VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 304: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)
Từ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng 4 năm đó.
[1] Ngày mùng một tháng 5, Quyền quản câu Kinh lược ty Lộ Hi Hà là Triệu Tế tâu: “Tiền chi tiêu tạp ở châu Hi chỉ còn hơn 60 ngàn, tiền mua lương thực chỉ còn hơn 800 ngàn, thức ăn cho ngựa chỉ đủ dùng trong hai tháng, tình hình các châu quân khác cũng có thể thấy rõ. Mong ban lệnh cho Chuyển vận ty tính toán trước.” Vua phê: “Có thể xuống lệnh cho châu Hi và Chuyển vận ty, mỗi nơi đối chiếu số tiền lương hiện có trong kho với số liệu trước khi Lý Tắc nhậm chức năm ngoái, rồi tâu trình rõ ràng[1].”
[2] Lại có chiếu: “Dân các châu Đàm, Toàn, Thiệu được giảm một nửa tiền đóng góp sửa thành. Châu Đàm phải đợi năm được mùa mới khởi công, còn châu Toàn và Thiệu thì lấy năm năm làm hạn.”
[3] Lại có chiếu tay: “Ngự sử đài khôi phục lại sáu án sát, lúc mới lập pháp, công việc rất nhiều, không thể để lâu ngày thiếu quan chính thức, làm trì hoãn công việc. Hiện đang thiếu hai Ngự sử, lệnh cho Lý Định trong vòng mười ngày phải trình danh sách. Mỗi tháng tăng thêm tiền chi tiêu, Trung thừa 20 ngàn, Ngự sử sát án 10 ngàn.” Sau đó, lấy Tư nông tự thừa Vương Tổ Đạo và Tri huyện Phong Khâu là Phong Tắc cùng làm Giám sát ngự sử lý hành. Tổ Đạo là người Phúc Châu.
(Tổ Đạo mới làm lý hành vào ngày mùng một tháng 6, nay ghi chung lại.)
[4] Ty Phát vận các lộ Giang, Hoài tâu rằng Ty Đạo Lạc Thông Biện đã tu sửa xong đoạn sông hẹp, không cần đắp đập phao bằng cỏ nữa. Vua đồng ý. Lúc đó, vì nước sông Biển cạn, Ty Phát vận xin dùng cỏ đắp đập để giữ nước, thông thuyền tải lương. Đến nay, lại tự xin bãi bỏ.
[5] Ngày Giáp Tý, Viện Lễ tâu rằng Ty Thiên giám định ngày Tân Tỵ tháng 9 sẽ làm lễ ở Minh đường. Vua ban chiếu tuân theo, lệnh Tể thần Vương Khuê làm Minh đường đại lễ sứ, Tri xu mật viện Phùng Kinh làm Lễ nghi sứ, Đồng tri xu mật viện Tôn Cố làm Nghi trượng sứ, Tham tri chính sự Thái Xác làm Lỗ bạ sứ, Chương Đôn làm Kiều đạo đốn đệ sứ.
[6] Tường định lễ văn nói: “Xét kỹ về minh đường, là nơi của vương giả, dùng để thờ trời trên và trị dân dưới. Vị trí của nó ở giữa nước, vương giả kính cẩn thờ cha để phối hợp với trời ở đây, và vào ngày lành tháng tốt để nghe việc chính sự. Vì thế 《Hiếu Kinh》 nói: ‘Tông tự Văn Vương ở minh đường, để phối hợp với Thượng Đế.’ Và 《Lễ Ký》 nói: ‘Thiên tử nghe chính sự ở ngoài cửa Nam.’ Minh đường có năm phòng và mười hai gian, như 《Nguyệt Lệnh》 nói về Thanh Dương, Minh Đường, Thái Miếu, Tổng Chương, Huyền Đường, mỗi nơi đều có hai bên trái phải. Thiên tử chia mười hai tháng để ở các nơi này. Và 《Khảo Công Ký》 của người thợ nói: ‘Nhà Hạ có thế thất, gian chính dài mười bốn bước, rộng bốn phần một, năm phòng ba bước, bốn thước, chín bậc, bốn bên có hai cửa sổ, sơn trắng, cửa chính bằng hai phần ba, phòng bằng một phần ba. Nhà Ân có trọng ốc, gian chính dài bảy tầm, cao ba thước, bốn mái trùng điệp. Nhà Chu có minh đường, đo bằng chín thước chiếu, đông tây chín chiếu, nam bắc bảy chiếu, gian chính cao một chiếu, năm phòng, mỗi phòng hai chiếu.’ Trịnh thị nói: ‘Thế thất là tông miếu. Trọng ốc là lộ tẩm. Nhà Hạ nói về tông miếu, nhà Ân nói về lộ tẩm, nhà Chu nói về minh đường. Nói chung, đều cùng một chế độ.’
