"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 301: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 2 (KỶ MÙI, 1079)

Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 2 đời Thần Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 11, ngày Ất Sửu, mùng một, Lễ viện tâu: “Theo lệ cũ về lăng tẩm thời Minh Đạo, khi mở cửa lăng, trăm quan mặc tang phục ban đầu, vào nội tỉnh, còn các chức Đô tri, Áp ban trở xuống thuộc Nội thị tỉnh, cùng quân viên, sứ thần Tam ban, quan kỹ thuật thì không mặc. Xin làm theo lệ cũ.” Chiếu rằng Đô tri, Áp ban trở xuống đều mặc tang phục ban đầu như trăm quan, còn lại theo lệ cũ.

[2] Chiếu rằng các quan kinh triều, người được tuyển chọn, sứ thần nếu thi đỗ về nghĩa lý kinh sách, luật lệnh, người đỗ đầu được thăng một bậc, bốn người kế tiếp được ưu tiên bổ nhiệm tại triều đình, 130 người đỗ trung bình được về quê nhà trước, 336 người đỗ hạng dưới được bổ nhiệm làm quan.

[3] Ngày Đinh Mão, bãi chức Chuyển vận phó sứ Kinh Tây lộ là Chu Ước, lấy Quyền phát khiển Độ chi phán quan, Thái tử Trung xá Lý Sát thay thế, đợi khi việc lăng tẩm xong sẽ trở về bản ty.

[4] Truy phong mẹ của Văn tư sứ Lý Lượng là Triệu thị, Thái quân huyện Thiên Thủy làm Vĩnh Gia quận phu nhân. Vì Lượng tâu rằng Triệu thị là chắt của Hàn Vương Triệu Phổ, là cháu dâu của Hiến Mục Đại trưởng công chúa, xin được gia phong theo lệ như vợ của bác là Đoan Ý.

[5] Tam ty tâu: “Trà lạp ở Phúc Kiến lộ từ khi cấm buôn bán tư nhân, các trường quan dần bán được nhiều hơn. Xin từ nay lượng trà cần mua hàng năm, giao xuống cho Chuyển vận ty, hạn trong năm phải chuyển đến kinh đô. Còn các lộ Giang Chiết, Kinh Hồ, Xuyên Hạp tạm cho phép thông thương.” Theo đó.

[6] Ngày Mậu Thìn, chiếu các lộ châu huyện đều cấm nhạc đến lễ Tốt khốc. Sau đó Lễ viện tâu: “Xét theo lễ, sau khi chôn cất thì làm lễ Ngu, sau lễ Ngu thì làm lễ Tốt khốc, sau lễ Tốt khốc thì làm lễ Phụ. Thời Cảnh Đức, lễ Tốt khốc của Minh Đức hoàng hậu làm vào 100 ngày, sau Tốt khốc không cấm nhạc. Lấy 100 ngày làm Tốt khốc là lễ của sĩ nhân thời xưa, không nên áp dụng ở triều đình.” Bèn chiếu đổi Tốt khốc thành 100 ngày.

[7] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu cách chức Vương Duyễn Chi, chức Trực giảng Quốc tử giám, kiêm chức Suy quan Đoàn luyện Dĩnh Xuyên, tước bỏ danh tịch, vĩnh viễn không được bổ nhiệm lại. Thái thường thừa Dư Trung bị truất một chức, bị cách chức. Giám môn Đông tác phường, Phán quan Tả quân tuần Hà Nam Vương Miễn Chi, Bí thư thừa Phạm Động bị thay thế. Duyễn Chi bị tội nhận hối lộ của Thái học sinh Chương Công Thương, bổ nhiệm lên Thượng xá không đúng thực tế, tội đáng phải đi đày hai năm. Trung bị tội nhận hối lộ của Thái học sinh Trần Độ, tội đáng phải đánh trượng. Động bị tội làm quan phong di để lộ số hiệu. Miễn Chi là em của Duyễn Chi, cũng bị tội nhận hối lộ, nhờ cậy xin xỏ với Trung và Duyễn Chi. Tất cả đều do Ngu Phiền dâng thư, giao xuống Ngự sử đài xét hỏi, lại theo lời thỉnh cầu của Ngự sử Hà Chính Thần. Những lời khai trong ngục, dù Phiền không nói, đều bị truy xét. Duyễn Chi và những người khác tuy được ân xá giảm tội, nhưng vẫn bị trách phạt đặc biệt. Ban đầu định đưa Duyễn Chi đến Hồ Nam an trí, sau đó chỉ cách chức. Tuy nhiên, vụ án Thái học kéo dài hơn một năm mới kết thúc, bắt bớ khắp nơi, đều do Thư Thiện và Hà Chính Thần chủ trì.

[8] Xuống chiếu: “Kiền Châu có 1.536 người Thương trượng thủ, Phủ Châu và Kiến Xương quân mỗi nơi có 1.718 người Hương đinh, Quan quân, Thương trượng thủ làm định ngạch. Mỗi năm vào lúc nông nhàn, luân phiên các quan Giám ty, Đề cử ty đến kiểm tra võ nghệ, để phòng ngừa gian đạo.” Theo lời thỉnh cầu của Chuyển vận phó sứ Giang Tây Tưởng Chi Kì trước đây.

[9] Xu mật trực học sĩ, Thượng thư hữu thừa đã về hưu Lý Tham qua đời.

[10] Ngày Ất Hợi, xuống chiếu: “Phu nhân của Bộc An Ý Vương được đưa về hợp táng ở Bộc viên, lệnh cho quan Lễ bàn bạc nghi lễ phụng thờ rồi tâu lên.”

[11] Ngày Bính Tý, Tri thẩm quan đông viện Trần Tương xin ủy thác cho quan viện này soạn lại sắc lệnh và quy chế của viện. Được chấp thuận.

[12] Ngày Đinh Sửu, Hàn lâm học sĩ Chương Đôn tâu: “Xét theo điển lễ, kẻ dưới không được làm lễ luỵ cho người trên, vì vậy thụy hiệu của Đại hành Thái hoàng thái hậu không phải là việc thần tử dám tự quyết, mà cần phải thỉnh cầu. Nếu thỉnh cầu ở Thái miếu thì hợp lễ. Xin giao cho quan Lễ bàn bạc kỹ.” Do đó, Lễ viện tâu: “Tang lễ của Hiếu Minh Hoàng hậu, trăm quan viết thụy hiệu, bàn định rồi đọc ở miếu, dâng lên linh toạ. Chiếu cho Thượng thư tỉnh tập hợp trăm quan bàn bạc, đều nói: ‘Thụy hiệu của mẫu hậu nên định ở miếu rồi đọc, để tỏ rõ việc thừa nhận từ tổ tông. Thụy hiệu của Hiếu Minh Hoàng hậu, xin trăm quan bàn định, sau khi chế thư ban xuống, mới sai quan cáo ở Thái miếu mà không đọc.’ Nay tham khảo thụy pháp xưa, hoàng hậu nhận thụy hiệu từ chồng, thần tử nhận từ quân vương. Đại hành Thái hoàng thái hậu là phối ngẫu của Nhân Tổ, theo lễ là tôn quý, nên tập hợp quan lại định thụy hiệu ở miếu. Hơn nữa, kẻ nhỏ không làm lễ luỵ cho người lớn, con không phong tước cho mẹ. Trong miếu thất của Anh Tông hoàng đế, theo lễ không nên thỉnh thụy hiệu. Xin tập hợp Trung thư, Xu mật viện, quan Thị tòng, Ngự sử đài từ ngũ phẩm trở lên, Thượng thư tỉnh từ tứ phẩm trở lên, các ty từ tam phẩm trở lên, tông thất chính nhiệm từ Đoàn luyện sứ trở lên, đến Thái miếu làm lễ thỉnh thụy hiệu, sau đó chiếu cho hữu ty làm sách bảo, cáo với trời đất, tông miếu, xã tắc, rồi đọc ở Khánh Thọ điện.” Được chấp thuận.

[13] Chương Đôn lại tâu: “Thụy hiệu của các hoàng hậu thời tổ tông đều là hai chữ, chỉ có Chương Hiến Minh Túc là bốn chữ.” Tấu trình lên, Vua phê: “Công đức của Thái hoàng thái hậu lớn lao, xưa nay chưa từng có, dùng bốn chữ làm thụy hiệu vẫn sợ chưa đủ để hình dung được một phần vạn. Tạm theo lệ cũ thôi, nên dùng bốn chữ định thụy hiệu.”

(Sách 《Tân kỷ》 chép vào ngày Nhâm Thìn rằng chiếu định thụy hiệu bốn chữ cho Đại hành Thái hoàng thái hậu.)

[14] Ngày Kỷ Mão, lễ đại tường được cử hành theo nghi thức tiểu tường. Trước đó, Lễ viện dâng lên nghi chú về lễ đại tường: Hoàng đế sau khi cử hành lễ tường xong, cởi bỏ y phục tiểu tường, mặc áo sa trắng, đội khăn phốc đầu, áo sam màu vàng, đai bạc đen, quần thần dời ban đến dâng lời an ủi. Vua phê: “Trong cung đã thực hành tang lễ ba năm, nên không đợi cởi tang phục mới nhận lời an ủi của quần thần.” Đến lúc này, lễ tường xong, Vua vẫn mặc tang phục như cũ, ngự ở gian phía đông điện, quần thần dâng lời an ủi.

