"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 300: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 2 (KỶ MÙI, 1079)

Từ tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 2 đời Thần Tông đến hết tháng 10 cùng năm.

[1] Tháng 9, ngày Bính Dần, mùng 1, Kinh lược sứ Phu Châu lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Theo tin do thám, biết giới Tây đang tập hợp quân. Thần đã cân nhắc tình hình khẩn cấp, thân hành đến các thành trại gần để tiếp ứng và tuần tra biên giới, kiểm tra quân đội, xin được cử quan tạm quyền xử lý việc châu và lo việc quân nhu.” Chiếu cho Chuyển vận sứ Thiểm Tây Lý Tắc tạm quyền xử lý việc châu.

[2] Ngày Đinh Mão, Tri Đô thủy giám thừa, Chủ khách lang trung Phạm Tử Uyên được thăng làm Kim bộ lang trung, thăng một bậc; Đồng phán Đô thủy giám, Nhập nội Đông đầu cung phụng quan, ký Lễ tân sứ, Dao quận thứ sử Tống Dụng Thần được làm ký Lục trạch sứ, Dao quận đoàn luyện sứ, cấp lương toàn phần; Nhập nội Đông đầu cung phụng quan Vương Tu Kỷ cùng 37 người khác, mỗi người được thăng một chức, người có công xuất sắc được giảm năm khảo hạch hoặc được chỉ định sai phái, tuyển nhân được thăng hai bậc; các quan khác được giảm ba năm khảo hạch gồm 9 người, giảm hai năm gồm 5 người; các đại tướng quân Tam ty được thăng hai bậc gồm 56 người, thăng một bậc gồm 81 người, và được ban thưởng tiền theo thứ bậc[1]. Do Tử Uyên và Dụng Thần là người đầu tiên đề xuất dẫn nước Lạc vào sông Biện và đắp đê ngăn sông hoàn thành công việc, nên được ban thưởng đặc biệt, còn lại đều là những người có công trong việc giám sát công trình.

[3] Chiếu cho Tiền Kinh Tây chuyển vận phó sứ, Đồn điền viên ngoại lang Lý Nam Công được giảm ba năm khảo hạch, 11 người khác được thăng chức, giảm năm khảo hạch và thăng thứ bậc khác nhau. Do có công bảo vệ bờ nam sông lớn.

[4] Chiếu cho Tướng thứ tư Phu Diên, Sùng nghi sứ Cao Vĩnh Năng được thăng một chức, những người khác được thăng bậc, giảm năm khảo hạch, ban lụa theo thứ bậc. Tháng 7, giặc Tây xâm phạm Tuy Đức thành, đại hội ở Bình, Vĩnh Năng và các tướng đánh bại chúng, nên được ban thưởng công lao.

[5] Giảm một viên Giám quan của Hạ tá ty. Trước đó tăng lên hai viên, do công việc giản đơn nên giảm.

[6] Ngày Mậu Thìn, chiếu cho Đề điểm hình ngục Hoài Nam Đông lộ Lâm Anh và Đề cử thường bình đẳng sự Giang Nam lộ Tạ Trọng Quy cùng xét lại vụ án của Tiền tri Giang Ninh phủ Lữ Gia Vấn. Do Gia Vấn kêu oán rằng việc xét án trước chưa thấu đáo.

[7] Ngày Kỷ Tỵ, Vua phê rằng: “Tam ty nhận trả lại số tiền chi phí cũ về ngựa khoán của Quần mục ty, tuy trước đây đã cắt giảm, mỗi năm vẫn phải chiết ra bảy vạn xấp lụa, nhưng lại kéo dài và keo kiệt, chưa chịu bồi thường đầy đủ. Bởi vì lụa và da phụ thuộc vào việc kiểm tra của quan lại, nên hai bên thường có tranh cãi. Có thể sai Thái thường thừa Ngô An Trì trong vòng một tháng xem xét lại các chi phí trong năm năm trước khi chưa bãi bỏ khoán, tính thành tiền hiện tại, thống nhất với các quan chức đương nhiệm của Tam ty cùng ký tên tâu lên.”

[8] Ngày Canh Ngọ, ghi nhận Thang Triều, người làm lò nấu quặng ở trường Sầm Thủy, châu Thiều, làm Hạ ban điện thị, Chỉ sử ty Kiềm hạt lộ Quảng Nam Đông. Vì Triều nhiều lần bỏ tiền riêng ra bắt được cướp.

[9] Ngày Tân Mùi, Tả tàng khố phó sứ Kiều Tự tâu rằng: “Vâng chiếu tạm phát khiển đến châu Lô, xin thân hành đi tuần tra binh giáp các huyện trại và xem xét năng lực của các quan lại phụ trách quân sự, bàn kín phương lược đánh giặc.” Chiếu cho Tự xem xét tình hình, nếu cần thân hành kiểm tra, có thể mang theo một lượng binh giáp đến các huyện trại, nhưng không được gây phiền nhiễu, làm ồn ào, để khỏi sinh sự biên giới.

(Xét 《Bình Man Ký》, đây là việc Tự muốn đánh thề, việc đánh thề ngày Kỷ Tỵ tháng 3 năm thứ 3, xem ngày 15 tháng 4, và ngày 17 tháng 12 năm này cần xem xét thêm.)

[10] Ngày Nhâm Thân, Vua phê rằng: “Gần đây sai Câu đương công sự Đô thủy giám Tiền Diệu kiểm định các vật liệu đóng cọc ở các đê[2], nghe nói hai Đô đại ty đã tính hơn hai mươi vạn phu, ngoài ra còn có năm Đô đại ty và các công trình sông ngòi, như vậy thì năm sau dù huy động ba bốn mươi vạn phu cũng không đủ ứng phó, tiền của công tư phung phí quá mức, thật đáng tiếc. Tiền Diệu mới làm quan thủy lợi, chưa từng trải việc sông ngòi, e rằng bị những kẻ trục lợi dọc sông lừa gạt, không thể nắm rõ tình hình, có thể sai Chủ bạ Đô thủy giám là Trần Hữu Phủ thay Diệu kiểm định tâu lên.”

[11] Ngày Quý Dậu, bổ nhiệm Quốc tử giám Trực giảng, Trứ tác tá lang Mãn Trung Hành làm Quán các Hiệu khám. Vua phê rằng: “Trước đây, giám sinh Ngu Phiền tố cáo các quan trong học quan trên dưới đều thông đồng làm việc gian dối, tham nhũng, lừa gạt, tình trạng sự việc không giống nhau. Đến khi triều đình giao cho Hữu ty xét xử, thì lời tố cáo của Ngu Phiền không phải là vu khống. Trong khi đó, Trung Hành lại giữ mình thanh liêm, không dính líu đến việc bàn tán của quan lại, lại còn sống giữa đám người nghiêng ngả, bẻ cong pháp luật mà vẫn có thể tu thân, kiểm điểm hành vi như vậy. Xét trong thói quen ít biết xấu hổ của sĩ nhân ngày nay, đã là hiếm có, lại còn cùng với đám người nhơ bẩn, bè phái, ngày ngày cùng làm việc chung mà cuối cùng vẫn không thể làm thay đổi khí tiết của mình, điều này càng đáng khen ngợi. Nên ban thưởng ít nhiều để khuyến khích phong tục.” Vì thế có mệnh lệnh này. Trung Hành là người Kim Hương.

[12] Quyền phát khiển Hộ bộ phán quan Lý Tông tâu: “Thần vâng chiếu điều tra về thuế dịch của các hộ bỏ trốn và tuyệt tự, có sổ sách năm Thiên Thánh của huyện Thường Thục, châu Tô ghi chép về các hộ bỏ trốn và tuyệt tự từ lâu, với số thuế trừu, quyên, thóc gạo, tiền muối đinh tổng cộng hơn một vạn một nghìn một trăm quán, thạch, thất, lạng. Huyện này căn cứ vào thuế, quản lý ruộng thóc tổng cộng chín trăm mười chín khoảnh và mấy mẫu, nay chỉ điều tra được một trăm chín mươi lăm hộ, phải nộp tổng cộng ba trăm năm mươi ba thạch thóc gạo, năm mươi mốt thất lụa, ba mươi lăm lạng bông. Số còn lại gồm tám nghìn bốn trăm thạch thóc gạo, một nghìn hai trăm thất lụa, một nghìn chín mươi lạng bông, chín trăm văn tiền muối đinh[3], đều không có ruộng đất, cũng không có tên chủ điền. Có lẽ do lâu ngày không điều tra, bọn gian hoạt nhân cơ hội, làm thất thoát thuế của triều đình. Xin cử Trứ tác tá lang Lưu Chửng làm tri huyện Thường Thục để điều tra và xử lý, các huyện khác có tình trạng tương tự cũng xin chọn quan điều tra.” Được chấp thuận. Chửng là người Nam Lăng.

