"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 302: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)

Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 2 đời Thần Tông đến hết tháng 12 năm đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Ất Sửu (mùng 1), tướng thứ 6 của phủ Khai Phong tâu rằng, khi điều động binh lính phòng thủ sông ở huyện Tương Ấp, thiếu hơn 200 người, đã bổ sung xong. Vua phê: “Hiện nay dòng sông Biện chảy qua bờ kinh thành chỉ sâu 8 thước 5 tấc, phải tiếp ứng các đoàn thuyền chở hàng nặng đi về phía đông mới có thể hoàn thành công việc. Nếu vội điều người phòng thủ, thì không có lúc nào có thể giải tán. Hơn nữa, hiện nay dòng nước chảy êm đềm, không cần quá lo lắng.” Chiếu cho ty đề điểm xem xét, căn cứ vào khoảng cách từ đê đến mực nước còn lại ở nơi đó, tăng thêm chiều cao, mới cho phép lên sông.

[2] Ngày Kỷ Tỵ (mùng 5), Ngự sử Thư Thiện tâu: “Việc ở Viện Thuyên không có điều khoản chính thức, chỉ dựa vào các lại viên tìm ra các tiền lệ, có thể dẫn đến gian lận. Xin giao cho quan chức soạn định thành sách lệ.” Chiếu rằng các việc cần thi hành ở Viện Thuyên, đều biên vào sách lệnh và cách thức.

[3] Châu Cát tâu: “Vâng chiếu mua 30 vạn cán tên, nhưng đây không phải là sản vật địa phương và cũng không phải là vật dụng thường dự trữ của dân. Xin được cấp trước tiền, hạn trong một năm để mua.” Theo lời tâu.

[4] Lý Tông, người hộ tống sứ Liêu, tâu rằng Thái hoàng thái hậu chưa được an táng, sợ sứ giả sẽ lấy cớ cũ để yêu cầu qua sông Bạch Câu, bày rượu làm lễ. Chiếu rằng không được qua cầu Bạch Câu, cấp vật dụng cho nhạc công theo lệ cũ.

[5] Ngày Tân Mùi (mùng 7), chiếu rằng Đại Lý tự xét tội nhân, theo lệ của phủ Khai Phong báo lên ty Kê tra. Sau đó, Đại Lý tự xin mỗi tuần báo lên ty Củ sát những việc từ tội đồ trở lên, được chấp thuận, phủ Khai Phong cũng làm theo. Lại chiếu rằng nếu ty Củ sát phát hiện việc tuy không phải từ tội đồ trở lên nhưng xử lý không đúng, cho phép yêu cầu xem xét hồ sơ.

[6] Chiếu cho các lộ Kinh lược An phủ ty ở Thiểm Tây sai người đi sâu dò xét thứ tự việc người Hạ tập hợp quân đội và gây rối, nghiêm khắc răn dạy các tướng giữ thành phải đề phòng cẩn thận. Trên đây là do có lời phê: “Nghe nói người Hạ mùa xuân năm nay tập hợp quân đội rất đông, tuy nói là muốn đánh Mạc Xuyên và xâm phạm Phu Diên, nhưng vì kế của giặc rất xảo quyệt, hướng đi khó lường, nên xử trí cho các lộ nghiêm khắc răn dạy việc phòng thủ.”

[7] Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu rằng, Lưu Nghị đã tấu xin tu sửa thành Ung Châu, xin miễn việc tập luyện cho dân đinh năm nay để chuẩn bị cho việc sai phái và thuê mướn năm sau. Chiếu rằng đợi đến ngày tu sửa, những dân đinh được thuê sẽ được miễn tập luyện.

[8] Chuyển vận phán quan Hà Bắc là Tôn Huỳnh tâu rằng, trong sông giới có hơn ba mươi chiếc thuyền đánh cá của người phương Bắc, ban ngày tự do đi lại, chưa có quy định nào. Chiếu cho An phủ ty vùng biên giới xem xét, nếu số lượng hơi nhiều thì nhẹ nhàng ngăn chặn.

[9] Ngày Quý Dậu, Tôn Ngạc, Tư pháp tham quân châu Trì, Giám trung thư chế sắc khố, bị xử tội do không giám sát chặt chẽ lại nhân, để xảy ra việc lọt mất các điều lệ tiến trình, nên bị điều đi nhậm chức ngoài. Từ nay, chức Giám quan chế sắc khố sẽ do quan đường hậu kiêm nhiệm như cũ, không bổ nhiệm quan ngoài.

(Ngày 23 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 8, Ngạc giám chế sắc khố. Dương Thời trong bài văn bia mộ Tôn Ngạc chép: Ngạc từ chức Giám chế sắc khố được thăng làm Tập học lại phòng, Đồng biên tu trung thư điều lệ[1]. Sau một kỳ khảo hạch, đáng lẽ được chính thức nhậm chức, nhưng chưa đầy một năm thì cha mất, phải từ chức về chịu tang. Khi mãn tang, gặp lúc bãi bỏ chức Tập học quan, lại được bổ làm Giám chế sắc khố, vẫn kiêm nhiệm nhiều việc của ngũ phòng, nhân bàn về pháp lệnh của Ty Nông, bác bỏ những điều không hợp lý. Các đại thần ra sức bảo vệ, nhưng Ngạc vẫn không ngừng phản bác, làm trái ý họ. Lại thường quát mắng lại nhân trong đường, lời lẽ có xúc phạm. Các đại thần nghe thấy, sinh lòng oán ghét, bịa đặt lời lẽ phỉ báng để tâu lên. May nhờ Thần Tông nhân từ sáng suốt, xét thấy không có căn cứ, nên không bị trị tội. Khi lại nhân trong khố biên soạn các điều mục tiến trình, bỏ sót ba đạo trát tử thường trình. Ngạc đã tự tâu xin tiến trình lại, nhưng các đại thần cùng nhau công kích, bị điều ra làm Tư lý tham quân châu Mục. Những việc trong văn bia mộ chép về việc bãi bỏ chức Tập học quan, bác bỏ pháp lệnh Ty Nông, quát mắng lại nhân trong đường, đều cần xem xét lại.)

[10] Xuống chiếu thăng châu Hứa làm phủ Dĩnh Xương.

(Trương Thuấn Dân chép: Thần Tông từ khi là quận vương Dĩnh Châu lên ngôi, đầu năm Hi Ninh, thăng Dĩnh Châu làm quân Dĩnh Xương, sau một thời gian, biết là sai, bèn thăng Hứa Châu làm phủ Dĩnh Xương. Xét việc thăng Dĩnh Châu làm quân Dĩnh Xương là vào ngày 24 tháng 8 và ngày 18 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 2, theo đức âm, không phải đầu năm Hi Ninh. Thần Tông ban đầu làm Tiết độ sứ Trung Vũ, tước Hoài Dương quận vương, sau phong làm Dĩnh vương. Trung Vũ là tên quân của Hứa Châu, quận vương thì phong ở Hoài Dương, không phải Dĩnh Châu, Thuấn Dân nhầm vậy. Sách cũ chép việc thăng trấn cũ Hứa Châu làm phủ Dĩnh Xương, sách mới bỏ hai chữ “cựu trấn”.)

[11] Chiếu rằng nghi trượng của Đại hành Thái hoàng thái hậu không dùng sách tán, 24 nội thần khiêng linh cữu. Vua phê: “Nghe nói binh lính làm việc dưới lăng đến nay chưa được cấp tiền đặc biệt, và tiền thêm cho sứ thần cũng quá hạn không cấp, khiến có người phải cầm bán quần áo. Có thể giao cho Ty Đề điểm hình ngục Lộ Kinh Tây Bắc điều tra, nếu có thật, thì hặc tội các quan lại đương chức tâu lên.”

[12] Ngày Ất Hợi, vì linh cữu Đại hành Thái hoàng thái hậu còn quàn, bãi bỏ việc triều yết. Thần ngự của tổ tông thì phân sai các phụ thần đến làm lễ.

[13] Trứ tác tá lang, Hiệu khám Quán các, Trực giảng Quốc tử giám Mãn Trung Hành làm Thái tử trung doãn, quyền Giám sát ngự sử lí hành.

[14] Đại Lý bình sự, Quản câu cung Sùng Phúc Lữ Thăng Khanh phục làm Hiệu khám Quán các, quyền Phán viện Đăng văn cổ.

[15] Chiếu rằng việc xét xử vụ Thị dịch ở châu Tần, trừ những người bị liên đới tội nhẹ, còn lại đều không được tha do đã bỏ quan chức.

[16] Quan Kinh chế tài dụng biên phòng Lộ Hi Hà tâu rằng, từ khi đặt ty đến nay, thu nhập thực tế là: năm Nguyên Phong thứ nhất, 414.626 quan tiền và thạch; năm thứ hai, 684.099 quan tiền và thạch.

