đó sinh hiềm khích, tình thế khó an định.” Nên đổi đi. Cho Ngạc làm Tri châu Kinh[11].
[66] Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, Độ chi lang trung Bì Công Bật bị giáng một bậc quan, kéo dài thời gian khảo xét thêm hai năm. Công Bật từng tiến cử Du Sĩ Long ở châu Nhữ, vì tội tự ăn trộm của công, pháp tự định tội Công Bật phải đi đày hai năm, bị cách chức. Chiếu rằng do Công Bật có công trong việc kinh chế muối, nên miễn cách chức.
[67] Ngày Tân Sửu, Vua ngự đến Kim Minh Trì xem trò chơi dưới nước, yến tiệc bắn cung ở vườn Quỳnh Lâm, Vua bắn trúng đích, quần thần đều chúc mừng, Vua sai quần thần bắn, lại đặc biệt sai Xu mật phó đô thừa chỉ Trương Thành Nhất bắn, tiệc rượu xong, Vua ngự ra cửa vườn xem quân sĩ bắn cành liễu. Từ khi lên ngôi đến nay, Vua mới lại đến ao vườn, sau này không đến nữa. Cả sử cũ và sử mới đều chép việc Vua ngự đến ao vườn.
[68] Ngày Quý Mão, Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu ngự đến Kim Minh Trì, Vua đỡ Thái hoàng thái hậu lên xe, lại chuẩn bị sẵn thuyền rượu trăm báu, rồi chạy nhanh để chúc thọ.
[69] Quyền phát khiển Diêm thiết phán quan, Đề cử trà trường các lộ thành Đô phủ, Quốc tử bác sĩ Lý Tắc tâu: “Từ mùa đông năm Hi Ninh thứ 10 thi hành phép trà, đến mùa thu năm Nguyên Phong thứ nhất, tổng cộng một năm, tính chung lợi nhuận thuế khóa và thuế lợi tức cũ cùng tiền đã chi, hiện có bảy mươi sáu vạn bảy nghìn sáu mươi sáu quan tiền.” Vua phê: “Phép trà ở Thục thay đổi, lại thêm sứ giả phụng hành trước sau không đúng chỉ, bàn luận rối ren, sợ làm động lòng dân. Tắc có thể suy xét ý nghĩa của phép, ngày càng có thành tích, nên nhanh chóng thăng chức để khuyến khích người tại chức.” Bèn bỏ chức quyền phát khiển.
[70] Chiếu biên soạn sắc lệnh của ty Trà trường.
[71] Ngày Giáp Thìn, Vua Liêu sai Lâm Nhã Hoài Hóa quân tiết độ sứ Tiêu Thịnh, Tả gián nghị đại phu Tri chế cáo Trương Tương đến chúc mừng lễ Đồng Thiên.
[72] Long đồ các trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Tống Mẫn Cầu mất.
[73] Ngày Ất Tỵ, Lý Tắc, quan phụ trách trà trường ở Thành Đô phủ và các lộ khác, tâu rằng: “Kinh chế ty tự ý độc quyền mua bán hàng hóa của thương nhân ở Hi Hà Dân châu và Thông Viễn quân.” Triều đình ra chiếu yêu cầu Kinh chế ty trình bày rõ ràng. Sau đó, Lý Hiến tâu: “Từ khi thành lập ty này, ngoại trừ việc cấm buôn lậu thủy ngân của thương nhân ngoại quốc và hai trường Diêm Xuyên trại, Diêm Quan trấn theo luật, việc mua bán trên thị trường đều dựa trên sự tự nguyện, chưa từng bị cản trở. Thần vì kém cỏi, e rằng khó tránh khỏi sự bàn tán của quan lại, xin chỉ trị tội riêng thần.” Triều đình bèn ra chiếu triệu Lý Hiến về kinh, lệnh cho Chuyển vận sứ Tưởng Chi Kỳ điều tra kỹ lưỡng và xử tội những người có tội. Lại ra chiếu yêu cầu Tưởng Chi Kỳ căn cứ vào các sự việc triều đình đã giáng xuống để xét hỏi sự thật, không để lan man. Chiếu về việc của Tưởng Chi Kỳ được ban vào ngày Tân Mùi tháng 7. Khi vụ án kết thúc, Lý Hiến cùng Mã Giáp, Triệu Tế, Hoắc Tường bị kết tội tấu sự không đúng sự thật, phạt đi đày 2 năm. Triều đình ra chiếu rằng tội của Lý Hiến và những người khác là vì công việc, nên được tha theo đức ân. Vụ án kết thúc, theo bản ghi chép của Chu bản vào ngày Mậu Tuất mùng một tháng 6, nay gộp vào đây. Sách 《Ngự tập》 ghi vào ngày 26 tháng 11. Trong năm này, ngày 18 tháng 9 và ngày 15 tháng 10 đều có đức ân. Ngày 18 tháng 9 chỉ liên quan đến Dĩnh châu, nên có lẽ là ngày 15 tháng 10. Chu bản chắc chắn sai, nên theo 《Ngự tập》.