Từ thời Hán Vũ Đế bắt đầu xây minh đường, xuất phát từ thuyết kỳ lạ, lợp bằng cỏ tranh, tường cung hình tròn, có đường đi kép, trên có lầu, vào từ phía tây nam, gọi là Côn Luân. Vi phạm kinh điển, trái với cổ lệ, sau này các ý kiến bàn luận rất nhiều. Đến mức dẫn cả thiên địa, bốn mùa, phong khí, kiền khôn, ngũ hành, số tượng, đều không thể chấp nhận được sự kỳ quái. Khiến cho các Vua đời sau không biết theo đâu, coi trọng việc chế tác. Đến việc kính cẩn thờ cha để phối hợp với trời, thường dựa vào giao khâu. Triều đại ta mới lập từ minh đường, dựa vào Đại Khánh điện. Đại Khánh là lộ tẩm. Nhưng không phải là minh đường, các việc do quan lại đảm nhiệm cũng dựa vào giao khâu. Năm phòng, mười hai gian, chín bậc, vì đời sau không dùng để nghe chính sự. Về kích thước rộng hẹp, nên tùy thời mà tăng giảm, sao cho phù hợp với thời đại. Đến tiết Quý Thu đại hưởng, cũng như việc kính cẩn thờ cha để phối hợp với trời.”
[7] Lại nói: “Kính xét bài thơ 《Chu Tụng – Ngã Tướng》 tế Văn Vương ở minh đường: ‘Ta dâng lễ, ta hiến tế, dùng dê, dùng bò, trời sẽ phù hộ.’ Tế đế ở giao, lấy đạo trời mà thờ; hiến tế đế ở đường, lấy đạo người mà thờ. Lấy đạo trời mà thờ, thì dù dùng bê để phối tế với đế, như lễ nói ‘Trâu tế đế không tốt, dùng trâu tế Hậu Tắc’ là vậy. Lấy đạo người mà thờ, thì dù tế thiên đế dùng thái lao, như thơ nói ‘Ta dâng lễ, ta hiến tế, dùng dê, dùng bò, trời sẽ phù hộ’ là vậy. Phó Huyền đời Tấn suy xét ý này mà nói rằng: ‘Ở giao thì chuộng chất phác, ở minh đường thì chuộng văn vẻ. Sự thay đổi giữa văn và chất, thì việc dùng sinh tế cũng khác.’ Nghị luận của Chí Ngu nói: ‘Ở minh đường, chuẩn bị đủ vật phẩm để dâng, ba loài vật tế cùng bày, bàn biển và đậu xếp thành hàng, lễ giống như đạo người, nên phối tế với tổ tiên gần.’ 《Tống Thư – Chí》 cũng nói: ‘Tế giao dùng một con vật, tế minh đường dùng bò và dê. Dù cùng là lễ tế tốt lành, nhưng chất phác và văn vẻ là điển lễ khác nhau.’
Chỉ có Chu Điên, Lang trung Nghi tào đời Lương cho rằng: ‘Minh đường xưa đều dùng thái lao. Ngũ đế vốn là thiên thần, lý không có tế ba loài vật. Nhưng thơ 《Ngã Tướng》 tế Văn Vương ở minh đường có nói ‘dùng dê, dùng bò’. Nhà Chu dùng ba loài vật, chỉ là chế độ của một đời. Nay xét nghiệm các vương, minh đường dùng một con bò.’ Từ đó đến đời Tùy, Đường đều dùng một con bò, không phải là ý dùng đạo người để hiến tế Thượng đế. Lễ tế lớn ở minh đường năm Hoàng Hựu, dùng bảy con bê để tế Thượng đế và phối tế Ngũ phương đế; dùng năm con heo để tế Ngũ nhân đế. Theo lệ cũ năm Hi Ninh, Viện Lễ tham khảo và xét rằng: Thượng đế Hạo Thiên và đế phối tế, mỗi vị dùng một con bê, một con dê, một con heo; Ngũ đế và Ngũ nhân đế cùng dùng năm con bê, năm con dê và năm con heo, đều chưa hợp lễ. Bề tôi xem xét kỹ, lễ dùng sừng nhỏ như tằm kén gọi là bê, sừng nắm được, sừng dài một thước gọi là bò. Bê tượng trưng cho sự thành khẩn. Vì coi trọng sự nhỏ bé, nên phàm dùng bê thì dâng riêng, gọi là tế trời dùng một con vật. Lại nói ‘Dùng bê là quý ở sự thành khẩn’, không thể dùng chung với dê và heo. Nếu dùng một con bò, một con dê và một con heo, thì gọi là thái lao. Tông miếu và tiếp đãi khách đều dùng thái lao là vậy. Nay đến minh đường thân tế Thượng đế, đế phối tế, Ngũ phương đế, Ngũ nhân đế, xin mỗi vị dùng một con bò, một con dê và một con heo.”