(Bản Chu bỏ đoạn này, nay theo bản Mặc.)

[17] Chiếu rằng trong các tướng phó ở phủ Khai Phong và Kinh Đông Tây, mỗi nơi chọn một viên đến kinh đô, truyền dạy quy cách giáo dục mới ban hành. Sau lại chiếu rằng dạy các đại bảo trưởng đến chỗ Vương Trung Chính xem xét phép dạy.

[18] Ngày Bính Tý, ban đức âm giảm tội tử hình cho tù nhân ở phủ Dĩnh Xương, tội đồ trở xuống thì tha hết.

(Cả Tân kỷ và Cựu kỷ đều chép.)

[19] Long đồ các trực học sĩ Hàn Chẩn dâng lên văn thư phân chia địa giới ở Hà Đông. Chiếu sao gửi cho Kinh lược ty Hà Đông, lệnh các quan coi giữ phải tự mình nắm việc.

[20] Chiếu rằng các tướng quan ở các lộ đã đủ ba năm mà không có giám ty bảo đảm về tình hình trị an, thì sai người khác thay thế.

[21] Trung thư đường hậu quan Chu Thanh tâu: “Theo luật, kẻ mưu giết chồng đều bị chém. Lại có điều luật, vợ đánh chết chồng cũng bị chém. Lại có điều trong mười tội ác, thứ tư là ác nghịch, tức là giết chồng. Nghị rằng: Từ bá thúc trở xuống, nếu đã giết thì căn cứ vào việc đã giết, nếu mưu mà chưa giết, tự nhiên thuộc vào điều bất mục. Thứ tám là bất mục, tức là mưu giết người thân thuộc hàng ti ma trở xuống. Theo sắc lệnh, trong mười tội ác, tội ác nghịch trở lên thuộc bốn bậc tội thì xin theo luật mà xử hình; những tội còn lại nên xử giảo hoặc chém, đều quyết định đánh trọng trượng một trận rồi xử tử. Thẩm hình viện và Hình bộ từ trước đến nay khi tâu xử vợ là đồng phạm mưu giết chồng, đã giết, nếu tra hỏi mà tự thú thì chuyển theo pháp cố sát, dẫn theo phép cử khinh minh trọng, xử vào tội ác nghịch và hình chém. Xét kỹ luật nghị, vợ mưu giết chồng, đã giết, nên xếp vào tội ác nghịch, nếu tra hỏi mà tự thú thì chuyển theo pháp cố sát, nên dùng pháp vợ đánh chết chồng để định tội. Vì vợ đánh chết chồng thì bị chém, không nói là đều chém, nên căn cứ vào việc là thủ phạm hay đồng phạm mà giảm tội chết, chỉ xử lưu hình. Bởi vì nếu đã phát tâm mưu giết chồng thì đều bị chém, nên cử việc mưu giết chưa làm bị thương là nhẹ, minh việc cố ý đánh nhau đã giết là nặng, lý giống như pháp mưu mà chưa giết. Kính xét điều trong mười tội ác, mưu và cố ý đánh nhau giết chồng mới xếp vào ác nghịch, nếu mưu mà chưa giết thì chỉ thuộc bất mục. Đã dùng phép cử khinh minh trọng, nên theo pháp mưu mà chưa giết, chỉ xếp vào điều bất mục, không phải là tội ác nghịch trở lên thuộc bốn bậc tội, theo sắc lệnh nên quyết định đánh trọng trượng rồi xử tử, e rằng không thể lại xử tội giết chồng toàn phần mà xếp vào tội ác nghịch và hình chém. Xin xét kỹ và tâu rõ.”

Xuống cho Thẩm hình viện và Hình bộ tham khảo xét, xin theo nghị của Chu Thanh. Được chấp thuận.

[22] Xuống chiếu cho Tư nông寺 cấp mười vạn quan tiền phường trường, giao cho Thành Đô phủ chế tạo nghi trượng và đồ dùng cho đại giá. Trước đã cấp năm vạn quan, nhưng không đủ.

[23] Ngày Mậu Dần, truy tôn thụy hiệu cho Thái hoàng thái hậu là Từ Thánh Quang Hiến.

(Cả 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép việc này.)

[24] Ngày Tân Tỵ, xuống chiếu đổi chức Trực giảng ở Quốc tử giám thành Thái học bác sĩ, mỗi kinh có hai người.

[25] Chiếu cho cựu Huyện úy huyện Thụy Kim, châu Kiền là Trương Cách được trở về quê nhà, lệnh cho phủ Khai Phong áp giải về nguyên quán. Trương Cách bị tội vì vu cáo Tam ty, Lại bộ và chặn ngựa của chấp chính để gây ồn ào.

[26] Giám sát Ngự sử Đinh Chấp Lễ, Quyền Giám sát Ngự sử Lý hành Thư Thiện và Hà Chính Thần tự hặc tội vì đã cưỡi ngựa vào cửa bên của cung Cảnh Linh. Chiếu tha tội cho họ. Chấp Lễ và các người khác cố xin chịu phạt. Vua phê: “Có thể theo lời xin mà xử phạt theo luật vi phạm, bắt nộp tiền đồng.” Nhưng mệnh lệnh cuối cùng không được ban xuống.

[27] Long Đồ các Trực học sĩ Hàn Chẩn tâu: “Thần nghĩ rằng phép trị nước, sách vở là gốc. Thần thấy từ khi bệ hạ lên ngôi, trong thì nghiên cứu điển lễ, thống nhất chế độ, quản lý tài chính, xét xử các vụ án; ngoài thì tập hợp binh tướng, đánh dẹp kẻ ngạo mạn, mở mang bờ cõi, quản lý chi tiêu biên giới. Mọi việc sắp đặt đều do thánh ý, mọi tấu trình đều do ngài quyết định. Các châu quân biên giới và ngoại giới trao đổi văn thư, thường gây ra tranh chấp, mà quan lại thi hành ngoài đó, ban đầu không có phép biên chép, quan lại thay đổi, không biết đầu đuôi. Thần ngu muốn xin rằng những việc do triều đình đặt ra và các sứ giả được lệnh của triều đình thi hành, có thể tuân thủ và kiểm tra, cùng với các văn thư trao đổi giữa châu quân biên giới và ngoại giới, đều do các quan nguyên sai hoặc đương nhiệm, phân loại theo từng mục, giao hạn định, nộp lên Trung thư, Xu mật viện. Kiểm tra và lập phép nghiêm ngặt về việc thất lạc, đặt sổ quản lý và lưu trữ.” Chiếu lập phép nghiêm ngặt về việc thất lạc văn thư quan tại các phòng Trung thư, Xu mật viện. Chẩn lại tâu: “Xin giao các văn bản về phân định địa giới, hào hậu, phố xá cho Kinh lược ty lộ Hà Đông.” Được chấp thuận.

[28] Châu Bảo tâu rằng phía Bắc giới nhiều lần gửi văn thư bàn việc tu sửa thành trì, xin từ nay cứ hai ba lần gửi văn thư thì trả lời một lần. Được chấp thuận.

[29] Vua phê: “Mỗi lần Cao Ly quốc vương triều cống, ban thưởng một vạn tấm lụa Chiết, phải giao cho hữu ty định giá vật cống rồi mới ban, làm tổn hại thể thống. Nên từ nay quốc vương cống vật không cần định giá mà ban thưởng, lấy làm định số vĩnh viễn.”

[30] Ngày Nhâm Ngọ, xuống chiếu cho Tả gián nghị đại phu, Tri châu Trần Châu là An Đào về kinh đô để tiếp đón và ban thưởng cho sứ thần Cao Ly đến triều kiến. Bãi bỏ yến tiệc, nhưng vẫn cho mượn chức Cấp sự trung.

[31] Giáng chức cựu Tri phủ Giang Ninh, Tư phong viên ngoại lang Lữ Gia Vấn làm Tri quân Lâm Giang. Trước đây, Gia Vấn bị tội do giám sát việc tu sửa trái pháp luật nên bị cách chức, đến nay dâng thư tự biện, lại phạm tội khai báo không trung thực, nhờ ân xá nên chỉ bị giáng chức. Các quan điều tra trước đây là Thái thường bác sĩ Phạm Tuân và Thái thường thừa Bành Nhữ Lệ bị tội điều tra không triệt để, tuy được ân xá, nhưng mỗi người vẫn bị tước một chức quan.

(Ngày mùng một tháng 9 năm Nguyên Phong thứ nhất, Gia Vấn từ Giang Ninh chuyển sang Nhuận Châu. Ngày Quý Mão tháng 12, Ty đề cử Giang Đông xin bãi chức Gia Vấn ở Nhuận Châu. Ngày Canh Tuất tháng 4 năm thứ hai, bãi chức ở Nhuận Châu. Nay lại bị giáng chức vì tội trước đây ở Giang Ninh, không rõ lý do.)