(Sách 《Thực hóa chí》 chép: Tháng 9 năm Nguyên Phong thứ ba, chiếu cho Tam ty Hộ bộ phán quan Lý Tông chuyên trách điều tra về tiền thuế dịch bị thất thoát do các hộ bỏ trốn và tuyệt tự ở Giang Nam Đông và Lưỡng Chiết lộ. Tông tâu: “Sổ sách năm Thiên Thánh trung của huyện Thường Thục, châu Tô ghi chép về các hộ bỏ trốn và tuyệt tự từ lâu, với số thuế trừu, quyên, thóc gạo, tiền muối đinh tổng cộng hơn một vạn một nghìn một trăm quán, thạch, thất, lạng. Nay chỉ còn một trăm chín mươi lăm hộ, phải nộp ba trăm năm mươi ba thạch thóc gạo, năm mươi mốt thất lụa, ba mươi lăm lạng bông, còn lại các hộ có ruộng đất và tên chủ điền đều không còn. Có lẽ do lâu ngày không điều tra, bọn gian hoạt nhân cơ hội, làm thất thoát thuế chính. Xin phàm những trường hợp tương tự, đều chọn quan điều tra.” Được chấp thuận. Bèn chiếu cho Chuyển vận ty đề cử. Tông điều tra các hộ bỏ trốn và tuyệt tự ở một trăm hai mươi bảy huyện thuộc Giang, Chiết[4], tổng cộng bốn mươi vạn một nghìn ba trăm ba mươi hai hộ, làm thành sách dâng lên.

Ngày Bính Tuất tháng giêng năm thứ ba, bổ nhiệm Tông làm Hoài Nam Chuyển vận phó sứ, lại lệnh điều tra thuế dịch của các hộ bỏ trốn và tuyệt tự, Tông bèn tuyển dụng quan thuộc, thay đổi lệnh tá, đại quyết xử lý. Các châu, quân, huyện thuộc Hoài Nam Đông và Tây lộ tổng cộng tám mươi tám, phát hiện các hộ bỏ trốn, tuyệt tự, giả mạo tên điền, không ghi trong sổ sách và thiếu đinh, tổng cộng bốn mươi bảy vạn năm nghìn chín trăm sáu mươi lăm hộ, thuế dịch chính và nợ tích lũy tổng cộng chín mươi hai vạn hai nghìn hai trăm bốn mươi sáu quán, thạch, thất, lạng. Tông lại tâu rằng việc thất thoát thuế dịch là do sổ sách của quan ty sai sót từ lâu, xin theo thuế hạ mà thu nộp. Chiếu lệnh các sổ sách thất thu thuế dịch tiền vật, đặc biệt miễn trừ.)

[13] Nội thị áp ban Thạch Đắc Nhất xin chuyên sai quan câu đương Hoàng thành ty, đề cử việc dạy tập võ nghệ cho các quan thân tòng, thân sự, cung tiễn thủ. Triều đình đồng ý. Chiếu cho Đắc Nhất đề cử việc huấn luyện.

[14] Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Mãnh tướng giữ chức bả tiệt ở Hoa Phật bảo thuộc Tuy Đức thành là Dương Vĩnh Khánh, thuộc hàng tam ban sai sứ, lấy cớ đi tuần tra, dẫn bộ hạ vào địa giới phía tây, chém đầu tám người bộ lạc phiên, rồi dối báo là giặc phía tây xâm phạm biên giới, đã chém được. Xin tước hai bậc quân công trước đây của Vĩnh Khánh, cho lưu dụng ở biên giới.” Chiếu truy thu hồi văn tự xuất thân của Vĩnh Khánh, đưa đến Kinh Tây[5] để biên quản.

[15] Chiếu cho các lộ thuộc Ngũ lộ, các tiến sĩ của Lễ bộ cùng với những người đỗ khoa mới về minh pháp, thông tính số người để lấy đều.

[16] Ngày Giáp Tuất, triều đình ra chiếu chỉ cho quân mã ở phủ Khai Phong, gồm quân Phụng Nhật thứ năm ở Ung Khâu, chỉ huy thứ nhất với 500 người; quân Kiêu Mãnh thứ nhất ở huyện Uý Thị với 400 người; quân bộ ở huyện Hàm Bình[6], quân Thiên Vũ thứ nhất, quân Hùng Dũng thứ nhất, quân Hùng Uy thứ hai ở huyện Tương Ấp, quân Hùng Uy thứ sáu ở huyện Trần Lưu, mỗi quân 500 người; quân mã ở Hà Đông, gồm quân Thổ Hồn thứ ba ở phủ Thái Nguyên, quân Thổ Hồn thứ sáu ở châu Lộ, quân Quảng Nhuệ thứ sáu ở châu Hãn, quân Quảng Nhuệ thứ mười chín ở châu Lam, mỗi quân 300 người; quân bộ, gồm quân Thần Nhuệ thứ mười bốn ở châu Lộ với 400 người. Từ nay, nếu có thiếu người thì không bổ sung, đợi khi số người không còn nhiều thì sẽ giải tán. Vì Ty Tuần kiểm ở phủ Khai Phong và Hà Đông đã dùng dân quân và bảo giáp thay phiên nhau thay thế quân cấm, mà số quân cũ của Ty Tuần kiểm, ở phủ Khai Phong là 3.054 người, ở Hà Đông là 1.631 người, đều cần giảm bớt.

[17] Ngày Bính Tý, Ty Chuyển vận lộ Quỳ Châu tâu xin đến hết tháng 11 năm nay, giải tán quân nghĩa dũng phòng thủ các trại huyện ở châu Lô thuộc Kiềm Châu, cho họ trở về làm ruộng. Triều đình đồng ý.

[18] Sở Tu hoàn kinh thành xin cho thuê đất công để xây nhà, cùng với dân lập chợ bán bột, thu thuế. Xuống cho Khai Phong phủ xem xét, xin theo lời thỉnh cầu. Được chấp thuận. Lại ra chiếu từ nay đất trống cho người thuê, làm xong phải báo cáo. Sau đó, Ngự sử Đinh Chấp Lễ tâu lên, chiếu lấy việc thi hành xem xét, nhưng Sở Tu hoàn kinh thành nói rằng, lệnh cho các hộ xay bột và người bán thức ăn ở dãy nhà phía đông và tây thành lập chợ bán bột[7], thu tiền của các hộ xay bột nộp vào quan, tức là không có công án thi hành, tấu của Chấp Lễ bèn bỏ. Sau đó, Khai Phong phủ lại xin người môi giới và các hộ xay bột tư nhân buôn bán bột thì đánh một trăm trượng, cho phép người tố cáo bắt, năm cân trở lên thưởng ba nghìn tiền, mười cân trở lên thưởng mười nghìn. Cũng được chấp thuận.

(Chu sử bỏ đi, cho là việc nhỏ, nay lại giữ lại. Chấp Lễ làm Ngự sử sau sáu ngày.)

[19] Ngày Đinh Sửu, ra chiếu cho Ty Đề cử Hà Bắc Địch tiện lương thảo xem xét các châu huyện ven biên bị ngập nước, nếu quân lương đã đủ, tạm ngừng mua.

[20] Ban cho hai mươi vạn quan tiền muối mạt, giao cho Ty Chuyển vận Hà Đông mua lương thực quân dụng.

[21] Tam ty tâu, số bạc dùng cho Nam Giao, xin tự chọn quan đốc thúc thu gom tiền lụa cung nộp. Chiếu cho Tam ty chỉ huy Ty Phát vận ở các lộ sai quan thúc giục, lại phải báo cáo theo thứ tự.

[22] Chiếu rằng: Tiền Quốc tử bác sĩ Trần Thế Nho cùng vợ là Lý thị, các nô tỳ Cao thị, Trương thị, tổng cộng 19 người đều xử trảm, riêng nô tỳ Cao thị xử lăng trì, vợ Lý thị đặc cách xử trượng tử, các nô tỳ Đơn thị, v.v. 7 người được tha chết, đánh trượng vào lưng, phân bổ đi các lộ Hồ Nam, Quảng Nam, Kinh Tây để quản thúc. Thế Nho là con của tể tướng Trần Chấp Trung, Chấp Trung có người thiếp yêu là Trương thị dâm đãng hung hãn không kiềm chế được, sinh Thế Nho chưa được bao lâu thì Chấp Trung chết, chiếu cho Trương thị xuất gia làm ni cô. Thế Nho lớn lên, đón mẹ về, cùng vợ là Lý thị phụng dưỡng không cẩn thận. Lý thị là con gái của Long đồ các trực học sĩ Lý Trung Sư, mẹ là Lã thị, cháu gái của Lã Di Giản. Thế Nho làm tri huyện Thái Hồ, châu Thư, tài năng kém cỏi không thích làm quan ngoài, cùng Lý thị xúi giục các nô tỳ mưu giết Trương thị, muốn vì lo buồn mà được miễn chức, các nô tỳ dùng thuốc độc nhưng không chết, đêm lấy đinh đóng vào xương sọ, rồi đưa tang về kinh sư, bị các nô tỳ tố cáo, mà lời khai của Lý thị nhiều lần thay đổi, trải qua ba lần thay đổi ngục án mới tìm ra sự thật. Do đó các quan khám án đều bị tội, Tri Đại Lý khanh sự Thôi Đài Phù, Quyền phát khiển Đại Lý thiếu khanh Kiển Chu Phụ, Dương Cấp, mỗi người bị phạt 10 cân đồng, Quyền Đại Lý tự thừa Giả Chủng Dân bị phạt 20 cân đồng.

(Ngày Canh Dần tháng giêng năm thứ 3, Diệp Vũ đưa quan thẩm án, ngày Kỷ Mùi tháng hai, Chủng Dân bị cách chức.)

[23] Ngày Mậu Dần, chiếu cho Tư chính điện học sĩ, Kinh lược sứ lộ Phu Diên Lữ Huệ Khanh kiêm thố trí việc phòng bị bốn lộ biên giới phía tây Thiểm Tây, các việc chưa xong ở các lộ, đều lệnh cho các quan câu đương công sự gửi đến Huệ Khanh xem xét rồi tâu lên.

