"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 299: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 2 (KỶ MÙI, 1079)

Từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 2 đời Thần Tông đến hết tháng 8 cùng năm.

[1] Tháng 7, ngày Mậu Thìn, Hoắc Tường, Viên ngoại lang bộ Gia, đồng quản câu kinh chế biên phòng tài dụng lộ Hi Hà, được phục chức Đề điểm hình ngục lộ Tần Phượng. Vua phê rằng: “Tường trước đây xin miễn việc đi tuần, triều đình lo việc chức vụ không chuyên, nên bãi chức Đề điểm hình ngục. Nay nghe nói Tường ý chí suy sụp, không còn tâm trí lo việc chức nghiệp, có thể cho kiêm lại chức cũ để yên lòng, hết nhiệm kỳ sẽ không bổ nhiệm người khác.”

[2] Tặng Vương Khắc Thiện, cha vợ của Gia vương Quần, chức Đoàn luyện sứ châu Thành, mẹ vợ là Trương thị được phong làm Diên An quận Thái quân.

[3] Chiếu đóng cửa sông Hoàng Hà ở cửa Biện, sai quan Lễ bộ đến tế. Đô thủy giám thừa Phạm Tử Uyên tâu rằng tháng trước ngày Giáp Tý đã bịt cửa Biện. Lại chiếu dẫn nước Lạc vào sông Biện để thông việc vận tải. Trước đây do nước sông Hoàng Hà chảy xiết, việc vận chuyển gặp khó khăn, nên tăng thêm quan coi đê, quân Hà Thanh, thủy thủ Bạt Đầu, xây thêm nhà cửa, doanh phòng, tiền công thủy cước, cùng chi phí mở đóng cửa Biện hàng năm, có thể giảm bớt. Sai Phát vận sứ Lô Bỉnh liệt kê tâu lên.

[4] Quyền phát khiển Chuyển vận sứ kiêm Đề cử diêm sự lộ Phúc Kiến là Giả Thanh xin từ nay các châu đổi cách bán muối, lấy số trung bình ba năm làm mức, quan giám và Tuần kiểm sứ thần các châu sản xuất muối, không kể mức thuế cao thấp, đều do Viện Thuyên chọn bổ. Được chấp thuận.

[5] Đồng phán Quốc tử giám Trương Tảo tâu: “Sinh viên Nội xá, Thượng xá trong Thái học trúng tuyển được miễn thi Hương hoặc miễn thi Lễ bộ, trước đây do Trực giảng khảo xét, không tránh khỏi tình riêng, có thể có việc lấy người thân. Xin từ nay bổ Nội xá, Thượng xá đều do triều đình sai quan khảo xét.” Chiếu giao cho sở Tường định học chế[1].

[6] Người dâng sớ lên nói rằng, phía đông bắc châu Ung địa thế cao rộng, đặc biệt là gò Vọng Tiên rất cao, trong đó có suối ngọt, múc không cạn, có thể dời thành đến đó, và dời Kinh lược ty đến châu Ung. Triều đình xuống chiếu cho Tri châu Quế Châu là Tăng Bố cùng các quan khảo sát lợi hại. Tăng Bố và các quan tâu rằng: “Tăng cường xây dựng thành cũ vẫn có thể phòng thủ được, nếu xây thành ở gò Vọng Tiên, không chỉ địa thế nghiêng dốc, mà còn lo tốn kém công sức và tiền của. Châu Ung địa phương xa xôi, đặc biệt khó vận chuyển tiền lương, nếu dời Kinh lược ty, phải tăng thêm quan lại, tăng cường quân mã, nên giữ nguyên như cũ là tiện.” Triều đình nghe theo.

[7] Ngày Kỷ Tỵ, sứ giả nước Tam Phật Tề và Chiêm Ty đến cống phương vật.

(Nước Chiêm Ty cần tra cứu thêm. Ngày 27 cùng ngày 22 tháng 8 ban thưởng cho Tam Phật Tề cũng không nhắc đến Chiêm Ty. Cần tham khảo thêm ngày 17 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 5.)

[8] Hữu Giám môn Vệ Đại tướng quân Trọng Nhuế, Hữu Thiên Ngưu Vệ Tướng quân Thúc Ích, Lệnh Nhiếp, Lệnh Ưu, Lệnh Quán đều được thăng một chức, Thúc Ích được ban Tiến sĩ xuất thân. Đều do thi đỗ trung đẳng trong kỳ thi ở Bí các.

(Tông thất được ban Tiến sĩ xuất thân bắt đầu từ đây.)

[9] Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Tri Hồ châu Tô Thức, vốn không có học thuật, nhờ may mắn được tiếng tăm, ngẫu nhiên đỗ khoa lạ, rồi được vào làm quan trong Nho quán, có bốn tội đáng bãi chức. Xưa Vua Nghiêu không giết bốn kẻ hung ác, đến Vua Thuấn thì lưu đày và giết họ, vì tội ác của họ đã lộ ra thiên hạ. Thức trước đây tung ra lời lẽ phỉ báng, bệ hạ vẫn bỏ qua không hỏi, cho phép sửa lỗi, nhưng Thức cố chấp không hối cải, tội ác đã rõ ràng, đó là một. Người xưa có câu: ‘Dạy mà không nghe, sau đó mới giết’, vì ta đã chờ đợi họ hết mức rồi mới trừng phạt. Bệ hạ đã chờ đợi Thức[2], có thể nói là hết mức, nhưng lời lẽ ngông cuồng ngày càng nhiều, đó là hai. Văn từ của Thức tuy không hợp lý, nhưng cũng đủ để kích động dư luận, đó là lời giả dối mà biện bác; làm quan thì kiêu ngạo, không tuân theo pháp luật của bệ hạ, tâm tính ngoan cố không chịu theo giáo hóa của bệ hạ, đó là hành vi giả dối mà cứng đầu; theo pháp luật của tiên vương thì đáng bị trừng trị đầu tiên, đó là ba. Phạm tội cố ý dù nhỏ cũng không bỏ qua, vì biết mà cố làm khác với không biết mà làm. Thức đọc sử truyện, không phải không biết phụng sự Vua phải có lễ, phỉ báng Vua thì bị trừng phạt, nhưng vẫn dám bộc lộ tâm tức giận, công khai chê bai, lại còn ứng đối trong kỳ thi chế khoa, đã có ý chán ghét và muốn thay đổi pháp luật, đến khi bệ hạ sửa sang chính sự, oán hận không được dùng, liền phủ nhận tất cả, cho là không đúng, đó là bốn. Có bốn tội đáng bãi chức, mà vẫn còn giữ chức vụ, làm tổn hại giáo hóa và làm loạn phong tục, không gì nghiêm trọng hơn. Xin bệ hạ quyết đoán, đặc biệt thi hành pháp luật.”

Ngự sử Thư Đản tâu: “Thức gần đây dâng biểu tạ ơn, có nhiều lời châm chích thời sự, dư luận đua nhau truyền tụng, những người có chí nghĩa không ai là không phẫn nộ. Bệ hạ phát tiền giúp dân nghèo, thì nói ‘Được tiếng trẻ con khen hay, nửa năm ở trong thành’; bệ hạ ban hành pháp luật để khảo hạch quan lại, thì nói ‘Đọc vạn quyển sách mà không đọc luật, giúp Vua Nghiêu Thuấn mà không có tài’; bệ hạ xây dựng thủy lợi, thì nói ‘Biển Đông nếu biết ý chúa, sẽ biến đất mặn thành ruộng dâu’; bệ hạ nghiêm cấm muối, thì nói ‘Đâu phải nghe nhạc mà quên mùi, ba tháng nay không có muối ăn’. Những lời khác, hễ gặp việc là nói, không gì là không lấy việc chê bai làm chủ, nhỏ thì khắc bản, lớn thì khắc đá, truyền bá trong ngoài, tự cho là tài giỏi.” Đồng thời dâng lên ba quyển thơ in của Thức. Ngự sử Hà Chính Thần cũng tâu rằng Thức lừa dối triều đình, tự cao tự đại.

Chiếu cho Tri gián viện Trương Tảo, Ngự sử trung thừa Lý Định xét xử và tâu lên. Lúc đó Định xin chọn quan tham gia xét xử, và bãi chức Thức ở Hồ châu, sai viên chức đến bắt. Sau đó có chỉ dụ, lệnh Ngự sử đài chọn một viên triều thần đi ngựa trạm đến bắt, lại trách không được để xảy ra sơ suất, chiếu chỉ bãi chức Hồ châu, lệnh quan được sai mang đi.

[10] Chiếu cho các huyện ven sông thuộc phủ Khai Phong tu sửa doanh trại quân đội và kho tàng, vật liệu gỗ đều do Ty Đề điểm cung ứng, nếu không đủ thì lệnh cho Tam ty bù đắp chi phí. Theo lời thỉnh cầu của Giám Tướng tác.

[11] Ngày Tân Mùi, phong Triệu thị làm Chưởng bạ, cùng quản lý Nội tỉnh Thượng thư.

[12] Ty Đô đại đề cử Đạo Lạc thông Biện tâu rằng, nước sông Lạc chảy vào sông Biện đã thành dòng chảy, Ty Sơ tuấn vẫn tiếp tục khuấy bùn cát, khiến lòng sông bị bồi lấp, xin tạm ngừng việc nạo vét. Được chấp thuận.

[13] Ngày Nhâm Thân, phong Quyền Thiểm Tây Chuyển vận phán quan, Thái thường bác sĩ Diệp Khang Trực kiêm chức Đồng quản câu Kinh chế Hi Hà lộ Biên phòng Tài dụng ty, thay thế Vương Quân Vạn. (Việc thay thế Quân Vạn căn cứ theo 《Ngự tập》).

[14] Ngày Quý Dậu, Tam ty tâu: “Ty Đề điểm Khanh dã Chú tiền các lộ Giang, Chiết trước đây quản lý năm tiền giám, gần đây các châu Giang, Trì, Nhiêu tăng thêm số lượng đúc tiền hàng năm, cùng với việc lập thêm sáu tiền giám ở quân Hưng Quốc, các châu Mục, Hoành, Thư, Ngạc, Huệ. Một viên quan đề điểm phải quản lý chín lộ, việc tuần tra đường thủy và đường bộ không thể bao quát hết, xin thêm một viên quan để chia nhau quản lý các lộ.” Được chấp thuận. Bèn phong Thái thường thiếu khanh Tiền Xương Vũ quản lý các lộ Hoài Nam, Lưỡng Chiết, Phúc Kiến, Giang Nam Đông; Lý Phân quản lý các lộ Kinh Hồ, Quảng Nam, Giang Nam Tây.

[15] Chiếu cho các quan viên Tam ban sứ thần phục vụ ở Đông cung được chỉ định thêm một lần nữa. Do Long nhân Hữu thị cấm Vương Tòng Thọ xin ân điển.

[16] Ngày Giáp Tuất, chiếu cho phủ Khai Phong kiểm tra tài sản của gia đình Trần Thế Nho.

[17] Ty An phủ Duyên biên Hà Bắc tâu: “Người phụ trách việc thám thính ở các châu quân ven biên giới, xin được tuyển mộ, mỗi người cấp ba nghìn tiền, có thể là sứ thần, chức viên hoặc dân thường. Ty An phủ Duyên biên ở quân Quảng Tín, Thuận An mỗi nơi bốn người; châu Hùng, quân Bắc Bình mỗi nơi ba người; châu Bá bảy người; châu Bảo, quân An Túc mỗi nơi sáu người. Những người làm môi giới ở bốn chợ biên giới thuộc châu Hùng, Bá, quân An Túc, Quảng Tín, từng tiếp xúc với khách phương Bắc để dò la tình hình biên giới, xin được tuyển chọn thông phán và giám quan để khảo sát việc thám thính của họ, thưởng phạt theo chiếu chỉ năm Chí Hòa thứ nhất.” Được chấp thuận. (Chiếu chỉ năm Chí Hòa thứ nhất cần tra cứu thêm).

[18] Tuyên huy nam viện sứ, Kiểm hiệu Thái phó[3], Đông Thái nhất cung sứ Trương Phương Bình được bổ làm Thái tử Thiếu sư, Tuyên huy nam viện sứ trí sĩ.

(Cựu kỷ chép việc này, Tân kỷ không chép.)

[19] Ngày Ất Hợi, ban chiếu cho Thiểm Tây lộ Chuyển vận ty, niên ngạch diêm sao cho phép Kinh chế Hi Hà lộ Biên phòng Tài dụng ty nhận số thu mua. Do Lý Hiến tâu rằng Chuyển vận sứ thường khổ vì không có tiền, dùng diêm sao để hòa địch, thường bị người giàu thu mua tích trữ, ngồi hưởng lợi lớn, mà Kế trí ty tích trữ tiền mua vật hóa, cần dựa vào diêm sao để vận chuyển nhẹ nhàng.

[20] Tây Kinh Tả tàng khố sứ Mạnh Đức Cơ, Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Trung Châu thứ sử Bành Tôn, được cử làm Đề cử huấn luyện Kinh Nam đoàn kết các quân.

[21] Ngày Đinh Sửu, Khởi cư xá nhân, Tập hiền viện học sĩ Thẩm Quát được phục chức Long đồ các Đãi chế.