[15] Xuống chiếu hàng năm tăng cấp thêm 400 thạch gạo nếp cho Định Châu để nấu rượu công sứ, đồng thời giảm bớt số lượng sứ thần ăn lương thừa. Trước đó, An phủ sứ lộ Định Châu là Tiết Hướng tâu: “Tiền công sứ trước đây mỗi năm tiêu hết hơn 12.000 quan, năm Hi Ninh thứ 7 cắt giảm còn 8.000 quan, sau đó tăng thêm tướng quan, dưới tướng tăng thêm sứ thần áp đội, sứ thần võ cử đỗ đạt được thăng chức, sứ thần chuẩn bị sai phái, chỉ huy giáo áp quân đội, giám quan thị dịch vụ, so với trước tăng thêm 23 người, tiền công sứ không đủ chi dùng, thêm vào đó tiền bạc, lương thảo ở vùng biên giới thường xuyên thiếu hụt, lúc không có việc lại tăng thêm sứ thần, ăn lương thừa, e rằng không phải là kế sách hay. Xin tăng thêm tiền công sứ, đồng thời cắt giảm số sứ thần ăn lương thừa được tăng thêm ở các lộ trong những năm gần đây.” Vì thế có chiếu này.

[16] Ngày Canh Thìn, xuống chiếu cấm quân giáo duyệt và sương quân không được dùng làm thợ ở tác viện.

[17] Ngày Nhâm Ngọ, sai các quan đại thần cầu tuyết.

[18] Ngày Quý Mùi, Vua lần đầu tiếp kiến quần thần ở gian phía tây điện Sùng Chính. Từ đó, mỗi ngày Vua ngự ở điện Sùng Chính nghe chính sự.

(Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép là bắt đầu ngự điện, 《Cựu kỷ》 còn chép thêm bốn chữ “ai động tả hữu”.)

[19] Ngày Kỷ Sửu, Vua không thiết triều. Quần thần xin tôn thụy hiệu cho Đại Hành Thái Hoàng Thái Hậu ở Thái Miếu.

[20] Ngày Canh Dần, ban chiếu thăng chức cho 18 người ở Tả tàng khố Tây Kinh là Hoàng Kim Mãn [Chiếu thăng chức cho 18 người ở Tả tàng khố Tây Kinh là Hoàng Kim Mãn: Tả tàng khố Tây Kinh là tên kho chứa chứ không phải tên chức quan. Trong các chức Tư sứ của nhà Tống có chức Tả tàng khố Tây Kinh sứ, xem 《Tống sử》 quyển 169, Chức quan chí. Căn cứ theo văn bản, nghi ngờ dưới chữ “Khố” thiếu chữ “Sứ”. Lại nữa, “18” trong bản các bản khác chép là “10”.] theo thứ bậc. Đây là luận công đánh dẹp Nùng Trí Xuân.

[21] Bộ Từ tâu: “Năm Nguyên Phong thứ nhất, cấp 9.360 giấy độ điệp cho tăng ni, năm nay cấp 7.942 giấy.” Vua muốn biết số liệu hai năm, nên ban chiếu cho Bộ Từ báo cáo.

[22] Ngày Tân Mão, ban chiếu dời hài cốt ba phu nhân của Bộc An Ý Vương về hợp táng, cấp đầy đủ nghi trượng lỗ bộ, đến ngoài cửa thành thì giảm một nửa. Lấy Hàn lâm học sĩ Chương Đôn làm sứ dời hộ tống, Nhập nội đông đầu cung phụng quan, Câu đương ngự dược viện Lý Thuấn Cử làm Đô giám dời hộ tống. Ban cho chủ phụng từ sự là Bộc quốc công Tông Huy 2.000 lạng bạc, 2.000 tấm lụa, 3.000 quan tiền để lo việc tang lễ.

[23] Ban chiếu cho Thái tử thiếu sư đã về hưu Lý Đoan Nguyện, con của Hiến Mục Đại trưởng công chúa, từ khi về hưu được đặc cách cấp một nửa lương tiết độ sứ bằng tiền mặt, người khác không được viện dẫn làm lệ. Đoan Nguyện trước đây về hưu với chức Thái tử thiếu bảo, được chiếu cấp một nửa lương tiết độ sứ, đến nay quan coi việc xét duyệt lương bổng cho rằng không phải là người từng giữ chức ở hai phủ thì không được hưởng tiền mặt, nên đã tăng thêm hơn 10.000 quan tiền. Đoan Nguyện tự trình bày, nên mới có chiếu này.

[24] Quyền Tam ty sứ Lý Thừa Chi, Hộ bộ phó sứ Vương Cư Khanh, Phán quan Lưu Thỉnh đều bị phạt 10 cân đồng. Vì theo chiếu tay, thần chủ và ngu chủ của Đại hành Thái hoàng thái hậu dùng gỗ dâu và gỗ lật làm thần thể, mà Tam ty lại niêm yết ở chợ Tạp mãi vụ để mua từ nhà dân thường, sự bất kính không gì hơn thế, nên bị phạt.

[25] Cho con trai của Kiềm hạt Quảng Nam Tây lộ là Trương Thuật là Viện làm Tam ban tá chức, ban cho nhà ông 100 tấm lụa. Thuật chết ở Thuận Châu, Viện cũng có chiến công riêng, nên được ưu đãi ghi công.

[26] Minh Châu tâu rằng sứ giả triều cống Cao Ly xin mua thuyền, chiếu lệnh cho mượn thuyền thần Linh Phi và Thuận Tế. Lại tâu rằng Huyện úy Tượng Sơn, Minh Châu là Trương Trung từng tặng thơ cho sứ giả triều cống Cao Ly, chiếu lệnh cách chức Trung.

[27] Ngày Nhâm Thìn, Ngô Sung và các quan dâng biểu xin Vua ngự ở chính điện, không cho. Năm lần xin, mới chấp thuận.

[28] Hàn lâm học sĩ Chương Đôn tâu rằng nên theo mệnh lệnh của tổ tông, dâng tôn hiệu lên Thái hoàng thái hậu là Từ Thánh Quang Hiến. Chiếu lệnh tuân theo.

[29] Tiền quyền Quảng Nam Đông lộ Đề điểm hình ngục Hứa Mậu được bổ làm Tri châu Hạ. Vương Ngạc tâu rằng các châu Thiều, Anh, Nam Hùng, Liên, Hạ, Đoan, Khang, Phong, Tân nên theo lệ của các châu Quảng, Huệ, Tuần, Triều, Nam Ân, lấy một trong ba đinh từ hộ chủ hạng tứ trở lên làm thương thủ. Được chấp thuận.

[30] Ghi chép con của Nội điện Sùng ban, Đồng Tuần kiểm Thuận Châu là Ngô Hạo là Nguyện làm Tam ban Sai sứ. Vì Hạo chết vì bệnh chướng khí.

[31] Khởi cư Xá nhân, Long đồ các Đãi chế, Tri châu Quế Châu là Tăng Bố được thăng làm Long đồ các Trực học sĩ, vì đã hoàn thành việc xử lý sự vụ Giao Chỉ.

[32] Ban cấp 300 độ điệp để đào hào thành Quảng Châu.

[33] Chiếu lệnh cho châu Phong được theo lệ của châu Uy và châu Mậu, cử người được tuyển làm quan chức kinh và huyện lệnh.

[34] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu cho Khai Phong phủ giới dạy các đại bảo trưởng làm giáo đầu, các quan đề cử là Chiêu tuyên sứ, Quả châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Vương Trung Chính, Đông thượng các môn sứ, Vinh châu thứ sử Địch Tư làm việc này. Ban đầu, Vương An Thạch bàn giảm chính binh, dùng dân binh bảo giáp thay thế, bèn bắt đầu đặt các sứ đề cử dạy tập, sau đó mở rộng đến ba lộ phía tây bắc. Thái Tổ hoàng đế răn dạy loạn lạc cuối đời Đường và Ngũ đại, bắt đầu đặt ra quân chế, liên kết doanh trại, hậu đãi bổng lộc để thu hút người tài võ nghệ. Đóng trọng binh ở kinh sư để tiêu trừ khí thế bất phục của bốn phương, thay phiên nghỉ ngơi và điều động, khiến họ không thể lâu ngày sinh biến, nên hơn trăm năm thiên hạ vô sự. Dù thời thịnh trị của Hán, Đường cũng không thể so sánh được. Chi phí nuôi quân đều do dân đóng góp, nhưng chống giặc giữ nước, dân chúng không biết đến việc binh đao. Vương An Thạch không chịu nghiên cứu sâu, lại khinh suất bàn việc thay đổi, muốn áp dụng phép tắc thời Tam đại vào hiện tại, hẳn là không nghĩ đến sự không tương xứng giữa gốc ngọn, mà lợi hại khác nhau. Đời sau bàn luận không cho là phải, cuối cùng đã thay đổi.