[32] Ngày Quý Mùi, tăng thêm tiền cấp hàng năm cho Quốc tử giám là 15.000 quan. Vì Quốc tử giám tâu rằng chi phí hàng năm là 37.000 quan, nhưng thu nhập chỉ có 23.000 quan. Lại tăng thêm 1.000 quan tiền công sứ cho phủ Khai Phong.

[33] Ghi công binh sĩ Lao thành châu Quang là Từ Tĩnh làm Tam ban sai sứ, Điện thị, sung chức Chỉ huy sứ dưới quyền Tuần kiểm các châu huyện nhiều trộm cướp ở Kinh Đông lộ, thưởng 300.000 quan tiền. Tĩnh bắt được tên cướp nguy hiểm là Giảm Ôn, nên đặc cách ghi công.

[34] Xuống chiếu phạt Đề điểm hình ngục lộ Hoài Nam Đông là Phạm Bách Lộc 20 cân đồng. Vì tội Tri huyện Giang Đô châu Dương là Vương Quan nhận hối lộ trái pháp luật, Ty chuyển vận cử quan điều tra, nhưng Bách Lộc tự ý ngăn cản.

[35] Viện Thẩm quan Đông tâu: “Đại Lý tự thừa Thân Thiên Quy trước đây xin nghỉ dài ngày để tìm cha. Nay đã đón về phụng dưỡng, xin cho Thiên Quy không phải đợi hết năm mới vào chầu.” Được chấp thuận. Thiên Quy mất cha từ nhỏ, đến nay tìm được, cha đã 100 tuổi.

[36] Ngày Ất Dậu, Ngự sử trung thừa Lý Định kiêm chức Trực học sĩ viện.

[37] Ban thưởng cho gia đình cựu Tri châu Quỳnh là Du Giam 500 lạng bạc. Bản lộ tâu rằng Giam ở ngoài biển 6 năm, không được thay thế mà chết, nên đặc cách ưu đãi.

[38] Sứ thần Cao Ly là Liễu Hồng cùng đoàn, do đi đường biển gặp gió làm mất vật phẩm cống nạp, dâng biểu tự nhận tội. Triều đình ban chiếu thư, dụ rằng gió sóng không lường trước được, tha tội, cho phép dâng nộp những vật phẩm còn lại, và ra lệnh cho Minh Châu trước hết mượn thuyền của chủ Cao Ly để xét tội binh lính rồi tâu lên. Quan tiếp đãi sứ thần Cao Ly tâu rằng, sứ thần vì Đại Hành Thái Hoàng Thái Hậu đang để tang, muốn vào chầu ngày nào thì đeo đai đen. Vua phê: “Đã mặc áo lành, theo lẽ khó thay đổi lại. Nếu sứ thần thực sự có thỉnh cầu, giao cho Vương Tồn khéo léo giải thích để ngăn lại.”

[39] Ra chiếu cho sứ thần Bắc triều đến chúc mừng tiết Đồng Thiên, nếu qua biên giới ngoài 100 ngày thì được cử nhạc.

[40] Ngày Bính Tuất, ra chiếu cho Long Đồ các Trực học sĩ, Xu mật đô Thừa chỉ Hàn Chẩn theo lệ quyền Tam ty sứ, được miễn đến Sùng Văn viện túc trực.

[41] Ty Phong Lang trung, Đề cử Kinh Đông, Hà Bắc lộ Diêm thuế Chu Cách được quyền làm Hà Bắc Chuyển vận Phó sứ, kiêm Đề cử Diêm thuế, và được thăng một bậc.

(Cần xem xét việc thuế muối. Cách mới được đề cử, nên kiểm tra. Ngày 8 tháng 4, cần tham khảo.)

[42] Đô quan Viên ngoại lang Lý Tông được quyền làm Hoài Nam lộ Chuyển vận Phó sứ.

(Ngày 8 tháng 9 năm ngoái, Tông xử lý việc trốn thuế, có thể chép thêm vào đây. Hoặc đã chép vào ngày 12 tháng 4, có thể gộp lại.)

[43] Ngày Đinh Hợi, Lưỡng Chiết Chuyển vận ty tâu rằng dân Ôn Châu nộp vải cống của Cao Ly thu được từ biển. Vua phê: “Vật phẩm bị sóng biển cuốn trôi, lý có thể bị ướt hoặc hư hỏng, nhưng làm sao khiến vải ngắn nhỏ được? Ấy là do dân ven biển lén lấy. Nên giao cho Cổ Thanh, Tô Giải ra bảng dụ ở các châu huyện ven biển. Nếu thu được vật cống của Cao Ly mà dám giấu giếm, sau 10 ngày kể từ khi có lệnh mà không nộp hết, cho phép người khác tố cáo, thưởng 3 phần 10, kẻ phạm tội tính tang vật tăng thêm 2 bậc so với trộm cắp thông thường. Láng giềng biết mà không tố giác, giảm 2 bậc so với kẻ phạm tội.”

[44] Ban cho Bảo Châu 1.500 quan tiền để khao thưởng.

[45] Ngày Mậu Tý, ban chiếu cho Thẩm hình viện và các quan đoán nghị ở Hình bộ, từ nay đến cuối năm phải liệt kê những trường hợp xử sai khiến người bị tội đồ, lưu từ năm người trở lên, hoặc xử sai khiến người bị tội chết, thì xin chỉ hai người ký liên đáng một người, quan kinh triều bị kéo dài năm khảo xét, quan mạc chức và châu huyện bị kéo dài kỳ khảo, hoặc không được chỉ định bổ nhiệm khi mãn nhiệm, hoặc bị bãi chức, năm đó bị cắt phần thưởng, dù đã rời chức cũng không được miễn. Trước đây, năm Hi Ninh thứ 10, từng ban chiếu cuối năm so sánh để xin chỉ, nhưng pháp luật chưa đầy đủ nên mới có lệnh này.

[46] Ban chiếu cho lộ Tần Phượng lấy dũng cảm theo lộ Phu Diên, định mức 100 người, theo chính binh tập luyện. Mỗi quý thăng giáng, vẫn theo cách thức của các quân đô giáo đầu để khảo thí.

[47] Ngày Kỷ Sửu, sứ thần Cao Ly là Liễu Hồng, phó sứ Phác Dần Lượng cùng 121 người vào chầu ở điện Thùy Củng, được ban vật phẩm khác nhau.

(Sách 《Yếu lục》 chép: Trước đây, người Cao Ly thường đến Minh Châu buôn bán, ban chiếu cho Phát vận sứ La Chửng lo liệu. Chửng sai người đi thuyền ra biển đến báo, Vua nước ấy bèn vào cống.)

[48] Lệnh cho Tri chế cáo Trương Tảo xem xét định lại lễ văn ở giao miếu.

[49] Ban chiếu cho năm người là Thế Kinh trước đây vì liên quan đến tội nghịch của Triệu Cư mà bị cách chức, nay đã nhiều lần được xá tội, nên cho phép lấy chức hiện tại vào chầu.

[50] Có hiện tượng bạch hồng xuyên qua mặt trời.

(Hai bộ 《Kỷ》 đều chép.)

[51] Ngày Canh Dần, lệnh cho Kiểm chính trung thư hộ phòng công sự Thái Kinh kiêm biên tu chế độ học của các lộ.

[52] Ban chiếu cho Đô quan viên ngoại lang, Tri Đại Lý tự thừa Diệp Vũ đưa về Thẩm quan đông viện. Vì Ngự sử trung thừa Lý Định hặc tấu rằng Vũ cùng Giả Chủng Dân hặc tội Tô Tụng, Chủng Dân thêm bớt sự việc mà Vũ không xét ra, nên bãi chức.

(Tháng 4 năm thứ 2, ngày Kỷ Sửu, Đại Lý thiếu khanh Kiển Chu Phụ, thừa Diệp Vũ, Giả Chủng Dân cùng Hoàng Nhan xét việc, và tháng 2 năm này, ngày Kỷ Mùi, Nhâm Tuất.)

[53] Sắc chỉ: “Người bị cách chức, cựu Tham quân Ty hộ châu Tử là Khương Thích ngông cuồng dâng thư, xin khôi phục Đại Hành Thái Hoàng Thái Hậu, có thể bảo đảm vạn tuế. Trước đã lệnh cho các cơ quan chủ quản cung cấp để kiểm nghiệm phương thuật của y, nhưng quá thời hạn quy định, cuối cùng không có chút hiệu quả nào. Lừa dối trên, mê hoặc dân chúng, theo pháp luật đáng bị xử tử. Nhưng xét tình tiết không có ý đồ khác, đặc biệt khoan hồng, có thể tước danh hiệu, cách chức, đưa đến châu Sâm quản thúc.” Thích nhịn ăn, tự cho là có thuật trường sinh, được ở tại Kim Minh Trì, nhưng phương thuật không hiệu nghiệm.