[22] Ngày Mậu Dần, bàn về nghi thức triều hội, nói rằng nhạc khí và tiết tấu của Thái thường cùng với hai điệu vũ văn và vũ võ chưa phù hợp với điển lễ, xin hoàng đế nâng chén thứ nhất, đàn ca tấu khúc Hòa An, nhạc trên điện theo lời ca mà vang lên; chén thứ hai, sáo vào, tấu khúc Khánh Vân, chỉ thổi sáo, các nhạc khí khác không tấu; chén thứ ba, hát xen kẽ, trên điện hát khúc Gia Hòa, dưới điện thổi sáo khúc Thụy Mộc Thành Văn[4], một hát một thổi xen kẽ; chén thứ tư, hợp tấu khúc Linh Chi, nhạc trên điện và dưới điện cùng vang lên. Lại định chế độ hai điệu vũ, vũ văn cầm lông chim trĩ, theo đồ của Nhiếp Sùng Nghĩa, dùng lông chim trĩ làm, trước đây xếp chồng đuôi chim trĩ, cắm vào cán sơn mài, hình dạng như cây chổi, nay bỏ không dùng. Vũ võ nên tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo, trước đây nhầm cầm ngọc thích là không đúng. Lại nói khi tấu nhạc trên đan trì, sáo sào và sáo hòa mỗi loại hai người, xin tăng gấp đôi thành tám người, đan trì phía đông và tây mỗi bên đặt ba sáo sào và một sáo hòa. Lại xin khi tấu nhạc, trước đánh trống bính, sau đánh trống ứng, rồi mới đánh trống kiến. Lại xin bỏ trống tán trong dàn nhạc, đặt trống tấn để đánh nhịp. Lại xin trong dàn nhạc cung đình đặt trống đào để làm nhịp. Tất cả xin giao cho hữu ty bàn bạc, tập luyện và quyết định có nên làm hay không. Chiếu giao xuống Thái thường tự, cho là khả thi, bèn theo đó.

[23] Sở Tường định nghi chú lại tâu: “Xét theo nghi lễ, nhạc trên đường thượng không có chuông khánh. Sách 《Hương ẩm tửu ký》 chép: ‘Khánh đặt ở khoảng giữa thềm, thu lại chỗ mái hiên.’ Sách 《Hương xạ lễ》 chép: ‘Khánh đặt ở phía đông bắc chỗ rửa.’ Sách 《Đại xạ nghi》 chép: ‘Nhạc công đặt chuông khánh ở phía đông thềm tả, chỉ có ca công và sắt công ngồi ở thềm tây.’ Tuy dựa vào lễ của sĩ đại phu và chư hầu để nói, nhưng xét theo lễ thiên tử, thì sách 《Chu Lễ》 chép: ‘Đại sư dẫn các nhạc công mù lên hát, gõ phụ.’ Đây là nhạc trên đường thượng. Sách 《Khánh sư》 chép: ‘Chưởng quản việc dạy đánh khánh, đánh biên chung.’ Có người giải thích: ‘Dạy, là dạy thị liêu. Thị liêu chưởng quản mọi việc nhạc, rung đào, đánh tụng khánh, sanh khánh; chung sư chưởng quản việc tấu nhạc bằng kim khí, mọi việc nhạc đều dùng chuông trống tấu cửu hạ, đều là nhạc ở sân.’ Xét theo sách 《Ngu Thư》, thì Quỳ nói: ‘Gõ đánh minh cầu, vỗ phụ cầm sắt để hát.’ Gõ đánh là chúc ngữ; cầu là ngọc khánh. Vỗ phụ để tiết chế nhạc, cầm sắt để hát thơ, đều là nhạc trên đường thượng.

Khánh vốn ở dưới sân[5], họ Trịnh nói: ‘Tôn trọng ngọc khánh, nên đưa lên trên, nếu đánh đá vỗ đá, thì nên ở sân.’ Đời sau không hiểu điều này, dựa vào sách 《Xuân Thu Tả Thị Truyền》 chép việc người nước Trịnh đút lót cho Tấn hầu hai dãy ca chung, bèn đặt ca chung, ca khánh trên đường thượng. Ca chung là để hát trên đường thượng, dưới sân dùng trống ứng họa[6]. Hát tất phải có kim khí tấu hòa, nên Khổng Triều chú sách 《Tấn Ngữ》 nói: ‘Ca chung là chuông để tiết chế hát’, há phải là trên đường thượng có chuông sao?

Tên ca khánh vốn không có xuất xứ, Thái thường nước Tấn là Hạ Tuần tâu xin đặt đăng ca soạn cự, dùng ngọc tạo tiểu khánh, có lẽ lấy chế độ minh cầu ở miếu Thuấn. Đời Hậu Chu, đăng ca có đủ chuông khánh, từ đời Tùy, Đường đến nay đều theo đó, đều không hợp lễ. Xin rằng trong các buổi triều hội chính chí, nhạc trên đường thượng không đặt chuông khánh.”

Thái thường tự cho rằng chuông khánh trên đường thượng đã dùng lâu, nay nếu bỏ đi thì tiếng hát xa cách với cung huyện, khó ứng họa, xin vẫn đặt chuông khánh trên đường thượng như cũ.

[24] Sở Tường định nghi chú lại tâu: “Xưa số ca công, trong lễ hương ẩm tửu ghi ‘bốn ca công, hai đàn sắt’. Người giải thích nói: ‘Bốn người là chế độ của đại phu. Hai đàn sắt, hai người gảy đàn sắt, thì hai người hát. Đây là lễ uống rượu của khanh đại phu mà nói bốn người, lễ đại xạ của chư hầu nói sáu người, lễ yến cũng là lễ chư hầu mà nói bốn người, vì lễ yến nhẹ, theo chế độ đại phu. Như vậy, sĩ đáng lẽ hai người, thiên tử đáng lẽ tám người, là thứ bậc khác nhau.’ Xét lễ đại xạ ghi ‘sáu ca công, bốn đàn sắt’, thì chư hầu gảy đàn sắt bốn người, hát hai người; thiên tử tám người, thì đàn sắt và hát đều bốn người. Từ Ngụy, Tấn trở lại đây, có năm người hát đăng ca, Tùy, Đường có bốn người hát, triều ta theo đó, tức là bốn ca công, là chế độ nhà Chu. Lễ đăng ca hạ quản, quý trọng tiếng người, nên trong nghi lễ đàn sắt và ca công đều ngồi trên thềm phía tây, Tùy, Đường kế thừa, dưới giá khánh trong sân, đánh đàn cầm sắt để hát đối, không phải là ý nghĩa quý trọng tiếng người trong đăng ca. Nay đàn cầm sắt trên đường, so với chế độ nhà Chu, không chỉ gấp bội, mà ca công chỉ có bốn người, âm thanh cao thấp không cân xứng. Vì nhạc có tám âm, nên vận hành tám hướng gió, nên vũ dật và chuông khánh đều dùng số tám. Xin bỏ những người hát trong sân, mà tăng số ca công trên đường lên tám người, số đàn cầm sắt theo đó, còn đàn tranh, đàn nguyễn, đàn trúc đều bỏ.”

Thái thường tự cho rằng: “Theo lễ, người hát ở trên, mà đời sau đặt trong sân, thật là không đúng. Nhưng từ Hán, Đường trở lại đây, quy mô cung điện ngày càng rộng, nên đường trên so với sân rất xa, nhịp nhạc trên dưới không tương ứng, thì rối loạn vô trật tự, xin tạm giữ như cũ. Lại nữa, lễ triều hội vốn khởi từ Tây Hán, nên đời sau khó thuần dùng chế độ ba đời, các nhạc khí như đàn tranh, đàn trúc cũng xin giữ như cũ.” Chiếu đều giữ như cũ.

[25] Chiếu cho hai lộ Lưỡng Chiết, tiền thuế dịch của các hộ phường quách, theo lệ ở hương thôn, tùy theo gia sản mà định ra cách miễn thu. Trước đây, chiếu rằng các hộ phường quách có gia sản dưới 200 quan, hộ hương thôn dưới 50 quan, đều được miễn nộp tiền thuế dịch. Sau đó, lại chiếu rằng hương thôn phải theo gia nghiệp của dân hộ từng huyện mà định ra cách miễn thu. Đến nay, Ty đề cử tâu rằng, ở hương thôn, hạng dưới có gia nghiệp dưới 50 quan mà vẫn phải nộp tiền, còn hộ phường quách dưới 200 quan thì đều được miễn nộp tiền, như vậy là không công bằng. Vì thế có chiếu này.

[26] Xu mật trực học sĩ Tiền Tảo tâu: “Đàn Ngũ Đế chật hẹp, dột nát, điện vũ dùng để tế lễ không nghiêm trang, người phụ trách việc tế lễ ngủ nghỉ trên đó, đêm trước ngày tế, thịt tế và đồ cúng không có phòng sạch sẽ để đặt, binh lính già yếu phải vác đồ tế khí trên đường, thật là bất kính.” Triều đình giao xuống Lễ viện, các quan Lễ xin tu sửa thêm bốn điện trai cung Ngũ Đế, dựng rèm lụa hai bên, cấm người không được lên xuống tùy tiện, xây riêng nhà bếp và kho chứa đồ cúng, lấy đồ tế khí của Thái thường, chia đặt ở các điện trai cung Ngũ Đế, số còn lại cất ở Thái thường để dùng cho các lễ tế khác. Triều đình đều chấp thuận.

[27] Ngày Kỷ Mão, chiếu cho Trung thư rằng, các vụ án chiếu và việc xét xử ở các nơi đều kéo dài hơn một năm, chưa thể kết án, nên lệnh cho các phòng liệt kê ra[7] theo mức độ nặng nhẹ, gấp hay không, tùy nghi đặt thời hạn, quy định hình phạt nếu chậm trễ, mỗi phòng lập sổ để kiểm tra, người vi phạm phải ghi rõ tên họ để xin chỉ.

(Hai bộ sử đều chép: Chiếu cho Trung thư ghi chép các vụ án chiếu ở bốn phương, để kiểm tra việc chậm trễ.)

[28] Chiếu rằng: Tiền Tri Thanh châu[8], Long đồ các Trực học sĩ Trần Tiến, Lễ bộ Thị lang Đằng Phủ, Hữu Gián nghị đại phu Lý Túc Chi, Quyền Tri Thanh châu, Chuyển vận sứ, Từ bộ Lang trung Vương Cư Khanh, Thông phán, Tỷ bộ Viên ngoại lang Trương Cầu[9] cùng 11 người, mỗi người phạt 30 cân đồng. Huyện úy Thanh Dương, Ân châu là Thành Tượng phạt 20 cân đồng. Vì tội không xét ra việc dân Thanh châu là Dương Hòa Chân từ năm Hi Ninh thứ 6 truyền dạy tà giáo, mà Trần Tiến và những người khác lần lượt giữ chức Tri châu, Thông phán và Đô giám.

[29] Ngày Canh Thìn, Hoài Khang quân Tiết độ sứ, Bộc quốc công Tông Huy được gia chức Đồng bình chương sự.

(Hai bộ sử đều ghi chép việc này.)

[30] Hữu Giám môn vệ Đại tướng quân Trọng Doanh được lĩnh chức Thứ sử Tú châu. Trọng Doanh là người thuộc dòng họ mẹ của Thái hoàng thái hậu là họ Phùng. Vua phê rằng vì hậu duệ họ Phùng ít ỏi, thân thích hiếm hoi, mà Thái hoàng thái hậu có lòng hiếu thảo và nhân từ, nên đặc cách ban mệnh lệnh này.

[31] Chiếu rằng: Diêm sao Thiểm Tây mỗi năm chia làm ba kỳ hạn, in và cấp ngay. Vì Chế trí giải diêm Lý Tắc tâu rằng giá diêm sao trong dân gian tăng cao, mà cơ quan chiết bác không có diêm sao hiện có để điều hòa, khiến cho thương nhân giàu có tích trữ diêm sao để trục lợi, nguyên do là Tam ty không kịp thời cấp diêm sao. Vua phê rằng Tam ty cấp diêm sao như cũ, không định ngày hạn, nên chia làm các đợt và quy định hạn để thi hành. Do đó có chiếu này.

[32] Chiếu rằng: Viện chế khám Nhuận châu hãy cáo thị cho Hoa Thân Phủ rằng, nếu như án trước khai báo không đúng sự thật, không dùng tính kế, sẽ bàn việc biên quản, trong lời khai có liên quan đến Vương An Thạch, không được hỏi cung. Lúc đó Lữ Gia Vấn đã bị cách chức vì tội báo cáo không đúng sự thật, lại xin được khám xét lại. Triều đình cho rằng việc Hoa Thân Phủ truyền báo và sự việc của Lữ Gia Vấn đã rõ ràng, sợ rằng họ ngầm phụ họa lẫn nhau, thay đổi lời khai. Lữ Gia Vấn lại vu cáo dẫn Vương An Thạch làm chứng, muốn tự giải tội, Vua thấy rõ âm mưu của hắn, nên có chiếu này.

[33] Ban cho Kinh lược chuyển vận ty Quảng Tây 200 độ điệp để bồi thường tiền cho thương nhân nhập trung, số còn lại dùng làm chi phí tu sửa ở Ung châu.