(Đoạn này căn cứ vào bản mực chép vào. Bản chu có dán tờ ký rằng: Kiểm tra 《Nhật lục》 của Vương An Thạch, An Thạch từng tâu với tiên đế rằng: “Chỉ có quân chế của Thái Tổ là có thể thi hành được hiện nay, việc đặt bảo giáp, dân binh hiện nay không liên quan gì đến quân chế của Thái Tổ.” Vậy triều trước chưa từng thay đổi quân chế của Thái Tổ. Sử quan đời trước lại cho rằng phép binh nông thời Tam đại là không đúng, vu cáo chính sách tốt đẹp của triều trước, nên xóa bỏ. Bản mới vẫn giữ lại, và chép cả tờ ký của sử quan đời Chu, người xem nên phân biệt. Việc đặt quan đề cử bảo giáp ở ba lộ tây bắc vào ngày 15 tháng 6 năm thứ 3. Việc ban thưởng cho Vương Trung Chính, Địch Tư vào ngày 27 tháng 12 năm đó.

《Binh chí》 chép tháng 11 năm thứ 2, bắt đầu đặt ra phép tập dạy đại bảo trưởng ở phủ giới, dùng Chiêu tuyên sứ, Nhập nội nội thị tỉnh phó đô tri Vương Trung Chính, Đông thượng các môn sứ Địch Tư kiêm đề cử dạy bảo giáp đại bảo trưởng ở phủ giới, tổng cộng 22 huyện, lập 11 trường dạy; đại bảo trưởng tổng cộng 2.825 người, cứ 10 người cùng một loại võ nghệ, đặt một giáo đầu. Tổng cộng có 270 giáo đầu cấm quân, 30 đô giáo đầu, 10 sứ thần. Cung chia làm ba bậc: 8 đấu, 9 đấu, 1 thạch; nỏ chia làm ba bậc: 2 thạch 4 đấu, 2 thạch 7 đấu, 3 thạch; cưỡi ngựa bắn chia làm hai bậc: 9 đấu, 8 đấu; người có sức mạnh vượt trội được xếp vào bậc xuất sắc. Khi tập luyện, mỗi tháng cấp 3.000 tiền, mỗi ngày cấp ăn, quan cấp vũ khí, áo chiến, lại chuẩn bị bạc lá, rượu ngọt để thưởng khao. Năm thứ 3, đại bảo trưởng học xong, bèn đặt ra phép đoàn giáo, dùng đại bảo trưởng làm giáo đầu, dạy bảo đinh. Mỗi đô bảo chia những người gần nhau thành 5 đoàn, tập trung ở đất trống nơi đô, phó bảo chính ở để dạy. Dùng 10 đại bảo trưởng đã học xong để dạy luân phiên, 5 ngày một lượt. Chia bảo đinh làm 5 phần, một phần làm kỵ binh, hai phần làm cung thủ, ba phần làm nỏ thủ. Phép ở phủ giới hoàn thành, bèn mở rộng ra ba lộ, mỗi lộ đặt một quan văn võ đề cử. Việc dưới năm thứ 3 chưa rõ ngày tháng, tạm chép ở đây, cần tra cứu thêm. Việc đặt quan đề cử ở ba lộ vào ngày 15 tháng 6 năm thứ 3.)

[35] Chiếu cho Kim bộ lang trung, quyền phán Đô thủy giám Phạm Tử Uyên giảm thời gian khảo khóa hai năm, còn lại ban ơn có khác nhau. Vì có công lao trong việc nạo vét sông Biện.

[36] Quyền Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận phó sứ, Từ bộ viên ngoại lang, Tập hiền hiệu lý Chu Sơ Bình được bổ nhiệm làm Trực tập hiền viện.

[37] Ban cấp ba nghìn tấm độ điệp cho Duyện Châu để tu sửa Thánh miếu.

[38] Tháng 12, ngày Mậu Tuất, chiếu rằng từ nay số lượng giải phát tiến sĩ, Thái học lấy 500 người, Khai Phong phủ lấy 100 người làm mức. Theo chế độ cũ, Khai Phong là 335 người, Quốc tử giám là 160 người. Năm Hi Ninh thứ 8 hợp làm một, lấy số lượng giải phát thông dụng. Đến nay lại chia ra, và số lượng Thái học sinh nhiều, nên giảm số lượng giải phát của Khai Phong để bổ sung cho Thái học.

(Sách 《Chu sử》 chép: Vua muốn dần dần khôi phục chế độ hương cử lý tuyển, bỏ khoa cử, khiến cho việc học hành ở thổ điền để bổ nhiệm quan chức, nên giảm số lượng giải phát của Khai Phong để bổ sung cho Thái học. Lại có thiêm thiếp chép: Theo lời thân nghe của thần Kinh, và sửa chữa vào sách 《Trung thư thời chính》. Đây là ý riêng của Thái Kinh. Bản mới chỉ theo bản mực, nay cũng không lấy.)

[39] Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ kiềm hạt ty tâu: “Trước đây, một tấm lụa ở Xuyên Hạp giá hai nghìn sáu trăm tiền, theo biên sắc ước tính tang vật, hai đồng tiền sắt bằng một đồng tiền đồng. Những năm gần đây, một tấm lụa không quá một nghìn ba trăm tiền, ước tính tang vật hai tấm mới bằng một tấm tội, nhiều người không đến mức phạm trọng pháp, nên trộm cướp ngày càng nhiều. Pháp tự xin lấy một tiền rưỡi bằng một đồng tiền đồng.” Theo đó.

[40] Ngày Kỷ Hợi, Lễ viện tâu: “Phụng chiếu định rõ nghi lễ thiên phụ của ba phu nhân của Bộc An Ý Vương, xin theo lệnh dùng nghi trượng nhất phẩm, theo lệ cũ của Tấn Quốc đại trưởng công chúa, dùng cổ xúy.” Theo đó. Lại chiếu rằng các lễ khải thoàn chỉ lệnh Tông Huy tế cáo, làm bài chí ai và chúc văn, cùng việc thiên hộ đều do sứ giả thay làm.

[41] Kinh Nguyên lộ kinh lược ty tâu, người Tây Hạ là nô lệ của Trương Linh Châu giả làm người Hán, đến do thám việc biên giới, gặp đức âm nên được tha. Chiếu cho thích phối vào Lao thành Sâm Châu.

[42] Chiếu cho phép muối xanh trắng từ ngoài địa giới nhập vào Hà Đông lộ, người phạm tội bị lưu đày, các chức Tuần kiểm hoặc Trại chủ, Giám áp, quan Tân bảo trước tiên được thay thế. Theo lời thỉnh cầu của Chuyển vận sứ Hà Đông Trần An Thạch.

[43] Ngày Canh Tý, bổ nhiệm An Dương huyện Chủ bạ Ngu Phí, Giang Âm huyện Chủ bạ Thái Biện, Quang lộc tự Thừa Viên Mặc, Hàng Châu Châu học Giáo thụ Mai Hạo làm Quốc tử giám Trực giảng; Nhữ Châu Ty hộ Tham quân Đinh Chấp Cổ làm Thái học chính; Mục Châu Ty hộ Tham quân Diệp Cảnh Văn làm Thái học lục. Đều theo lời tiến cử của Trương Tảo.

[44] Ghi chép tên Thuyết, chắt của cố Kiền Châu Quan sát sứ Triệu Quang Tự, làm Tam ban Tá chức. Mẹ của Thuyết là họ Y (các bản khác ghi là họ Doãn) tự trình bày rằng Triệu Quang Tự vào năm Thuần Hóa được ban họ, thụ chức Lễ tân Phó sứ, bắt được Tiết độ sứ Hạ Châu Triệu Bảo Trung, thăng làm Hạ Châu Phòng ngự sứ, được tặng chức Kiền Châu Quan sát sứ. Nay con cháu được bổ làm quan đều đã mất, nên ghi chép tên Thuyết.

[45] Chiếu cho Ngự sử đài tu sửa lại sắc lệnh của một ty.

[46] Chiếu đặt chức Quản câu phụ táng văn thần ở hai lộ Tây Nam.

[47] Chiếu rằng trong nghi lễ ngự điện ngày Nguyên đán, nghi trượng và quân nhân đều sai phái binh sĩ Thiên Vũ và Thần Vệ.

[48] Ngày Nhâm Dần, Lễ viện tâu: “Theo lệ cũ, nhà các quan văn võ hiện đang tại chức phải đợi đến khi lễ phụ miếu xong mới được tổ chức hôn lễ, còn quan Kinh quan trở xuống thì đợi qua lễ đạm trừ. Tang chế của bề tôi đều như nhau, nhưng việc dùng lễ cát lại có sự khác biệt xa gần, điều này không hợp lý. Xin cho phép nhà các quan văn võ hiện tại chức, sau khi cửu ngu tế xong là lễ tốt khốc, được phép tổ chức hôn lễ. Quân dân qua tháng dễ, lễ đạm trừ không cấm, nhưng không được dùng hoa màu.” Được chấp thuận.

[49] Chiếu rằng từ nay những việc thỉnh cầu liên quan đến tài lợi và thị dịch, trước tiên giao cho Đô đề cử Thị dịch ty xem xét.

[50] Đô đại đề cử Thị dịch ty Vương Cư Khanh tâu: “Hàng năm cấp tiền hợp dược cho các châu phủ, đại quận 200 nghìn, tiểu quận 100 nghìn. Xin lấy một nửa số tiền đó mua thuốc ở Thị dịch vụ, còn lại để các châu phủ tự hợp dược.” Được chấp thuận, những nơi xa xôi không muốn mua thì cho phép.