[24] Ngày Canh Thìn, lấy Từ bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lý kiêm Tri Tông chính thừa Triệu Ngạn Nhược làm Biên tu quan của Tu quốc sử viện.

[25] Ngày Tân Tỵ, lấy Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý Đinh Chấp Lễ kiêm Giám sát ngự sử.

[26] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu rằng: “Hàn lâm học sĩ Lý Thanh Thần soạn 《Đại Lý tự ký》, ghi chép đầy đủ mọi việc lớn nhỏ về việc triều đình tu bổ, bãi bỏ quan chức. Duy chỉ có Thôi Đài Phù, v.v. là những người đầu tiên được tuyển chọn, khảo cứu các điển chương đã mất, mà có thể giải quyết các vụ kiện tồn đọng, trong ngục không có tù nhân bị giam lâu, lại không được ghi tên trong đó, còn là một thiếu sót, nên gửi Thanh Thần thêm vào.”

[27] Lại có chiếu rằng: “Ngự sử tra xét việc gian lận ở Thái học gần nửa năm nay, ty ngục ngày đêm vất vả, nên cho các quan khám xét trước đây bảo đảm, xét công mà ban thưởng.”

[28] Ngày Quý Mùi, ban ân xá: “Giảm tội chết cho tù nhân ở Dĩnh Châu, tội đồ trở xuống được tha. Các khoản thuế hạ còn thiếu trước cuối năm Nguyên Phong thứ nhất và thuế hạ còn dư năm nay cùng các khoản thuế thuê liên quan, đều được miễn.”

(Ngày 24 tháng 8 thăng chức Tiết độ sứ, hai kỷ đều ghi việc giảm tội cho tù nhân.)

[29] Ngày Giáp Thân, Long Phiền ở Tây Nam đến cống nạp sản vật địa phương.

[30] Chiếu rằng các vật phẩm cung ứng từ các lộ Đông Nam, trước đây vận chuyển bằng đường bộ, nay giao cho Tam Ty tăng thêm thuyền vận tải, đều chuyển sang đường thủy.

[31] Chiếu cho Quyền Tri Ung Châu, Trang Trạch Phó Sứ kiêm Cáp Môn Thông Sự Xá Nhân Lưu Sơ cùng 26 người khác được thăng chức, giảm năm khảo khóa, ban thưởng bạc lụa theo thứ bậc. Vì đã tập hợp động đinh ở Ung Châu, Khâm Châu thành các đội chỉ huy, tổng cộng hơn 10 vạn người, ghi nhận công lao của họ.

[32] Ngày Kỷ Sửu, tiến phong Tiệp Dư Chu thị lên làm Chiêu Dung.

[33] Chiếu lấy 19 vạn thạch thóc từ kho Thường Bình ở lộ Vĩnh Hưng cấp cho 9 tướng ở lộ Phu Diên để phòng thủ, số còn lại giao cho Chuyển Vận Ty từ từ tính toán. Vì lộ Phu Diên tâu rằng lương thực quân dụng hàng năm cần hơn 27 vạn thạch, mà kho Thường Bình không còn dư.

[34] Ty An Phủ Đông Dao tâu rằng Hoàng Thành Sứ, Vinh Châu Đoàn Luyện Sứ, Đô Tuần Kiểm Sứ bộ lạc ở Dân Châu, Dao Châu là Bao Thuận xin dùng chiếu xá tội trong lễ Nam Giao để phong tặng cha mẹ. Vua phê: “Thuận từ khi mở mang Hi Hà đã dẫn quân đến quy phụ, lại một lòng trung nghĩa, chiến công trước sau đứng đầu các bộ lạc thuộc quyền, tuy trước chưa có lệ này, nhưng có thể đặc cách chấp thuận.” Bèn phong tặng cả vợ ông ta.

[35] Ngày Canh Dần, Tri Chế Cáo Trương Tảo được bổ làm Phán Tướng Tác Giám. Vì Vua phê rằng: “Tảo hiện đang kiêm quản Thẩm Quan Đông Viện, Quốc Tử Giám, triều đình đang bàn tăng cường quy chế Thái học, sắp ban hành, cần có quan chủ quản kịp thời đốc thúc, mới mong thành công. Việc bổ nhiệm ở Đông Viện, kiểm tra sửa đổi điều lệ, công việc khá nhiều, nên đổi bổ Tảo làm Đồng Phán Tướng Tác Giám, để chuyên tâm thi hành học chế, lại ban cho nhà công để tiện việc riêng.”

[36] Lệnh cho Mã quân đô ngu hậu, quyền quản câu Bộ quân ty là Yến Đạt quản câu Sai sứ thặng viên sở.

[37] Chiếu rằng: Người ở động Vũ Lăng, châu Thuận là Ma Trọng Phúc, Hoàng Phu đều bị đánh bằng trượng vào lưng và bị biên chế quản thúc, Trọng Phúc ở châu Vận, Phu ở châu Thanh, bắt gia quyến đi theo, tước bỏ quan chức và sắc mệnh ban trước đây. Vì Trọng Phúc cùng Nùng Trí Xuân cướp phá châu Thuận.

[38] Chiếu rằng: Các châu huyện ở các lộ bắt được trộm cướp, phải nhanh chóng cấp thưởng theo quy định, giao cho các ty như Đề điểm hình ngục mỗi nửa năm một lần, thu thập số lượng trộm cướp bắt được và số tiền thưởng đã cấp ở các châu huyện, báo lên Trung thư. Vì các châu huyện chậm trễ trong việc cấp thưởng, không khuyến khích được người tố giác bắt trộm.

[39] Ngày Tân Mão, ban cho Phát vận ty 100 vạn quan tiền để mua lương thực, nếu các lộ chưa đủ kế hoạch năm, dùng số lương thực mua được để bổ sung vào số cung cấp, báo cho Chuyển vận ty lệnh theo giá mua cao nhất và tính cả chi phí vận chuyển, hạn trong một quý phải trả tiền.

[40] Ngày Nhâm Thìn, ban hành quy chế huấn luyện trong cung, gồm các động tác bắn cung, phóng tên, vận tay, nhấc chân, di chuyển bước, bắn cung trên ngựa, sử dụng giáo trên ngựa, đánh nhau trên ngựa ngoài chiến trường, sử dụng giáo và khiên khi đi bộ, đều có quy cách, tổng cộng hơn nghìn chữ, bắt mọi người đọc thuộc. Sau đó, Trung thư và Xu mật viện lại xin các đội Nghĩa dũng, Bảo giáp ở Hà Bắc, Thiểm Tây cũng phải đọc thuộc quy chế huấn luyện như các quân. Được chấp thuận.

(Sách Cựu kỷ chép: Ban hành hình ảnh quy chế bắn cung đi bộ và cưỡi ngựa cho các quân, bắt họ đọc và tập luyện. Sách Tân kỷ chép: Ban hành quy chế bắn cung đi bộ và cưỡi ngựa, đánh nhau cho các quân. Sách Bản chí chép: Ban hành quy chế huấn luyện và hình ảnh trong cung, các động tác bắn cung đi bộ, phóng tên, vận tay, nhấc chân, di chuyển bước, bắn cung trên ngựa, sử dụng giáo trên ngựa, đánh nhau trên ngựa ngoài chiến trường, sử dụng giáo và khiên khi đi bộ, đều có hình ảnh và quy cách, tổng cộng hơn nghìn chữ, bắt quân sĩ đọc và tập luyện.)

[41] Ngày Quý Tỵ, Xu mật đô thừa chỉ Hàn Chẩn, Phó đô thừa chỉ Trương Thành Nhất, Kiểm tường binh phòng văn tự Phạm Dục dâng lên quy chế Thanh dã bị địch của các lộ, chiếu ban hành.

(Nay truyền lại 15 điều Thanh dã bị địch, nói là ngày 13 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 2, ngày tháng khác với ở đây, không rõ vì sao.)

[42] Ngày Giáp Ngọ, người Lạp ở Tây Nam đến cống phương vật.

[43] Chiếu rằng từ nay các văn bản gửi đến Kiểm chính quan để định đoạt, phải do chấp chính quan xác định sự việc và ấn định thời hạn. Do Kiểm chính quan của Hộ phòng đã chậm trễ trong việc xử lý văn bản liên quan đến tiền phường trường giữa Ty Nông tự và Tam ty, nên có chiếu chỉ này.

[44] Ty Nông tự dâng lên 15 quyển sách 《Nguyên Phong Ty Nông Sắc Lệnh Thức》. Chiếu cho thi hành.

[45] Chiếu rằng tiền bán các trường vụ do quan giám thuộc Tam ty, còn tiền mua tên các trường vụ ở làng xã vẫn theo lệ cũ nộp vào Ty Nông tự. Lúc đó, Tam ty tâu rằng tiền thu thêm từ việc người dân mua các trường vụ do quan giám và các trường vụ không dùng để chiết trả cho nha tiền, đều nên nhập vào sổ của Tam ty. Nhưng Ty Nông tự cho rằng ngoài các trường vụ do quan giám, số tiền thu được đều là do pháp luật mới quy định, không nên nhập vào Tam ty, xin được giữ lại để hỗ trợ việc chiêu mộ nhân công, đồng thời mỗi năm thu được một triệu quan tiền từ việc phong trang ở Thị dịch vụ, nếu mất số tiền này, e rằng không thể tiếp tục. Tranh luận lâu, cuối cùng theo lời thỉnh cầu của Ty Nông tự.