[34] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng Lý Hiến tâu: “Các nước Lô Cam, Đinh Ngô, Vu Điền, Tây Phiền trước đây dùng xạ hương, thủy ngân, chu sa, ngưu hoàng, chân châu, sinh kim, tê ngọc, san hô, nhung hạ, đà hạ, tam nhã hạ, hoa giám bố, đài la miên, cương sa, a ngụy, mộc hương, an tức hương, hoàng liên, lê ngưu vĩ, nhung mao, linh dương giác, trúc ngưu giác, hồng lục bố để giao dịch. Nhưng các thương nhân môi giới mua bán lại giao dịch riêng với bộ lạc phiên, từ đường nhỏ vào Tần châu để tránh thuế thương mại. Xin ban chiếu cho năm thị dịch vụ ở Tần châu, Hi Hà châu, Dân châu và Thông Viễn quân, tuyển thương nhân môi giới mua bón, dẫn các hàng hóa phiên đến thị dịch vụ để bán. Nếu ai dám giao dịch riêng, cho phép người khác tố cáo, cứ mỗi nghìn tiền ước tính, quan sẽ thưởng hai nghìn tiền. Như vậy có thể thu hút người từ xa, nắm bắt lợi ích bỏ sót, hỗ trợ kế hoạch biên phòng.” Được chấp thuận.

(Chu bản đã bỏ, Tân bản theo Chu bản.)

[35] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu cấp hàng năm cho Hiến châu một nghìn quan tiền công sứ.

(Chu bản cho rằng việc nhỏ không đáng ghi, nay tạm giữ lại.)

[36] Ban chiếu rằng các vụ án trong kinh có tù nhân bị giam, quan tòa phải xét xử trước rồi tâu lên. Theo yêu cầu của Đại Lý khanh Thôi Đài Phù.

(Cựu kỷ ghi chiếu này, Tân kỷ bỏ.)

[37] Ngày Quý Mùi, ban chiếu cho các lộ chuyển vận ty xem xét các châu quân cần đặt học quan rồi tâu lên.

[38] Ban chiếu trách phạt Kiểm hiệu Thủy bộ viên ngoại lang, Tú châu Đoàn luyện phó sứ Trầm Khởi[10], truy thu chức vụ trước đây là Hình bộ lang trung và bãi chức. Do tội thất cử.

[39] Ngày Giáp Thân, xuống chiếu bãi chức Hiệu khám Quán các của Thái thường bác sĩ Vương Bá Hổ, phạt 10 cân đồng, bị thay thế. Phó sứ Tả tàng khố Tây Kinh Nguyên Nhật Tuyên bị phạt 8 cân, Nội điện thừa chế Trương Cửu Tư bị phạt 4 cân. Bá Hổ làm Kiểm tường văn tự ở Viện Mật, vì cho Nhật Tuyên vay tiền, nghe lời thỉnh cầu, giết lừa bán thịt, cho người và ngựa mượn để giúp các tiến sĩ mới đỗ, rồi chia tiền cho tỳ nữ và môn khách. Nhật Tuyên, Cửu Tư đều bị xử tội vì thỉnh cầu. Bá Hổ trước đây đã bị bãi chức Kiểm tường, đến nay bị hặc tội, đều bị xử phạt đặc biệt.

[40] Xuống chiếu cho các cử nhân khoa Minh pháp mới được phép mang theo luật lệnh sắc khi thi xử án.

[41] Ngày Ất Dậu, Tri đô thủy giám thừa Phạm Tử Uyên xin dời Ty Liễn vận Hà Âm đến Hành Khánh quan, kiêm quản câu Lạc Khẩu. Được chấp thuận.

[42] Tây Hạ xâm phạm thành Tuy Đức, đại hội ở Bình, tướng thứ tư Cao Vĩnh Năng đánh bại chúng.

(Việc này căn cứ theo bản tấu của Lữ Huệ Khanh ngày 1 tháng 9 trong 《Thời chính ký》 của Viện Mật, nói về sự việc ngày 19 tháng 7.)

[43] Ngày Đinh Hợi, tăng tu Viện Tả Kỳ Kỵ.

[44] Lệnh cho Kiềm hạt Phượng Tường phủ Vương Quân Vạn chuyên quản việc giám mục mới đặt ở lộ Hi Hà và cấp phát giống ngựa cho các bộ tộc phiên. Quân Vạn bị giáng chức Kiềm hạt Phượng Tường chưa đầy một tháng. Trước đó, tịch thu toàn bộ gia sản của Quân Vạn để bồi thường số tiền kết địch vay mượn, vẫn còn nợ hơn một vạn quan. Quân Vạn rất phẫn nộ, chưa đầy một năm thì chết, ba năm sau mới được xóa nợ.

(Quân Vạn bị giáng chức Kiềm hạt vào ngày 27 tháng 5 năm nay, chết ngày 3 tháng 5 năm thứ 3, Lý Hiến nói việc này vào ngày 17 tháng 6, xóa nợ vào ngày 4 tháng 6 năm thứ 6, nay ghi chép lại.)

[45] Xuống chiếu cho các quân khuyết ngạch ở Kinh và phủ giới Khai Phong đang được phong trang, có thể đưa đến Nội tàng khố để phong trang riêng.

[46] Chiếu bãi bỏ đồn điền vụ ở Nguyên châu[11], chiêu mộ người thuê đất canh tác, binh lính phục dịch trở về đơn vị cũ. Theo đề nghị của Chuyển vận sứ Từ Hi.

(Ngày 19 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 7 lập Nguyên châu[12], ngày 25 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ nhất có thể tra cứu.)

[47] Tường định lễ văn tâu rằng: “Xưa kia, dâng lễ vật mới ở tẩm miếu, không có người thay thế thần, không bói ngày, không đưa thần chủ ra, chỉ dâng lễ chứ không tế. Gần đây lại chọn ngày để dâng, là không đúng. Kinh Lễ nói: ‘Chưa từng không ăn đồ mới.’ Ý nói khi vật mới xuất hiện, chưa dâng lên tẩm miếu, thì người con không nỡ ăn, đó là đạo hiếu kính. Việc dâng lễ vật mới được ghi trong kinh điển, như bài thơ Bân nói: ‘Ngày mồng bốn tháng tư, dâng cừu non và hẹ.’ Bài tụng Chu nói: ‘Ôi chao sông Tất, Trở, dưới nước có nhiều cá.’ 《Chu Lễ》…”

[48] Người xưa nói: “Mùa xuân dâng cá vược.” Trịnh thị nói: “Tế vào đầu mùa, dâng vào tháng giữa.” Đó là nói về đại phu và sĩ. Còn thiên tử và chư hầu, khi vật chín thì dâng, không hạn chế tháng đầu, giữa hay cuối, nên trong 《Nguyệt lệnh》 có ghi tháng đầu mùa hạ dâng lúa mì, tháng đầu mùa thu dâng lúa. Ngụy Cao Đường Long nói: “Thiên tử và chư hầu dâng vật mới vào tháng giữa và cuối.” Điều này có lẽ không đúng. Văn lễ bị thất lạc, những gì kinh điển ghi chép chỉ còn bốn loại vật mà thôi.

《Lã thị Nguyệt lệnh》 trong một năm có tám lần dâng vật mới, tức là tháng giữa mùa xuân dâng dê và mở băng, tháng cuối mùa xuân dâng cá vược, tháng đầu mùa hạ dùng lợn để nếm lúa mì, tháng giữa mùa hạ dùng gà con để nếm kê, dâng quả anh đào, tháng đầu mùa thu thu hoạch lúa, tháng giữa mùa thu dùng chó để nếm vừng, tháng cuối mùa thu dùng chó để nếm lúa, tháng cuối mùa đông nếm cá. 《Khai Nguyên lễ》 thêm hơn năm mươi loại. Năm Cảnh Hữu, quan lễ cho rằng 《Lã kỷ》 quá đơn giản và gần như sơ sài, 《Đường lệnh》 thì tạp nhạp và không hợp kinh điển, do đó quy định bốn mùa dâng tổng cộng hai mươi tám loại vật, so với 《Thi》, 《Lễ》, 《Nguyệt lệnh》 thì tăng thêm mười bảy loại. Tuy đây là ý kiến nhất thời của quan lại, nhưng việc dâng cúng theo mùa đã có từ lâu. Lễ nghi thay đổi theo thời đại, việc thêm bớt không nhất thiết phải giống nhau, nếu theo cổ lễ thì quá sơ lược, mà trái kinh điển thì không có phép tắc.

Nay muốn sửa đổi một chút, giữ lại những gì tiên vương từng hưởng dụng và được ghi trong kinh điển[13], còn những gì không hợp kinh điển thì bỏ đi. Kính xin từ nay dâng cúng trong miếu, tháng đầu mùa xuân dâng hẹ với trứng, dâng củ cải[14], tháng giữa mùa xuân dâng băng, tháng cuối mùa xuân dâng cá vược, dâng quả anh đào; tháng đầu mùa hạ dùng lợn để nếm lúa mì, tháng giữa mùa hạ dùng gà con để nếm kê, dâng dưa, tháng cuối mùa hạ dâng hạt sen và củ ấu; tháng đầu mùa thu nếm lúa và kê, dâng táo và quả lê, tháng giữa mùa thu nếm vừng và lúa, dâng củ năng, tháng cuối mùa thu nếm đậu, dâng thỏ và hạt dẻ; tháng đầu mùa đông dâng ngỗng, tháng giữa mùa đông dâng hươu, tháng cuối mùa đông dâng cá. Nay mùa xuân không dâng cá vược, thực là thiếu sót. Kính xin tháng cuối mùa xuân dâng cá vược, để hợp với kinh nghĩa, nếu không có thì bỏ qua cũng được.

Tất cả hai mươi bảy loại vật này, khi còn mới, Vua không dám nếm, tất phải dâng lên tẩm miếu, không quý những thứ ra trái mùa, mà cũng không thể chậm trễ. Nay những vật mới dâng trong Thái miếu, đều lấy từ các vườn Ngọc Tân, Quỳnh Lâm, Nghi Xuân, Thụy Thánh và hồ Kim Minh, vườn sau cung cấp, những thứ không có thì mua từ Tạp mãi vụ[15], nhưng những thứ từ hồ và vườn cung cấp cùng với vật mua ở chợ, thường đến muộn, người ta đã chán mà mới dâng lên miếu, trái với ý nghĩa dâng vật mới. Nên nghiêm khắc ra lệnh cho quan lại, phàm vật mới ra đúng thời[16], thì ngay ngày đó phải dâng lên, vì không phải là tế chính, nên không cần chọn ngày. 《Hán cựu nghi》 ghi việc dâng hẹ v.v., đều ở miếu chứ không ở tẩm, nên 《Vi Huyền Thành truyền》 cho rằng miếu mỗi năm có hai mươi lăm lần tế[17], trong đó có dâng vật mới. Từ Hán đến Tùy, Đường, vẫn giữ sai lầm này, dâng vật mới tuy ở miếu, nhưng đều không rước thần chủ. Nay rước thần chủ, thì càng sai lễ nghi. Kính xin theo lời Vi Đồng trong 《Ngũ lễ tinh nghĩa》, chỉ cần đặt thần tọa, đợi khi tẩm miếu xong, dâng vật mới ở tẩm, mới hợp lễ nghi.” Được chấp thuận. Chiếu rằng nếu không có cá vược thì dùng cá chép thay thế.

[49] Ngày Mậu Tử, Kiểm chính Trung thư lễ phòng công sự, hội Thiểm Tây ngũ lộ niên kế Vương Chấn tâu: “Trước đây, lương thảo ở Thiểm Tây đều do Chuyển vận ty và Giải Diêm ty cung cấp, khi cần thiết thì điều động từ Trung đô để hỗ trợ. Những năm gần đây, binh lính có chính sách tạm trú, nhưng quân sĩ không có lương thực dư thừa, lẽ ra nên tiết kiệm dần; như Lữ Huệ Khanh đã trình bày, trong vòng tám năm, bốn phần đã mất ba, sự chênh lệch quá lớn, lẽ nào lại như vậy? Tài năng điều động chỉ dựa vào mưu lược, nay thần xem xét trong tám năm, liệt kê những việc đã làm trước sau, thì tài năng của Chuyển vận sứ có thể thấy rõ. Xin nhân việc tấu trình, liệt kê những điểm chính, để triều đình lựa chọn.” Lại tâu: “Việc đồn binh ở biên giới, cỏ và lương thực là cấp bách, số lượng rất lớn, phải dựa vào các cơ quan, việc vận chuyển và tiếp nhận cần có quy định rõ ràng. Nhờ thánh đức của bệ hạ, bốn phương yên ổn, mùa màng cũng được mùa, nhưng việc điều động tạm thời thường không đủ, các quan lại đùn đẩy trách nhiệm, thường làm phiền triều đình, đây không phải là cách làm đúng. Nay sai sứ đi khảo sát, yêu cầu báo cáo chính xác, đây là việc quan trọng. Thần xin được biết số binh lính cần đồn trú ở ngũ lộ, để tính toán chi phí hàng năm, dựa vào mức trung bình của năm được mùa và mất mùa, để ước tính giá cả, lượng định số lượng thường xuyên mà Tam ty và Chuyển vận ty cung cấp, để phân bổ cho ngũ lộ và tăng thêm, từ đó lập ra quy định hàng năm.” Triều đình đồng ý.

(Việc Lữ Huệ Khanh trình bày bốn phần mất ba, cần xem xét kỹ, ngày 18 tháng 6 sai Vương Chấn đi.)