[54] Sắc lệnh cho Kinh Tây điều 200 quân cấm binh đến canh giữ lăng Đại Hành Thái Hoàng Thái Hậu.

[55] Ty Phát vận Giang Hoài xin từ phía nam Hồng Trạch đến phía bắc Quy Sơn, Xà Phố, đào một con sông mới. Sắc lệnh cho Quyền Quản câu Đô thủy giám thừa là Trần Hữu Phủ lại xem xét, tính toán công trình rồi tâu lên.

[56] Ngày Tân Mão, thủ lĩnh lớn nước Vu Điền là A Lệnh (kỳ hiệt) Tảng Ôn đến cống nạp sản vật địa phương.

[57] Sắc lệnh cho ruộng trang viên và tiền thuê nhà của Quốc Tử Giám đều thuộc về các lộ Chuyển vận ty và Ty Đề điểm phủ giới Khai Phong[2], căn cứ vào số tiền và lương thực để nhận tiền mặt, hàng năm gửi về Giám.

[58] Quần Mục ty tâu rằng đã thu được tiền thuê đất và thuế khóa từ các giám bị bãi bỏ, tổng cộng hơn 1.160.000 quan. Sắc lệnh ban thưởng cho Quần Mục sứ Hàn Chẩn, Phó sứ Trương Thành Nhất mỗi người 300 lượng bạc và 300 tấm lụa, còn lại ban thưởng tổng cộng 5.000 quan tiền, lệnh cho Xu Mật viện phân phối đều cho các quan lại.

[59] Thái Thường thừa, sung chức Tập Hiền hiệu lý Hoàng Liêm dâng lên sách biên soạn 《Nam Giao tăng tổn thức》.

[60] Ngày Nhâm Thìn, sắc lệnh: “Các giám bị bãi bỏ của Quần Mục ty và đất chăn nuôi của các quân ban, tiền thuê đất và thuế khóa còn nợ nhiều năm, sai Thái Thường bác sĩ Lộ Xương Hoành, Bí thư thừa Vương Đắc Thần cùng với các lộ Chuyển vận ty và Ty Đề điểm phủ giới Khai Phong xem xét đất cho thuê, căn cứ vào quy định trước đây để định mức thuế khóa, dựa trên số vật phẩm thu được hàng năm, lấy mức trung bình trong ba năm làm chuẩn, cùng với số tiền thuê phải nộp, giao cho các ty làm định mức hàng năm. Nếu việc thu nộp chậm trễ, sẽ xử theo luật chiếm dụng tiền phong trang.”

[61] Ngày Quý Tỵ, Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng: Ôn Nột Chi Dĩnh Thành, chủ thành Mạc Xuyên, sai thủ lĩnh A Đốc đến xin được bổ nhiệm chức quan. Chiếu chỉ bổ nhiệm Ôn Nột Chi Dĩnh Thành làm Hội châu Đoàn luyện sứ, Mạc Xuyên Phiền bộ Đô tuần kiểm sứ; Ôn Khê Tâm làm Nội điện Sùng ban, Ôn Thanh Lạp Mạt làm Hữu ban Điện trực, cùng làm Mạc Xuyên Phiền bộ Đồng tuần kiểm; A Đốc làm Bản tộc Phó quân chủ, Tăng Lộc Tôn làm Lộc Tư Kết tộc Đô ngu hậu, mỗi tháng cấp trà và lụa theo thứ bậc.

(Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép việc Ôn Nột Chi Dĩnh Thành quy phụ vào cuối năm.)

[62] Chiếu chỉ cấp toàn bổng cho Nùng Trí Hội, người quy minh, làm Cung uyển Phó sứ, vì ông già yếu mà có công.

[63] Lễ viện tâu: “Theo lệ cũ, trước ba ngày khi Đại hành Thái hoàng thái hậu khai quật huyệt, ở kinh thành cấm nhạc, sau khi phụ táng vào miếu thì bỏ lệnh. Các phủ, châu, huyện, trấn mà đoàn tang đi qua, đợi khi Ngu chủ về kinh thì bỏ lệnh.” Lại tâu: “Năm Minh Đạo, văn thư về sơn lăng đầu tiên xưng là Trang Hiến Minh Túc Hoàng thái hậu, Trang Ý Hoàng thái hậu, đó là quyết định tạm thời lúc đó, không có tiền lệ. Nay Đại hành Thái hoàng thái hậu tuy đã có thụy hiệu, nhưng sơn lăng chưa xong, đợi khi yên vị trong hoàng đường, đề Ngu chủ bỏ chữ ‘Đại hành’, xưng là Từ Thánh Quang Hiến Thái hoàng thái hậu; khi phụ táng vào miếu, đề Thần chủ xưng là Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu.” Đều được chấp thuận.

[64] Tam ty tâu: “Phát vận ty hàng năm phát lương đầu vận vào sông Biện, trước đây lấy ngày Thanh minh. Từ khi dẫn nước từ Lạc vào Biện, lấy ngày mùng một tháng 2. Nay từ mùa đông năm ngoái, nước sông Biện thông suốt, không cần lấy tháng 2 làm hạn.” Được chấp thuận.

[65] Dự Chương quận vương Tông Ngạc không biết việc gia nữ thiêu hủy 300 gian nhà, chiếu chỉ tha tội cho ông.

[66] Có hiện tượng bạch hồng xuyên qua mặt trời.

(Theo 《Tân kỷ》, cả hai ngày Kỷ Sửu và Quý Tỵ đều có hiện tượng này. 《Cựu kỷ》 chỉ chép ngày Kỷ Sửu.)

[67] Tháng 2, ngày Bính Thân, chiếu chỉ thăng chức Quyền đồng phán Ty Nông tự, Thái thường Bác sĩ Chu Trực Nhụ một bậc, Thừa và Chủ bạ mỗi người giảm thời gian khảo xét ba năm, lại ban thưởng bạc và lụa theo thứ bậc. Vì đã hoàn thành việc tu sửa sắc lệnh của Ty Nông.

[68] Chiếu rằng ngày phát dẫn linh giá Đại Hành Thái Hoàng Thái hậu, cho phép sứ thần Cao Ly được dự vào hàng bồi vị. Theo lời của quan quán bạn, sứ thần Cao Ly là Liễu Hồng xin được vào chùa, quán đốt hương khi dự lễ phụng uý, và được đeo đai mực như các quan. Được chấp thuận, lại ban cho đai mực.

[69] Ngày Kỷ Hợi, chiếu rằng việc xây dựng địa cung ở hoàng đường của Đại Hành Thái Hoàng Thái hậu không phải là lệ cũ từ thời Gia Hựu, Trị Bình. Việc an táng tử cung cần phải có quy chế riêng, nên sai Đô đại đề cử tu phụng Tống Dụng Thần chuyên trách việc này.

[70] Ngày Tân Sửu, lệnh cho các phụ thần cầu mưa.

[71] Chiếu đổi chức Thị giảng ở các vương phủ thành Giảng thư.

[72] Thái tử Trung doãn, Hiệu khám ở Quán các là Phạm Thang được bổ làm Giám sát Ngự sử lý hành.

[73] Kỳ vương Triệu Hạo tâu rằng Tri khách ở phủ là Tây Kinh Tả tàng khố Phó sứ Lý Chân xin về hưu, xin cho cháu ông ta được bổ làm Tam ban tá chức. Các hữu ty cho rằng theo pháp, cháu ông ta chỉ được xin bổ nhiệm chức vụ. Chiếu y theo pháp.

[74] Ty chuyển vận Hà Đông tâu: “Dân huyện Tĩnh Lạc, châu Hiến xin được nhận hơn nghìn khoảnh đất hoang ở ổ Thạch Thần Mạn Ba, lập 500 người cung tiễn thủ, mỗi năm nộp 3000 thạch thóc. Nay theo lời khám xét của Huyện úy Tĩnh Lạc, chỉ có 123 khoảnh, hiện cây cối rậm rạp, xin cấm chặt phá để nuôi thành gỗ tốt, dùng vào việc quan.” Được chấp thuận.

[75] Ngày Nhâm Dần, Đề điểm hình ngục các lộ Vĩnh Hưng quân, Viên ngoại lang bộ Hộ là Vương Hiếu Tiên được bổ làm Tri châu Bân. Hiếu Tiên tâu rằng ty Doanh điền ứ điền từ năm Hi Ninh thứ 7 đến năm thứ 10 đã tiêu hơn 155.400 quan tiền.

(Việc này cần xem xét. Không rõ việc chi phí ứ điền có liên quan gì đến việc Hiếu Tiên làm Tri châu Bân. Nay chỉ theo thực lục chép vào đây, cần xem xét kỹ. Bản Chu nói việc nhỏ nên bỏ đi.)