[46] Đô chuyển vận sứ Hà Đông là Trần An Thạch xin rằng những người phạm tội buôn bán muối xanh trắng ở hai vùng tây bắc thuộc địa phận này, đều xử theo sắc lệnh thời Hoàng Hựu, không phân biệt chủ mưu hay đồng phạm, đều phải đi đày biên giới[8]. Chiếu theo lời xin. Sắc lệnh thời Hoàng Hựu hình phạt nặng hơn hiện nay, lại có luật không phải buôn bán mà chỉ được một phần ba tội[9]. Lúc đó, An Thạch đang thi hành chính sách muối ở Hà Đông, nhằm mưu cầu công lợi, nên muốn siết chặt lệnh cấm.

(Bản Chu bỏ đi phần “Sắc lệnh thời Hoàng Hựu nặng hơn hiện nay” và các câu sau, nay khôi phục lại.)

[47] Lễ viện tâu: “Mỗi khi gặp việc tế tự, Thái chúc, Phụng lễ, sai quan đợi thứ ở Viện Đông của Thẩm quan đến làm thay. Xét theo 《Đường lục điển》, chức Giao xã lệnh coi việc sắp đặt vị trí ở Ngũ giao, Xã tắc, Minh đường, và lễ tế tự, cầu đảo. Giao xã lệnh không dự vào việc tế tự[10], xin theo điển cố cho làm thay Thái chúc hoặc Phụng lễ, gặp việc tế tự nhỏ thì không sai Giám sát Giám lễ, mà chỉ lệnh xem xét lễ khí và sinh tế.” Theo lời tâu.

[48] Khôi phục trấn Phiếm Thủy của châu Mạnh thành huyện.

(Sách 《Cựu kỷ》 chép việc khôi phục huyện.)

[49] Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Thân mùng một, sứ giả Thạch Phiền từ phía tây nam đến cống.

[50] Chiếu cho Quân khí giám xuất ra 1.300.000 mũi tên nỏ làm từ gỗ đen, gỗ đỏ, gỗ trắng có lông chim bốn phía, ban cho các tướng dưới quyền ở phủ Khai Phong và vùng Kinh Đông, Kinh Tây, mỗi nơi 50.000 mũi.

[51] Chiếu tu sửa thành châu Định, dùng dân phu huy động vào năm sau cùng với 2.000 quân ở lộ Hà Bắc và quân trong châu để làm việc.

[52] Ngày Đinh Dậu, Tham tri chính sự Thái Xác tâu: “Ngự sử Hà Chính Thần, Hoàng Nhan đều là người do thần tiến cử khi giữ chức Trung thừa, nay thần đang ở trong triều đình, thực sự là điều đáng ngại. Xin bãi chức Ngự sử của Chính Thần và Nhan.” Bấy giờ, quyền Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Quan Đài tuy do quan trưởng tiến cử, nhưng đều do bệ hạ triệu đến đối đáp, thấy có thể dùng được rồi mới bổ nhiệm, việc lấy bỏ là ở bệ hạ, không phải ở người tiến cử. Nay muốn tránh né, chỉ vì cho rằng có ân huệ riêng. Bỏ nghĩa công mà ôm ân tư, đó là việc của kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nay chọn làm quan Đài, ắt phải là người trung tín, chính trực, đủ để làm nhiệm vụ tai mắt, nếu vì chút hiềm nghi nhỏ mà bắt phải tránh né, thì đó là coi quan tai mắt của bệ hạ như kẻ tiểu nhân mưu lợi, điều này càng không thể chấp nhận về nghĩa lý.” Chiếu không phải tránh né.

[53] Triệu tập các quan phụ chính đến xem lúa ở vườn sau.

[54] Ngày Mậu Tuất, Vua phê: “Bảo Châu mở rộng thành lũy, không phải là việc khẩn cấp, nghe nói việc tu sửa thành trì ở biên giới làm rất sơ sài, không theo đúng phép tắc. Nên cử hai người hiểu biết về công việc đất đai từ cơ quan tu sửa kinh thành đến chỉ đạo công việc.”

[55] Ngày Kỷ Hợi, bổ nhiệm Hà Tuân Trực, người từng làm Kiểm thảo văn tự ở cơ quan Tường định giao miếu lễ văn triều hội nghi chú, làm Hiệu lý ở Bí các. Vua phê rằng: “Tuân Trực tính tình thông minh, nhớ lâu, nghe nhiều”, nên được thăng chức.

[56] Ghi nhận Vũ Bị, người từ phương Bắc về quy thuận, làm Hạ ban điện thị, Chỉ sử ở Giang Nam Đông lộ. Bị từng làm gián điệp cho quan biên giới dò xét tình hình địch, việc bại lộ, sợ tội nên về đầu, nên được ghi nhận.

[57] Chiếu cho Lưu Hồng An, Nội điện thừa chế, Đô giám trú bạc ở Tân Châu, dời đến Đàm Châu, không tham gia công việc, ban cho ba khoảnh ruộng. Hồng An từ Giao Chỉ về hàng, Kinh lược ty Quảng Tây xin dời ông đến Hồ Nam.

[58] Đô đại đề cử đạo Lạc thông Biện ty tâu: “Thuyền chở hàng trên sông Biện từ lâu vẫn thường chở thêm hàng hóa thương nhân vào kinh, khiến thuyền nặng bị ách tắc, lại còn chở lậu hàng nặng hơn bốn trăm cân, đã phạm trọng tội. Nay nước Lạc chảy vào sông Biện, không còn chảy xiết, xin từ nay hàng hóa thương nhân đến Tứ Châu, quan đặt trường chứa, không cho các thuyền chở thêm, cơ quan này sẽ đóng thuyền chở hàng vào kinh, bắt nộp tiền vận chuyển.” Vua đồng ý. Chiếu rằng: “Từ Tứ Châu đến kinh, thuyền chở lúa của dân, quan đều ghi chép, từ nay không được tăng thêm. Thu tiền vận chuyển tăng thêm một phần ba so với trước. Thuyền của Đạo Lạc ty tăng lên một nghìn năm trăm chiếc.”

(Trường chứa hàng ở Tứ Châu bắt đầu từ đây. Ngày 24 tháng 3 năm thứ 3 cũng đặt trường chứa ngoài kinh thành.)

[59] Ngày Canh Tý, Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Trước đây khi quân An Nam xuất chinh, có quân lính trốn tránh nghĩa vụ, xin cho họ trong vòng một trăm ngày tự thú để được miễn tội.” Vua đồng ý.

[60] Bổ nhiệm con của Vương Cảnh Nhân, Cung bị khố phó sứ, Quyền phát khiển Thuận Châu, là Vương Tông Nho làm Tam ban tá chức. Cảnh Nhân viện dẫn lệ con cái của các quan tri Ung Châu, Nghi Châu được bổ nhiệm làm quan để tự tiến cử.

[61] Ngày Tân Sửu, Quyền phát khiển Tư nông tự Đô thừa Ngô Ung tâu: “Hoài, Chiết liên tiếp năm được mùa, thóc rẻ, xin mượn số tiền miễn dịch và tiền phường trường dư thừa của các lộ, đến các châu huyện trấn ven sông mua thóc gạo với giá cao, thường đổi chỗ với kho của các ty khác. Nếu sau này giá lên cao, thì đổi để sung vào thượng cung.” Triều đình giao xuống Tư nông tự, xin theo lời tâu của Ngô Ung, trước lấy một nửa số tiền thường bình để lại và số tiền chưa chi hết làm vốn mua thóc, sau đó lấy một nửa tiền phường trường, tiền miễn dịch để lại hai năm. Được chấp thuận.

[62] Quyền Giang, Hoài đẳng lộ Phát vận sứ Thẩm Hi Nhan tâu: “Kho chuyển ban ở Hoài Nam, Tứ Châu là nơi thuận tiện nhất, tuy có hai kho nam bắc, nhưng chỉ chứa được hơn một triệu năm mươi ngàn thạch thóc. Kho bỏ ở Dương Châu có hơn ba trăm gian, chứa được khoảng một triệu thạch thóc, xin dời đến Tứ Châu.” Được chấp thuận.

[63] Ty đề cử lộ Hà Bắc Tây tâu: “Theo chiếu thư năm Hi Ninh, các huyện bị thiên tai tạm ngừng việc đo đạc ruộng đất. Xin thông báo các huyện chưa đạt đến ba phần thì không ngừng.” Tư nông tự xin các huyện chưa đạt đến một phần thì không ngừng. Được chấp thuận.

[64] Ngày Nhâm Dần, xuống chiếu: “Quyền Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận phán quan, giáng thụ Phụng lễ lang Mã Giam bị cách chức; Thông phán phủ Giang Lăng, Ngu bộ Lang trung Vương Phi, Đô quan Viên ngoại lang Chu Chi Thuần đều bị truất một chức và cách chức; Thiêm thư Phán quan, Vệ úy Tự thừa Chu Thường bị thay thế.” Mã Giam vì là giám ty đã dùng tiền tỉnh cho phủ Giang Lăng dùng vào việc công, Chu Chi Thuần và Chu Thường vì kho công sứ vi phạm pháp luật.