[50] Tri đô thủy giám Phạm Tử Uyên tâu rằng việc củng cố bờ nam sông Hoàng Hà đã hoàn thành, xin chia làm hai đoạn đê, chiếu lấy tên là Thượng tảo và Hạ tảo Quảng Vũ.

[51] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu giáng chức Điện trung thừa, Quốc tử giám Trực giảng Cung Nguyên một bậc, bãi chức, đình chỉ công việc ba kỳ. Quốc tử giám Trực giảng[18], Hòa Châu Phòng ngự Suy quan, Thẩm quan Tây viện Chủ bạ Thẩm Thù, Quốc tử giám Trực giảng, Nhuận Châu Kim Đàn huyện lệnh Diệp Đào, mỗi người bị phạt 10 cân đồng, Thù bị bãi chức, Đào bị cách chức. Nguyên bị kết tội nhận bạc và lụa của sinh viên Trương Dục, cùng với việc Trực giảng Vương Duyễn Chi xin nâng quyển thi không đạt chuẩn lên Thượng xá. Thù bị kết tội nhận đồ gốm và chiếu tre của Dục, Đào bị kết tội nhận trà và giấy của Dục, cả hai đều nhận yết kiến sinh viên vào ngày không phải ngày nghỉ. Duyễn Chi là con của Giới. Thù là con trưởng của Quý. Đào là người Xử Châu.

[52] Vua phê: “Kỳ vương Hạo, Gia vương Quần mỗi năm chi tiền công sứ, Hạo 6.000 quan, Quần 5.000 quan, một nửa đổi thành lụa, có thể mỗi năm thực chi 8.000 quan.”

[53] Ban thưởng cho sứ thần nước Tam Phật Tề tiền 64.000 quan, bạc 10.500 lạng, phong sứ thần Quần Đà Tất làm Ninh Viễn tướng quân, Phán quan Đà Bàng Á Lí làm Bảo Thuận lang tướng.

(Ngày mồng 3 có thể tra cứu.)

[54] Ngày Giáp Ngọ, Quyền phát khiển Đề cử Tam ty Trướng ty Câu viện Ma khám ty, Thái thường Bác sĩ, Trực Tập hiền viện Vương An Lễ kiêm chức Trực Xá nhân viện. Vua phê chuẩn mệnh lệnh này.

[55] Đề cử Thành Đô phủ lộ Thường bình đẳng sự, Tỷ bộ Viên ngoại lang Phạm Tử Lượng tâu: “Tiền dịch của bản lộ, từ li hào trở xuống, làm tròn số lẻ thành số chẵn, số tiền lẻ dư ra cùng với tiền dịch thu vào một chỗ. Trẫm xét kỹ lúc ban đầu định ra pháp lệnh, vốn lấy thuế dân làm định chế, tính số tiền thu dịch để làm chi phí thường xuyên, đặt ra lệ xuất tiền, thì tiền có hạn, khiến dân dễ hiểu và tin tưởng. Nay lại bắt đầu làm số lẻ không đều, lại làm tròn số lẻ, tăng thêm không định, hơn nữa việc thu tiền vào quan cũng nên rõ ràng, không nên dùng văn lý quanh co, chỉ khiến lại sử lợi dụng để làm việc gian. Nay xét việc dân hộ nộp thuế, nên làm tròn số lẻ thành số chẵn, bỏ qua từ li hào trở xuống, số tiền không nhiều, để sổ sách đơn giản, dễ tính toán.” Theo lời tâu.

[56] Tháng đó, chiếu các lộ luyện tập cấm quân không quá hai lần.

(Theo bản chí thêm vào.)

[57] Tháng 8, ngày Bính Thân mùng một, Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Bộ lạc Phiên là Xuy Lăng Kết nhận tin từ người Tây là (Khẩu di) Đô báo rằng giới Tây tập hợp quân xâm lược, quả nhiên ngày đó giặc từ Mãn Đường Xuyên, Đại Hội Bình giết hại người và ngựa canh đồng, quan binh Lý Phổ đuổi chúng ra khỏi biên giới.” Chiếu ban thêm cho (Khẩu di) Đô gấm và bạc mỗi thứ một trăm, Xuy Lăng Kết gấm một trăm.

(Cựu kỷ chép người Hạ xâm lược Đại Hội, Đô giám Tuy Đức thành Lý Phổ đánh bại chúng, Tân kỷ chép xâm lược Tuy Đức thành, e Tân kỷ sai, cần xét lại.)

[58] Ngày Đinh Dậu, chiếu xuân thu tế lễ tại miếu Chiêu Liệt Vũ Thành Vương, lệnh Tam ban viện chọn sai sứ thần làm người đọc chúc, dâng lễ, phân hiến quan.

[59] Ngày Mậu Tuất, ban cho nhà cố Từ bộ Lang trung, Đồng Đề điểm tại kinh Thảng thảo trường Lưu Chiêu Viễn mỗi thứ bạc và lụa một trăm. Do Đề điểm Thẩm Hi Nhan tâu nhà ông nghèo khó.

[60] Quyền Đề điểm Tử Châu lộ hình ngục Mục Tuân tâu: “Châu Tư, quân Quảng An, có con bị người giết mà cha mẹ nhận tiền để dàn xếp riêng, đều xử theo luật thân thuộc bị giết dàn xếp riêng với người thân thuộc kỳ, phạt tù hai năm rưỡi. Xét theo 《Hình thống》, con cháu đối với ông bà, đều có danh xưng ông bà con cháu, nếu có phạm tội, phần lớn không căn cứ vào tang phục mà xét xử, 《Tặc đạo luật》 quy định nếu vì mưu cầu gì đó mà cố ý giết người thân thuộc kỳ trở xuống, thì xử treo cổ, 《Đấu tụng luật》 quy định nếu con cháu vi phạm giáo lệnh mà ông bà đánh chết, thì phạt tù một năm rưỡi, nếu cố ý giết thì tăng thêm một bậc. Nay con cháu bị giết, cha mẹ lại bị xử tội dàn xếp riêng, phạt tù hai năm rưỡi, như vậy tội dàn xếp riêng nặng hơn tội tự giết, nếu nặng mà xử nhẹ thì khó theo pháp luật bên cạnh, chỉ nên dùng pháp luật không nên làm để xử nặng nhẹ, xin ban xuống cho Hữu ty tuyên dụ thiên hạ.” Được chấp thuận.

[61] Chiếu bãi việc châu Thiền, Tề, Ký, Thâm, Thái Bình tấu sổ sách chức viên. Vì theo lệnh sắc thời Thiên Thánh có sổ sách chức viên, mỗi quý tấu một lần, mà các châu khác không có.

[62] Ngày Kỷ Hợi, Quyền Thiểm Tây chuyển vận sứ, Đô đại đề cử Thành Đô phủ các lộ trà trường Lý Tắc xin dời Ty Đề cử trà trường đến châu Tần[19]. Được chấp thuận.

[63] Ty Đạo Lạc thông Biện tâu, Ty Đề cử tại kinh Thái Hà đê ngạn không kịp thời báo ứng nhân binh công dịch, xin xét tội. Chiếu: “Quản câu sứ thần Vương Xử Hậu là em vợ của Tôn Cố, chú của Vương Sân. Tình tiểu nhân, ỷ thế thân quý, nên mới lấn lướt như vậy, có thể giao cho Đại Lý tự xét tội.” Sau đó Xử Hậu bị phạt tiền.

[64] Chiếu tặng con của Bộc An Ý vương là Tông Mạc, trước tặng chức Tế Châu phòng ngự sứ, đặc biệt tặng thêm chức Kiến Ninh quân Tiết độ sứ, tước Thành Quốc công. Vì con ông là Đăng Châu phòng ngự sứ Trọng Lãm xin được ưu đãi tặng phong.

[65] Ngày Canh Tý, đổi Thái thường bác sĩ, Giám sát ngự sử lý hành Đường Thục Vấn làm Công bộ viên ngoại lang, quyền phát khiển Tuyên châu. Thục Vấn trước đây giữ chức Ngự sử lý hành quyền tri Dĩnh châu, vì mẹ mất phải về chịu tang, hết tang bị bãi chức ở đài, nên được thăng chức này.

[66] Đại lý bình sự, Sùng văn viện hiệu thư, quyền Kiểm chính Trung thư lễ phòng công sự Thái Kinh làm Thái tử trung doãn, Quán các hiệu khám.

[67] Xuống chiếu cho Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Dương Tòng Tiên, Như kinh phó sứ Trương Thuật, Cung bị khố phó sứ Bùi Cảnh, Lục trạch sứ, Trung châu thứ sử Bành Tôn, mỗi người thăng một chức. Vì An Nam chiêu thảo ty tâu rằng Tòng Tiên cùng các người kia đem thủy quân vào Giao Chỉ, đánh nhau có công.

[68] Vua phê: “Nay đang tu chỉnh sắc lệnh, cách thức, những điều cần sửa đổi, từ việc triều đình đặt ra pháp luật giao cho các cơ quan, giao cho Xu mật thừa chỉ ty xem xét định rõ rồi tâu lên, giao cho các phòng tuân theo thi hành.”

[69] Ngày Tân Sửu, triệu các quan phụ chính đến vườn sau xem lúa.

[70] Cơ quan Kế nghị thố trí biên phòng tâu: “Lấy chính binh và Hán, Phiên cung tiễn thủ ở Kinh Nguyên lộ chia làm 11 tướng: tướng thứ nhất, thứ hai đóng ở Vị châu, tướng thứ ba ở Nguyên châu, tướng thứ tư ở Tuy Ninh trại, tướng thứ năm ở Trấn Nhung quân, tướng thứ sáu ở Bành Dương thành, tướng thứ bảy ở Đức Thuận quân, tướng thứ tám ở Thủy Lạc thành, tướng thứ chín ở Tĩnh Biên trại, tướng thứ mười ở Long Đức trại, tướng thứ mười một ở Vĩnh Hưng quân, huyện Phụng Thiên.” Đều theo cả. Xuống chiếu trong số các tướng đã chia định, chọn riêng một tướng để ứng phó cho Hi Hà lộ.

(Hai bộ 《Kỷ》 đều chép việc chia binh Kinh Nguyên lộ làm 11 tướng.)

[71] Ngày Nhâm Dần, xuống chiếu cho các cục tu chỉnh sắc lệnh xem xét những việc cần sửa đổi, việc triều đình và các cơ quan cùng nhau soạn định thể thức, giao cho Kiểm chính Trung thư hộ phòng Tất Trọng Diễn biên soạn.

[72] Lại có chiếu bãi chức Hàn lâm học sĩ, Tư phong viên ngoại lang, Tri Khai Phong phủ Thái Diên Khánh, cho làm Tri Trừ châu. Việc Khai Phong phủ đang xét vụ vợ Lý Hiến là Vương thị, chuyển giao cho Đại Lý tự. Trước đó, mẹ Vương thị đến phủ kiện tì nữ của Lý Hiến mưu hại Vương thị. Diên Khánh ban đầu muốn tránh việc ký tên, lại nói lời khai của Vương thị có việc ngoài án, không nên xét. Suy quan Thái Thừa Hi tranh cãi, cùng Diên Khánh luận tấu, bèn giao xuống Thẩm hình viện, Hình bộ xét định là nên thụ lý. Do đó, Ngự sử Thư Đản tâu rằng quan lại Khai Phong phủ do dự sợ hãi, những việc liên quan đến án đều bỏ qua không hỏi. Chiếu cho phủ này xét kỹ, nhưng vẫn lấy cớ theo lệnh Vua để chuyên xét việc công mà truy bắt. Vua phê rằng đây là do quan phủ tránh né sợ hãi, không dám căn cứ vào việc tố cáo mà thi hành, lệnh Khai Phong phủ trình bày rõ, lại lệnh hai sảnh Tả, Hữu cùng Suy quan, Phán quan xét ngoài, còn lại đều theo lệ thường. Đản lại tâu Diên Khánh trong việc xử lý làm qua loa để tránh oán giận, xin trách phạt nặng. Do đó có lệnh này.

(Ngày 21 tháng 6 năm thứ 3, Dương Cấp biện minh việc Lý Hiến bị vu cáo, có thể phụ chép vào đây. Tấu nghị của Thái Thừa Hi có thể chọn lọc thêm vào. Cựu kỷ chép Thái Diên Khánh không xét kỹ việc riêng tư của Lý Hiến, bãi chức Hàn lâm học sĩ, thôi Tri Khai Phong phủ, làm Tri Trừ châu. Tân kỷ không chép.)

[73] Lấy Phán Lại bộ Lưu nội tuyển, Xu mật trực học sĩ Tiền Tảo quyền Tri Khai Phong.

[74] Khôi phục Bát tác ty thành Đông, Tây hai ty, mỗi ty đặt một viên Giám quan văn thần, hai viên võ thần, gặp việc đại lễ hoặc xây dựng lớn thì cùng quản lý. Bát tác ty trước chia Đông, Tây, sau hợp làm một, Tướng tác giám cho là không tiện, nên khôi phục lại.