[74] Triều đình ra chiếu rằng những binh sĩ từng tham gia quân đội ở An Nam, vì bệnh tật mà lưu lại, sau không biết sống chết, sẽ được xóa tên và cấp tiền tuất. Đây là theo yêu cầu của Quảng Tây Kinh lược ty.
[75] Ngày Canh Tuất, triều đình ra chiếu rằng những người mới được ban tiến sĩ đệ tứ giáp trở lên, sẽ được hưởng ân điển theo quy định năm Hi Ninh thứ 9; những người đỗ chính khoa và minh kinh xuất thân sẽ được hưởng ân điển theo quy định năm Hi Ninh thứ 6. Lệnh cho Ngự sử trung thừa Thái Xác cùng phán xét việc bổ nhiệm quan lại.
[76] Lại ra chiếu yêu cầu Tư nông tự xuất 10 vạn quan tiền phường trường để cấp thêm lương thực cho quan lại và binh lính ở Đạo Lạc thông biện ty, trong đó 2 vạn quan dành cho Phạm Tử Uyên để chi phí củng cố bờ nam sông Hoàng Hà.
[77] Vua phê rằng: “Nghe nói các châu Duyễn, Vận, Từ, Tế đã lâu không có mưa, lúa mạch thất bát, lòng dân bất an. Tuy đã sai nội thần đến Đông Nhạc lập đạo tràng, nhưng nên thêm việc sai quan lễ bộ đi cầu đảo.”
[78] Lại phê: “Quảng Tây mùa xuân hạn hán nghiêm trọng, hãy lệnh cho An phủ, Chuyển vận ty tìm đến các danh sơn linh từ để cầu đảo.”
[79] Lại chiếu cho Đề cử Thường bình thương ty thuộc Hà Bắc Đông lộ phát chẩn lương thực cho dân đói ở các châu Tân, Lệ, Thương, đến tháng 5 thì dừng.
[80] Phong cho con gái thứ 11 của Bộc An Ý Vương là Lương Chú, vợ của Nhân Thọ huyện chủ làm Đồng An quận chủ, và con gái thứ 18 là Hạ Đại Thuần, vợ của Sùng Đức huyện chủ làm Vĩnh Gia quận chủ, không đợi đến đại lễ mới cấp bổng. Đó là do chế độ cũ quy định phải qua hai lần đại lễ mới được cấp.
[81] Lệnh cho Chuyển vận phán quan Giang Nam Tây lộ là Bành Nhữ Lịch và Đề cử Thường bình đẳng sự Lưỡng Chiết lộ là Phạm Tuân đến Nhuận Châu xét xử việc của Lữ Gia Vấn. Chiếu cho Gia Vấn tạm thôi chức ở Nhuận Châu. Gia Vấn trước đây vì tội khi làm Tri Giang Ninh bị giáng làm Lâm Giang quân, việc này xảy ra vào tháng giêng năm sau ngày Nhâm Ngọ. Giám ty Giang Đông tâu xin bãi chức Gia Vấn ở Nhuận Châu, việc này xảy ra vào tháng 12 năm trước ngày Quý Mão.
[82] Lương Tòng Cát, Đô kiềm hạt Hoàn Khánh lộ, Hoàng thành sứ, Đái ngự khí giới, được lĩnh chức Thứ sử Xương Châu. Tòng Cát đã trải qua bốn nhiệm kỳ ở Hoàn Khánh, nên được đặc cách thăng chức.
[83] Ngày Tân Hợi, lấy Vương Nhâm đỗ khoa Minh Pháp làm Tri huyện thí hàm và Giáo thụ Luật học.
[84] Ngày Nhâm Tý, sứ giả nước Liêu từ biệt, đặt tiệc ở điện Tử Thần, không cử nhạc. Vì ngày Ất Mão có quan hữu ty tiến hưởng Thái Miếu, nên hôm đó phải trai giới.