[76] Chiếu rằng sứ thần Cao Ly tiến phụng cứ 5 ngày một lần đến điện Sùng Chính dự lễ khởi cư, xếp hàng sau khi lễ khởi cư xong.

[77] Ngày Quý Mão, lệnh cho Quyền Ngự sử Trung thừa Lý Định làm Phán Quốc tử giám, Trương Tảo quản câu Quốc tử giám, Phạm Thang cùng Thái Kinh biên soạn quy chế học các lộ.

[78] Chiếu rằng Quốc Tử Giám bãi chức quan thư khố, khôi phục lại chức chủ bạ, tăng thêm một viên giám trù và một viên sứ thần; tăng tiền công sứ cấp hàng năm, cùng với số cũ là một nghìn quan; chức Thái học chính và Thái học lục nhiệm kỳ ba năm, tổng cộng sáu lần khảo xét, được phép cải bổ làm quan khác, ba lần khảo xét thì được thăng cấp theo thứ tự; lại tăng thêm số tuần túc thặng viên, cùng với số cũ là hai trăm người. Tất cả đều theo lời thỉnh cầu của cơ quan Khán tường học chế.

[79] Ngày Ất Tỵ, quyền Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Triều đình thiết lập lại Đại Lý tự, bổ nhiệm hàng chục quan chức, chuyên xử các vụ kiện tụng của các cơ quan, nhằm ngăn ngừa oan khuất và giảm bớt hình phạt. Các chức khanh, thừa đều là quan coi về ngục tụng, lẽ ra phải tự mình xem xét xử án. Gần đây nghe nói công việc phần nhiều giao cho thừa xét hỏi, còn khanh thì chỉ hỏi qua loa mà thôi. Đến việc thêm bớt tình tiết, khanh có khi còn không biết. Thần e rằng việc xét xử trước sau không thể không có sai lầm. Mong thay đổi lại quan lại, tu chỉnh thành pháp, lựa chọn người tài mà giao phó cho họ.” Không được chấp thuận.

(Bản Chu chép thêm: Các sử quan trước vì người tâu có lời nói về việc xét xử không thể không có sai lầm, nên chép vào đây để tỏ rõ sự sai lầm của nhà Vua. Vì không có việc thi hành, cũng không có văn bản nào chứng minh có oan khuất, nên đã bỏ đi. Bản mới đã khôi phục lại. Xét lời của Lý Định, là chỉ vụ án của Tô Tụng và Lữ Công Trước. Các quan coi ngục sau đều bị trách phạt, sử nhà Chu bỏ đi, có lẽ là vì ý riêng.)

[80] Chiếu rằng Tư Nông tự mượn mười vạn quan tiền phường trường để cấp cho phủ Khai Phong chi phí dạy các đại bảo trưởng, lấy tiền lương của sáu chỉ huy quân bị giảm bớt để trả lại.

[81] Ngày Bính Ngọ, Hàn lâm học sĩ, Hữu chánh ngôn, Tri thẩm quan đông viện Chương Đôn được bổ làm Hữu gián nghị đại phu, Tham tri chính sự.

(Hai bản kỷ đều chép.)

[82] Tri châu Trần, Tả gián nghị đại phu, Sử quán tu soạn An Đào được bổ làm Tri thẩm quan đông viện, kiêm chức Thiên hộ sứ cho phu nhân của Bộc An Ý vương.

[83] Tam ty tâu: “Phò mã đô úy Lý Vĩ trước bị giáng làm Đoàn luyện sứ châu Sâm, an trí ở châu Trần, đã lầm cấp lương bổng của chức Đoàn luyện sứ đương nhiệm, nên truy thu lại.” Chiếu tha cho.

[84] Chiếu định nghi chú triều hội nói: “Thời Đường, Thượng thư Hộ bộ chủ trì việc cống vật, khi có đại triều hội thì bày ra. Theo nghi thức cũ của triều ta, trong lễ chúc mừng ngày Nguyên Chính, các vật cống chỉ còn tên gọi, đó là sự thiếu sót của cơ quan chức năng. Xin xem xét lại sách vở, suy xét nguồn gốc sản vật của các châu quận, định rõ số lượng nhiều ít, sắp xếp thành điều lệ.” Lại nói: “Sách Hạ thư chép, Ký Châu là đế đô, chỉ nộp thóc mà không cống vật, khác với các châu khác. Sách Đường thư Địa lý chí chép, Kinh Triệu và Hà Nam phủ đều có cống vật. Nay Khai Phong phủ tuy không liệt vào các châu, nhưng cũng nên khôi phục việc cống nạp.” Đều được chấp thuận. Lại ra chiếu rằng, những vật cống cần mua thì cấp tiền của Bộ, nếu không có thì cho phép thay bằng vật khác, và dùng phu dịch để chuyển đi.”

[85] Đô đại đề cử Đạo Lạc thông Biện Tống Dụng Thần tâu: “Nước Lạc chảy vào sông Biện đến Hoài, có nhiều đoạn sông rộng, nước chảy tản mạn nên thường bị cạn. Xin tính toán công sức và vật liệu để tu sửa, thu hẹp sông[3].” Được chấp thuận. Sau đó, Dụng Thần dâng tấu về việc thu hẹp sông dài sáu trăm dặm[4], tương đương 216.000 bước. Chiếu cấp 20 vạn quan tiền phường trường, lại chặt cây ven sông để đủ chi phí cho việc đóng cọc.

(Công trình hoàn thành vào tháng 10 năm thứ 5.)

[86] Ngày Đinh Mùi, chiếu rằng Quyền Ngự sử trung thừa Lý Định kiêm nhiều chức vụ, nên miễn chức Tường định trùng tu biên sắc, giao cho An Đào thay thế.

[87] Chiếu rằng Lục trạch sứ, Cao Dương Quan lộ Phó tổng quản, kiêm Hà Bắc đệ lục tướng Cơ Uân, có công huấn luyện, được phục chức Đái ngự khí giới, lệnh về kinh. Giao cho Tử Quỳ lộ Kiềm hạt, Đông thượng các môn sứ Vương Quang Tổ thay thế.

[88] Ngày Mậu Thân, sứ giả Cao Ly là Liễu Hồng theo lệnh quốc chủ, dâng xe do nước Nhật Bản chế tạo[5]. Ban chiếu đáp lại. Liễu Hồng cho rằng theo lễ, chư hầu không dâng xe, không dám đem cùng với các vật phẩm cống nạp khác, nhưng quan tiếp đón sứ giả đã tâu lên. Chiếu cho phép, bèn tiến dâng.

[89] Ngự sử trung thừa Lý Định, Tri chế cáo Trương Tảo[6], Lý Thanh Thần, đều được bổ làm Hàn lâm học sĩ.

[90] Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý, quyền Giám sát ngự sử lý hành Thư Thiện cùng tu sửa sách khởi cư chú, bãi chức Ngự sử, đổi làm Tri gián viện.

[91] Đồn điền viên ngoại lang Lưu Tông Kiệt quyền phát khiển Tam ty đô khám, lý khiếm, bằng do ty. Tông Kiệt tâu: “Trước đây khi nhậm chức Kinh Tây chuyển vận phán quan, đã xét án các quan lại Đặng Châu xử đoán việc dân giàu nấu rượu trái phép, và việc sửa đổi văn án, tội danh chưa thích đáng. Xin giao xuống Ngự sử đài, hoặc sai quan xem xét kỹ.” Chiếu cho Ngự sử đài xem xét kỹ rồi tâu lên.

[92] Tam ty sứ Lý Thừa Chi cùng các quan tâu rằng: “Tam ty nợ Quần mục ty tiền chi phí nuôi ngựa khoán là 1.282.700 quan, từ năm Hi Ninh thứ 5 đến năm Nguyên Phong thứ 2[7]; ngoài số tiền chi phí cỏ lúa của Tam ty là 517.570 quan, còn phải trả 765.120 quan[8]. Vâng chiếu miễn một nửa, vẫn còn nợ 382.560 quan, giao cho Tam ty trong vòng 3 năm trả hết. Từ năm Nguyên Phong thứ 3 trở đi, mỗi năm Tam ty phải trả Quần mục ty tiền chi phí nuôi ngựa khoán là 213.780 quan, trừ tiền cỏ lúa 64.690 quan, còn lại 149.800 quan.” Chiếu chỉ định mỗi năm trả Quần mục ty 100.000 quan, số còn lại đặc cách miễn. Trước đây, từ năm Hi Ninh thứ 5, từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, các quân mã ở kinh sư không ra đồng cỏ[9], mỗi năm Tam ty chi phí cỏ lúa[10] từ năm thứ 5 đến năm Nguyên Phong thứ 2 là hơn 510.000 quan[11], Tam ty xin lấy từ Quần mục ty. Sau khi sai quan xác định, Quần mục ty mỗi năm bãi bỏ ngựa khoán, lấy các năm Gia Hựu thứ 5, 6, 8, Trị Bình thứ 2, 3, 4, Hi Ninh thứ 5, 7, 8, tổng cộng 9 năm tính chung, mỗi năm Tam ty tiết kiệm được 2.000.000 quan, sau khi trừ chi phí cỏ lúa, xác định số tiền Tam ty phải trả Quần mục ty.