[75] Ngày Quý Mão, chiếu rằng: “Nghe nói từ tháng 6 đến nay, kho quân nhu ở Hi châu thiếu hơn hai vạn quan tiền để chi trả lương quan lại, tiền cấp cho quân sĩ, lương của quan phiên, tiền tu sửa thành trì. E rằng Hà châu, Dân châu, Thông Viễn quân cũng như vậy, lệnh Thiểm Tây chuyển vận sứ nhanh chóng ứng phó, lại trình bày rõ để tâu lên.”

[76] Lại có chiếu chỉ cho Phó sứ Tả tàng khộ Tây kinh Dương Tiến cùng 22 người khác, mỗi người đều bị kéo dài thời gian khảo xét thêm hai năm. Họ bị tội vì khi khảo thí võ nghệ các quân, đã cấp nhầm hơn một vạn lạng bạc, bị Điện tiền ty hặc tấu, chiếu chỉ miễn cho việc bồi thường, nên chỉ trừng phạt nhẹ.

[77] Ngày Giáp Thìn, Tri chế cáo Lý Thanh Thần làm sứ sinh thần của Liêu chủ, Tây thượng các môn sứ Tào Bình làm phó; Chủ khách lang trung Phạm Tử Uyên làm sứ chánh đán, Hoàng thành sứ, Thứ sử Nhã Châu Diêu Hủy làm phó. Sau đó, Tử Uyên được miễn đi sứ, lấy Thái thường thừa, Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự Tất Trọng Diễn thay thế.

[78] Chiếu chỉ xuất 15 vạn quan tiền từ Tam ty, giao cho Kinh lược ty lộ Phu Diên để mua lương thảo dự trữ.

[79] Đồng tu khởi cư chú Vương Tồn tâu: “Xưa kia, tả sử ghi chép sự việc, hữu sử ghi chép lời nói. Đời Đường Trinh Quán đầu, khi bàn việc chính sự dưới triều, khởi cư lang cầm bút ghi chép trước mặt, sử quan theo sau. Về sau, việc này có lúc được duy trì, có lúc bị bỏ, là vì khi Vua chúa biết tự kiềm chế, chăm lo việc chính sự, thì chức vụ này được duy trì; còn khi bề tôi tầm thường lộng quyền, muốn che giấu lỗi lầm, thì chức vụ này bị bỏ, đều là lẽ tự nhiên. Bệ hạ lâm triều từ sáng đến tối, trí tuệ sáng suốt thấu đạt bốn phương, hành động đều dựa theo cổ nhân, lời nói đều căn cứ vào kinh điển, đến việc quyết định muôn việc, phân biệt những điều nghi ngờ, đều vượt xa ý nghĩ của quần thần. Thần mong bệ hạ noi theo điển cố đời Đường Trinh Quán, khôi phục chức vụ của khởi cư lang và xá nhân, để họ có thể nghe hết những lời đức âm của thiên tử, rồi lui về ghi chép lại, trao cho sử quan. Nếu cho rằng việc tấu sự của nhị phủ đã có thời chính ký, thì xin cho các quan lại khi vào chầu trước sau điện, cho phép quan ký chú đứng hầu, ghi lại những điều nghe được liên quan đến việc trị nước, để những lời mưu lược huấn dụ không bị thất lạc.” Vua dụ Vương Tồn rằng: “Sử quan đã có từ thời Hoàng Đế, đến đời Hán Vũ Đế có cấm trung khởi cư chú, tên gọi khởi cư chú ngày nay có lẽ bắt đầu từ đó. Gần đây thực sự là thất chức, hơn nữa lời nói của Vua chúa với bề tôi đều liên quan đến việc chính sự, nếu là việc công thì nói công khai, nếu là việc riêng thì Vua chúa không có việc riêng, nếu không phải là việc quân cơ, sao phải giữ bí mật! Bề tôi tấu sự có lúc thiên lệch, hoặc buông lời gièm pha, cho rằng Vua chúa phải bao dung, khó lập tức trị tội, nên không còn kiêng sợ gì. Nếu bên cạnh có sử quan ghi chép, thì họ sẽ không dám buông lời gian trá nữa.” Cuối cùng việc này không được thực hiện.

[80] Ngày Bính Ngọ, ban chiếu: “Quan Tu khởi cư chú tuy không kiêm chức gián quan, nhưng nếu có việc sử sự, nên sau khi tấu sự ở ty Thừa chỉ tại điện Sùng Chính, điện Diên Hòa, được phép trực tiếp trình bày.” Theo lời thỉnh cầu của quan Tu khởi cư chú Vương Tồn.

(Truyện Vương An Lễ chép: An Lễ cùng làm Tu khởi cư chú, theo lệ cũ, Tả Hữu sử ghi chép lời nói và việc làm, không được tùy tiện trình bày gì, đến nay ban chiếu cho phép trực tiếp tấu sự, bắt đầu từ An Lễ. Thực ra An Lễ cùng Vương Tồn cùng làm Tu khởi cư chú, nhưng chính Vương Tồn xin việc này. Tháng 7 năm Hi Ninh thứ 4, những người không kiêm chức gián quan mới được phép trực tiếp tấu sự.)

[81] Lấy Lý Hạo, Kiềm hạt Hi Hà lộ, Đông thượng các môn sứ làm Tứ phương quán sứ. Lý Hạo, năm Hi Ninh thứ 10 có chiến công, chiếu cho đợi hai năm sẽ thăng làm Tứ phương quán sứ. Đến nay thăng chức.

[82] Ban chiếu rằng những quan Kinh quan không có lương bổng được cử làm Tri huyện, Huyện thừa, sẽ được cấp lương bổng như Lệnh, Thừa, bãi bỏ khoản thêm chi phí dịch trạm.

[83] Ngày Đinh Mùi, Lữ Công Nhụ, Hữu gián nghị đại phu, Tri Hà Nam được làm Tri Hà Dương. Hơn nghìn binh lính làm việc ở Lạc Khẩu sợ khổ cực, không tuân lệnh, kéo nhau đến cửa Khánh Quan nhưng không vào được, liền đi về phía tây đến cầu Hà. Có người trong bọn họ đến báo, các tướng xin đem quân đánh, Công Nhụ nói: “Bọn này là lưu vong, nếu bức bách quá sẽ sinh biến.” Bèn ra lệnh: “Ai dám giết một người sẽ bị chém.” Sau đó cưỡi ngựa đi về phía đông, sai mấy quân Nha binh đi trước tuyên bố: “Các ngươi làm việc lâu ngày, đáng lẽ được về, nhưng có tội không tuân lệnh, nếu lại qua cầu thì tội càng nặng! Thái thú ở đây, ai muốn tự thú thì đứng bên trái đường.” Mọi người đều xin chịu tội, bắt những kẻ cầm đầu và những người xúi giục, xăm mặt và đày đi, còn lại không hỏi tới, lại đưa về nơi làm việc, bảo quan Lạc Khẩu rằng: “Nếu còn ai dám ngang ngược, lập tức chém.” Mọi người đều nín thinh không dám động. Sau đó tự hặc tội không đợi mệnh lệnh, chiếu tha cho.

(Việc này theo bản truyện, có lẽ có thời gian riêng, nay phụ vào lúc Công Nhụ mới nhận chức.)

[84] Sai Ngô Ung, Đô thừa Ty Nông tự cùng quan Đề cử lộ Lưỡng Chiết bàn về phép dịch, thúc giục kết thúc.

[85] Trung thư tâu: “Theo chỉ triều đình, việc thiết lập ngục để tra xét và xử lý, xin giao cho Thẩm hình viện và Hình bộ lập sổ quản lý. Những việc không có chỉ đặc biệt định thời hạn, đến cuối mỗi quý, tâu lên để thúc giục các cơ quan thuộc quyền. Nếu có việc trì hoãn vô cớ hoặc di chuyển chậm chạp, và các cơ quan thuộc quyền không thúc giục, đều sẽ bị tâu lên và trách nhiệm thuộc về Hình phòng, cuối mỗi quý sẽ kiểm tra.” Triều đình đồng ý.

[86] Ban cho châu Thiền 650 độ điệp để trả nợ cho ty Thủy lợi. Vì trước đây đã từng xuất giấy bổ nhiệm chức Giám chủ bạ và Trai lang để chiêu mộ người đóng tiền, nhưng lâu nay không có người ứng mộ.

[87] Chiếu rằng: “Trước đây đã sai 10 chỉ huy Hổ Dực của ty Điện tiền và Bộ quân đến trấn thủ châu Thuận và trại Thái Bình thuộc huyện Cơ Lang, nay đã trở về doanh, đều là những người sống sót sau khi bị chướng khí và dịch bệnh. Có thể thăng bổ họ làm chỉ huy Thần Dũng, và miễn cho họ hai quý không phải tham gia tuyển chọn. Những người đã bị giảm làm thặng viên, sẽ được miễn giảm làm tiểu phân.”

[88] Ngày Mậu Thân, Vua phê: “Việc dẫn nước sông Lạc vào sông Biện và đắp đê chống lũ sông, đều có thành tích. Có thể lệnh cho Tống Dụng Thần và Phạm Tử Uyên trình bày danh sách các quan lại có công để ban thưởng.”

[89] Chiếu đào sâu kênh vận tải Hoài Nam từ đập Thiệu Bá đến châu Chân[20] thành 14 đoạn, chia làm hai năm thi công. Theo lời tâu của ty Chuyển vận.

[90] Chiếu rằng ở kinh thành bán rượu, lấy 1.200.000 cân làm hạn ngạch hàng năm, mỗi cân giá 250 đồng, sau khi bán đủ hạn ngạch cũ, thì khôi phục giá cũ. Tiền nợ bã rượu và gạo nếp của các hộ làm rượu, gia hạn thêm hai năm để nộp dần. Pháp lệnh về rượu ở kinh thành, từ năm Hi Ninh thứ 4 (1071) quy định lấy 1.800.000 cân làm hạn ngạch hàng năm[21], mỗi cân giá 200 đồng, sau này phần lớn không thể trả nổi, dù nhiều lần hoãn lại số rượu chưa xin, và giảm hạn ngạch hàng năm xuống 1.500.000 cân, mỗi cân tăng giá lên 240 đồng[22], vẫn không tránh khỏi nợ đọng, các hộ làm rượu lại nợ tiền bã rượu và gạo nếp ở Ty Thị dịch vụ hơn 500.000 quan. Đến nay, lệnh cho quan Kiểm chính phòng Hộ là Tất Trọng Diễn, Thái thường bác sĩ Chu Trực Nhụ cùng Tam ty bàn bạc về lợi hại, bèn xin giảm hạn ngạch rượu xuống 1.200.000 cân, mỗi cân giá 300 đồng, chia đều cho 70 cửa hàng, lệnh mỗi tháng nộp tiền, một năm thì đủ, tháng nào nộp không đủ số, tính số nợ mà phạt gấp đôi. Lại quy định, nấu rượu không đúng thời, tự ý tăng dụng cụ đo lường và dùng rượu tư, đều lập pháp lệnh khen thưởng tố giác. Tất cả đều thi hành, và giảm giá rượu, lại có số rượu chưa xin mấy chục vạn cân, đều được miễn.

[91] Ty Đô đề cử thị dịch tâu rằng: “Dân các lộ dùng ruộng đất, nhà cửa để thế nợ tiền thị dịch, nợ không trả được, tiền công bị đọng lại không lưu thông, những hộ nợ bị giam cầm. Xin cho phép những người nợ nần đang bị giam giữ theo pháp luật phải bán nhà cửa, ruộng đất, định giá lại thực tế, như cách bán phường trường, bến đò, trong thời gian chưa nộp tiền, nhà nước thu thuế, không chỉ giảm bớt việc giam cầm những hộ nợ, mà nhà nước cũng được hưởng lợi thực tế. Ty Thị dịch ở kinh đô cũng làm theo cách này.” Lại tâu rằng ty này hàng năm xuất tiền vốn để mua cỏ từ các hộ hạng tư ở các huyện thuộc kinh kỳ, thông qua Ty Đề điểm phủ Khai Phong, nhưng Ty Đề điểm từ năm Hi Ninh thứ 8 đến năm ngoái vẫn còn nợ tiền cỏ 13 vạn quan, xin hạn đến cuối năm, và từ nay giao cho Tam ty theo thuế thu đốc thúc Ty Đề cử thu nộp vào kho phong trang, để ty này chi dùng, nếu dám mượn đổi chi tiêu, xin xử theo pháp luật về tiền phong trang. Lại xin chọn một viên quan câu đương công sự của ty này chuyên quản sổ sách. Đều được chấp thuận.

[92] Ngự sử Hà Chính Thần tâu rằng: “Gần đây đàn hặc An Đào, Trương Mậu Tắc xét việc đào sông Lạc thông với sông Biện có lợi hại không đúng, nghe nói có chiếu đợi đến năm sau khi vận chuyển xong sẽ xin chỉ. Theo như thần nghe được, thì không cần như vậy. Đào cho rằng mùa hè nước sông Lạc dâng cao, sông lớn trong nước cũng dâng, đê cát mới bồi, phải chịu hai nguồn nước tấn công từ trước sau, tình thế khó chống đỡ. Nay đã sang thu, việc hai nguồn nước tấn công từ trước sau chưa từng xảy ra. Đào lại cho rằng nước sông Lạc mùa hè dâng cao hơn sông lớn, dù mùa hè cũng có lúc cạn. Nay từ hè đến thu, cũng có mưa nhiều, nhưng sông chưa từng dâng, cũng có khi mười ngày không mưa mà nước cũng chưa từng cạn, thuyền bè qua lại ngày đêm không ngừng, sao phải đợi khảo sát rồi mới thấy? Kính xin trừng trị nặng.” Chiếu phạt Đào, Mậu Tắc mỗi người 20 cân đồng.