[85] Ngày Ất Mão, Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Châu Tân chướng khí độc hại, lại thêm sau chiến tranh, khó tìm được quan chức nguyện đến nhậm chức, xin sai Điện trung thừa Ngô Tiềm làm Tri châu Tân.” Được chấp thuận.
[86] Tư huân viên ngoại lang Hàn Tấn Khanh làm Tri châu Thọ. Tấn Khanh từ chức Đại lý ra làm Tri châu Đồng, Vua phê: “Tấn Khanh bị thay thế không theo thứ tự, có thể đặc cách cho một chức khuyết.” Nên được chấp thuận.
[87] Chiếu cho việc đào sông Lạc thông với sông Biển bắt đầu khởi công vào ngày Giáp Tý tháng này, sai quan Lễ bộ làm lễ tế cáo. Nếu việc đào sông xâm phạm mồ mả, thì cấp tiền để di dời, không có chủ thì quan phụ trách chôn cất.
[88] Ban thưởng tiền đặc chi cho quân lính bảo vệ bờ nam sông Hoàng Hà.
[89] Ngày Bính Thìn, Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Châu Thuận An, động Cống trước đây thuộc Châu Ung, gần đây Tuyên phủ ty nhân việc thu phục Quảng Nguyên, chia thuộc về Châu Thuận, xin trả lại như cũ.” Vua đồng ý.
[90] Ngày Đinh Tị, Trấn Giang tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Tú quốc công Trần Thăng Chi[12]xin nghỉ hưu. An Đào, viên chức ở Viện Hàn lâm, soạn tờ từ chức, có đoạn: “Một lòng làm quan, cùng vui với sự hòa hợp đồng lòng, ba thiên trong 《Thuyết mệnh》, riêng coi trọng trách chú ý, cuối cùng có thành tích, bắt đầu từ mưu lược.” Ngự sử Thư Thiện chỉ ra sáu câu này, cho là trái lễ, không đúng sự thật. Vua ra chiếu bắt Đào sửa lại. Đào bèn bỏ hết sáu câu, chỉ viết: “Sớm theo luận bàn của sĩ phu, được đề bạt vào chức vụ cao.” Dán tờ giấy vàng để ban hành. Hai ngày sau, Thăng Chi mất, được tặng Thái bảo, Trung thư lệnh, ngừng triều hai ngày, mặc tang phục trong vườn, thụy là Thành Túc. Thăng Chi rất xảo quyệt, giỏi xu nịnh để được giàu sang, nhà ở Đan Dương to lớn vượt quy chế, người phương Nam kinh ngạc, cho là chưa từng thấy, những việc xa xỉ khác cũng tương tự. 《Cựu kỷ》 chép cả việc nghỉ hưu, 《Tân kỷ》 chỉ chép việc mất.
[91] Vua phê: “Nghe nói Tri châu Phu là Doãn Bảo Thần có con là Biện, làm chức Tam ban phụng chức[13], rất giỏi làm cung, có thể phân biệt sáu loại vật liệu, lệnh cho đi ngựa trạm về kinh.”
[92] Ra chiếu cho Tây thượng các môn sứ, Gia châu đoàn luyện sứ, Tri châu Bảo là Trương Lợi Nhất sau ba năm thì thay chức Đô kiềm hạt lộ Định Châu, rồi lại nhận chức cũ. Theo lời tâu của An phủ sứ Hàn Giáng.
[93] Ngày Kỷ Mùi, Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ[14]tâu giặc Man cướp Châu Thuận, xin thêm quân. Vua phê: “Có thể điều toàn bộ quân Đoàn kết ở Châu Đàm đến Châu Quế tạm đóng, để trấn an lòng dân hai Quảng, không để họ sợ hãi, đợi khi biên sự yên thì gọi về.”
[94] Tri gián viện Lý Định tâu: “Hai huyện Gia Hưng, Sùng Đức thuộc châu Tú, khi mới định ra phép dịch, lấy giá trị đồ đạc trong chùa để tính tiền, e rằng không hợp với ý của pháp luật, xin giao xuống Ty Nông tự, xin hạ lệnh cho bản lộ sửa đổi, các lộ khác có tình hình tương tự, cũng lệnh cho Ty Đề cử theo đó thi hành.” Triều đình đồng ý.