(Hai việc về lễ văn đều không ghi tháng ngày, lại chưa biết theo hay bỏ. Xét: Ngày Đinh Hợi 27 tháng 7, chiếu lấy Anh Tông phối tế Thượng đế, bãi bỏ tất cả các thần phối tế. Ngày Nhâm Dần 12 tháng 8, lại theo nghị của Triệu Quân Tích, chỉ phối tế Thượng đế. Nay lễ văn tấu lên vẫn gọi là đế phối tế, Ngũ phương đế, Ngũ nhân đế, ắt là không phải sau ngày 12 tháng 8, hoặc trước ngày 27 tháng 7. Ngày Giáp Tí mùng 2 tháng 5, ban chỉ dụ đầu tiên, nay lấy hai bản tấu này, cùng phụ vào dưới chỉ dụ ngày mùng 2 tháng 5, cần xem xét kỹ hơn.)
[8] Quyền Ngự sử trung thừa Lý Định xin tăng thêm một viên chức Chủ bạ ở đài để kiểm tra văn tự của sáu sát. Triều đình đồng ý.
(Ngày Bính Ngọ tháng 12 năm thứ hai, tăng thêm một viên quan ở đài, cần xem xét thêm.)
[9] Quyền Đô thủy giám thừa Tô Dịch tâu: “Chia Hoàng Hà thành tám đoạn, đều có người phụ trách công việc ở các đê, vẽ thành bản đồ, xin lệnh cho Đô thủy giám theo đó, mỗi đầu năm biên soạn và dâng lên.” Triều đình đồng ý.
[10] Ngự sử Phạm Thang tâu rằng Khai Phong phủ phán quan Triệu Tử Kỷ và Tri huyện Tường Phù Đường Xác đều mắc bệnh nặng, công việc bị bỏ bê. Chiếu chỉ cho Tử Kỷ về làm quan ở cung quán, còn Xác thì lệnh cho Ty đề điểm xem xét rồi tâu lên. Xác bèn bị cách chức.
[11] Hàn lâm học sĩ kiêm Tường định lễ văn Trương Tảo tâu: “Thần thấy việc hợp tế trời đất, các ý kiến không thống nhất. Thần cho rằng dương sinh vào tháng 11, âm sinh vào tháng 5, đó là lúc âm dương bắt đầu, trời đất bắt đầu vận dụng. Tiên vương thuận theo nghĩa âm dương, vào ngày đông chí tế trời ở đàn viên khâu trên mặt đất, ngày hạ chí tế đất ở đàn phương khâu trong đầm, từ lễ vật, y phục, nhạc khí, ca vũ, hình thức, quy mô, không gì là không mô phỏng theo tượng trưng, nên thần linh trời đất có thể được tế lễ. Xem như vậy, ngày hạ chí tế đất ở phương khâu, thiên tử thân hành chủ trì, đó là đạo lý bất di bất dịch của muôn đời. Có người cho rằng ngày nay nghi vệ của thiên tử gấp đôi xưa, vào giữa mùa hạ nóng nực, không thể thân hành, nên muốn đổi sang tháng khác, không những không có căn cứ, mà còn mất đi ý nghĩa phụng sự đất thuận theo âm. Nếu bất đắc dĩ, thần cho rằng nên vào năm có tế giao, vào ngày hạ chí, tổ chức lễ nghi long trọng, đầy đủ nhạc vũ, sai Trủng tể thay mặt chủ trì. Tuy chưa hoàn toàn hợp lễ, nhưng cũng phần nào giữ được ý nghĩa của tiên vương.” Chiếu lệnh Lễ viện nhanh chóng xem xét rồi tâu lên.