[93] Long Thần vệ Tứ sương Đô chỉ huy sứ, Phó Tổng quản các lộ Tần Phượng là Hướng Bảo chết, ngoài việc ban ơn còn cho phép gia đình xin bổ nhiệm hai người.

[94] Ngày Kỷ Dậu, lấy Điện trung thừa Cao Bác làm Quyền phát khiển Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận phán quan. Bác vừa được bổ nhiệm làm Quyền phát khiển Đăng châu, được vào chầu, Vua phê rằng: “Bác vào chầu bàn việc, tinh thần tỉnh táo, nhanh nhẹn, trong lúc hiếm người tài như hiện nay, để ông ta làm thú ở quận nhỏ, thật đáng tiếc, uổng phí tài năng, nên đặc cách bổ làm một chức sứ nhỏ, để ông ta ra sức sửa lỗi.” Vì thế có mệnh lệnh này.

[95] Thiên Chương các Đãi chế La Chửng tâu: “Đàn Cao Môi rộng hai trượng sáu thước, thấp hẹp, không đủ để hành lễ.” Xuống cho Thái thường bàn, Thái thường tâu: “Từ Cao Môi lấy Thanh Đế làm chủ, xin làm như đàn Thanh Đế, rộng bốn trượng.” Lại xuống cho Tường định Giao miếu Lễ văn sở bàn về chế độ, bèn tâu: “Kinh Thi nói: ‘Khắc nhân khắc tự, dĩ phất vô tử.’ Chỗ gọi là nhân tự, tức là Giao Môi tế trời, lấy Cao Môi phối hưởng ở ngoài giao, nên gọi là giao. Nay đàn Giao Môi tế Thanh Đế ở Nam Giao, lấy Phục Hy, Cao Tân cùng phối hưởng, lại đặt vị trí Cao Môi dưới đàn, thật là sai lầm. Xin theo lễ Giao Môi xưa, đổi tế Thượng đế, lấy Cao Môi phối hưởng, tế bằng Thái lao, đàn hình tròn, vị trí ở phía nam nước, lấy đá làm chủ, xin theo đàn Nam Giao mà làm đàn tròn, theo chế độ đàn Thanh Đế mà tăng thêm.” Chiếu rằng lễ điển Cao Môi vẫn theo cũ, chế độ đàn như Thái thường tâu.

(Lễ văn chép lời Tường định, vào ngày 19 tháng 10 năm thứ 4, nay theo thực lục, gộp vào đây.)

[96] Ngày Canh Tuất, chiếu cho các lộ quận huyện tăng thêm việc chiêu mộ cung thủ.

[97] Tường định Lễ văn sở tâu: “Hạo Thiên Thượng đế, Thái miếu, lấy đại thần Trung thư và thân vương tông thất, sứ tương làm lễ thay, Hoàng Địa Kỳ thì lấy đại thần Lưỡng tỉnh, trong thứ tự nặng nhẹ trước sau có chỗ chưa ổn. Vì vương giả coi trời là cha, đất là mẹ, lễ như nhau, tự tế và sai người thay tế, lòng thành cũng như nhau. Xin tế Hoàng Địa Kỳ, Thái úy dùng Trung thư làm lễ thay, và xin hạ lệnh cho Tướng tác giám tu sửa mở rộng trai sảnh.” Theo lời tâu.

[98] Chiếu cho Từ bộ viên ngoại lang, Sử quán tu soạn Lưu Cấn bị cách chức. Trước đây, Cấn làm Tri châu Kiền, Chiến trác đô giám Dương Tòng Tiên sai con là Tam ban phụng chức Dương Mậu đến Kiền châu chiêu mộ binh sĩ, liền hịch cho các ấp tuần kiểm tập hợp cung binh tại châu. Cấn tra hỏi, Mậu giả xưng thánh chỉ để chống lại Cấn, bị Cấn tâu lên. Mậu cũng tâu rằng Cấn từng nói với Mậu: “Đừng lấy triều chỉ để uy hiếp châu quận, trước đây Tiết Hướng từng gửi văn thư, trong đó có hơn năm mươi chỗ ghi thánh chỉ, Cấn vẫn không tuân theo.” Đó là lời nói giận dữ nhất thời của Cấn, không có thực. Triều đình giao cho Giang Đông xét xử, Cấn trước xin cáo bệnh tìm thầy thuốc, sau lại xin ở nhà để trả lời, đều được chấp thuận. Do đó, Cấn và Mậu đều nhận tội, Đại Lý xử Cấn đánh một trăm trượng, đặc biệt có lệnh trách phạt; Mậu bị tội đồ một năm, phải truất một chức, chiếu cho chuộc tội bằng tiền, miễn cách chức.

(Cấn xin tìm thầy thuốc vào tháng 5 năm Nguyên Phong thứ nhất ngày Kỷ Sửu, xin ở nhà trả lời vào tháng 9 ngày Canh Dần, nay ghi chung vào đây.)

[99] Ngày Tân Hợi, Đồng tri gián viện Trương Tảo tâu: “Tri huyện Dương Cốc, châu Vận, Quang lộc tự thừa Chu Ốc trong biểu tạ ơn có nói rằng tướng soái An Nam đem thư của chấp chính cho người xem, khiến người muốn nói phải ngừng mưu kế. Thần cho rằng giặc Giao Chỉ không thuận, triều đình sai tướng đánh dẹp An Nam, quân đội xuất chinh không thành công, Ốc phụ trách vận chuyển lương thực không kịp thời, không phải là không có tội. Nay Ốc cho rằng tướng soái cầm thư của tể phủ cho giám ty xem, khiến họ không dám nói nên bị tội, dường như có ý oan uổng. Hơn nữa, thưởng phạt của triều đình vốn để khuyến khích và ngăn chặn thiên hạ, mà kẻ phạm tội lại nói như vậy, trong ngoài nghe thấy không thể không nghi ngờ.” Ốc trước đây bị chỉ sai huy động hai mươi vạn phu theo quân vào hang động, nhưng không đủ số, cung cấp lương thực chậm trễ, bị Quách Quỳ tâu hặc, bị giáng làm Tri huyện Dương Cốc, trong biểu tạ ơn tự biện hộ, nên Tảo mới tâu như vậy. Chiếu cho Ốc giải trình, nhưng Ốc trình bày không đúng sự thật, chiếu cho Quỳ nộp các thư từ qua lại giữa quân hành và chấp chính lên Ngự sử đài, lệnh cho Ngự sử Đinh Chấp Lễ, Thư Thiện, Hà Chính Thần cùng xét xử.

(Việc xử Ốc được quyết định vào tháng 8 năm thứ ba ngày Ất Mão.)

[100] Ngày Nhâm Tý, chiếu cho Đại Lý tự xét việc Lã thị vì Trần Thế Nho xin cầu chuyển sang Ngự sử đài. Nếu quan nội mệnh hai lần hỏi mà không nhận tội, thì cho phép bắt giữ. Quan hai tỉnh trở lên phải xin chỉ dụ. Trung thừa Lý Định tâu rằng đã sai Vương Bành Niên đến Hào Châu hặc tội Tô Tụng, xin cho Bành Niên bắt Tụng đến đài để đối chất, còn lại các quan nội mệnh, trừ hai tỉnh, theo lệnh xét việc công của Thái học đã được chỉ huy. Đều theo lời tâu.

(Tháng 6 năm đầu đưa về Khai Phong phủ, ngày Kỷ Mão tháng giêng năm thứ hai chuyển sang Đại Lý tự, ngày Nhâm Tý tháng 8 chuyển sang Ngự sử đài, ngày Đinh Sửu tháng 9 Thế Nho bị xử tử.)

[101] Quyền Thiểm Tây chuyển vận sứ, Đô đại đề cử Thành Đô phủ các lộ trà trường Lý Tắc[23] tâu rằng, Thiểm Tây lộ có ty trà trường, tiền lãi và lụa rất nhiều, không thể vận chuyển được, xin khi lúa rẻ, nơi các ty khác không mua, cho phép trà trường tiếp tục mua và chuyển đi. Đều theo lời tâu. Vẫn chiếu rằng tiền lãi không quá 20 vạn quan.

[102] Ngày Quý Sửu, đổi Tôn Sư Ngạc, Huyện úy huyện Thừa, Châu Nghi, làm Tả ban Điện trực, Tuần kiểm bản lộ; Phó Bảo chính Phan Dực làm Tam ban Sai sứ, Chỉ sứ ty An phủ, cấp thưởng 100 quan tiền. Đó là khen công bắt giặc.

[103] Ngày Giáp Dần, Vua phê: “Ở Thục hiện tích trữ tiền của ty Nông, có thể chọn quan kinh lý, vận chuyển đến Thiểm Tây và các quận trọng yếu biên giới để phong kho.” Bèn sai Chủ bạ ty Nông Lý Nguyên Phụ đi, lại lệnh định tỷ lệ hao hụt để tâu lên.

(Ngày Tân Hợi tháng 9 nhuận và ngày Kỷ Dậu tháng giêng năm thứ ba[24], hợp tham khảo.)

[104] Chiếu miễn cho dân năm huyện Trường An thuộc quân Vĩnh Hưng phải chuyển nộp thuế hạ. Vì bị thiên tai trong thời hạn không kịp kêu oan.

[105] Ngày Bính Thìn, Lô Bỉnh, quyền Phó sứ Phát vận các lộ Giang, Hoài, Viên ngoại lang Bộ Hình, được bổ làm Tu soạn điện Tập Hiền.

(Hoặc chuyển việc cống tiền thừa dư xuống dưới để phụ vào đây.)

[106] Chiếu lấy đất doanh Giáo Tuấn để sửa chữa năm vị tông thất là Khắc Bẩm, dời doanh Giáo Tuấn đến nơi khác.

[107] Chiếu cách chức Hứa Tướng, quyền Tri phủ Khai Phong, Hàn lâm học sĩ, Xá nhân Khởi cư chú kiêm Thị độc, cho làm Tri châu Kỳ; Lý Quân Khanh, Tiền Tư lục tham quân, Lang trung bộ Ngu, giáng một chức; Thái Tuần, Tiền Sĩ tào tham quân, bị cách chức; Vương Dũ, Quốc tử giám thừa, Bí thư thừa, bị truất một chức và bị cấm làm quan; Chu Thường, Trực giảng, bị thay thế; Hứa Mậu, Lý Ninh, Phán quan phủ Khai Phong, Hùng Cao, Bí thư thừa, bị phạt đồng với mức khác nhau. Ban đầu, tiến sĩ Ngu Phiền kiện việc Thái học không công bằng, giao cho phủ xét xử, lời khai liên lụy đến sinh viên Thượng xá, sau khi bị bắt để thẩm vấn, nhưng vì gấp kỳ thi bộ Lễ, Hứa Tướng tâu xin cho họ vô tội và thả ra. Sau đó, những người mà Ngu Phiền chỉ ra là không công bằng đều liên quan đến em vợ và người cùng quê của Hứa Tướng, bèn chuyển sang Ngự sử đài, Thái Xác và Thư Thiện xét xử, cha con Hứa Tướng lần lượt bị bắt giam, cuối cùng bị kết tội tâu xin thả sinh viên Thượng xá là không đúng sự thật, còn Lý Quân Khanh, Thái Tuần, Hứa Mậu, Lý Ninh đều bị kết tội a dua theo Hứa Tướng, Vương Dũ bị kết tội vì xin nâng hạng cho tiến sĩ Trần Hùng[25], Hùng Cao, Chu Thường đều bị liên lụy lẫn nhau, đặc biệt bị trách phạt như vậy.

(Tháng 5 ngày Giáp Thân, Nguyên Giáng bị bãi chức, chính là liên quan đến việc này. 《Cựu kỷ》 chép Hứa Tướng thả sinh viên Thượng xá không đúng sự thật, bị cách chức Học sĩ, bãi chức Tri phủ Khai Phong, làm Tri châu Kỳ. 《Tân kỷ》 không chép.)

[108] Ngày Đinh Tỵ, Lục Điền, Quang lộc tự thừa, Tập hiền hiệu lý, được bổ làm Thái tử trung doãn, Thuyết thư điện Sùng Chính.

[109] Chiếu tăng số lượng sinh viên Thái học lên 80 trai, mỗi trai có 5 gian nhà, sai Tống Dụng Thần, Nhập nội đông đầu cung phụng quan, quản lý việc sửa chữa và mở rộng.

[110] Chiếu rằng: Châu Huệ phải nộp tiền vào kho Nội tàng[26], và từ nay tiền thuế thu được loại tiền chiết nhị đều đổi thành bạc nộp vào kho Nội tàng.

[111] Viện Thẩm quan Tây trình rằng, sau khi xét duyệt, Phó sứ Cung bị khố Lưu Hi Thích, qua hai nhiệm kỳ đều được thăng chức nhờ công lao nơi biên giới, theo quy định nên được điều động khác thường. Chiếu cho Hi Thích được thăng bảy bậc. Lại chiếu rằng từ nay những người trực tiếp tham gia chiến đấu, được thưởng thăng chức, mới được tính là chiến công, và ghi thành lệnh.