[51] Chiếu rằng: “Các quân Kinh Nam Đoàn Kết, Hùng Lược gồm 12 chỉ huy trước đây đóng quân ở Thuận Châu và các nơi khác, nhiều người chết vì lam chướng[1], nên bàn việc ưu đãi, tuất cấp. Con cháu của các quân viên thì lệnh cho Ty Bộ Quân xếp hạng thấp hơn để bố trí. Những người tàn tật, không muốn làm lính hoặc không có con cháu thì được cấp thêm tiền[2]. Con cháu, em cháu của quân sĩ được tuyển làm lính, đều được cấp tiền tuất. Sau khi bị xóa tên khỏi sổ quân, được cấp thêm lương hai tháng, bổ sung vào quân cũ, và gia đình được cấp tiền hiếu tặng. Nếu cha mẹ trên 70 tuổi mà không có con cháu nương tựa, thì đặc cách cấp một phần lương nhỏ.”

[52] Chiếu cho Bảo Châu, Quảng Tín, An Túc, Thuận An Quân xây dựng thủy lợi. Lệnh cho An phủ sứ lộ Định Châu kiêm chức Chế trí đồn điền sứ lộ này, lấy tên là Ty Chế trí đồn điền sứ lộ Định Châu. Sai Tri Bảo Châu là Trương Lợi Nhất, An phủ sứ duyên biên Hà Bắc là Lưu Quản kiêm chức Đồng Quản câu công sự đồn điền lộ Định Châu, Thừa Đại Lý tự là Dương Anh sung chức Câu đương công sự Ty Chế trí đồn điền. Các châu, quân có xây dựng thủy lợi, đều do Tri châu, Thông phán kiêm Quản câu công sự đồn điền của châu, quân đó.

(Ghi trong 《Thời chính ký》, việc ngày mồng 8, ngày 27 đổi tên ty.)

[53] Ngày Quý Mão, sai quan đến các đền thần núi, sông gần kinh đô cầu tuyết.

[54] Ngày Ất Tỵ, Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Thần cho rằng việc tuyển chọn nhân tài cần xem xét cả đức hạnh và tài năng, đó là cách chọn lựa từ xưa ở làng xã. Bởi tài năng có thể đánh giá trong một ngày, nhưng đức hạnh thì phải qua thời gian mới biết được. Nay xét theo ý nghĩa của việc khảo hạch và tiến cử trong 《Chu quan thư》, đặt ra phép tuyển chọn, xét duyệt, thăng bổ trong Tam xá của Thái học, dâng lên sắc thức lệnh của Quốc tử giám và học lệnh, tổng cộng 143 điều[3].” Chiếu cho thi hành.

[55] Ban đầu, thái học sinh Đàn Tông Ích dâng sớ trình bày bảy phương sách giáo dục và dưỡng dục ở Thái học: Một là tôn trọng quan giảng, hai là coi trọng bổng lộc chính thức, ba là chỉnh đốn ba xá, bốn là chọn trưởng và dụ, năm là tăng cường tiểu học, sáu là nghiêm khắc trách phạt, bảy là đề cao chức Tư nghiệp. Vua xem lời tâu, cho là khả thi, bèn sai Định cùng Tất Trọng Diễn, Thái Kinh, Phạm Thang, Trương Tảo cùng soạn định pháp lệnh, đến nay dâng lên. Thái học đặt 80 trai xá, mỗi trai chứa 30 người. Ngoại xá sinh 2000 người, nội xá sinh 300 người, thượng xá sinh 100 người, tổng cộng 2400 người. Sinh viên nhập học phải có giấy tờ từ quê quán hoặc châu sở tại, thi xong mới được vào[4]. Hàng tháng có một kỳ thi tư, hàng năm có một kỳ thi công, bổ sung nội xá sinh; cách năm lại có một kỳ thi, bổ sung thượng xá sinh, niêm phong và sao chép bài thi như phép thi cử; còn thượng xá thì quan học không tham gia khảo thí.

Các trai hàng tháng ghi chép hành vi và tài nghệ của học sinh, lấy việc tuân theo giáo hóa, không trái quy củ làm hành, thông hiểu kinh sách và bài văn đúng quy cách làm nghệ. Trai trưởng, dụ, học lục, học chính, trực giảng, chủ phán quan lần lượt khảo sát và ghi chép vào sổ. Kỳ thi công, ngoại xá sinh đỗ hạng nhất, nhì, kết hợp với ghi chép về hành nghệ, những người có tên trong sổ sẽ được thăng lên nội xá. Nội xá sinh thi đỗ hạng ưu, bình, kết hợp với hành nghệ sẽ được thăng lên thượng xá. Thượng xá chia làm ba hạng[5]: Cả hai đều ưu là hạng trên, một ưu một bình là hạng trung, cả hai đều bình hoặc một ưu một không đạt là hạng dưới. Hạng trên được bổ làm quan, hạng trung được miễn thi Lễ bộ, hạng dưới được miễn giải. Căn cứ vào việc thăng bổ, hành nghệ tiến thoái, tính số người nhiều ít để thưởng phạt quan học. Những kẻ nhờ thăng xá mà làm điều gian, xử theo luật vi chế, không được hưởng ân xá khi thôi chức. Học chính tăng lên 5 người, học lục tăng lên 10 người, học lục có thể chọn từ học sinh.

(Cựu kỷ chép việc ban bố sắc thức lệnh và học lệnh cho Quốc tử giám, tân kỷ chỉ chép học lệnh.)

[56] Ngày Bính Ngọ, Ngự sử Thư Thiện tâu: “Hiện nay pháp luật trong thiên hạ, việc quan lại hiền hay không, còn có Giám ty xem xét. Đến như các cơ quan ở kinh sư, lại không được kiểm soát, nên Ngự sử không thể thi hành chức trách. Nếu cho phép Ngự sử được kiểm tra, xử lý mọi việc ở các cơ quan kinh sư, như Giám ty đối với quận huyện, thì có thể khiến mọi người biết sợ mà tuân theo, pháp luật được duy trì, đó cũng là ý nghĩa còn sót lại của 《Chu quan》.”

[57] Chiếu lấy các điều lệ hiện hành của các cơ quan ở kinh sư từ Biên sắc sở, cùng các chỉ thị tạm thời, sao chép gửi đến Ngự sử đài. Nếu cơ quan nào thi hành chậm trễ, tức khắc tâu lên. Trừ Trung thư, Xu mật ra, vẫn cho phép tạm thời xem xét văn bản. Sau đó, Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Xin theo lệ cũ, khôi phục lại sáu án: Lại, Binh, Hộ, Hình, Lễ, Công, để kiểm tra văn bản của các cơ quan ở kinh sư, mỗi án đặt hai viên lại, bãi bỏ hai viên Thôi trực quan.” Theo lời tâu, lại tăng thêm một viên quan ở đài.

(Sách 《Chức quan chí》 ghi lời Thư Thiện vào năm Hi Ninh thứ 9 là sai. Việc tăng thêm một viên quan ở đài cần xem xét lại. Ngày mùng 2 tháng 5 năm thứ 3, tăng thêm một viên Chủ bạ. 《Cựu kỷ》 chép: Ngự sử đài theo sáu tào của Thượng thư đặt sáu sát, để giám sát các cơ quan ở kinh sư. 《Tân kỷ》 chỉ chép việc đặt sáu sát của Ngự sử.)

[58] An phủ sứ Định châu Hàn Giáng tâu: “Đại Lý tự thừa Dương Anh điều tra được ở địa giới Định châu, phía tây từ chân núi, phía đông tiếp giáp đầm lầy, kéo dài hơn trăm dặm, có thể tích nước, đặt thành nơi hiểm yếu, xin cho phép tu sửa.” Theo lời tâu, lấy danh nghĩa dẫn nước tưới ruộng.

(Ngày mùng 8 và ngày 27, cần xem xét.)

[59] Tăng thêm 2000 quan tiền công sứ cho Hùng châu, lấy từ tiền phường trường. Do Tri Hùng châu Miêu Thụ tâu rằng, từ năm Hi Ninh, tiền công sứ bị cắt giảm còn 8000 quan, chi tiêu không đủ, vì châu này là nơi đón tiếp sứ thần qua lại, không giống các quận khác.

[60] Ngày Đinh Mùi, Thái thường thừa, Kiểm chính Trung thư khổng mục, Lại phòng công sự Tằng Kháng được giảm thời gian khảo hạch hai năm, ban thưởng bạc lụa, các quan lại phụ trách kiểm duyệt văn bản đều được ban ơn có khác biệt. Vì việc xem xét và định đoạt các văn bản nhàn tản đã hoàn thành.

[61] Ngự sử Thư Thiện tâu: “Gần đây nghe triều đình sai trung quan đi sứ, đến đâu cũng giao cho châu quận chế tạo và mua sắm đồ vật[6], các quan tại chức vâng theo ý chỉ, truyền gọi, đốc thúc, không gì là không làm, dân chúng vùng xa chịu thiệt hại rất nhiều. Xin lập điều ước nghiêm khắc.” Chiếu cho Ty Đề điểm hình ngục Lưỡng Chiết điều tra tình hình thực tế rồi tâu lên.

[62] Ngày Mậu Thân, chiếu cho Tam ty giao các lộ Giám ty kiểm tra việc nuôi dưỡng binh sĩ, khao thưởng bộ lạc phiên, tâu lên xem có vi phạm pháp luật hay không.