[12] Trước đó, quan Tường định lễ văn tâu rằng: “Thần xem xét kỹ, xưa kia tế trời ở Viên Khâu trên mặt đất, phía nam kinh thành; tế đất ở Phương Khâu trong đầm, phía bắc kinh thành. Các lễ vật như sinh tế, lụa, đồ dùng, ca thi, tấu nhạc cũng đều khác nhau. Tất cả đều là để thuận theo âm dương, dựa vào địa thế cao thấp mà thực hiện, lấy đó làm loại. Thời Hán Nguyên Thủy, vì lễ nhạc đã có sự phối hợp, mà trong lễ lại có văn về việc vợ chồng cùng dùng chung lễ vật, do đó hợp tế trời đất, để tôn vinh tình nghĩa một thể. Từ Hậu Hán Quang Vũ đến Hoàng Sơ nhà Ngụy, cùng với Đông Tấn Nguyên Đế và từ thời Võ Hậu nhà Đường về sau, đều theo như vậy, không phải là ý nghĩa cầu thần theo loại. Triều đình ta tế trời, liền đặt vị trí Hoàng Địa Kỳ, tuy hết lòng thành kính, nhưng xét theo điển lễ thì có chỗ chưa hợp.” Vua xuống chiếu cho quan Tường định trình bày chi tiết những điều cần thay đổi trong lễ văn để tâu lên. Trần Tương, Lý Thanh Thần, Vương Tồn, Lục Điền đều dâng tấu trình bày ý kiến của mình. Trần Tương tâu rằng:
[13] Cẩn xét theo 《Chu Lễ》, Đại ty nhạc dùng Viên chung làm cung, ngày Đông chí, ở gò tròn trên đất tấu nhạc, sáu biến để tế Thiên thần; dùng Hàm chung làm cung, ngày Hạ chí, ở gò vuông trong đầm tấu nhạc, tám biến để tế Địa kỳ. Việc tế Trời phải dùng ngày Đông chí, vì dương khí trở lại trên cao, là khởi đầu của Trời. Vì thế, cung dùng Giáp chung ở cung Chấn, vì Đế xuất từ Chấn. Mà gọi là Viên chung, là lấy hình tròn để tượng trưng cho Trời. Ba biến một (Viên chung làm cung, ba biến: Hoàng chung làm giác, Thái thấu làm trưng, Cô tẩy làm vũ, mỗi thứ một biến.) hợp với số lẻ của dương. Tế Đất phải dùng ngày Hạ chí, vì âm khí ngầm nảy mầm dưới thấp, là khởi đầu của Đất. Vì thế, cung dùng Lâm chung ở cung Khôn, vì vạn vật được nuôi dưỡng từ Khôn. Mà gọi là Hàm chung, là lấy sự bao dung để tượng trưng cho Đất. Bốn biến hai (Hàm chung làm cung, Thái thấu làm giác, Cô tẩy làm trưng, Nam lã làm vũ, mỗi thứ hai biến.) hợp với số chẵn của âm. Lại nữa, Đại tông bá dùng nhân tự, thực sài, dửu liệu để tế những gì ở trên Trời, và dùng thương bích để lễ; dùng huyết tế, li trầm, trám cô để tế những gì ở dưới Đất, và dùng hoàng tông để lễ. Đều là để thuận theo âm dương, phân biệt thời vị, mô phỏng hình sắc, mà dùng khí loại để cầu. Đó là lý do hai lễ này không thể không khác nhau. Vì thế, cầu Trời thì Thiên thần giáng xuống; cầu Đất thì Địa kỳ hiện ra. Được thông suốt tinh thành, đón phúc lành, sinh dân chúng, làm giàu vạn vật, đó là lễ không thay đổi của trăm Vua.