[112] Ban cho quốc vương Tam Phật Tề là Quần Đà Tất La cùng các người khác hai đôi bình nước bằng bạc, hai cái gậy xương giao ỷ, một mặt gương rửa bằng bạc, và ban cho nhà sư hai áo cà sa màu tía, một sắc phong sư hiệu và một độ điệp. Trước đó, Quần Đà Tất La xin được tự mua sắm, chiếu theo lệ của nước Chú Liễn mà đặc cách ban cho.

[113] Chiếu rằng các quan Tường đoạn và Kiểm pháp của Bộ Hình được tái nhiệm, mỗi nhiệm kỳ hai năm, khi mãn nhiệm quan Tường đoạn được giảm hai năm khảo hạch, quan Kiểm pháp được giảm một năm. Do Bộ Hình tâu rằng các quan Tường đoạn và Kiểm pháp tuy được phép tái nhiệm, nhưng không ai muốn nhận, nên ban ơn này để khuyến khích.

(Ngày 19 tháng 5, Bính Tuất, cần xem xét thêm.)

[114] Chiếu phạt Quyền phát khiển Kinh Tây Nam lộ Đề cử thường bình đẳng sự Trương Thương Anh mười cân đồng, miễn cho việc thay thế. Do vượt quyền xử lý việc của Ty Đề điểm hình ngục.

[115] Ngày Mậu Ngọ, Thái thường tự tâu: “Theo chiếu, việc tế tự dùng rượu từ kho Pháp tửu và phường Nội tửu để đổ đầy các bình tế, thay cho năm loại rượu tế và hai loại rượu thường. Nay rượu kho Pháp tửu gồm: Cung ngự, Từ tế, Thường cung; rượu phường Nội tửu gồm: Pháp nhu, Nhu, Thường liệu, mỗi loại ba hạng. Rượu Nhu và Thường liệu chỉ cấp cho quân lính, lại dịch, thợ kỹ thuật, dùng để cúng tế trời đất, tông miếu, xã tắc, e rằng không phải là cách thể hiện sự tôn kính và chu toàn. Xin chỉ dùng ba loại rượu Pháp tửu và rượu Pháp nhu để phụng tế.” Được chấp thuận.

(Ngày mùng một tháng 7 năm Nguyên niên, Quý Dậu.)

[116] Ngày Kỷ Mùi, chiếu cho Tiến sĩ đệ nhị giáp Vương Hoán Chi được đặc cách bổ nhiệm làm quan. Do Hoán Chi mới 19 tuổi, chưa đủ tuổi theo quy định.

[117] Lại có chiếu rằng các cơ quan phải báo cáo văn thư cho Sử quán, giao về Khởi cư viện. Thời hạn báo cáo, trước đây là 5 ngày thì nay đổi thành cuối tuần, 10 ngày thì đổi thành cuối tháng, còn cuối tháng và cuối năm vẫn giữ như cũ. Do Tu khởi cư chú Vương Tồn tâu rằng: “Theo chế độ gần đây, các cơ quan cung cấp thông tin trực tiếp cho Biên tu nhật lịch sở, nên chức vụ Khởi cư chú, ngoài việc ghi chép lời tạ ơn của bề tôi và chiếu chỉ, không còn văn thư nào khác để biên soạn, e rằng mất đi ý nghĩa của việc đặt chức quan này. Hơn nữa, từ thời Thuần Hóa, đã quy định thời hạn báo cáo của các cơ quan, có khi là 5 ngày, có khi là 10 ngày, có khi là cuối tháng, có khi là cuối năm. Nay chế độ gần đây đổi 5 ngày và cuối tháng thành cuối tuần, cuối năm thành cuối tháng. Việc tăng giảm vàng lúa của Tam ty, thu chi kinh phí, thăng giáng bản đồ, vốn không thể thấy được vào cuối tháng, mà phải đợi cuối năm mới tổng kết được. Nay bắt báo cáo vào cuối tháng, e rằng chỉ tốn công vô ích, không có lợi cho sự thực.” Vì thế có chiếu này.

[118] Chiếu đổi Dĩnh Châu thành quận Tiết độ Thuận Xương. Dĩnh vốn là châu Đoàn luyện, do Tri châu sự, Thiên Chương các Đãi chế La Chửng tâu xin dựa vào tước phong cũ của Thượng hoàng, nên ban chiếu này.

(Ngày 18 tháng 9 lại ban đức âm. 《Cựu kỷ》 chép việc thăng Dĩnh Châu từ tước phong cũ lên quận Tiết độ sứ Thuận Xương, 《Tân kỷ》 không chép nguyên do.)

[119] Ngày Canh Thân, Đông thượng các môn sứ, Văn Châu Thứ sử Chủng Ngạc được quyền làm Phó Đô tổng quản lộ Phu Diên.

[120] Ngày Tân Dậu, chiếu rằng Phán Đại tông chính ty Tông Đán theo lệ cũ được thêm lương thực, tuy có điều luật sau này thay đổi, nhưng vẫn được đặc cách cấp phát do đang giữ chức Tông chính, các quan khác dù cùng cấp bậc nhưng không cùng chức vụ thì không được viện dẫn làm lệ.

[121] Lại có chiếu phong cho mẹ đẻ của Dương Châu Quan sát sứ Tông Thịnh, con trai Bộc An Ý vương, là Nhân Thọ quận Thái quân Tôn thị làm An Định quận Thái phu nhân.

[122] Sở Tường định biên tu các cơ quan dâng lên sắc thức của Nội thị tỉnh. Chiếu cho thi hành.

[123] Phán Quốc tử giám Trương Tảo tâu: “Số người thi lễ ít hơn hẳn so với thi Dịch, Thi, Thư. Xin từ nay, những người thi Tiến sĩ Lễ bộ tại kinh đô, môn Chu Lễ và Lễ Ký được lấy gấp đôi so với các kinh khác.” Được chấp thuận.

[124] Ngày Nhâm Tuất, Vua phê: “Long đồ các trực học sĩ Hàn Chẩn hiện đang giữ chức Xu mật đô thừa chỉ, công việc bận rộn lại thường xuyên phải tâu bẩm quân vụ, có thể miễn việc tế tự.”

[125] Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Các chỉ huy Hùng Lược, Trừng Hải thiếu quân số, xin cho phép các lộ tuyển bổ những tội nhân phạm tội nhẹ, còn trẻ khỏe, có thể đeo giáp vào các đội quân này.” Vua phê: “Theo như lời tâu, để có thể bổ sung quân số, thay thế những người đã lâu ngày trấn giữ nơi biên giới nhiều lam chướng.”

[126] Ngày Quý Hợi, Tri tông chính thừa Triệu Ngạn Nhược tâu: “Thần thấy Lễ viện định lại việc tiến tân, tháng tám mùa thu dùng giao manh không hợp lý, thay bằng bồ bạch. Ngày Nhâm Tuất, tiến tân ở hai miếu, khi dọn xong, mới kiểm tra bồ, thấy đều già cứng, không còn bạch nữa. Đó là vì người bàn lễ chỉ lấy loại giống giao để thay thế, mà không nghĩ bồ đã quá thời, không thể ăn được. Thần xét trong 《Thi》, Hàn hầu vào mùa thu, dùng duẩn và bồ làm thư, đều là đồ muối, không phải vật mới. 《Chu lễ》 chép: ‘Hải nhân coi việc thêm đậu, thâm bồ làm ê hải, duẩn thư ngư hải[27], cung cấp đậu thực cho tế tự và tiếp khách.’ Đó là hải làm từ thịt, thư làm từ rau, dùng trong việc tiếp khách và tế tự, bốn mùa không thiếu. Duy duẩn và bồ, vốn dùng để đãi khách, ý nghĩa rõ ràng. Trịnh thị chú thâm bồ rằng: ‘Bồ mới mọc trong nước.’ 《Thảo mộc trùng ngư sơ》 chép: ‘Bồ, 《Chu lễ》 dùng làm thư, lúc mới mọc, lấy phần giữa chìm trong đất gọi là nhược.’ Lại nói cô tương cũng có thể dùng, đều nói bồ mới mọc, không phải mùa thu. 《Bản thảo》 chép: ‘Bồ hái tháng tư.’ 《Đường bản chú》 nói: ‘Bồ mọc đầu xuân, dùng phần trắng làm thư.’ 《Đường lễ》 tiến tân không hạn chế tháng, duẩn, bồ, giao, ngẫu đều theo mùa. Nay gần đây giao bạch rất nhiều, theo chế độ cũ tham dự vào việc tiến tân mùa thu, tức là cô tương. 《Quảng nhã》 chép: ‘Cô, tương, hạt của nó là điêu hồ.’ 《Thuyết văn》 viết là điêu kim. 《Chu lễ》 chép: ‘Thực y coi việc ăn uống, cá hợp với kim.’ Giao là mầm của nó, Từ Hài trong 《Tuế thời quảng ký》 gọi kim thảo là giao. Tuy cũng mọc vào mùa xuân, đến mùa thu có thể ăn, khác với bồ. Thần căn cứ 《Thi》 nói: ‘Ăn uất và bã, nấu quỳ và thúc’, cùng thời nhắc đến, thì duẩn và bồ cũng tự hiểu, huống chi lúc tiến duẩn cũng là lúc bắt đầu ăn bồ. Xin đổi sang tiến vào mùa xuân, để hợp với thời tiết.” Vua nghe theo.

[127] Tam ty tâu rằng, phát Thần Kị đẳng chỉ huy trấn thủ Quế Châu, sau chỉ lệnh đóng quân ở Hồ Nam, có nhiều khoản chi phí đặc biệt cho lộ phí là mười nghìn sáu trăm chín mươi lăm quan tiền. Chiếu miễn cho.

[128] Ngày Giáp Tý, chiếu cho xem xét lại điều chế của Thái học, lấy quy chế quốc học và học chế hiện hành, định thành sắc lệnh của một ty Quốc Tử Giám.

[129] Ty xét định nghi thức triều hội tâu rằng: Theo 《Chu Lễ》, thiên tử thiết triều thì mặc áo bì biện, y phục mười lăm tầng, tích tụ màu trắng làm xiêm, sách ghi là “Bì biện tố tích”. Chư hầu thiết triều thì đội mão uỷ mạo, mặc áo vải đen, cũng tích tụ màu trắng làm xiêm, như trong 《Thi Kinh》 nói “Chuy y chi nghi hề”[28]. Phàm trong triều, quân thần đều mặc đồng phục. Nhà Hán kế thừa nhà Tần, cải cách chế độ sáu loại mũ miện, chỉ còn mũ đen và áo đỏ mà thôi. Từ thời Ngụy về sau gọi là triều phục năm mùa. Thời Tùy, Đường gọi là cụ phục, từ nhất phẩm trở xuống đến cửu phẩm trở lên đều mặc áo sa đỏ, mũ có năm tầng, ba tầng[29], hai tầng, một tầng khác nhau. 《Tùy Chí》 nói rằng số tầng mũ phân biệt sang hèn, bắt đầu từ thời Hán. Thụ thì dùng dải lụa làm, vốn để xâu ngọc bội, thời Chiến Quốc chuộng võ nên bỏ ngọc bội, chỉ giữ lại dải buộc, đến thời Tần thì dùng dải màu nối với dải buộc, chuyển thành kết nối, nhân đó làm đồ trang sức. Đó gọi là thụ. 《Vi Đồng Ngũ Lễ Tinh Nghĩa》 nói rằng để phân biệt tôn ty, tỏ rõ đức hạnh. Vì vậy, chế độ nhà Hán từ Tướng quốc đến quan lại trăm thạch, thụ có ba màu, hai màu, một màu khác nhau. Như vậy, mũ dựa vào số tầng nhiều ít để phân biệt sang hèn, thụ dựa vào màu sắc thô mịn để phân biệt tôn ty, từ xưa đã có vậy.

[130] Xưa nay chế định lễ nghi, vật dụng tối đa không quá mười hai, đó là số của trời. Từ trên xuống dưới, giảm dần theo số chẵn. Các chư hầu ở ngoài kinh thành, xa cách bậc tôn quý mà được nới rộng, thì dùng số chín, bảy, năm, theo số lẻ thuộc dương; công khanh đại phu trong triều đình, gần gũi bậc tôn quý mà phải thu hẹp, thì dùng số tám, sáu, bốn, theo số chẵn thuộc âm. Theo lệnh về y phục của triều đình hiện nay, mũ Thông Thiên có hai mươi bốn cái lương, là y phục của hoàng đế, vì hai mươi bốn cái lương tương ứng với số lượng dải mũ phía trước và sau. Còn mũ của bề tôi, thì từ năm cái lương trở xuống, có chút khác biệt so với thời Hán, Đường[30]. Về dải thêu, thì hoàng đế và thái tử dùng loại dệt thành, các quan dùng gấm. Quan nhất phẩm, nhị phẩm đội mũ năm cái lương, Trung thư Môn hạ thêm lồng khăn điêu thiền, các cơ quan tam phẩm ba cái lương, tứ phẩm, ngũ phẩm hai cái lương, Ngự sử đài tứ phẩm, hai tỉnh ngũ phẩm cũng ba cái lương, còn dải thêu có bốn loại khác nhau là vân cẩm, hoàng sư tử, phương thắng, luyện thước, lục phẩm thì bỏ kiếm, đeo dải thêu[31].