[93] Ngày Canh Tuất, bộ phận xét định lễ văn tâu rằng: “Kính xét sách 《Lễ ký》 chép: ‘Dâng huyết và lông, để thịt sống lên mâm.’ Trịnh Huyền chú giải: ‘Đều là để noi theo phép tắc thời thái cổ.’ Lại chép: ‘Lông và huyết là vật báo cáo sự hoàn hảo, là đạo quý trọng sự thuần khiết.’ Khổng Dĩnh Đạt nói: ‘Huyết là vật báo cáo sự tốt đẹp bên trong, lông là vật báo cáo sự hoàn chỉnh bên ngoài. Báo cáo sự tốt đẹp bên trong là nói thịt con vật bên trong tươi ngon. Báo cáo sự hoàn chỉnh bên ngoài là nói màu sắc bên ngoài của con vật hoàn toàn nguyên vẹn. Việc chuẩn bị vật báo cáo sự hoàn hảo này là để quý trọng sự tốt đẹp cả trong lẫn ngoài của con vật.’ Khi dâng con vật, Vua thân cầm dao loan, mổ lấy lông, rồi dùng huyết và lông để cáo báo trong nhà thờ. Vì thế, sách 《Quốc ngữ》 chép: ‘Lông để chỉ vật, huyết để báo cáo sự giết chóc.’ Chưa từng có việc đem huyết và lông cùng với mỡ đốt chung. Nay trong nghi thức tế tự ở Thái Miếu, các Thái chúc lấy lông và huyết đặt lên chỗ thần ngồi, sau đó lại lấy lông, huyết và mỡ đem ra ngoài, đốt trên lò than, lông và huyết cùng với mỡ đều bị đốt, điều này là sai, nên sửa lại. Nghi thức chép: ‘Các Thái chúc dâng lông và huyết lên chỗ thần ngồi xong, rồi dẹp đi và lui ra.’ Lệ cũ đốt lông và huyết, xin bãi bỏ.

Lại nữa, đồ đựng huyết dâng lên, trong lễ không ghi chép, chỉ có sách 《Chu quan》 chép: ‘Nếu hội họp chư hầu, thì dùng châu bàn và ngọc đôn.’ Trịnh Huyền chú giải: ‘Xưa dùng bàn để đựng huyết, dùng đôn để đựng thức ăn.’ Giả Công Ngạn nói: ‘Bàn làm bằng gỗ, trang trí bằng châu.’ Xét trong lễ đặc sinh và thiếu lao, đều không có văn nói dùng đôn đựng huyết. Vậy thì lấy huyết để báo cáo sự giết chóc, nên dùng bàn để đựng. Đường Thôi Miễn cũng nói: ‘Lông và huyết đựng trong bàn.’ Sách 《Tống thư》 chép, ở Nam Giao dùng hai đậu bằng gốm để đựng lông và huyết. Sách 《Khai Nguyên lễ》, 《Khai Bảo thông lễ》 và nghi thức hiện nay đều dùng đậu để đựng. Theo lễ, đậu dùng để đựng dưa chua và nước mắm, đăng dùng để đựng canh mà thôi. Việc dâng lông và huyết nên dùng bàn, xin sửa lại theo văn cũ.” Vua nghe theo.

(Ngày 16 tháng 2 năm thứ 3, theo lời tấu.)

[94] Lại tâu: “Xét theo nghi lễ, thi cửu phạn, chủ nhân tiến lên, nghe lời chúc. Lễ Thiếu lao quỹ thực, thi thập nhất phạn, ‘Hai người tá thực, mỗi người lấy một nắm kê từ một đôn, người tá thực trên cùng nhận cả hai nắm để trao cho thi, thi cầm lấy và truyền lệnh cho chúc’. ‘Chúc nhận lấy, quay mặt về hướng đông bắc ở phía tây cửa, để chúc cho chủ nhân’. Sách 《Chu lễ》 chép: ‘Tế tự’. ‘Dọn bàn tộ của Vua’. Người giải thích cho rằng như lễ Đặc sinh, Thiếu lao, chủ nhân nhận lời chúc từ thi, quay mặt về hướng đông tây ở phía đông cửa[12], đặt bàn của chủ nhân trước chiếu. Sách 《Ty kỷ diên》 chép: ‘Chiếu tộ khi tế tiên vương’. Trịnh thị nói: ‘Tộ, đọc là tạc, chỉ chiếu dùng khi tế tự và Vua nhận lời chúc’[13]. Khi thi ăn xong, Vua dâng rượu, uống hết chén, chúc nhận lấy. Lại rót rượu trao cho thi, thi chúc Vua trong cửa. Người giải nghĩa cũng nói: ‘Ở phía đông tây trong cửa’[14]. Nay theo nghi chú, vị trí uống phúc khi thân hưởng tế Thái miếu, lại đến phía đông, lại đợi vào trong phòng, đều dâng một tuần rượu xong rồi nhận tộ, đều không hợp với nghĩa xưa. Xin các miếu đều đặt chiếu quản diên phân thuần, thêm chiếu tảo tịch hoạ thuần, ở phía đông tây trong cửa[15], hoàng đế thân hành lễ tam hiến xong, ở đây nhận lời chúc.” Chiếu đợi khi miếu chế hoàn thành thì thi hành.

(Ngày 16 tháng 2 năm thứ 3 chiếu thư.)

[95] Ngày Tân Hợi, Hiệu lý Bí các Hà Tuân Trực tâu: “Theo lễ, ‘sau khi đến cung tẩm’, ‘ba lần tế an’. Trịnh thị nói: ‘Ngu là an’. Sau khi chôn cất, đón hồn về, tế ở cung tẩm để an ủi. Lễ tế an của sĩ tộc nói: ‘Tế ở ngoài cửa miếu’. Miếu chính là cung tẩm. Phàm nơi nào có quỷ thần đều gọi là miếu, nên người xưa cho rằng tế an và tế tốt khóc đều ở tẩm điện. 《Xuân Thu Tả thị truyện》 nói: ‘Khóc trở về ở tẩm điện’. Đỗ Dự chú: ‘Sau khi chôn cất, giữa trưa từ mộ trở về tế an ở chính tẩm’. Xưa kia chôn cất gần ở phía bắc kinh thành, nên có thể đi từ sáng sớm, giữa trưa làm lễ tế an ở tẩm điện, đó gọi là tế an ngày chôn, không nỡ để linh hồn xa cách dù chỉ một ngày. Đời sau chôn cất ở nơi xa, nên lễ nghi không thể hoàn toàn như xưa. Nay Đại hành Thái hoàng thái hậu từ ngày chôn đến lễ tế an thứ sáu, nên làm ở ngoài, theo nghi thức cũ; còn lễ tế an thứ bảy, thứ chín và lễ tốt khóc, nên làm ở điện Khánh Thọ.

Hơn nữa, tế an là để an ủi thần linh, lễ tốt khóc là để báo cáo việc hợp tế, đều phải làm ở cung tẩm. Vì đó là nơi sinh thời ở, nên thần linh sẽ nương tựa mà về yên nghỉ. Lại theo lễ tế an của sĩ tộc, sau khi chủ nhân dâng rượu cho thần chủ, có lễ dâng thứ hai và thứ ba, đại thể giống lễ dâng cúng. Điểm khác với lễ cát là lễ cát coi trọng bên trái, còn lễ này coi trọng bên phải. Như đặt chậu rửa ở phía tây nam tây giai, và bày đỉnh ở phía trước tây giai. Theo nghi chú đời Đường, trong lễ tế an, nếu Thái úy không thân hành dâng lễ thứ hai, thì do Tông chính khanh dâng lễ thứ hai, Quang lộc khanh dâng lễ cuối. Hoàng đế mặc áo trắng, Thái úy, Tư đồ trở xuống mặc lễ phục, quần thần, hoàng thân và thân thích đều mặc áo trắng.