[63] Chiếu cho châu Bồng, châu Lãng định số tiền miễn dịch dựa trên mức độ tài sản của từng hộ. Vì Ty Đề cử Lộ Lợi Châu tâu rằng pháp lệnh thu tiền dịch trong khu vực chưa công bằng, hai châu Bồng, Lãng có hộ giàu tài sản nhiều nhưng thuế ít, hộ nghèo tài sản ít nhưng thuế nhiều, đến nỗi hạng nhất, hạng hai nộp tiền ít hơn hạng tư, hạng năm.

[64] Quan Đề cử thường bình đẳng sự Lưu Nghị của Quảng Nam Tây lộ tâu rằng: “Quảng Tây một lộ, hộ khẩu chỉ hơn hai mươi vạn, chưa bằng một quận lớn ở Giang Hoài, nhưng dân phải nộp tiền dịch đến mười chín vạn quan, tiền thực dùng để chiêu mộ dịch là mười bốn vạn quan, còn dư bốn vạn quan gọi là khoản dự phòng. Dân chúng nghèo khó, không thể so với các lộ khác, nhà hạng trên cũng không bằng hạng trung hạ ở Hồ Tương, nhưng tiền dịch lại thu theo tiền thuế. Tiền thuế vốn đã ít, lại còn thu thêm bằng thóc ruộng, thóc ruộng không đủ, lại tính thêm vào đinh. Dân Quảng Tây, người có đinh đã bị đánh thuế bằng tiền, lại còn tính thêm bằng thóc, như vậy một người đã phải nộp hai thứ thuế, đây là tệ pháp từ đời trước. Nay chưa thể bãi bỏ, lại còn thu thêm tiền dịch, thật đáng thương. Sao các châu quận không chịu cắt giảm chi phí dư thừa, mà lại làm giống như các lộ khác? Xét lại, quan lại các ty Giám ty, Đề cử ty ở Quảng Nam Đông, Tây lộ, một tháng lương bổng, trên thì bằng lệnh lục, dưới thì gấp đôi nhiếp quan. Bị bắt buộc theo phép thưởng phạt, không tránh khỏi thường xuyên vay mượn. Nghe tin đồn lộ ra, liền tố cáo, rất không xứng với ý nghĩa triều đình ban lộc hậu để nuôi dưỡng sự liêm khiết. Nên cắt giảm, để giảm tiền thuê mướn, nhờ đó giảm bớt gánh nặng từ thân đinh, thóc ruộng, và tiền dịch của hộ hạ đẳng, sẽ rất có lợi.” Chiếu giao cho quan Đề cử bản lộ là Tề Kham xem xét. Kham cho rằng quan lại các ty Giám ty, Đề cử ty cùng thông dẫn quan, khách ty, mỗi tháng giảm hai ngàn tiền, mỗi năm có thể giảm được hơn một ngàn hai trăm quan tiền dịch. Theo đó.

(Chu bản thiêm thiếp: Chương của Nghị nói, không thi hành, lệ không chép, sử quan trước chép việc này muốn bôi nhọ phép dịch, không tiện, nay xóa bỏ. Tân bản đã theo mặc bản, chép đầy đủ, nay theo đó.)

[65] Ngày Tân Hợi, chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông lộ, nếu quân Tây Hạ xâm phạm sâu, cho phép dùng người ngựa đầu hàng từ biên giới phía Tây để trao đổi với người ngựa bị bắt qua biên giới Hán. Vì ty này tâu rằng quân Tây Hạ muốn trao đổi.

[66] Quyền phát khiển Lô Châu là Kiều Tự nói: “Xin giao cho thần bí mật dụ dỗ La thị quỷ chủ, nếu Khất Đệ còn dám quấy nhiễu biên giới, cho phép La thị một mặt thảo phạt, tùy theo công lao mà đền đáp.” Chiếu lệnh Tự thường dùng ân tín để vỗ về thu phục, không để mất lòng họ.

(Ngày 6 tháng 5, Tự xin đi tuần biên.)

[67] Đề cử Quảng Nam Đông Lộ thường bình đẳng sự là Lâm Nhan nói: “Hiện nay dân trong thiên hạ, nhà nào cũng có bảo, bảo có trưởng, trưởng có chính, không chỉ để ngăn chặn gian tà mà còn để quy binh thực về nông nghiệp, cất giấu vũ sĩ trong nông dân, đó là đạo lý dạy rồi mới sử dụng. Vì vậy, pháp lệnh này đều do Binh bộ quản lý, còn người trong kinh thành, hàng năm được bệ hạ ban ân dẫn kiến, khen thưởng tài năng để khuyến khích. Ở năm lộ, lại sai các cơ quan cử quan viên đi tuần tra, xem xét. Pháp lệnh đã lâu nên mệnh lệnh càng được tin tưởng. Nếu áp dụng rộng rãi khắp nơi, chắc chắn không ai không nghe theo. Hiện nay dân hai Quảng cũng có sổ bảo. Nghe nói dọc biên giới Quảng Tây đã bắt đầu tập luyện võ nghệ. Đông Lộ tuy có thương thủ, nhưng việc dạy bảo giáp vẫn còn thiếu. Xin cho các châu ven biển và sông của bản lộ, theo pháp lệnh của Tây Lộ mà huấn luyện, để người dân vừa quen thuộc địa hình hiểm trở, lại biết sử dụng cung tên, trống chiêng, thì một phương tự đủ phòng bị, không cần nhờ đến quân phương Bắc.” Chiếu lệnh giao cho Kinh lược, Chuyển vận, Đề cử, Kiềm hạt ty của Quảng Nam Đông Lộ bàn bạc, đều nói rằng Quảng, Huệ, Triều, Phong, Khang, Đoan, Nam Ân bảy châu đều giáp biên giới và sông biển, ngoài tiếp giáp với giặc man, có thể theo pháp lệnh Tây Lộ mà dạy bảo giáp tập luyện võ nghệ. Theo đó. Nhan là người Phúc Châu.

(Sách cũ chép chiếu ngày Tân Hợi cho bảo giáp Quảng Nam Đông Lộ tập luyện võ sự, sách mới không chép.)

[68] Ngày Nhâm Tý, chiếu lệnh cho đất chăn nuôi trong phủ Khai Phong có thể canh tác được thì làm quan trang. Theo lời thỉnh cầu của Đô đại đề cử ứ điền ty.

[69] Kinh lược sứ Phu Diên Lộ là Lữ Huệ Khanh nói, người phương Tây đến cướp phá trại Tuy Bình, phố Điêu Khoa, quyền đô giám Cao Vĩnh Năng cùng đánh nhau có công. Chiếu lệnh theo thứ tự công lao giảm năm khảo khóa, thăng chức, ban thưởng có khác nhau.

[70] An phủ ty lộ Định châu tâu rằng, dân quân Quảng Tín là Vu Nguyên trốn sang địa giới phía bắc, vợ con ban đầu thực không biết. Chiếu cho tha tội cho gia thuộc của Nguyên, đưa đến Kinh Nam biên quản, còn quan lại quân Quảng Tín không phát giác, hặc tội tâu lên, dù gặp ân xá cũng không tha.

[71] Ngày Quý Sửu, tăng tiền công sứ châu Minh lên 2.600 quan, vì sứ thần nước Cao Ly qua lại.

[72] Ngày Bính Thìn, Khố bộ viên ngoại lang, quyền phát khiển chuyển vận sứ lộ Phúc Kiến là Giả Thanh thăng làm Từ bộ lang trung. Vì có công xếp đặt việc muối.

[73] Cấp 2.000 độ điệp để chi phí cung trướng các điện thờ thần ở cung Cảnh Linh.

[74] Cho người địa giới phía bắc là Trạch Công Cẩn làm Tam ban tá chức, sai làm chỉ sử Giang Nam. Vì An phủ ty lộ Định châu tâu rằng, Công Cẩn nhiều lần tiết lộ việc của Khiết Đan, sợ vạ, đem vợ con đến quy phục.

[75] Hàn Giáng ở Định châu xin mượn 5.000 quan tiền phong trang của An phủ ty để mua đất nước làm đồn điền. Theo lời xin.

[76] Ngày Đinh Tỵ, bắt đầu ngự điện Thùy Củng.

(Kỷ cũ chép việc này, kỷ mới bỏ đi.)

[77] Chiếu cho các lộ phải nộp 1 triệu quan tiền phường trường, lệnh cho ty Nông tự phân định hạn mức hàng năm của từng lộ, gửi nộp ở kho Nội tàng.

[78] Ngày Mậu Ngọ, chiếu cho Ngự sử trung thừa Lý Định cùng Ngự sử Đinh Chấp Lễ, Thư Đản, Hà Chính Thần xét kỹ việc Tam ty và đề cử trướng ty tố cáo lẫn nhau, tâu lên sự thật. Lúc đó đề cử trướng ty Vương An Lễ và quản câu trướng quan Tôn Kỷ tố cáo lẫn nhau.

(Ngày 27 tháng giêng năm thứ 3, Vương An Lễ bị phạt đồng.)

[79] Ngự sử Thư Đản tâu: “Lưu nội tuyển tuyển nhân trước không có sổ ghi, trong đó có tệ nạn giả mạo lạm dụng, quan ty không thể biết được, xin đặt sổ để kiểm tra sử dụng.” Theo lời tâu.