[65] Ngày Quý Mão, sở Tường định triều hội ngự điện nghi chú tâu: “Theo 《Chu Lễ》: ‘Mộc lộ, kiến đại huy, dĩ điền’, Trịnh thị nói: ‘Đại huy không thuộc trong cửu kỳ, nếu nói về chính sắc thì là màu đen, do nhà Hạ Hậu thiết lập’. 《Lễ Ký》 viết: ‘Cờ của nhà Hữu Ngu, dải lụa của nhà Hạ Hậu’, Trịnh thị nói: ‘Tức là buộc đuôi bò vào đầu cán cờ, gọi là đại huy’. 《Thư》 viết: ‘Vua cầm cờ mao trắng bên phải để chỉ huy’, Khổng Dĩnh Đạt nói: ‘Nhà Ngu chỉ buộc đuôi bò, nhà Hạ mới thêm dải lụa.’ 《Tây Kinh Tạp Ký》 viết: ‘Đại giá nhà Hán có cờ vàng phía trước.’ Thôi Báo trong 《Cổ Kim Chú》 viết: ‘Cờ huy dùng để chỉ huy, xa giá dùng màu vàng, các công dùng màu đỏ, thứ sử và nhị thiên thạch dùng màu hồng.’ 《Khai Nguyên Lễ Nghĩa La》 viết: ‘Thái Tông noi theo chế độ nhà Hạ Hậu, lấy màu chính của trung ương, nên chế ra đại huy màu vàng, nay lễ có cờ vàng, chế độ gồm mười hai tấm.’ 《Khai Bảo Thông Lễ Nghĩa Toản》 viết: ‘Màu vàng là màu của trung ương, cờ này gần nhất với xa giá, nên dùng để ứng tượng, lấy ý nghĩa ở giữa dẫn dắt bốn phương, bao dung rộng lớn.’

Nay trong lộ bộ có cờ vàng, theo chế độ nhà Hạ thì hình dạng không giống cờ; theo chế độ nhà Hán thì màu sắc lại không phải vàng. Xin chế tạo một lá cờ đại huy, buộc đuôi bò vào đầu cán, theo chế độ nhà Hạ Hậu; màu sắc chính vàng, theo chế độ nhà Hán; dùng mười hai tấm làm cờ, theo chế độ nhà Đường; dùng một dải lụa, theo chế độ cờ long trì hiện nay. Khi hội họp lớn, bày trượng vệ, dựng một lá cờ đại hoàng huy phía trước sân ngự, làm biểu tượng. Phía sau sân ngự, dựng hai lá cờ vàng.” Đồng thời dâng lên chế độ của cờ đại hoàng huy và cờ vàng. Vua phê: “Chế độ cờ vàng, xét kỹ các sách trước, vẫn còn nghi ngờ. Nay đục đẽo làm ra, dựng giữa sân lớn nơi người Hoa và Di đều nhìn thấy, có thể bị người học rộng biết nhiều chê cười, nên tạm bỏ qua, đợi tìm hiểu thêm. Cờ vàng vẫn giữ như cũ.”

(Sách chép việc này có sai sót[11], nhưng lời phê của Vua cần xem xét thêm.)

[66] Tam ty xin hạ lệnh cho lộ Hà Bắc mỗi năm mua hai vạn tấm lụa nhỏ để dùng trong cung và làm bao tử, áo xuân đông. Triều đình đồng ý. Trước đây, mỗi năm lộ Hà Bắc mua hai mươi sáu nghìn một trăm tám mươi tấm lụa nhỏ, nhưng nay không đủ dùng nên tăng thêm số lượng. Lại xuống chiếu cho các châu Tân, Lệ, Đức, Bác mỗi năm dệt năm trăm tấm lụa lớn theo phép tế, và trừ số lụa này vào số lượng lụa mua hàng năm.

[67] Xuống chiếu lập pháp lệnh cho các hộ dân sống trên thuyền từ năm đến mười hộ thành một giáp để kiểm tra, giúp đỡ lẫn nhau. Đây là theo đề nghị của Ty Đề điểm hình ngục Phúc Kiến.

[68] Ty Tường định lễ văn tâu: “Theo sách 《Quốc ngữ》, Vua cày một bạt, dân chúng cày đến ngàn mẫu, lúa thu hoạch được cất giữ ở kho phía đông nam. Từ thời Hán đến Đường đều có ruộng tịch điền và kho thần thương, nhưng nay đã bỏ không dùng từ lâu. Mọi thứ dùng cho tế tự đều phải mua ở chợ, không thể hiện được lòng thành kính. Xin cho đo đạc ngàn mẫu ruộng ở phía đông nam kinh thành làm ruộng tịch điền, đặt một viên lệnh, dời đàn Tiên Nông vào đó, lập kho thần thương ở phía đông nam.” Triều đình đều đồng ý. Lấy Giao xã lệnh Tân Công Hữu kiêm chức Tịch điền lệnh. Công Hữu xin ở phía nam vườn Ngọc Tân, dựa trên nền cũ của điện Bát Mạch, quy hoạch hơn mười một khoảnh đất làm ruộng, xây đàn, dựng kho, dẫn nước sông Huệ Dân và Thái vào tưới tiêu. Tuyển những người lính biết việc đồng áng làm lính tịch điền, cấp cho việc canh tác. Ngoài ngũ cốc, còn trồng cả rau quả. Mùa đông thì tháo nước[12]. Mọi thứ dùng cho tế tự trong năm đều lấy từ đây. Trước tiên dâng cúng, sau mới dâng lên Vua, nếu còn thừa thì bán lấy tiền chi dùng cho các việc lặt vặt, tiền còn thừa thì nộp vào kho Nội tàng, định thành lệnh.

(Cả hai bộ sử đều chép việc lập ruộng tịch điền.)

[69] Quyền Phát khiển Chuyển vận sứ kiêm Đề cử diêm sự Phúc Kiến lộ là Giả Thanh tâu, xin ngoài số tiền bán muối trả lại cho Ty Chuyển vận, hãy để riêng vào kho Phong trang để dùng khi cần thiết. Lại tâu, trong số các quan giám sát thuế vụ ở các châu huyện, những người thu được nhiều hơn mức quy định và các quan bắt được nhiều muối lậu, xin ngoài cách thưởng thông thường, hãy xét thưởng thêm.

[70] Ngày Giáp Thìn, Cấp sự trung, Tập hiền điện tu soạn, Tri thẩm hình viện Tô Thái mất.

[71] Ngày Đinh Mùi, xuống chiếu cho các lộ Chuyển vận ty, việc chi di, khoa chiết hai thuế, đều phải ghi rõ ngày tháng ban hành lên Trung thư. Vì Trung thư tâu rằng theo chiếu năm Hi Ninh thứ 8, việc chi di hai thuế phải được ban hành trước nửa năm khi bắt đầu thu, nhưng các Chuyển vận ty phần nhiều đợi sát ngày thu mới ban hành, như phủ Khai Phong bắt đầu thu thuế hạ từ ngày 15 tháng 5, nhưng đến ngày 12 tháng 5 mới ban hành xuống các huyện, làm trở ngại việc dân kịp thời nộp thuế.

(Chí có ghi.)

[72] Xuống chiếu cho Đông đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu, Quyền phát khiển Quảng Nam Tây lộ đô giám Trương Cát, Ứng Thiên phủ Tả quân tuần phán quan, Quyền quản câu Quảng Nam lộ Kinh lược ty cơ nghi văn tự Lưu Tử Dân, Trang trạch phó sứ, Thuận châu đô giám Dương Nguyên Khanh, mỗi người được cho một con làm quan, Nguyên Khanh còn được hưởng ân điển di biểu. Cát đều mất vì công vụ ở Thuận châu.

[73] Ngày Mậu Thân, xuống chiếu cho Khoan y Thiên vũ bả môn hành trưởng hành, từ nay lấy 10 người làm định ngạch.

[74] Kinh lược ty Hi Hà lộ tâu rằng, nước Vu Điền đến cống phương vật, nhưng không có biểu chương của quốc chủ, theo phép không được nhận, đã dụ sứ giả về. Xuống chiếu nếu họ kiên quyết muốn cống, thì cho phép.

[75] Kinh lược sứ Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng Giao Chỉ trả lại 221 người bị bắt, chiếu chỉ thu nhận, bãi bỏ Thuận Châu, đem đất ấy giao cho Giao Chỉ. Trước đây, Lý Càn Đức sai sứ sang cống, xin được cai quản các châu như Quảng Nguyên. Tri châu Quế Châu là Triệu Tiết xin giữ lại không giao, hàng năm phải đóng quân 3.000 người, tổn thất năm sáu phần mười, không thể giữ được. Vua nói: “Càn Đức phạm tội, nên ta phát binh thảo phạt, Quách Quỳ không thể tiêu diệt được, gần thành công lại rút về. Nay Thuận Châu là vùng đất xa xôi hoang vu, chướng khí độc hại, triều đình có được cũng chẳng lợi gì, há lại tự đưa quân vào nơi chướng khí! Một người không được cứu, Trẫm còn thương xót, huống chi tổn thất năm sáu phần mười?” Chuyển vận phó sứ Miêu Thời Trung cũng tâu rằng các đồn lũy xây dựng ở Thuận Châu nằm sâu trong địa giới giặc, đường vận lương bị chặn, quân lính chết đến tám chín phần mười, chi bằng bỏ đi. Tuy nhiên, Quảng Nguyên Châu vốn thuộc quản hạt của Ung Châu, vốn không phải đất của Giao Chỉ.