[95] Ngày Canh Thân, Vua phê: “Quan Đề cử lộ Hà Bắc Đông Lý Hiếu Thuần xin thu hồi số tiền lương thực mà các cơ quan ở các lộ trước đây đã mượn từ Ty Đề cử, có thể chọn một viên quan văn tinh nhanh, có phong cách, kiêm nhiệm việc thúc giục Ty Đô thủy giám trả lại số tiền thuê phu mà Ty Đề cử các lộ Kinh Đông đã mượn.” Bèn sai Đô quan viên ngoại lang Phan Lương Khí đi thúc giục trả lại.
[96] Lấy đất doanh cũ của Long Vệ ban cho Vệ Quốc công chúa, vì đất đó đối diện với phủ của công chúa. Sau này, công chúa dùng đất đó xây chùa Pháp Vân.
[97] Tướng thứ năm ở Kinh Tây tâu: “Trước đây vâng chiếu sai hai giáo đầu dạy tập kỵ binh, nay đều đã tinh thục.” Chiếu rằng: “Tướng thứ năm ở Kinh Tây, Ty Đề điểm hình ngục cử một viên quan, theo quy cách duyệt binh mã quân mà khảo thí, tâu lên danh sách những người đạt chuẩn.” Sau đó, Vua phê: “Quan Câu đương Quân đầu ty, Nội thị áp ban Thạch Đắc Nhất đi Nam Lộ quản việc tang lễ, có thể nhân tiện giao cho ông ta duyệt xét, để hiểu rõ thứ tự, không bị tướng phó lừa dối, việc thưởng phạt của triều đình sẽ chính xác, không sai lầm.” Bèn đổi dùng Đắc Nhất.
[98] Ngày Tân Dậu, Diêm thiết phán quan, Đề cử trà trường các lộ Thành Đô phủ, Quốc tử bác sĩ Lý Tắc được quyền làm Thiểm Tây chuyển vận sứ, kiêm Chế trí giải diêm sứ, Đô đại đề cử trà trường. Lý Tắc ở các châu, quân, huyện, trấn thuộc Trường An tăng thêm tiền xâm chiếm đường phố, khiến cả lộ náo loạn, cùng với Lý Sát đều tàn bạo, người đương thời có câu: “Thà gặp Hắc Sát, chớ gặp Tắc, Sát.”
[99] Ban tặng cho nhà của Bì Quang Bật, nguyên là Đô chuyển vận sứ Thiểm Tây, Lang trung đồn điền, Trực Chiêu Văn Quán, ba trăm tấm lụa. Sau đó lại bổ nhiệm con trai ông là Bì Ngạn Trọng làm Chủ bạ Tướng tác giám, và con rể là Triệu Trọng Mạc, đang thí giữ chức Chủ bạ Tướng tác giám nhưng chưa được xét duyệt, được phép ra làm quan. Việc này là do Chuyển vận sứ Phạm Tử Kỳ tâu rằng Bì Quang Bật bị bệnh vì đi tuần tra, xin ban ơn cho gia đình ông. Việc bổ nhiệm con trai và con rể diễn ra vào ngày Đinh Hợi (20) tháng 7, nay ghi chung lại.
[100] Kinh lược ty Quảng Tây lộ tâu rằng, có được 3.375 hộ người quy minh.
[101] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu: “Đại Lý tự đang điều tra Trần Thế Nho, giam giữ đã nhiều ngày, sau đó lại xét việc các quan khám xét ban đầu không công bằng và có hành vi nhờ vả, kéo dài lâu chưa kết án. Có thể cử Ngự sử Hoàng Nhan giám sát việc khám xét.” Ngày Ất Sửu có thể ghi chung.
[102] Ty trà trường Thành Đô phủ và các lộ xin: “Từ nay, số tiền thuế lợi tức từ trà hàng năm đã định là 150.000 quan, mỗi năm lấy 50.000 quan cấp cho Chuyển vận ty, số còn lại để dùng khi có chiếu chỉ.” Được chấp thuận.