[80] Ngày Kỷ Mùi, chiếu cho quan lại ty Thị dịch vụ ở kinh được thăng chức, giảm năm khảo khóa, ban tiền quan có khác nhau. Vì Tam ty tâu rằng ty Thị dịch vụ từ tháng 8 năm ngoái đến tháng 7 năm nay, thu được 1.330.000 quan tiền lãi và tiền lợi chợ.

[81] Ban cho Từ Hi, nguyên tri châu Vị, 500.000 tiền. Vì việc xếp đặt biên phòng đã xong, Hi bị tang chế bỏ quan.

[82] Đổi cầu phao ngoài cửa Khai Viễn thành cầu đất, theo lời thỉnh cầu của Ty Đề cử Đạo Lạc Thông Biện.

[83] Ngày Canh Thân, Vua Liêu sai Trưởng Ninh quân Tiết độ sứ Tiêu Ninh, Thái thường Thiếu khanh kiêm Sử quán Tu soạn Hàn Quân Dũ sang chúc mừng ngày Chính đán.

[84] Chiếu cho Đô quan viên ngoại lang, Quyền phát khiển Tam ty Độ chi Phán quan Lý Tông được thăng một chức; những người khác giảm năm khảo khóa, thăng chức theo thứ tự, ưu tiên bổ nhiệm 28 người. Vì đã điều tra và thu hồi được 990.000 quan tiền thuế và dịch bị thiếu hụt, bỏ trốn ở các lộ Giang Đông và Lưỡng Chiết.

[85] Từ bộ Viên ngoại lang, Trực sử quán Tô Thức bị giáng làm Kiểm hiệu Thủy bộ Viên ngoại lang, Hoàng Châu Đoàn luyện Phó sứ, an trí tại bản châu, không được ký tên vào công văn, lệnh cho Ngự sử đài cử người áp giải đi. Giáng Châu Đoàn luyện sứ, Phò mã Đô úy Vương Sân bị tước hai chức, cách chức. Trứ tác Tá lang, Thiêm thư Ứng Thiên phủ Phán quan Tô Triệt bị giám sát việc thuế muối và rượu ở Quân Châu, Chính tự Vương Củng bị giám sát việc thuế muối và rượu ở Tân Châu, lệnh cho Khai Phong phủ cử người áp giải ra khỏi kinh thành, thúc giục lên đường nhậm chức. Thái tử Thiếu sư trí sĩ Trương Phương Bình, Tri chế cáo Lý Thanh Thần bị phạt 30 cân đồng. Đoan minh điện Học sĩ Tư Mã Quang, Hộ bộ Thị lang trí sĩ Phạm Trấn, Tri Khai Phong phủ Tiền Tảo, Tri Thẩm quan Đông viện Trần Tương, Kinh Đông Chuyển vận sứ Lưu Ban, Hoài Nam Tây lộ Đề điểm Hình ngục Lý Thường, Tri Phúc Châu Tôn Giác, Tri Bạc Châu Tăng Củng, Tri Hà Trung phủ Vương Phần, Tri Tông chính Thừa Lưu Chí, Trứ tác Tá lang Hoàng Đình Kiên, Vệ úy tự Thừa Thích Bỉnh Đạo, Chính tự Ngô Quản, Tri Khảo Thành huyện Thịnh Kiều, Tri Đằng huyện Vương An Thượng, Lạc Thanh huyện lệnh Chu Bân, Giám Nhân Hòa huyện Diêm thuế Đỗ Tử Phương, Giám Thiền Châu Tửu thuế Nhan Phục, Tuyển nhân Trần Khuê, Tiền Thế Hùng, mỗi người bị phạt 20 cân đồng.

[86] Ban đầu, Ngự sử đài đã đưa vụ án của Tô Thức lên Pháp tự, xử tội đi đày hai năm, gặp lúc ân xá nên được tha. Khi đó, Trung thừa Lý Định tâu: “Tô Thức xuất thân từ chốn thảo dã, thấp hèn, triều đình đãi ngộ bằng chức Lang quan, Quán chức, không thể nói là không hậu. Lẽ ra phải trung tín, chính trực, nghĩ cách báo đáp ơn trên, nhưng hắn lại oán hận vì chưa được trọng dụng, buông lời bừa bãi, châm chích chính sự đương thời. Từ niên hiệu Hi Ninh đến nay, các pháp độ do bệ hạ tạo dựng, hắn đều cho là sai trái. Người xưa bàn luận về lệnh còn có kẻ phải chết mà không được tha, huống chi văn tự của Tô Thức phỉ báng trên, mê hoặc chúng dân, đâu chỉ là bàn luận về lệnh? Gian tặc của Tô Thức, nay đã rõ ràng. Nếu không đày đi nơi xa thì sẽ làm loạn phong tục, nếu lại cho làm quan thì sẽ phá hoại pháp độ. Xin đặc biệt xử trí, phế bỏ hắn để giải tỏa sự nghi ngờ trong thiên hạ.”

[87] Ngự sử Thư Thiện lại tâu: “Phụ mã đô uý Vương Sân nhận văn tự chế giễu chính sự triều đình của Tô Thức cùng tiền bạc Tô Thức tặng, lại qua lại với Vương Củng, tiết lộ lời nói trong cung. Thần nghĩ rằng sự oán hận, chê bai Vua cha của Tô Thức, dù là người ngoài đường cũng đều kiêng nghe, mà Vương Sân lại nghe lời Tô Thức mà không báo lên trên, lại còn bí mật thông đồng tiền bạc, kết giao thân thiết. Đến như Vương Củng, trước đây liên kết với bè đảng phản nghịch, đã bị cách chức. Vương Sân lúc này cũng dính líu đến việc bàn luận, nhưng không tự biết sợ hãi, vẫn còn qua lại. Xét Vương Sân nhận ơn nước sâu dày, ở hàng thân thích gần gũi, mà lại kết giao với kẻ xấu, chí hướng như vậy, xét tình hình, tội thật không thể tha, xin không được xét theo ân xá.” Lại tâu: “Những người nhận văn tự chế giễu chính sự triều đình của Tô Thức, ngoài Vương Sân, Vương Củng, Lý Thanh Thần, từ Trương Phương Bình trở xuống tổng cộng hai mươi hai người, như Thịnh Kiều, Chu Bân vốn không đáng bàn, còn như Trương Phương Bình cùng Tư Mã Quang, Phạm Trấn, Tiền Tảo, Trần Tương, Tăng Củng, Tôn Giác, Lý Thường, Lưu Ban, Lưu Chí đều là những người có thể kể lại lời nói của tiên vương, ở hàng công khanh, sĩ đại phu, mà bệ hạ từng kỳ vọng đạo nghĩa quân thần, lại có ý nghĩ như vậy, há có thể bỏ qua mà không trừng trị sao!” Tấu chương dâng lên, Tô Thức đều bị trách phạt đặc biệt. Khi vụ án xảy ra, Vương Sân từng nhờ Tô Triệt báo mật cho Tô Thức, nhưng Tô Triệt không báo với quan, cũng bị giáng chức.

[88] Lúc Tô Thức mới bị bắt, Trương Phương Bình và Phạm Trấn đều dâng thư cứu, nhưng không được trả lời. Thư của Trương Phương Bình viết:

[89] Thần đọc 《Xuân Thu truyện》, thấy chuyện Thúc Hướng nước Tấn bị giam, lúc đó Kỳ Hề đã già, nghe tin liền đi ngựa trạm đến gặp quan chấp chính Hàn Khởi, nói rằng Thúc Hướng mưu lược mà ít lỗi lầm, dạy dỗ không mệt mỏi, nên được khoan hồng. Khởi cùng ông đi chung xe, tâu lên các quan để tha cho Thúc Hướng. Kỳ Hề không gặp Thúc Hướng mà về, vì lời nói của Kỳ Hề là vì nước, chứ không phải vì tư lợi với Thúc Hướng. Nay nghe đồn có sứ giả đuổi bắt Tô Thức qua Nam Kinh, giao cho quan lại. Thần không rõ Thức phạm tội gì, nhưng từ sớm đã biết tính cách của ông ấy, xuất thân cô độc từ phương xa, gặp thời thánh minh, nhưng văn học của ông thực là kỳ tài trong thiên hạ. Trước đây ông đỗ cao trong kỳ thi chế sách, nhưng vẫn tầm thường không khác người thường. Bệ hạ đề bạt, đặc biệt ban thưởng, từ đó danh tiếng càng lừng lẫy. Thức tự nhận được minh chủ biết đến, cũng hăng hái muốn báo đáp. Nhưng tính tình ông ấy sơ suất, thiếu thận trọng, hay nói nhiều vượt phận, nên dễ gây lỗi lầm. Những năm gần đây, nghe Thức nhiều lần dâng sớ, được Bệ hạ khoan dung. Bốn phương nghe tin, không ai không cảm kích đức khoan hồng của thánh minh, nhưng cũng chê trách tính khí ngông cuồng, hấp tấp của Thức. Nay ông ấy phạm tội, chắc do thói cũ. Nhưng Bệ hạ đối với sinh linh bốn biển, như trời che chở, đất nâng đỡ, như bốn mùa nuôi dưỡng, há lại vì một Tô Thức mà phân biệt yêu ghét!