Tiết muốn giữ lại Quảng Nguyên Châu, bản truyện và thần đạo bi đều không chép, đây căn cứ theo Chu bản. Tân kỷ và Cựu kỷ đều chép Giao Chỉ trả lại người bị bắt, đem Thuận Châu ban cho. 《Thời chính ký》 chép: Ngày mùng một tháng 8 năm Nguyên Phong thứ nhất, Trung thư dâng tấu của Tri châu Quế Châu Triệu Tiết, vâng chiếu chỉ xử lý việc phân chia địa giới với Giao Chỉ, Tiết xin giữ lại Thuận Châu, Tư Lang Châu không giao, hàng năm đóng quân 3.000 người, tổn thất năm sáu phần mười, không thể phòng thủ. Vua nói: “Triều đình vì Càn Đức phạm tội, đốt phá ba châu, nên phát binh thảo phạt, Quách Quỳ không thể tiêu diệt được nước ấy, gần thành công lại rút về. Nay Thuận Châu là vùng đất xa xôi hoang vu, chướng khí độc hại, triều đình có được cũng chẳng lợi gì, Giao Chỉ mất đi cũng chẳng hại gì, há lại tự đưa quân vào nơi chướng khí, một người không được cứu, Trẫm còn thương xót, huống chi tổn thất năm sáu phần mười?” 《Thời chính ký》 chép lời này vào ngày mùng một tháng 8 năm Nguyên Phong thứ nhất, e rằng lúc đó chưa có lời này, nay phụ vào lúc bỏ Thuận Châu.

Mặc bản ở cuối quyển 《Thực lục》 chép việc bỏ Thuận Châu trong phần kỷ thánh đức rằng: Sau khi thấy Quảng Nguyên Châu, Tri châu Quế Châu Triệu Tiết cho rằng dùng 3.000 quân, chết năm sáu phần mười, không thể giữ được. Vua nói: “Triều đình vì Giao Chỉ phạm tội, nên phát binh thảo phạt, Quách Quỳ không thể tiêu diệt được, gần thành công lại rút về. Nay Quảng Nguyên là vùng đất chướng khí độc hại, ta có được cũng chẳng lợi gì, chúng mất đi cũng chẳng hại gì, một người không được cứu, Trẫm còn thương xót, huống chi chết năm sáu phần mười?” Lại nữa, quân An Nam chết đến 20 vạn người, triều đình phải chịu trách nhiệm. Chu bản đã đưa lời của Tiết vào đây, lại sửa lời Tiết nói “không thể giữ” thành “có thể giữ”, nay theo Chu bản phụ vào đây, còn chỗ nói “không thể giữ” thì theo Mặc bản.)

[76] Chiếu bãi chức Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý, kiêm Thiên Chương các thị giảng, đồng tu Khởi cư chú, trực Xá nhân viện, quản câu Quốc tử giám Thẩm Quý Trưởng, bắt ngừng chức vụ. Hữu chính ngôn, Tri chế cáo, kiêm Thị giảng, Tri gián viện, đồng tu Quốc sử, tường định Giao miếu phụng tự lễ văn, Tông chính tự tu Ngọc điệp quan, Đề cử Quan cáo viện[13], Phán Quốc tử giám Hoàng Lí miễn truy quan, bắt ngừng chức vụ, cho chuộc tội bằng đồng, ngoài chức Thị giảng, các chức vụ khác đều bãi bỏ. Xu mật trực học sĩ Trần Tương bị phạt 10 cân đồng. Quý Trưởng bị tội nhận trúc điệm và đồ gốm của thái học sinh, thăng bổ nội xá sinh không công bằng và nghe lời thỉnh cầu. Hoàng Lí bị tội không xét việc thuộc quan lấy quyển thi không hợp cách và đối chế không trung thực. Trần Tương bị tội thỉnh cầu. Tất cả đều do Ngu Phiền dâng thư, Ngự sử đài xét ra tội.

[77] Ngày Kỷ Dậu, vì Thái hoàng thái hậu không khỏe, không thiết triều.

[78] Thành Đô phủ lộ Chuyển vận phó sứ, Ty phong lang trung Lý Chi Thuần làm Chuyển vận sứ, tái nhiệm. Ban đầu, vùng Thục bị dịch bệnh, Chi Thuần vào địa phận, thu gom tài sản của những hộ tuyệt tự chưa bán và người chết chưa chôn, sai quan lại chia nhau chôn cất, điều động tiền từ kho phủ, không đủ thì lấy tiền thường bình bổ sung, bán tài sản để bù lại, tâu lên đầy đủ. Chiếu chuẩn y, định thành lệnh. Thành Đô mỗi năm xuất 6.000 hộc gạo quan, hạ giá để bán cho dân nghèo. Có người bàn rằng làm thế là hại trên lợi dân, chiếu đưa việc này ra bàn, Chi Thuần nói: “Thành Đô là căn bản của vùng Thục, dân đã sống nhờ vào đó cả trăm năm, nếu đoạt đi, họ sẽ phiêu bạt khắp nơi, xin giữ nguyên như cũ.” Bàn luận bèn dừng lại.

[79] Lợi Châu lộ Chuyển vận phán quan, Thái thường bác sĩ Trình Chi Tài và Quỳ Châu lộ Chuyển vận phán quan, Chức phương lang trung Từ Sư Đán đổi chỗ cho nhau. Do Lợi Châu lộ Chuyển vận sứ Lưu Thầm và Chi Tài có hiềm khích nên xin tránh.

(Sách 《Đề danh ký》 không ghi tên Từ Sư Đán, ngày 6 tháng 5 năm thứ 3, Chi Tài lại từ Lợi Châu chuyển đến Tử Châu, có lẽ Sư Đán vốn chưa nhậm chức, mà Chi Tài lại trở về. Cần xem xét thêm.)

[80] Ngày Canh Tuất, vì Thái hoàng thái hậu uống thuốc, ban đức âm giảm tội chết cho tù nhân, tội lưu đày trở xuống được tha.

[81] Chiếu rằng Thái hoàng thái hậu bệnh lâu ngày, lệnh các phụ thần vào cầu đảo trời đất, tông miếu, xã tắc và các đền thần trong kinh đô, đồng thời ở các cung quán, chùa viện lập đạo trường trong 7 ngày đêm, tại Ngũ Nhạc, Tứ Độc và các nơi linh tích, lệnh các Thông phán làm theo. Lại lệnh Khai Phong phủ tìm người giỏi chữa bệnh phong hư, đưa tên lên.

[82] Ngày Nhâm Tý, chiếu rằng vì Thái hoàng thái hậu bệnh, cho phép các đồng tử trong các cung quán, chùa viện ở kinh đô từ 40 tuổi trở lên, các trưởng phát đồng tử từ 35 tuổi trở lên, có 3 trướng và 10 năm tuổi được làm tăng ni, đạo sĩ, lệnh Ngự dược viện ở Khải Thánh viện tổ chức đại hội, cấp độ điệp cho họ.

[83] Chiếu rằng các hộ ở thôn quê hai châu Lân, Phủ không phải nộp tiền dịch. Hàn Giáng tâu rằng nghĩa quân thượng phiên ba châu Lân, Phủ, Phong đã được miễn nộp tiền dịch, mà vùng biên giới đất cằn, các hộ thôn quê nghèo khó, nên cũng được miễn. Việc giao cho Tư nông tự, cho rằng châu Phong vốn không có tiền dịch, các hộ thôn quê châu Lân, Phủ mỗi năm nộp hơn 2.000 quan, xin theo lời tâu của Giáng, lấy tiền dịch dư thừa của các châu Thái Nguyên, Phần, Trạch, Tấn, Giáng để bù vào.

[84] Định Châu lộ An phủ sứ Hàn Giáng tâu rằng, người phương Bắc là Thôi Sĩ Ngôn nhiều lần đến quân An Túc dò la việc, kết hợp với thương nhân Đông Kinh là Tô Văn vẽ địa lý thành trì các châu quân Hà Bắc, Sĩ Ngôn bị dân quân bản quân dụ đến thôn Diêm Đài phía nam giới hạn hai bên bắt giữ. Chiếu rằng Sĩ Ngôn chưa qua giới hạn phía Nam, đã vội bắt giữ, e gây thêm rắc rối, từ nay phát hiện gian tế phương Bắc, phải dụ vào đất của ta mới được bắt giữ, lại chiếu cáo bắt Tô Văn, thưởng 1.000 quan tiền, sắp xếp trong hàng ngũ quan lại.

[85] Viện Tường định lễ văn tâu: “Nay việc tế tự đã dùng mũ áo của ba đời, lại thêm kiếm của nhà Tần, thật là trái lễ, xin bỏ kiếm.” Lại tâu: “Khi tấu sự ở giao miếu, không nên cởi giày dép. Các nghi thức như đặt chỗ để cởi kiếm, cởi giày dép, hoặc đeo kiếm bên trong, cất giày dép, đều xin sửa đổi.” Vua nghe theo.

(Ngày 17 tháng 10 năm thứ hai, theo lời tâu, so với lễ văn đã thêm vào, xin xét kỹ lại.)

[86] Ngày Quý Sửu, xuống chiếu từ nay các lộ Tần, Phượng phát hiện mỏ, nếu Ty Chuyển vận một quý không khai thác, thì giao cho Ty Kinh chế tài dụng lộ Hi Hà quản lý.

[87] Ty Thừa chỉ Xu mật tâu, tính toán giảm bớt tiền lương và tiền thuê mướn của binh lính, cung thủ dưới quyền Tuần kiểm, Huyện úy ở phủ Khai Phong để cấp tiền dạy võ nghệ cho các Đại bảo trưởng, Vua nghe theo. Lệnh cho Ty Thừa chỉ lập pháp dạy tập, lại cấp thêm 2 vạn quan tiền phường trường ở phủ giới để cấp cho bảo giáp.