Thần cho rằng lễ tế an nên dùng lễ dâng thứ hai và cuối như lễ tế thân, còn trang phục nên tham khảo mà thi hành. Lại theo 《Xuân Thu Công Dương truyện》: ‘Thần chủ tế an dùng gỗ dâu’. Hà Hưu chú dẫn 《Sĩ ngu ký》 nói: ‘Thần chủ gỗ dâu không khắc văn’. 《Hậu Hán thư chí》 cũng nói: ‘Thần chủ gỗ dâu không ghi thụy hiệu’. Thần chủ gỗ dẻ ghi thụy hiệu để phân biệt chiêu mục khi tế đại hợp. Nếu thần chủ tế an chôn giữa hai bậc thềm, thì thụy hiệu ghi để làm gì? Nghi thức cũ đề thần chủ tế an, xin bãi bỏ.”

Triều đình giao xuống Lễ viện bàn, cho rằng: “Những điều Tuân Trực dẫn về lễ tế an là lễ của sĩ tộc, 《Tả truyện》 là lễ của chư hầu. Còn lễ của triều đình thì trong kinh điển không thấy. Huống chi theo lệ cũ đời Gia Hựu, Trị Bình, lễ tế an đều làm ở điện Tập Anh, nên theo chiếu gần đây, thần chủ tế an đưa về, thờ ở điện Tập Anh. Lại việc dâng cơm và rượu cho thần chủ đều là lễ thờ thần chủ, đời sau không đặt thần chủ, khó dùng lễ này, nên tạm theo lệ cũ. Lại theo lệ cũ đời Gia Hựu, Trị Bình, thần chủ tế an đã không ghi thụy hiệu, nay xin theo lời Tuân Trực tâu.” Triều đình nghe theo.

(Ngày 4 tháng 3, thờ thần chủ tế an ở điện Khánh Thọ.)

[96] Ngày Giáp Dần, Đại Hành Thái hoàng thái hậu phát dẫn, Vua từ điện Khánh Thọ bước dẫn linh cữu, vừa đi vừa khóc, đến cửa Tuyên Đức đứng chờ giờ, tiếng khóc thảm thiết không dứt. Vương Khuê cùng các quan và Ung vương Hạo[16], Tào vương Quần thay nhau khuyên giải nhưng không ngăn được. Quan lại binh lính đều cảm động khóc lóc, sứ thần Cao Ly cũng rơi nước mắt. Linh cữu đã đi, Vua mặc áo tang trở vào cung. Quan lại từ biệt linh cữu ở cầu Bản, rồi lui về, thay áo thường vào cửa. Hôm sau, đến cửa các dâng tên phúng viếng, lại đến cửa Đông trong an ủi Hoàng thái hậu. Vua từ ngày Canh Tuất không coi chính sự, đến ngày Bính Thìn mới ngự điện Sùng Chính, đến khi táng mới ngự điện trước.

[97] Lệnh cho Hàn lâm học sĩ Lý Thanh Thần quyền phát khiển phủ Khai Phong. Lúc đó, Tiền Tảo làm sứ đốn đệ sơn lăng.

[98] Chiếu rằng: “Nghe nói các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây thiếu mưa, hãy lệnh cho ty Chuyển vận đến các danh sơn linh từ, ủy cho trưởng lại cầu đảo.”

[99] Quyền Ngự sử trung thừa Lý Định xin cho Tri gián viện Thư Đản cùng kết án việc của Chu Ốc. Theo lời xin.

(Việc Chu Ốc, đầu tiên xảy ra tháng 8 năm thứ 2, tháng 8 năm này bị cách chức.)

[100] Ngày Đinh Tỵ, lệnh cho các quan phụ chính cầu mưa.

[101] Chiếu rằng từ nay tâu cử Thái thường bác sĩ, trước hết phải nộp những tác phẩm của mình.

[102] Ngày Kỷ Mùi, Lễ viện tâu: “Hai ngày trước khi Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu được hợp táng vào miếu, xin làm lễ cáo tế trời đất, xã tắc, Thái miếu và miếu hoàng hậu theo như lệ cũ. Đến ngày đó, xin rước thần chủ trước đến thất Hi Tổ, tiếp đến thất Dực Tổ, thất Tuyên Tổ, thất Thái Tổ, rồi thất Thái Tông. Tiếp theo, Thái Tông hoàng đế, Ý Đức hoàng hậu và Minh Đức hoàng hậu cùng một bài chúc, sau đó tế Nguyên Đức hoàng hậu. Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu dùng lễ vật riêng, vị trí riêng, bài chúc riêng, tiến hành lễ hợp táng. Tiếp đến thất Chân Tông, thất Nhân Tông, thất Anh Tông. Lễ xong, rước thần chủ về thất Nhân Tông. Như vậy, lễ hợp táng xưa và lệ tế toàn thể gần đây đều được thực hiện mà không bỏ sót.” Vua nghe theo.

[103] Xuống chiếu bãi bỏ cơ quan Đề cử giáo tập mã quân ở kinh thành. Trước đây, vào tháng 3 năm Hi Ninh thứ 10, Vua xuống chiếu cho Nhập nội phó đô tri Vương Trung Chính làm Đề cử giáo tập mã quân[17]. Đến lúc này, Trung Chính tâu rằng việc giáo tập đã được ba năm, các quân đều đã tinh thục, nên xin bãi bỏ.

(Ngày 8 tháng 3 năm Hi Ninh thứ 10, bắt đầu sai Trung Chính. Ngày 11 tháng 2 năm nay, cần xem xét thêm.)

[104] Chiếu cho Quang lộc tự thừa, quyền phát khiển Đại Lý tự thừa Giả Chủng Dân bị thay thế, Tri Đại Lý khanh Thôi Đài Phù, Thiếu khanh Dương Cấp, quyền Giám sát ngự sử lý hành Hà Chính Thần, mỗi người bị phạt 10 cân đồng. Ban đầu, Đại Lý xét án Trần Thế Nho, đồng thời xử cả vợ Thế Nho là Lý thị, mẹ là Lã thị từng nhờ cậy chú là Lã Công Trước, xin cầu cứu với Tri Khai Phong phủ Tô Tụng. Công Trước chưa từng nói với Tụng, nhưng Chủng Dân vì tư tình[18], trong tờ tâu lên điện đã thêm bớt lời lẽ và tình tiết sự việc, gán ghép tội trạng. Công Trước tự biện bạch, chuyển sang Ngự sử đài xét lại. Lúc đó Tụng đã vì việc của Tôn Thuần bị giáng làm Tri Hào Châu, bị triệu về, đối chất xác minh sự thật. Chủng Dân bị tội, còn Chính Thần vì thường giám sát việc xét án, cùng với Đài Phù, Cấp đều không phát hiện nên bị phạt.

(Cùng ngày Canh Dần tháng giêng, ngày Nhâm Tuất tháng này, ngày Đinh Dậu tháng tư.)

[105] Ngày Tân Dậu, Lý Định, phán Tư Nông tự, cùng các quan khác, xin cho các hộ thuộc đẳng thứ tư và thứ năm ở các hương thôn thuộc các huyện trong phủ Khai Phong phải nộp tiền dịch. Triều đình không nghe theo.

(Chu sử có chú thích rằng: Tiền dịch được thu tùy theo khả năng của dân ở từng nơi. Nơi nào nhiều hộ, dân giàu, thì chỉ cần thu đến hạng thứ tư, thứ năm là đủ. Nơi nào ít hộ, dân nghèo, thì phải thu đến hạng thứ năm. Mỗi nơi khác nhau. Lời tâu của Lý Định không đúng, lại không được thi hành, nên nên bỏ đi. Bản mới nói: Điều này cho thấy thái độ bóc lột của Lý Định, nên giữ lại nguyên văn cũ. Nay theo bản mới. Lại nữa, trong truyện của Thư Đản có ghi: Đản làm phán Tư Nông tự, triều đình thi hành phép mới, Đản tâu rằng phép dịch chưa công bằng, lỗi tại các quan đề cử. Thần Tông nói: “Quan đề cử chưa thể trách được. Gần đây có thần liêu từ Thiểm Hữu về, muốn miễn hoàn toàn thuế cho dân trung hạ, Trẫm cho là không nên. Nhiều người cùng góp sức thì dễ thành công, trong thiên hạ dân trung hạ nhiều, mà hộ thượng ít; nếu miễn hết cho dân trung hạ, mà chỉ thu từ hộ thượng, thì thật là bất công. Triều đình đặt ra phép luật, chỉ muốn công bằng mà thôi. Khanh hãy xem xét lại rồi tâu lên.” Xét việc Đản làm phán Tư Nông tự vào năm Nguyên Phong thứ tư, truyện của Đản đã chép vào tháng sáu năm đó, nay lại chú thêm ở đây, có thể chứng minh là sai lầm.)

[106] Quyền Tam ty sứ Lý Thừa Chi và Tri chế cáo Vương An Lễ, mỗi người bị phạt mười cân đồng. An Lễ từng làm đề cử Tam ty trướng ty, cùng Thừa Chi tố cáo lẫn nhau về việc trướng ty làm không đúng.

(Ngày Mậu Ngọ, 24 tháng 12 năm thứ hai, lệnh cho Lý Định và các quan khác xét xử.)