[90] Kính nghĩ rằng bậc minh chủ anh tài, đang lập nên công nghiệp phi thường, ắt phải rộng thu nhận người tài năng, sử dụng họ đúng chỗ. Nếu không bỏ qua lỗi lầm, dung thứ khuyết điểm, thì nhân tài mới có thể được trọng dụng. Xưa kia, Quý Bố từng làm bẽ mặt Hán Cao Tổ, Hạ Hầu Thắng phỉ báng Hán Thế Tông, Bào Vĩnh không theo Hán Quang Vũ, Trần Lâm chê bai Ngụy Vũ Đế, Ngụy Trưng mưu hại Đường Thái Tông. Năm vị đại thần này, tội đều rất lớn, không thể tha thứ. Nhưng gặp được minh chủ, đều được khoan dung, cuối cùng trở thành trung thần, có ích cho đời. Từ khi Khổng Tử san định Kinh Thi, chọn lấy những bài thơ phúng thích, cho rằng lời thơ đủ để răn dạy. Vì thế, những bài thơ của thi nhân, có khi chỉ trích việc đương thời, lời lẽ phỉ báng, bất kính, nhưng chưa từng nghe ai vì thế mà bị bắt giam. Đường Hàn Dũ dâng sớ lên Đường Hiến Tông, nói rằng Vua mà sùng bái Phật giáo thì tuổi thọ sẽ ngắn. Lời nói này rất nghịch nhĩ, Hiến Tông ban đầu nổi giận muốn giết, nhưng sau đó nghĩ lại rằng: “Hàn Dũ cũng là vì yêu ta.” Nay Tô Thức chỉ vì văn chương mà bị tội, không phải là lỗi lớn, thần e rằng nếu bị giam cầm, tội trạng sẽ khó lường. Mong bệ hạ rộng lượng, tha cho ông ấy khỏi cảnh tù tội, để trọn vẹn ân điển từ đầu đến cuối, dù có bị trách phạt nặng, ông ấy cũng cam lòng! Thần tự nghĩ mình già yếu, được hưởng ân huệ đặc biệt, nay về quê ở ẩn, không còn đóng góp được gì. Thần ngưỡng mộ Kỳ Hề dù già vẫn không quên việc nước mà tiến cử Thúc Hướng, nên mạo muội dâng lời, tự nhận tội với đỉnh việt.

(Chu bản sửa lại Mặc bản rằng: Tô Thức vì lâu không được thăng chức nên oán hận, mọi việc triều đình làm đều bị ông làm thơ chê bai, không chừa việc gì; lại nhận của hối lộ từ nhà sư, dùng tranh để xin Vương Sân cấp áo cà sa và độ điệp. Vương Sân bị tội vì nhận văn thư chê bai của Tô Thức, và cho Tô Thức mượn tiền, đưa tỳ thiếp ra khỏi thành dự tiệc. Việc bại lộ, lại sai người đến gặp Tô Củng, Tô Triệt, bảo họ hủy giấu các văn thư chê bai. Tô Triệt bị tội vì nghe lời Vương Sân, Tô Củng bị tội vì giao thiệp với Vương Sân và Tô Thức, còn Trương Phương Bình và những người khác cũng đều qua lại với Tô Thức, nhận thơ ca chê bai của ông. Xem chương tấu của Thư Thiện trong Chu bản sửa lại: “Âm thầm thông đồng hối lộ, bí mật dự tiệc chơi bời.” Có thể thấy rõ. Việc Tô Thức vì lâu không được thăng chức nên oán hận chê bai, là lời của sử thần tô vẽ[7]. Nay chỉ theo Mặc bản và Tân bản[8]. Lại nữa, Chu bản cũng không chép lời của Lý Định. Trương Phương Bình, Tư Mã Quang cứu Tô Thức, căn cứ vào sách “Kiến văn lục” của Thiệu Bá Ôn. Sớ của Trương Phương Bình, lấy từ bản tập của ông. Sớ của Tư Mã Quang chưa thấy. Sách “Nguyên thành ngữ lục” của Lưu An Thế nói: Sớ của Trương Phương Bình cũng không được dâng lên. Cần xem xét thêm.

Sách “Nguyên Hựu bổ lục” của Vương Chí chép: Tập của Thẩm Quát nói rằng, Quát vốn cùng Tô Thức làm việc ở Quán các, Thức bàn việc trái với thời thế, bị điều ra ngoài. Quát đi sát phỏng hai tỉnh Chiết, từ biệt Vua, Thần Tông bảo Quát rằng: “Tô Thức làm thông phán Hàng Châu, khanh hãy đối xử tốt với ông ấy.” Quát đến Hàng Châu, nói chuyện cũ với Thức, xin chép lại những bài thơ gần đây, về thì dán nhãn dâng lên, nói rằng lời thơ đều có ý chê trách. Thức nghe tin, lại gửi thơ. Lưu Thứ đùa rằng: “Không lo bị tố cáo sao?” Sau đó, Lý Định, Thư Thiện bàn về thơ của Thức mà khép tội, thực ra bắt nguồn từ Quát. Năm Nguyên Hựu, Thức làm tri châu Hàng Châu, Quát bị bãi chức ở Nhuận, qua lại đón tiếp rất cung kính. Thức càng khinh thường nhân cách của ông ta. Việc này ghi chú thêm, cần xem xét kỹ, e rằng niên đại trước sau không khớp.)

[91] Tô Thức bị bắt giam, mọi người đều lo sợ, không ai dám nói thẳng. Vương An Lễ, người ở viện Xá nhân, nhân cơ hội tâu rằng: “Từ xưa, bậc quân vương rộng lượng không vì lời nói mà trách phạt người. Xét Thức là văn sĩ, vốn dùng tài năng tự phấn đấu, cho rằng có thể dễ dàng đạt được chức tước, nhưng lại bị chìm đắm như thế, trong lòng không khỏi oán hận. Nay một sớm một chiều bị xử tội, e rằng đời sau sẽ chê trách bệ hạ không thể dung nạp nhân tài, mong bệ hạ đừng truy cứu vụ án này.” Vua nói: “Trẫm vốn không định trách phạt nặng, chỉ muốn mở rộng đường ngôn luận mà thôi, sẽ vì khanh mà tha cho hắn.” Sau đó, Vua dặn An Lễ: “Khanh hãy đi, đừng để lộ chuyện. Thức trước đây đã gây oán với nhiều người, e rằng có kẻ sẽ nhân việc Thức mà hại khanh.” Ban đầu, An Lễ ở điện Lư, gặp Ngự sử trung thừa Lý Định, hỏi về tình hình của Thức. Định nói: “Thức bàn luận việc với thừa tướng ở Kim Lăng không hợp, ngài đừng vội can thiệp, người ta sẽ cho là kết đảng.” Đến khi trở về viện Xá nhân, gặp Gián quan Trương Tảo, Tảo giận dữ nói: “Ngài quả nhiên cứu Tô Thức sao? Sao lại có chiếu thúc giục vụ án này?” An Lễ không trả lời. Sau đó, vụ án quả nhiên được nới lỏng, cuối cùng chỉ xử phạt nhẹ.

(Đoạn này căn cứ theo hành trạng của Vương An Lễ do Điền Hoạ viết[9]. 《Cựu kỷ》 chép ngày Canh Thân, Trực sử quán Tô Thức oán hận, làm thơ chê bai, bị biếm làm Hoàng Châu đoàn luyện phó sứ. Phò mã đô úy Vương Thân cùng Thức vui chơi, hối lộ thông đồng, tiết lộ lời trong cung, bị tước hai chức, cách chức. Vương Củng và những người khác nhận thơ chê bai của Thức, tổng cộng 23 người bị giáng chức, phạt tiền. 《Tân kỷ》 bỏ qua.

《Lữ Bản Trung tạp thuyết》: Năm Nguyên Phong, Tô Tử Chiêm từ Hồ Châu vì lời nói châm chọc, bị bắt giam vào ngục Ngự sử. 《Thông lược》 chép: Lý Định và những người khác nói Thức vào ngày Kỷ Tỵ tháng 7. Nay liên kết lại mà chép. Ngô Sung cứu Thức, căn cứ theo 《Lữ Bản Trung tạp thuyết》. Vương An Lễ cứu Thức, căn cứ theo hành trạng của An Lễ do Điền Hoạ viết[10]. Ngô Sung lúc đó đang làm tướng, một hôm hỏi Vua: “Ngụy Vũ Đế là người thế nào?” Vua nói: “Có gì đáng nói!” Sung nói: “Bệ hạ thường lấy Nghiêu, Thuấn làm gương, khinh Ngụy Vũ Đế cũng phải. Nhưng Ngụy Vũ Đế đa nghi như thế, vẫn có thể dung nạp Nễ Hoành. Bệ hạ lấy Nghiêu, Thuấn làm gương, mà không thể dung nạp một Tô Thức, là sao?” Vua giật mình nói: “Trẫm không có ý gì khác, chỉ muốn triệu hắn đến để xét hỏi, xem đúng sai thế nào thôi, sắp sửa thả ra rồi.”)

[92] Ngày Tân Dậu, chiếu cho An phủ sứ lộ Định Châu là Hàn Giáng làm chức Đề cử thủy lợi sự lộ Định Châu, và lấy tên là Ty Đề cử thủy lợi lộ Định Châu. Tri châu Bảo Châu là Trương Lợi Nhất, Phó sứ Duyên biên an phủ là Lưu Quản làm chức Quản câu công sự thủy lợi lộ Định Châu. Thừa Đại Lý tự là Dương Anh làm chức Câu đương công sự Ty Thủy lợi, cùng với các tri châu, thông phán các châu quân có thủy lợi đều đồng quản câu. Lúc đó, Bảo Châu, Quảng Tín, An Túc, Thuận An quân đều phát triển thủy lợi và đồn điền, chiếu lấy tên là Ty Đồn điền, nhưng Hàn Giáng tâu rằng sợ địch nghi ngờ tăng thêm đầm hồ, nên đổi lại.