[103] Ngày Quý Hợi, Ty tường định nghi chú ngày chánh đán tâu: “Trong lễ nguyên hội chịu triều hạ, cầm trấn khuê là không đúng, xin không cầm. Lễ thượng thọ cũng theo như vậy.” Lại tâu: “Trong lễ nguyên hội hành lễ ở triều, thiên tử mặc tế phục, quần thần mặc triều phục, cũng không đúng. Xin mặc thông thiên quan và áo sa tía.” Lại tâu: “Khi ngự điện nên dựng cờ, mở cửa Đại Khánh điện, hoàng đế lên ngự tọa, quan lễ dẫn Trung thư môn hạ, thân vương, sứ tướng cùng các quan tam phẩm các ty, tứ phẩm Thượng thư tỉnh và tướng quân tông thất trở lên, chia hai bên đông tây vào, nhạc Chính An nổi lên, đến vị trí thì nhạc dừng. Quần thần không đeo kiếm, không cởi giày dép.” Đều được chấp thuận. Ở đây chỉ ghi những điểm chính, bỏ bớt lời rườm rà.
[104] Ty trà trường Thành Đô phủ và các lộ xin giữ lại một triệu quan tiền đồng làm vốn. Được chấp thuận.
[105] Ngày Giáp Tý, An Đào, quan tri Thẩm hình viện tâu: “Các án tấu trong thiên hạ so với mười năm trước đã tăng gấp bội, nhưng số quan tường nghị và tường đoán của Thẩm hình viện và Hình bộ lại giảm đi nhiều so với trước. Xin khôi phục thêm một chức quan tường nghị. Lại nữa, quan tường nghị phải ký duyệt tất cả các án của Hình bộ, việc không chuyên, xin chia sáu viên quan tường nghị, mỗi án do hai viên cùng ký. Nếu tình tiết khả nghi, chưa hợp pháp, thì các quan tường nghị cùng ký. Như vậy thì những vụ án khó xử sẽ được xem xét kỹ, ý kiến của mọi người rõ ràng, án tội không bị tồn đọng.” Vua xuống chiếu tăng thêm mỗi chức quan tường nghị và tường đoán của Thẩm hình viện một người, bãi bỏ một chức quan kiểm pháp của Hình bộ, còn lại theo lời xin của An Đào.
[106] Vua xuống chiếu phạt Trịnh Tông Lệ, quyền phán Nam Kinh Quốc tử giám, Giá bộ lang trung, mười cân đồng, cho về hưu. Vì trước đây khi làm tri châu Mi Châu, ông đã xử oan người chết, gặp lúc đại xá, mà Tông Lệ đã hơn bảy mươi tuổi nên được xử như vậy. 《Tân kỷ》 chép vào ngày 26 tháng này, ngày Giáp Tý, việc đào sông Lạc thông với sông Biện, là ngày khởi công, đến ngày 17 tháng 6, ngày Giáp Dần thì hoàn thành. Ngày 21 tháng 3, ngày Canh Dần có thể khảo cứu.
[107] Ngày Ất Sửu, Vua xuống chiếu cho Kiển Chu Phụ, quan tri Đại Lý thiếu khanh, cùng với thừa Diệp Vũ, Giả Chủng Dân và Hoàng Nhan xét vụ án Trần Thế Nho. Theo lời thỉnh cầu của Hoàng Nhan. Chiếu viết tay: “Đại Lý tự điều tra vụ ác nghịch của Trần Thế Nho, tuy tiếp tục truy xét việc mẹ vợ Thế Nho nhờ cậy xin xỏ, khiến các quan khám xét ban đầu của quân tuần thay đổi tình tiết, đảo lộn thứ tự chủ phạm, tòng phạm, cố ý làm sai lệch bản án, nhưng vợ chồng Thế Nho không có chứng cứ rõ ràng, có thể kết án rồi tâu lên.” Có thể tham khảo thêm ngày Nhâm Tuất và ngày Canh Thìn tháng 5. Tháng giêng năm sau, ngày Canh Dần, Diệp Vũ bị bãi chức thừa.
[108] Ngày Bính Dần, Lý Phục Khuê, Diêm thiết phó sứ, Công bộ lang trung, được bổ làm Tập hiền điện tu soạn, tri châu Thương Châu, đợi hai năm sau sẽ thăng chức Gián nghị đại phu. Sau đó lại đổi làm tri châu Đặng Châu. Việc đổi làm tri châu Đặng Châu, 《Ngự tập》 chép vào ngày 9 tháng 6, nên khảo cứu nguyên nhân, hoặc bỏ cả hai chi tiết này.