[107] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu rằng vì ngựa quốc gia chưa đủ, nên lệnh cho các hộ có tài sản ở các châu huyện thuộc phủ Khai Phong, Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông tự mua ngựa để nuôi dưỡng. Hộ ở phường quách có gia sản từ ba nghìn quan tiền trở lên[19], hộ ở nông thôn từ năm nghìn quan tiền trở lên, nuôi một con; mỗi khi tăng gấp đôi thì thêm một con, tối đa ba con. Ngựa phải cao từ bốn thước ba tấc trở lên, và từ tám tuổi trở xuống. Lệnh cho Ty Đề cử ghi vào sổ. Trước hết, các lộ phải báo cáo về hạng mục gia nghiệp của dân hộ và số ngựa cần nuôi. Theo đề nghị của Vương Củng Thần.

(Việc hộ nuôi ngựa theo đề nghị của Vương Củng Thần, các bản Chu, Mặc đều giống nhau, cần xem xét ngày 27 tháng 6, 22 tháng 8, và 27 tháng 8. 《Bản chí》 chép: Lại có hộ có tài sản nuôi ngựa, nay từ chiếu năm Nguyên Phong thứ ba: “Vì ngựa quốc gia chưa đủ, nên lệnh cho các hộ có tài sản ở các châu huyện thuộc phủ Khai Phong, Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông tự mua ngựa để nuôi dưỡng. Hộ ở phường quách có gia sản từ ba nghìn quan tiền trở lên, hộ ở nông thôn từ năm nghìn quan tiền trở lên, đều nuôi một con; mỗi khi tăng gấp đôi thì thêm một con, tối đa ba con. Ngựa phải cao từ bốn thước ba tấc trở lên, và từ tám tuổi trở xuống. Đến mười lăm tuổi thì phải mua lại như ban đầu. Ty Đề cử ghi vào sổ.” Ngày 7 tháng 2 năm thứ bảy bãi bỏ.)

[108] Chiếu cho Tri châu Hào, Bí thư giám, Tập hiền viện học sĩ Tô Tụng về lại chức cũ, Quần mục phán quan, Đô quan lang trung Bàng Nguyên Anh đưa đến Thẩm quan Đông viện, Đại Lý bình sự Lữ Hi Á, Tán thiện đại phu Yến Tĩnh đều bị thay thế. Tô Tụng bị xử tội vì trước đây khi làm Tri phủ Khai Phong xét án Trần Thế Nho, mà Bàng Nguyên Anh đến hỏi thăm, Tô Tụng từng đối đáp, chỉ nói tình hình rất xấu xa, hình phạt chưa thể biết được. Pháp tự xử Tô Tụng, Nguyên Anh vì tội không nên làm mà bị xử nặng. Hi Á, Tĩnh cũng từng hỏi thăm, sau bị tội báo cáo không đúng sự thật. Ban đầu Tô Tụng xét án Thế Nho đã xong, liền bị quan tòa bác bỏ, có người nói Tô Tụng muốn khoan hồng cho vợ chồng Thế Nho. Vua hỏi Tô Tụng[20], và nói: “Không được tha cho kẻ có tội”, Tô Tụng đáp: “Việc thuộc về quan chức, thần không dám khuyên họ xử nặng.” Chiếu dời án đến Đại Lý. Đại Lý nhân đó nói Tô Tụng từng nhận lời thỉnh cầu của Lữ Công Trước. Sai quan đến Hào Châu tra hỏi, còn án Thế Nho lại giao cho Ngự sử đài. Tô Tụng từ Hào đến Ngự sử đài đối chất.

Ngự sử nói: “Ngài vốn là người đức độ, chắc vì tình thân cũ không thể từ chối, hãy nhanh chóng tự khai, đừng để bị nhục nhã thêm.” Tô Tụng nói: “Vu cáo người khác đến chết thì không thể làm, nếu tự vu cáo mà bị tội, dù nặng đến đâu cũng không dám tránh.” Bèn viết mấy trăm chữ giao cho ngục lại. Vua xem tờ tấu, nghi ngờ, chiếu cho Ngự sử tìm hiểu sự thật. Ngự sử tra xét nhiều lần không có kết quả, bèn hỏi ngục lại Đại Lý về lời thỉnh cầu của Công Trước, ngục lại bí, phải nói thật: “Đây là do Đại Lý thừa Giả Chủng Dân thêm bớt lời mà thành. Nay bản thảo vẫn còn.” Lấy ra xem, quả đúng như vậy. Do đó Chủng Dân bị tội, còn Tô Tụng được minh oan, nhưng vẫn bị tội vì đối đáp với Nguyên Anh làm lộ bí mật án tụng, nên bị bãi chức Tri châu Hào.

(Sự việc này căn cứ vào chiếu chỉ năm Nguyên Phù trong phần phụ truyền về Tô Tụng và mộ chí của Tằng Triệu[21] mà sửa chữa. Ngày 4 tháng 4 cần tham khảo thêm.)

[109] Chiếu cho quyền phát khiển Đề điểm Kinh Tây Bắc lộ hình ngục Hồ Tông Hồi phạt đồng 10 cân, miễn việc bị thay thế, vì tội vượt quyền xử lý việc của ty đề cử.


  1. Chữ 'tu' trong 'Đồng biên tu trung thư điều lệ' nguyên bản là 'điều', căn cứ theo 《Dương Quy Sơn tiên sinh tập》 quyển 34, bài 'Tôn Long Đồ mộ chí minh' sửa lại
  2. Chữ 'phủ' trong 'Khai Phong phủ giới đề điểm ty' vốn bị thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 28-10 bổ sung.
  3. chữ 'sông' nguyên bản thiếu, theo Tống hội yếu phương vực 16/15 bổ sung
  4. chữ 'trăm' trong Tống sử quyển 94 Hà cừ chí chép là 'mười'
  5. Dâng xe do nước Nhật Bản chế tạo, chữ 'Nhật' nguyên bản là 'Nhập', căn cứ vào các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 7-36, 《Tống sử》 quyển 487, truyện Cao Ly sửa lại.
  6. Tri chế cáo Trương Tảo, chữ 'Tảo' nguyên bản là 'Thao', căn cứ vào các bản khác, bản in hoạt tự và điều mục ngày Kỷ Sửu tháng giêng trong quyển này sửa lại.
  7. Năm Nguyên Phong thứ 2, chữ 'Nhị' nguyên bản là 'Tam', căn cứ vào các bản khác, 《Tống hội yếu》 chức quan 23.11 và đoạn văn sau sửa lại.
  8. 765.120 quan căn cứ vào các con số trên, chữ 'Nhị' nên là 'Tam'.
  9. 'Mục' nguyên bản là 'Thu', căn cứ 《Tống hội yếu》 chức quan 23.11 sửa lại.
  10. 'Ty' nguyên bản là 'Nguyệt', căn cứ cùng sách trên sửa lại.
  11. 'Ngũ' nguyên bản là 'Nhị', căn cứ các bản khác, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 chức quan 23.12 sửa lại.
  12. 'Hộ' nguyên là 'Thi', theo 《Chu lễ》 sửa lại.
  13. 'Vương' nguyên là 'Chủ', theo chú thích của Trịnh Huyền trong 《Chu lễ Ty kỷ diên》 sửa lại.
  14. 'Diện' nguyên thiếu, theo sách của Giả Công Ngạn bổ sung.
  15. 'Diện' nguyên là 'Nhi', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 108, Lễ chí sửa lại.
  16. Ung vương Hạo: theo 《Tống hội yếu》 Đế hệ 1-36, Hạo năm Trị Bình thứ nhất tháng 9 phong làm Kỳ vương, năm Nguyên Phong thứ 3 tháng 9 mới phong làm Ung vương.
  17. Chữ 'tri' trong 'Chiếu nhập nội phó đô tri Vương Trung Chính' nguyên bản viết sai vị trí, nay căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  18. Chủng Dân vì tư tình: 'tình' nguyên bản là 'sai', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 chức quan 66-11 sửa lại.
  19. Hộ ở phường quách có gia sản từ ba nghìn quan tiền trở lên, chữ 'ba' nguyên bản là 'hai', theo các bản khác, 《Tống hội yếu》 binh 24-21 và văn bản dưới sửa lại.
  20. 'Thượng dĩ' hai chữ nguyên bản thiếu, theo 《Tô Ngụy Công văn tập》 phụ lục 'Tặng Tư không Tô công mộ chí minh' bổ sung.
  21. 'Triệu' nguyên bản là 'Củng'. Xét: Tăng Củng mất năm Nguyên Phong thứ 6, Tô Tụng mất năm Kiến Trung Tĩnh Quốc thứ 2, theo sách trên, người viết mộ chí là Tằng Triệu, nên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.