(Ngày mồng 8 có thể khảo cứu.)

[93] Chiếu cho Đề cử giáo tập Đại bảo trưởng phủ Khai Phong là Vương Trung Chính, Địch Tư được ban thưởng hạng trên. Lại chiếu theo lời thỉnh cầu của Trung Chính, sai Đại bảo giáp huyện Khai Phong là Trương Bình cùng đi theo để điểm tập sai khiến, mỗi người mỗi ngày được cấp 50 đồng tiền ăn và 2 thăng gạo. Lại chiếu cho 11 sứ thần đi theo giám giáo được đặc cách cấp trạm quyển.

(Việc này đều căn cứ vào 《Ngự tập》 thêm vào. Chiếu ban thưởng hạng trên cho Trung Chính và trạm quyển cho sứ thần đều là việc ngày 27 tháng 12 năm thứ 2. Việc cấp tiền gạo cho Trương Bình cũng là việc năm thứ 2, nay phụ chép. Ngày 29 tháng 11, bắt đầu sai Trung Chính và Địch Tư làm Đề cử.)

[94] Chiếu cho Thừa Đại Lý tự là Vương Quan bị tước chức, biên quản ở Vĩnh Châu, vì tội nhận hối lộ và làm trái pháp luật đến mức bị lưu đày ở huyện Giang Đô.

[95] Ngày Nhâm Tuất, chiếu rằng ruộng đất ban cho người quy minh không được cầm cố hoặc bán. Vì theo lời trong biên sắc, ban ruộng đất vốn muốn người ngoài biên giới có sản nghiệp để trở về, không nên cho phép họ cầm cố hoặc bán.

[96] Chiếu rằng: “Quân sĩ nếu là người đang làm việc công mà bắt được hoặc tự thú sau khi có chiếu chỉ đại xá, thì thưởng giảm một nửa. Nếu bắt được hoặc tự thú trong vòng một tháng trước khi đại xá, thì không được thưởng.” Theo lời thỉnh cầu của Tri châu Bảo Châu là Trương Lợi Nhất.

[97] Ty Bộ quân tâu: “Phụng chiếu đặt hai chỉ huy Dũng Tiệp ở Đường Châu và Nhữ Châu, lấy 400 người làm định ngạch. Xin lấy huyện Phương Thành châu Đường làm Hữu đệ thập nhất chỉ huy, huyện Tương Thành châu Nhữ làm Tả đệ thập nhị chỉ huy.” Theo lời tâu.

[98] Chiếu rằng: “Các quan văn võ tại kinh đô quản lý quân đội, các quan võ ngoại nhiệm ở các lộ, phó tướng, sứ thần áp đội, cấm ra ngoài yết kiến và tiếp khách, lập thành lệnh.”

[99] Chiếu cho phủ Khai Phong cấp thêm gạo cho bảo giáp mỗi tháng ba đấu, theo lệ của năm lộ.

[100] Chiếu cho huyện Vinh Kinh, châu Nhã được miễn nộp gạo nghĩa thương như ba châu Uy, Mậu, Lê, vì dân cư ở đó có nhiều người tạp cư.

[101] Ngày Giáp Tý, Viện Lễ tâu: “Năm Khai Nguyên thứ 6 đời Đường, Thái thường cho rằng thụy hiệu của Chiêu Thành hoàng thái hậu không nên có chữ ‘Thái’, Lễ bộ báo rằng: ‘Khi vào miếu thì xưng là hậu, nghĩa là gắn với chồng. Khi ở triều thì xưng là thái hậu, nghĩa là gắn với con. Nay các văn thư và tấu chương của các cơ quan e rằng không nên bỏ chữ ‘Thái’. Nếu sách thụy vào lăng, thần chủ vào miếu, thì bỏ chữ ‘Thái’.’ Được chấp thuận. Lại năm Đại Trung Tường Phù thứ 6, sửa lại tôn hiệu của Nguyên Đức hoàng hậu, đưa vào thờ ở miếu Thái Tông. Nay xét kỹ, việc đưa Đại hành thái hoàng thái hậu vào thờ ở lăng miếu Nhân Tông, nên bỏ chữ ‘Thái’. Sách văn ban đầu xưng là Đại hành thái hoàng thái hậu, khi dâng tôn thụy thì xưng là Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu. Ấn thụy nên khắc chữ ‘Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu chi bảo’. Các văn thư và tấu chương khác vẫn giữ chữ ‘Thái’.” Được chấp thuận.

[102] Hoàng thành sứ, Tri An Túc quân Vương Lâm được bổ làm Binh bộ Lang trung, Trực Chiêu Văn quán, Tri Tề châu. Anh của Lâm là Quảng Uyên, con trai là Đắc Quân được ban cho danh hiệu Đồng Tiến sĩ xuất thân. Khi Lâm đến triều từ tạ trước khi nhậm chức Tri An Túc quân, được triệu kiến. Hoàng đế hỏi về gia thế của Quảng Uyên, Lâm đã trình bày đầy đủ. Hôm sau, có chiếu chỉ viết: “Quảng Uyên, từ khi Tiên đế còn ở phiên để đã sớm biết tên tuổi, đặc biệt quan tâm. Đến khi đức hạnh thầm kín được biết đến, Tiên đế lên ngôi, trong lòng luôn nhớ đến, càng thêm thân thiết. Đến đầu niên hiệu Trị Bình, vì quá đau buồn mà sức khỏe suy yếu, trong triều ngoài ngoãi đều có nhiều lời bàn tán, ngay cả các đại thần cũng dao động. Quảng Uyên vì được tri ngộ nên không sợ hãi, ra sức tuyên dương đức lớn, nhờ đó mà những lời xấu ít đi, nhưng vẫn chưa hoàn toàn dứt. Sau khi thánh thể dần hồi phục, quần thần tuy ngày ngày vào chầu, nhưng đều e dè, không ai dám nói thẳng. Chỉ có Quảng Uyên nhận được mật chỉ, trình bày sự thật với nhị phủ. Từ đó, Tiên đế mới có thể tự mình quyết định chính sự, khiến thiên hạ được hưởng phúc. Xét công lao trung thành với triều đình của ông, thật không nhỏ. Không may mệnh ngắn, chưa kịp được khen thưởng đã qua đời. Nay chỉ còn em là Lâm và con là Đắc Quân làm quan, nên xét công mà ban thưởng.” Vì thế có mệnh lệnh này.

(Ngày 23 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ nhất, Vương Đắc Quân được bổ nhiệm chức vụ ở triều đình, có thể gộp vào đây. Vương Lâm đổi chức quan, Đắc Quân được ban danh hiệu, sử không ghi rõ năm tháng. Theo biểu tự tâu của Lâm vào tháng 11 năm Nguyên Phong thứ nhất, thì là năm Nguyên Phong thứ hai. Nay phụ lục vào cuối năm. Xét 《Ngự tập》, các chiếu chỉ do Hoàng đế tự soạn đều được biên tập, riêng chiếu này không có, không rõ lý do, cần tra cứu. Bản mực của truyện Quảng Uyên cũng không có chiếu này, chỉ bản chu có. Chiếu chỉ nói rằng Anh Tông bắt đầu tự quyết chính sự, có vẻ hơi trái với truyện Từ Thánh Quang Hiến. Không rõ chiếu này ban vào ngày tháng nào, cần tra cứu.)

[103] Năm đó, tông thất được ban tên và bổ nhiệm làm quan có 47 người. Xử án tử hình 806 người.


  1. 'Chết vì lam chướng' nguyên văn là 'dịch bệnh nhiều', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 194, Binh chí sửa lại.
  2. 'Cấp thêm' nguyên văn là 'thứ bậc', căn cứ theo bản trong các bản sửa lại.
  3. 143 điều, 《Tống sử》 quyển 15, Thần Tông kỷ, 《Tống hội yếu》 chức quan 28/9, 《Ngọc hải》 quyển 112, mục học hiệu, phần Nguyên Phong Thái học Tam xá pháp đều ghi là 140 điều.
  4. Chữ 'nhập' nguyên bản viết là 'bát', căn cứ theo 《Tống hội yếu》, 《Ngọc hải》 sửa lại.
  5. Hai chữ 'thượng xá' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 157 chí tuyển cử, 《Biên niên cương mục》 quyển 20, 《Thông khảo》 quyển 42 phần khảo về học hiệu bổ sung.
  6. 'Đến' nguyên bản là 'chủ', theo bản trong kho sửa lại.
  7. 'Thần' chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ vào Các bản bổ sung.
  8. Nay chỉ theo Mặc bản và Tân bản, Các bản không có 'và Tân bản' ba chữ.
  9. Các bản khác chép là 'Điền Trú'. Xét: 《Tống sử》 quyển 345 có truyện Điền Trú, quyển 208 Nghệ văn chí có 《Điền Trú tập》 2 quyển, có lẽ là đúng. Dưới đây cũng vậy.
  10. 'Trạng' nguyên bản chép là 'Thuật', căn cứ theo văn trên mà sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.