[88] Ngày Ất Mão, Thái hoàng thái hậu băng ở cung Khánh Thọ, trăm quan vào chầu ở sân cung. Lúc đó, tể thần Ngô Sung vì bệnh không đến, Vương Khuê lên thềm phía tây tuyên đọc di chiếu. Chế độ viên lăng được thực hiện theo lệ cũ của Chiêu Hiến và Minh Đức hoàng thái hậu. Hoàng thượng phụng sự Thái hoàng thái hậu hết mực hiếu thảo, mọi việc làm vui lòng bà đều không thiếu. Khi ở trong cung, mỗi lần theo hầu bà đi đâu, Hoàng thượng đều nâng đỡ, việc dâng cơm và thăm hỏi đều rất cẩn thận. Thái hoàng thái hậu đối với Hoàng thượng cũng hết mực yêu thương. Mỗi khi Hoàng thượng thiết triều về muộn, bà đều tự đến bình phong đợi, hoặc tự tay cầm đồ ăn thức uống dâng lên. Suốt hơn mười năm như vậy, triều đình bên ngoài không ai biết rõ.

Theo lệ cũ của triều đình, người nam bên ngoại thích chưa từng được vào yết kiến. Thái hoàng thái hậu tuổi cao, bệnh nhiều, em trai là Dật cũng già, Hoàng thượng vì bà nên nói nên thường triệu kiến để tự an ủi, nhưng bà không đồng ý, xin thăng chức cho Dật cũng không cho. Một hôm, Dật nhân lúc hầu chuyện thong thả với Hoàng thượng, Hoàng thượng cố xin cho Dật được vào yết kiến, bà mới đồng ý. Hoàng thượng tự cùng Dật đến hậu các, ngồi một lát, Hoàng thượng đứng dậy trước, để Dật có thể bày tỏ tình thân, nhưng bà vội bảo Dật: “Đây không phải chỗ ngươi nên ở.” Rồi vội sai theo Hoàng thượng ra ngoài. Thái hoàng thái hậu có tổ tiên xa chôn ở Hà Nam, tường mộ đã lâu bị hư hỏng, bà sai nội thị mang tiền thuê thợ sửa lại, dặn phải giữ kín, không được làm phiền châu huyện dù chỉ một chút. Khi việc sắp xong, không ai biết. Sau đó, nội thị chết ở nơi mộ, người già trong làng báo lên, mọi người mới biết. (Dương Quốc Bảo, vận phán Thành Đô, lúc làm huyện úy Hà Nam, đã tận mắt chứng kiến việc này, kể lại với Lã Đào.)

Đến khi bà băng, Hoàng thượng đau buồn khôn xiết. Trong phòng ngủ của bà có một hòm niêm phong, Hoàng thượng mở ra xem, thì là bảo ấn hợp đồng cũ. Thời Nhân Tông, vì hỏa hoạn mất ấn, phải đúc lại, sau đó đào giếng tìm được ấn cũ, nên cất trong hòm, không ai biết.

(Tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 6, Giám tu Quốc sử Lã Đại Phòng tâu bẩm rằng: Trong truyện về Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu có chép việc Hoàng hậu có một hòm sách, thường khóa chặt đặt trong phòng ngủ, không ai biết đó là sách gì. Khi Hoàng hậu bị bệnh, đem hòm sách ấy dâng lên Hoàng đế, dặn rằng: “Đợi khi ta qua đời mới được mở ra.” Mấy ngày sau, Hoàng hậu khỏi bệnh, hỏi Hoàng đế: “Hòm sách trước đã mở chưa?” Hoàng đế đáp: “Chưa.” Hoàng hậu nói: “Rất tốt.” Rồi lại thu cất đi. Sau khi Hoàng hậu băng hà, Hoàng đế mở hòm sách mà Hoàng hậu đã niêm phong, thấy đó là những việc thời nhiếp chính, không ai được biết. Lại có một cuốn sổ, ghi chép mọi vật trong cung điện của Hoàng hậu, lớn nhỏ đều ghi rõ, không sai một ly. Quan Hữu sử nghe được chuyện này, chưa rõ hư thực, muốn xin chỉ dụ. Việc Hoàng hậu Từ Thánh Quang Hiến có một hòm sách, đó là một mặt ấn Hợp đồng bảo thời Nhân Tông, vì cung điện bị hỏa hoạn mà mất, Nhân Tông cho đúc lại một mặt ấn Hợp đồng bảo khác, chính là ấn Hợp đồng bảo hiện nay. Ấn cũ sau đó được tìm thấy khi đào giếng, Hoàng hậu thường cất giữ cẩn mật, không muốn người ngoài biết, không phải là việc thời nhiếp chính. Sử quan nghe được chưa rõ, việc này căn cứ theo chiếu chỉ và văn bản phê chuẩn mà nhà Lã Đại Phòng cất giữ.

Tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 2[14], Hoàng hậu Từ Thánh Quang Hiến băng hà, sau khi an táng đã lâu, Hoàng đế đến cung Khánh Thọ, xem xét di vật của Hoàng hậu, thấy một chiếc hộp, niêm phong rất kỹ, nâng lên thấy nặng, tả hữu đem dâng lên, Hoàng đế sai mở ra, mở nhiều lớp niêm phong, lại có lớp da bò bọc kín rất chắc, phá ra thấy một cái hộp, mở khóa, thấy một tờ tấu chương, Hoàng đế đọc, đó là tờ tấu của Tể thần Hàn Kỳ thời Anh Tông bị bệnh, xin Hoàng thái hậu tôn lập Hoàng đế làm Thái thượng hoàng. Hoàng đế xem xong, rất không vui, mới biết mưu đồ của Hàn Kỳ lúc đó, nhờ Hoàng hậu sáng suốt, không nghe theo lời xin ấy, niêm phong tờ tấu chương, để lại cho hậu thế. Văn Lộ công có ghi chép riêng về việc này, không rõ thực hư thế nào, lúc đó Sử quan tâu bẩm, chắc là việc này. Nay soạn truyện về Từ Thánh Quang Hiến, đã dùng chỉ dụ phê chuẩn để soạn lập, việc này không thấy nữa.

Thái hoàng thái hậu Quang Hiến mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 4 bị bệnh, đem một hộp văn tự, niêm phong rất kỹ, giao cho Thần Tông, dặn rằng: “Đợi khi ta chết hãy mở ra, nhưng không được vì thế mà trị tội người.” Hoàng đế khóc nhận lấy. Sau khi Hoàng hậu khỏi bệnh, Hoàng đế lại trả hộp văn tự ấy. Hoàng hậu nói: “Hãy cất đi.” Tháng 10 năm đó, Hoàng hậu băng hà, Hoàng đế mở hộp, thấy đó là những tờ tấu chương của các quan thời Nhân Tông muốn lập Anh Tông làm Hoàng thái tử nhưng có ý kiến khác nhau. Thần Tông cầm tờ tấu khóc lóc, vì di huấn của Thái hoàng thái hậu, không dám truy cứu tội người, nên Hoàng đế để tang ba năm trong cung, hết lễ hết hiếu, biết rằng ân đức của mẹ không thể báo đáp. Việc này căn cứ theo 《Văn kiến lục》 quyển 3 của Thiệu Bá Ôn, giống với ghi chép riêng của Văn Ngạn Bác, đã có tâu bẩm của Lã Đại Phòng và chỉ dụ phê chuẩn, thì nên lấy thực lục làm chính, nay tạm ghi lại ở đây.

Vì chỉ dụ phê chuẩn, chỉ có nhà Lã Đại Phòng cất giữ bản chính, thần Đào thực mắt trông thấy, cũng đã từ Thành Đô chuyển vận ty nộp lên rồi. Thiệu Bá Ôn nói mùa xuân năm thứ 4 là sai, thực ra là mùa xuân năm thứ 2.)

[89] Ngày Bính Thìn, các quan văn võ vào chầu sớm tối ở cung Khánh Thọ, ba ngày thì thôi, lại vào chầu bốn ngày thì thôi. Trước đó, Lễ viện tâu rằng theo lệ cũ của Chiêu Hiến hoàng thái hậu, các quan vào chầu sớm tối ba ngày thì thôi. Vua xuống chiếu thêm vào chầu bốn ngày, tông thất vào chầu đến khi thành phục thì thôi. Lễ viện lại tâu rằng theo lệ cũ của Minh Đức hoàng thái hậu, trong ngoài kinh thành cấm nhạc, đến khi Vua cởi tang phục thì như cũ. Vua xuống chiếu qua lễ tốt khốc.

[90] Ngày Đinh Tỵ, Vua xuống chiếu cho em của hoàng hậu là Chiêu Đức quân Tiết độ sứ kiêm Thị trung là Lý Dật vào chầu, vẫn để tóc xõa, mặc tang phục, các con cháu là Tụng, Bình, Dụ, Dụ, Chí, Độc đều theo lễ tang của con để tang mẹ, miễn vào chầu, không xử lý công việc, bổng lộc hiện tại vẫn như cũ. Lúc đó Bình làm Liêu Quốc tín phó sứ, lệnh cho đi ngựa trạm về kinh, lấy Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ kiêm Các môn Thông sự xá nhân, Hà Bắc duyên biên An phủ phó sứ là Lưu Quản thay thế, lệnh cho Hùng Châu chỉ báo với phương bắc rằng Bình bị bệnh.