[109] Đề cử trà trường Thành Đô phủ Lý Tắc tâu: “Trà huyện Tây Hương, châu Dương trước đây giao dịch với người Hán và người Phiên ở các lộ Hi Hà, Tần Phượng, nhưng thương nhân buôn lậu, đưa về phía nam vào các châu Ba, Đạt, phía đông bắc vào châu Kim, quân Vĩnh Hưng, phủ Phượng Tường. Trước khi quan phủ đặt trường, tại các trấn Tiên Du, Thiếu Phủ, Kê Hùng, Quy Nhân, Dương Khẩu thuộc địa giới châu, sai nha hiệu biên lan, sao phát, chỉ định châu huyện thu thuế. Năm Hi Ninh thứ 10 (1077), bãi bỏ nha hiệu ở bốn trường, chỉ giữ lại một nơi là Dương Khẩu, châu huyện lơ là mệnh lệnh, buôn lậu công khai, trà Tây Hương mỗi năm so với trước giảm sút. Xin lệnh cho châu huyện đốc thúc người mua phụ trách biên lan tại các trường Kê Hùng, xin phố Quy Nhân theo lệ cũ luân phiên sai nha hiệu thuế vụ biên duyệt, sao phát. Số lượng trà quan trong các viên hộ, mỗi năm lấy 30 vạn cân làm hạn mức, tăng thêm 1 vạn cân thì thưởng 1.000 tiền, nếu thiếu hụt thì tùy việc quyết định xử phạt.” Được chấp thuận.
[110] Thái bốc lệnh Ty Thiên giám là Ngụy Thành Tượng xin việc táng tông thất, từ tam phẩm trở lên dùng xe xuân theo lễ văn, từ tứ phẩm trở xuống dùng xe lộc theo lệ cũ, có thể giảm tiền và vải thuê phu. Lễ viện xin theo nghị của Thành Tượng. Được chấp thuận. Việc ngày mồng 7, nay phụ vào cuối tháng.
- Cát Bá Câu, sách 《Tục Tư trị thông giám》 quyển 74, năm Nguyên Phong thứ 2, tháng 3, ngày Tân Mùi chép là 'Giải Bản Câu'. ↵
- 《An Nam Cửu Quân Pháp》 chữ 'Cửu' trong 《Tống sử》 quyển 286, truyện Thái Diên Khánh viết là 'Hành', có lẽ đúng là vậy. ↵
- Chữ 'chiến' trong câu 'mỗi đội có loại trú chiến và thác chiến khác nhau' nguyên bản viết là 'kị', căn cứ theo sách trên mà sửa. ↵
- Chữ 'biệt' trong câu 'lại lấy quân Phiên, người và ngựa, làm thành đội riêng' nguyên bản viết là 'dẫn', căn cứ theo sách trên mà sửa. ↵
- Soạn điều lệ dâng lên, 'soạn' nguyên bản là 'thả', theo bản trong các bộ sách và 《Tống sử》 quyển 471, truyện Lữ Huệ Khanh sửa lại. ↵
- Núi Vương Tiên, chữ 'Vương' trong 《Tống hội yếu》 phương vực 16-11 và 《Tống sử》 quyển 94, chí về sông ngòi đều viết là 'Ngọc'. ↵
- Mỗi 100 dặm đặt một cọc gỗ, chữ 'Mộc' nguyên bản viết là 'Thuỷ', căn cứ vào bản trong các thư viện và hai sách trên mà sửa lại. ↵
- Đê Nhà Sĩ, chữ 'Sĩ' trong 《Tống hội yếu》 viết là 'Nhiệm'. ↵
- Theo phép cũ, ngoài việc bán cho kho quan, chữ 'mại' nguyên là 'mãi', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 38, điều 33 sửa lại. ↵
- 'Khuyên những hộ dân đã bỏ chạy trở về làm ăn', chữ 'di' nguyên bản viết là 'nghi', căn cứ theo văn trên và 《Tống hội yếu》 binh 28-20 sửa lại. ↵
- Châu Kinh, nguyên bản là 'Xuyên', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 335, truyện Chủng Ngạc sửa lại. ↵
- Chữ 'công Trần' trong 'Tú quốc công Trần Thăng Chi' bị đảo ngược, căn cứ vào bản trong các để sửa lại. ↵
- Chữ 'Biện' trong 'Doãn Bảo Thần có con là Biện, làm chức Tam ban phụng chức' bị thiếu, căn cứ vào bản trong các và 《Tống hội yếu》 binh 26-33 để bổ sung. ↵
- Chữ 'ty' trong 'Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ' vốn là 'sứ', căn cứ vào bản trong các để sửa lại. ↵