[131] Triều đại Tùy, Đường, quan phục đều lấy phẩm làm chuẩn, bởi vì lúc đó quan chức và phẩm tước tương ứng với nhau. Nay các quy định hiện hành vẫn còn dùng phẩm, tuy là kế thừa văn bản cũ, nhưng xét về quan chức thì có nhiều chỗ sai lệch. Kể ra một vài ví dụ, như chức Thái tử Trung Doãn, Tán Thiện Đại phu cùng phẩm với Ngự sử Trung thừa, Thái thường Bác sĩ phẩm thấp hơn các chức Thừa ở các tự, Thái tử Trung Xá phẩm cao hơn Khởi cư lang, Nội thường thị chỉ ngang với Nội điện Sùng ban[32], nhưng lại ở trên các Lang trung trong các ty của Thượng thư, điều này cho thấy phẩm không thể dùng làm chuẩn. Nếu xét theo chức vụ sai khiển, thì có người quan chức thấp nhưng đảm nhiệm việc quan trọng, có người phẩm cao nhưng lại ở chức nhàn tản, có người một chức quan kiêm nhiều cục, có người chỉ giữ chức để tham dự triều hội, có người phân quyền đặc biệt tùy việc mà đặt tên, điều này cho thấy chức vụ sai khiển cũng không thể dùng làm chuẩn. Vì vậy, nếu dùng phẩm và chức vụ sai khiển để quy định chế độ quan phục thì chưa hợp lý[33]. Xin lấy quan chức làm chuẩn, để danh và thực tương xứng, nặng nhẹ có chuẩn. Đồng thời xin chia quan chức thành bảy bậc, quan phục cũng theo đó mà định.

[132] Mũ bảy đai có lồng khăn đính con ve, dải gấm vân mây “thiên hạ lạc”, là bậc nhất, con ve trước đây làm bằng mai rùa hình con bướm, nay xin đổi thành ve phụ bằng vàng, các chức Tể tướng, Thân vương, Sứ tướng, Tam sư, Tam công đều mặc. Mũ bảy đai, dải gấm vân hoa, là bậc hai, các chức Xu mật sứ, Tri xu mật viện đến Thái tử Thái bảo đều mặc. Mũ sáu đai, dải gấm “phương thắng nghi nam”, là bậc ba, các chức Tả Hữu bộc xạ đến Long đồ, Thiên chương, Bảo văn các trực học sĩ đều mặc. Mũ năm đai, dải gấm lông chim thúy, là bậc bốn, các chức Tả Hữu tán kị thường thị đến Điện trung, Thiếu phủ, Tướng tác giám đều mặc. Mũ bốn đai, dải gấm thêu bốn hình chim, là bậc năm, các chức Khách tỉnh sứ đến các hành lang trung đều mặc. Mũ ba đai, dải gấm hình sư tử vàng, là bậc sáu, các chức Hoàng thành trở xuống đến các ty sứ và các vệ suất phủ suất đều mặc[34]. Các nội thần từ Nội thường thị trở lên và các chức Nhập nội, Nội thị tỉnh nội Đông Tây đầu cung phụng quan[35], Điện đầu, Tiền ban Đông Tây đầu cung phụng quan[36], Tả Hữu thị cấm, Tả Hữu ban điện trực, các kinh quan từ Bí thư lang đến các tự, giám chủ bạ, đã dự triều hội, cũng nên mặc triều phục. Nay tham khảo, từ Nội thường thị trở lên mặc quan phục theo bậc mình, người được ký thác như quan chức, các chức Nhập nội, Nội thị tỉnh nội Đông Tây đầu cung phụng quan, Điện đầu, Tam ban sứ thần, Bồi vị kinh quan là bậc bảy, đều mặc mũ hai đai, dải gấm “phương thắng luyện thước”. Các chức Cao phẩm trở xuống mặc y phục theo cổ[37], trà, phất, tích, lũ đều theo màu áo.

[133] Theo chế độ hiện nay, triều phục dùng áo màu đỏ thẫm, và gấm có 19 loại, trong đó 7 loại đai nên dùng toàn gấm đỏ, lấy văn sắc cao thấp để phân biệt. Chỉ có đai của quan pháp quan dùng gấm sen trên nền xanh để phân biệt với các quan khác. 《Hậu Hán chí》 chép: “Pháp quan còn gọi là Trụ hậu, những người chấp pháp mặc nó, gồm Thị ngự sử, Đình úy chính, giám, bình, cũng gọi là Giải trãi quan.” 《Nam Tề chí》 cũng chép: “Pháp quan, Đình úy và các quan chấp pháp đội nó.” Hiện nay, Ngự sử đài từ Trung thừa trở xuống đến Giám sát ngự sử, Đại Lý khanh, Thiếu khanh, Thừa, Thẩm hình viện, các quan chủ phán của Hình bộ, đã chính thức định chức quan, thực sự thi hành việc chấp pháp, thì nên đội pháp quan, đổi mặc đai gấm sen trên nền xanh, số lượng tua và đai ngọc theo quy định của chức quan. Được chấp thuận.

(Chí đồng.)

[134] Lệnh cục Giao xã là Tân Công Hữu tâu: “Các trai cung ở năm nơi giao tế thấp hẹp, đổ nát, xin hạ lệnh cho Tướng tác giám mở rộng và sửa sang mới. Có trai cung cách đàn tế mấy dặm, xét việc hành lễ không tiện, xin dời đặt bên cạnh đàn. Đồ dùng trong trai cung phần nhiều cũ nát, cũng nên bổ sung hoàn chỉnh. Trước đây cấm đốt, chôn quan tài, cày cấy, chăn thả, đốn củi bên ngoài đàn tế, đều có quy định số bước, lâu ngày dấu mốc không rõ, nên khắc đá ghi chiếu lệnh làm dấu.” Hạ lệnh cho Lễ viện, xin theo ý kiến của Công Hữu. Được chấp thuận.

[135] Bãi bỏ trại Phủ Thành, bảo Toàn Thôn, trấn Bình Nhung ở Khánh Châu, và trại Đại Bạt ở Hoàn Châu.


  1. Chữ 'Chiếu' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 chức quan 28/9 bổ sung.
  2. Bệ hạ đã chờ đợi Thức, chữ 'thí' nguyên bản là 'sĩ', theo các bản khác sửa lại.
  3. Kiểm hiệu Thái phó, hai chữ 'Kiểm hiệu' nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 77-57 sửa lại.
  4. dưới điện thổi sáo khúc Thụy Mộc Thành Văn, sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 80 chép 'sáo' dưới có chữ 'tấu', 《Tống sử》 quyển 127 chép 'sáo' trên có chữ 'thổi', chỗ này nghi có sai sót.
  5. Bản khánh vốn ở dưới sân, chữ 'tại' nguyên là 'tác', theo các bản và sách 《Tống Sử》 quyển 127, mục Nhạc chí sửa lại.
  6. Dưới sân dùng trống ứng họa, chữ 'nhĩ' nguyên là 'thả', theo sách trên sửa lại.
  7. Lệnh cho các phòng liệt kê ra 'liệt kê', các bản chép là 'kê liệt'.
  8. Chữ 'tiền' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66-7 bổ sung
  9. Trương Cầu trong sách trên viết là 'Trương Vĩnh'.
  10. Trầm Khởi, 'Khởi' nguyên là 'Siêu', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 334, truyện Trầm Khởi sửa lại.
  11. Nguyên châu, chữ 'Nguyên' nguyên bản viết là 'Hãng', xét theo 《Tống sử·Địa lý chí》 không có châu Hãng. Căn cứ vào quyển 252, ngày Bính Tuất tháng 4 năm Hi Ninh thứ 7 chép: 'Chiếu lập Nguyên châu'; lại xem quyển 290, ngày Đinh Mão tháng 6 năm Nguyên Phong thứ nhất chép việc đồn điền vụ ở Nguyên châu, chú thích ghi: 'Ngày 21 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ hai bãi bỏ đồn điền vụ.' Thời gian này phù hợp với điều mục hiện tại. Chữ 'Hãng' rõ ràng là sai của chữ 'Nguyên', nên sửa lại.
  12. Ngày 19 tháng 4 năm Hi Ninh thứ 7 lập Nguyên châu, chữ 'Thất' nguyên bản viết là 'Thập', chữ 'Nguyên' nguyên bản viết là 'Hãng', căn cứ vào bản trong các kho sách mà sửa.
  13. 'Tồn tiên vương sở thường hưởng dụng kiến ư kinh giả' chữ 'thường' nguyên là 'đương', theo 《Tống hội yếu》 lễ 17-88 và 《Tống sử》 quyển 108 Lễ chí sửa.
  14. 'Mạnh xuân tiến cửu dĩ noãn tu dĩ phong' chữ 'tu' nguyên ở dưới chữ 'cửu', theo 《Tống hội yếu》 lễ 17-88 và 《Tống sử》 quyển 108 Lễ chí đổi lại.
  15. 'Tạp mãi vụ' chữ 'mãi' nguyên là 'vật', theo 《Tống hội yếu》 lễ 17-90 sửa. Xem: Tống Tạp mãi vụ thuộc Thái phủ tự, 'Chưởng việc mua bán trăm vật, phàm những gì cung cấm, quan phủ cần, đều cung cấp đúng thời', xem 《Tống sử》 quyển 165 Chức quan chí.
  16. 'Phàm tân vật cập thời xuất giả' hai chữ 'xuất giả' nguyên thiếu, theo sách trên và 《Tống sử》 quyển 108 Lễ chí bổ sung.
  17. 'Dĩ vi miếu tuế nhị thập ngũ từ' chữ 'tuế' nguyên là 'nghi', theo 《Hán thư》 quyển 73 Vi Huyền Thành truyền sửa.
  18. Quốc tử giám Trực giảng, theo 《Tống hội yếu chức quan》 quyển 66, mục 8, chữ 'Quốc' trên có thêm chữ 'Tiền'.
  19. Đô đại đề cử Thành Đô phủ các lộ trà trường Lý Tắc xin dời Ty Đề cử trà trường đến châu Tần, chữ 'đẳng' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-17 bổ sung. Chữ 'Tần' nguyên là 'Phụng', theo 《Tống sử》 quyển 184, 《Thực hóa chí》 sửa lại.
  20. Châu Chân nguyên là châu Trinh, căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 17-9 sửa lại.
  21. Từ năm Hi Ninh thứ 4 quy định lấy 1.800.000 cân làm hạn ngạch hàng năm, chữ 'bách' và chữ 'cân' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 20 mục 10 và 《Tống sử》 quyển 185, chí Thực hóa bổ sung.
  22. 240 đồng, chữ 'tứ' trong sách trên viết là 'ngũ'.
  23. Quyền Thiểm Tây chuyển vận sứ Đô đại đề cử Thành Đô phủ các lộ trà trường Lý Tắc, chữ 'các' nguyên bản thiếu, theo sách này quyển 279, ngày Tân Dậu tháng 4 năm Nguyên Phong thứ hai bổ sung.
  24. Ngày Tân Hợi tháng 9 nhuận và ngày Kỷ Dậu tháng giêng năm thứ ba, theo văn nghĩa, tháng 9 nhuận thuộc năm Nguyên Phong thứ hai, nhưng năm đó không có tháng 9 nhuận. Lại nữa, tháng giêng năm Nguyên Phong thứ ba không có ngày Kỷ Dậu. Nghi rằng chú thích có sai lầm.
  25. 'Xin nâng hạng' trong 《Tống hội yếu》 chức quan 66/9 viết là 'nâng lên Thượng xá'.
  26. Châu Huệ phải nộp tiền vào kho Nội tàng, chữ 'nộp' nguyên là 'hoàn', theo bản trong các sách sửa lại
  27. duẩn thư ngư hải, chữ 'thư' nguyên là 'bồ', theo các bản và 《Chu lễ》 hải nhân sửa lại
  28. Chữ 'Thi' trong câu 'Thi sở vị chuy y chi nghi hề thị dã' vốn thiếu, nay căn cứ 《Tống Hội Yếu》 Dư Phục 4-13 bổ sung
  29. Hai chữ 'tam lương' vốn thiếu, căn cứ theo văn dưới và sách trên bổ sung
  30. Chữ 'dữ' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác, 《Tống hội yếu》 phần Dư phục 4-13 và 《Tống sử》 quyển 152 phần Dư phục chí bổ sung.
  31. Chữ 'thụ' nguyên bản thiếu, căn cứ vào hai sách trên bổ sung.
  32. Chữ 'thị' trong 'Nội thường thị' nguyên bản thiếu, căn cứ theo hai sách trên mà bổ sung.
  33. Chữ 'đương' trong 'chưa hợp lý' nguyên bản thiếu, căn cứ theo hai sách trên mà bổ sung.
  34. Chữ 'chư' nguyên là 'thành', hai chữ 'suất phủ' nguyên thiếu, theo hai sách trên sửa bổ sung
  35. 'Nhập nội nội thị tỉnh' nguyên là 'nhập nội thị tỉnh', theo bản các các sửa bổ sung
  36. Chữ 'đầu' nguyên thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Dư phục 4-13 và 《Tống sử》 quyển 152 Dư phục chí bổ sung
  37. Chữ 'y' nguyên là 'y', theo 《Tống sử》 trên sửa

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.