[91] Ngày Mậu Ngọ, Vua xuống chiếu đổi viên lăng thành sơn lăng. (Cả 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép chiếu thư này.) Lệnh cho Tham tri chính sự Thái Xác soạn văn ai sách, Đồng tri Xu mật viện Lữ Công Trứ soạn văn thụy sách, Hàn lâm học sĩ Chương Đôn soạn văn thụy hiệu, Long đồ các Trực học sĩ Hàn Chẩn viết văn ai sách, thụy sách, thụy hiệu[15].

[92] Ngày Kỷ Mùi, lệnh cho Hàn Chẩn làm Đại hành thái hoàng thái hậu sơn lăng án hành sử, Chiêu tuyên sứ, Nhập nội đô tri là Vương Trung Chính làm phó.

[93] Ngày Canh Thân, Vua xuống chiếu rằng việc tu sửa sơn lăng của Đại hành thái hoàng thái hậu không lâu nữa sẽ tiến hành, có thể báo trước cho Tam ty cân nhắc chuyển đổi ứng phó, không được tính toán dư thừa, ngoài Kinh Tây lộ Chuyển vận ty tự lo liệu, các đạo khác không được tùy tiện dâng giúp.

[94] Ngày Tân Dậu, lệnh cho Tể thần Vương Khuê làm Sơn lăng sứ lo việc xây dựng lăng mộ cho Đại hành Thái hoàng thái hậu, Phán Thái thường tự Trần Tiến làm Lễ nghi sứ, Ngự sử trung thừa Lý Định làm Nghi trượng sứ, Tri Khai Phong phủ Tiền Tảo làm Kiều đạo đốn đệ sứ, Đồng phán Thái thường tự Trần Tương làm Lỗ bạ sứ. Sau đó, Trần Tương xin từ chối vì bệnh, nên lấy Hàn lâm học sĩ Bồ Tông Mạnh thay thế. Lúc này, Trung thư tâu rằng: “Triều ta khi cử Nghi trượng sứ và Lỗ bạ sứ, hoặc do thiếu quan, hoặc do nhầm lẫn, nên Ngự sử trung thừa đều có thể kiêm nhiệm. Nay xét theo lệ của Chiêu Hiến và Minh Đức hoàng thái hậu, sai Ngự sử trung thừa kiêm Nghi trượng sứ. Năm Thiên Thánh thứ 2, khi làm lễ Nam Giao, sai Ngự sử trung thừa Tiết Khuê làm Lỗ bạ sứ. Sách 《Hội yếu》 dẫn chuyện cũ, Ngự sử trung thừa vốn nên làm Nghi trượng sứ. Đầu triều vẫn theo chế độ này, sau đó nếu Ngự sử trung thừa khuyết, thì lấy các quan khác thay thế, nhưng chức vụ vẫn do lại viên trong đài đảm nhiệm. Nghi trượng sứ không có chức trách riêng, chỉ lệnh cho Hiến ty đốc thúc các ty mà thôi. Các năm Thiên Thánh, Minh Đạo đều có Ngự sử trung thừa làm Lỗ bạ sứ, đây không phải là chế độ cũ.”

(《Tân kỷ》 chép việc lệnh Vương Khuê làm Sơn lăng sứ, 《Cựu kỷ》 không chép. Lại lệnh Nhập nội phó đô tri Lý Hiến làm Sơn lăng đô đại quản câu, Nhập nội đông đầu cung phụng quan, ký Lục trạch sứ, Khánh Châu đoàn luyện sứ Tống Dụng Thần làm Đô đại đề cử tu phụng hoàng đường.)

[95] Cùng ngày, bách quan dâng biểu xin Vua nghe chính sự, chiếu đáp không cho. Từ đó, bảy lần dâng biểu, mới hạ chiếu đợi đến khi hết thời gian tang chế, Hữu ty sẽ định ngày Vua ra ngự điện.

(《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép việc bảy lần dâng biểu.)

[96] Lễ viện tâu rằng: “Theo lệ cũ của Chiêu Hiến và Minh Đức hoàng thái hậu, có nhiều việc do thời gian lâu xa, lễ chế không đầy đủ, xin được tham khảo và so sánh với các án lệ về sơn lăng để xin thi hành.” Vua đồng ý.

[97] Ngày Nhâm Tuất, lệnh cho Mã quân đô ngu hậu, Kim Châu quan sát, quyền quản câu Thị vệ Mã bộ quân ty Yến Đạt làm Sơn lăng tu phụng tổng quản, chuyên trách việc điều động cấm quân bảo vệ công trình. Tống Dụng Thần và các quan khác chuyên trách việc điều động binh lính xây dựng, hai ty không được xâm phạm lẫn nhau.

[98] Tam ty tâu rằng, từ nay việc áp tải vận chuyển trên sông Biện và các lộ Giang Nam, Kinh Hồ, xin lấy bảy phần sai sứ thần Tam ban, ba phần sai quân đại tướng, điện thị. Vua nghe theo. Trước đó, chiếu rằng sứ thần Tam ban tại chức thường không dưới ba bốn trăm người, có người đến một hai năm mới được sai khiển, mà quân đại tướng của Tam ty lại không đủ, việc vận chuyển kho tàng thiếu người quản áp, nên lệnh cho Tam ty bàn việc dùng sứ thần thay thế, đồng thời định ra pháp lệnh thưởng phạt về thời hạn nhiệm kỳ. Tam ty bèn tâu rằng, việc vận chuyển lương thực trên sông Biện, theo phép cũ không hạn chế số phần sai sứ thần, còn bốn lộ Giang Nam, Kinh Hồ cho phép sai sứ thần năm phần, cùng với các lộ trước đây không sai sứ thần, nếu đều dùng sứ thần thay thế, thì lương thực chi phí so với quân tướng sẽ nhiều hơn. Vì thế mới có lời thỉnh cầu này.

(Ngày Quý Hợi mưa bụi, cả sử cũ và sử mới đều chép, nay bỏ đi.)

[99] Ngày Giáp Tý, làm lễ thành phục cho Thái hoàng thái hậu tại cung Khánh Thọ, trăm quan thành phục ở ngoài cửa Đông nội, vào dâng lời an ủi ở gian đông điện Khánh Thọ, an ủi Hoàng thái hậu, Hoàng hậu ở ngoài cửa cung.


  1. Chữ 'đệ' trong 'đẳng đệ' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phương vực 16/14 bổ sung
  2. Kiểm định các vật liệu đóng cọc ở các đê, chữ 'liệu' nguyên là 'khoa', theo các bản và 《Tống Hội Yếu》 phương vực 15 tờ 5 sửa lại.
  3. tiền muối đinh chín trăm văn ngoại 'văn', bản các làm 'quán', nghi ngờ là đúng.
  4. Giang Chiết 'Chiết' dưới nguyên có chữ 'lộ', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 174 《Thực hóa chí》 bỏ.
  5. Kinh Tây, 《Tống sử》 quyển 486, 《Hạ quốc truyền》 chép là 'Tây Kinh'.
  6. Nguyên bản viết 'Giảm bán'. Theo 《Tống sử》 quyển 188, chí về quân bộ, điều Thiên Vũ: '(Năm Nguyên Phong thứ 2), bãi bỏ quân thứ năm, đổi quân Hàm Bình thứ nhất thành quân Hùng Vũ Nỗ Thủ. Tháng 9, ra chiếu không đổi, chỉ không bổ sung người thiếu.' Lại theo điều Hùng Dũng: '(Năm Nguyên Phong thứ 2), quân Hàm Bình thứ nhất, không bổ sung người thiếu.' Căn cứ vào đây và văn bản, 'Giảm bán' nên là 'Hàm Bình', do chữ gần giống nhau mà sai, nay sửa lại.
  7. lệnh cho các hộ xay bột và người bán thức ăn ở dãy nhà phía đông và tây thành lập chợ bán bột 'lệnh', bản các làm 'nay'.
  8. 'Biên' trong sách 《Tống Hội Yếu》 phần Thực hóa 24-19 viết là 'Biên'.
  9. 'Pháp phi' hai chữ nguyên bản đảo ngược, theo sách trên sửa lại. 'Tam' trong sách trên viết là 'Nhị'.
  10. Giao xã lệnh không dự vào việc tế tự: Đây là chế độ nhà Tống, căn cứ theo văn bản, nghi ngờ chữ 'Giao' phía trên có chữ bị thiếu.
  11. Sách chép việc này có sai sót, trên chữ 'Chí' nguyên có thêm hai chữ 'Tống sử', bản hoạt tự giống bản gốc, các bản khác không có hai chữ 'Tống sử', 《Tứ Khố Toàn Thư Khảo Chứng》 quyển 30 cũng không chép điều này. Xét kỹ lời chú, đây là chú thích nguyên văn của Lý Đào, không phải lời bàn của người Thanh, nên theo các bản khác mà bỏ đi.
  12. Sách 《Hoàng triều loại uyển》 quyển 18 dẫn 《Nguyên Phong thánh huấn》 điều về tịch điền và 《Tống sử》 quyển 102 phần Lễ chí đều chép là 'mùa đông thì cất giữ băng', có lẽ đúng là như vậy.
  13. 'Đề cử quan' ba chữ nguyên thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66/9 bổ sung.
  14. Tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 2, chữ 'Nhị' nguyên bản viết là 'Tam', căn cứ theo văn trên và 《Tống hội yếu》 hậu phi nhất chi 3 sửa lại.
  15. Chữ 'bảo' ở đây rõ ràng là nhầm với chữ 'hiệu', nên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.