[14] Từ khi nhà Chu đã xa, phép tắc của các Vua trước không còn được thi hành. Vào thời Nguyên Thủy nhà Hán, bọn gian thần bàn luận bừa bãi, không xét đến ý nghĩa của kinh điển, phụ họa theo thuyết “Đại hợp nhạc” trong 《Chu quan》, cho rằng nên hợp tế. Bình Đế nghe theo và dùng lễ đó. Vì thế, lỗi lầm trong lễ tế trời đất chung một con bò bắt đầu từ đó. Từ nhà Hán đến nhà Đường, hơn một nghìn năm, chỉ có bốn vị hoàng đế thân hành tế lễ ở Bắc Giao vào tháng năm. Như Thái Hòa của Ngụy Văn Đế[2], Kiến Đức của Chu Vũ Đế, Khai Hoàng của Tùy Cao Tổ, Tiên Thiên của Đường Duệ Tông, đều là những việc làm hiếm có trong một thời. Tuy nhiên, được rồi lại mất, cuối cùng không có gì được định đoạt, để lại cho triều đại này, chưa kịp sửa chữa. Kính nghĩ Bệ hạ mở rộng công trình của năm bậc thánh, khôi phục những điều bị bỏ phế của trăm Vua, điển chương pháp độ đã sánh ngang với thời các Vua trước, há lại noi theo những lễ nghi tạm bợ của đời sau sao? Vì thế, thần được nghe lời dạy bảo, sửa chữa những lễ nghi sai lầm, trước hết nên sửa những điều lớn. Điều lớn không sửa, mà chỉ sửa những tiểu tiết, thì cũng vô ích. Huống chi, lễ tế trời đất hàng năm hiện nay vẫn không bỏ, chỉ có quan lại lo việc tế lễ mà thôi, thật chưa đủ để thể hiện hết ý nghĩa tôn kính của bậc thánh thần.
[15] Thần cho rằng đã bãi bỏ việc hợp tế, thì việc tế riêng ở Nam Giao và Bắc Giao là đương nhiên. Kính xin bệ hạ mỗi khi gặp năm thân hành tế lễ, trước hãy dùng ngày Hạ chí để tế Địa Kỳ ở Phương Khâu, sau đó dùng ngày Đông chí để tế Hạo Thiên ở Viên Khâu. Đó chính là việc lớn cần phải chính đính. Tuy nhiên, có người bàn rằng lễ nghi của tiên vương đã bị bãi bỏ từ lâu, không thể khôi phục lại được: “Xưa kia, nơi trai giản gần, (Xưa kia, nơi trai giản là Lộ Tẩm.) nghi thức đơn giản, chi phí ít, ban thưởng không nhiều, nên dù một năm tế lễ khắp nơi, quốc gia không hao tổn, dân chúng không mệt nhọc; nay nơi trai giản xa, nghi thức phức tạp, chi phí lớn, ban thưởng nhiều, nên dù ba năm mới tế một lần, vẫn còn ngại ngùng, huống chi một năm tế hai lần? Nếu bất đắc dĩ, thì ba năm luân phiên tế một lần. Hoặc như thời Hậu Hán, dùng ngày Thượng Đinh tháng giêng tế Nam Giao, xong lễ, tiếp tục tế Bắc Giao. Hoặc như thời Nam Tề, dùng ngày Thượng Tân tháng giêng tế Hạo Thiên, ngày Thứ Tân chôn tế Hậu Thổ, như vậy chẳng phải cũng được sao?”
Thần trộm nghĩ không phải vậy. Sách ghi chép rằng: “Tế lễ không nên thưa thớt, thưa thớt thì sinh ra lười biếng.” Nếu ba năm luân phiên tế một lần, thì Hạo Thiên đại thần sáu năm mới được thân hành tế lễ một lần, chẳng phải đã quá lười biếng sao? Sách ghi chép rằng: “Việc lớn tất phải thuận theo thiên thời.” Đưa lễ tế ra ngoài giao, đó là chế độ của Chu Công, bỏ điều đó mà theo lễ nghi sai lầm của hậu vương, có thể gọi là phép tắc sao? Những người bàn luận kia chỉ biết cái tiện lợi của sự đơn giản qua loa mà không thấy được sự nghiêm trang của việc tôn kính. Kính mong bệ hạ soi xét hiệu quả rõ ràng mà tiên vương đã thực hiện[3], thực hiện nghi lễ lớn mà đời trước chưa từng bàn đến, giảm bớt nghi thức của các ty, cắt giảm chi phí vô danh của Đại Nông, để thần có thể nghiên cứu cố sự, tham khảo kinh điển lễ nghi, lấy văn bản nghi chú của Thái Thường để sửa chữa những sai sót, xem xét quy thức của Đại giá Lỗ bạ để cắt bỏ những phần rườm rà. Chỉ dùng ý chí tôn kính tột cùng để đối diện với Thiên Kỳ, đón nhận sự hòa hợp tối cao, đạt được phúc lành thuần khiết, mong thành tựu điển chế của một đời, để lại cho muôn đời sau. Thanh thần tâu:
[16] Kính nghĩ rằng triều đình ta, ngày Đông chí tế trời ở Nam giao, ngày Hạ chí tế đất ở Bắc giao, mỗi năm đều làm như vậy, đều hợp với cổ lễ. Nhưng vẫn cho rằng việc quan lại đảm nhiệm chưa đủ để bày tỏ hết lòng thành, nên ba năm một lần đích thân làm lễ tế giao. Việc ba năm một lần đích thân làm lễ tế giao, chính là điều gọi là tùy thời mà chế định nghi lễ. Áp dụng vào ngày nay, thật không thể thay đổi. Chỉ có lễ hợp tế là cần phải chỉnh đốn. Sách Lễ nói: “Người nước Lỗ sắp làm lễ tế Thượng đế, trước hết phải làm lễ ở Phán cung.” Lý do như vậy là để báo cáo tổ tiên làm vị phối hưởng. Lại nói: “Người nước Tấn sắp làm lễ tế sông[4], trước hết phải làm lễ ở Ác Trì. Người nước Tề sắp làm lễ tế núi Thái Sơn, trước hết phải làm lễ ở Phối Lâm.” Lý do như vậy là để làm lễ nơi thấp trước, nơi cao sau. Thần suy cổ để biết nay, suy chư hầu để biết thiên tử, muốn xin mỗi khi gặp lễ tế giao đích thân, bảy ngày trai giới, sau ba ngày thì ở lại. Khi ấy, ở lại Thái miếu để báo cáo, ở lại Bắc giao để tế, ở lại Nam giao để tế. Lý do ở lại Thái miếu trước là để báo cáo tổ tiên làm vị phối hưởng. Lý do ở lại Bắc giao trước là để làm lễ nơi thấp trước, nơi cao sau. Tuy nhiên, từ Bắc giao đến Nam giao cách xa nhau, nên giữa đường không thể không có nơi nghỉ ngơi, xin dựng Duy cung, nghỉ ngơi rồi mới tiến hành. Nếu được chấp thuận, xin giao cho Hữu ty thi hành.
[17] Theo nhà Hậu Hán, khi tế lễ ở Nam Giao[5], thì đồng thời tế lễ ở Bắc Giao, Minh Đường, miếu Thế Tổ và Thái Miếu, gọi là Ngũ Cung[6]. Nhà Đường khi tế lễ ở Nam Giao, thì đồng thời tế lễ ở Thái Thanh Cung và Thái Miếu, gọi là Tam Đại Lễ. Triều đình ta ba năm một lần tế lễ ở Nam Giao, trước hết phải tế lễ ở Cảnh Linh Cung và Thái Miếu, đây là theo chế độ cũ. Tuy nhiên, hàng năm vào ngày Hạ Chí ở Bắc Giao vẫn có lễ tế thường niên. Ngoài ra, hàng năm các cơ quan chức năng cũng cử hành lễ tế ở Nam Giao, nhưng không hợp tế trời đất. Ý nghĩa của việc hợp tế chỉ là khi nhà Vua thân hành tế lễ, muốn tế lễ khắp nơi. Nếu nhà Vua thân hành tế lễ, muốn tế lễ khắp nơi, thì sau khi tế lễ ở Nam Giao xong, đặc biệt cáo tế ở Bắc Giao, vẫn theo nghi thức cũ, cũng không trái với ý nghĩa lễ nghi, gần như có thể thực hiện được. Kính xin được xem xét thêm. Tồn ngôn:
[18] Theo 《Chu Lễ》, vào ngày Đông chí tế Trời ở đàn Viên Khâu, vào ngày Hạ chí tế Đất ở đàn Phương Trạch, mỗi lễ đều thuận theo thời tiết, đều do thiên tử đích thân chủ trì. Đến thời Tần, Hán, lễ của tiên vương bị bỏ phế. Vua Hiếu Vũ lúc đầu định lễ tế giao, đến Ung, nói: “Nay Trẫm đích thân tế Trời, mà Hậu Thổ không có nơi thờ cúng, thì lễ không đáp ứng được.” Bèn đến Phần Âm, tế Hậu Thổ. Từ đó, cứ ba năm một lần, thiên tử đích thân tế Thái Nhất ở Cam Tuyền và Hậu Thổ ở Phần Âm, trở thành điển lệ. Đến thời Nguyên Thủy, Vương Mãng kiến nghị hợp tế Trời Đất ở Nam Giao, ví như vợ chồng cùng ăn một mâm. Từ Hậu Hán đến Đường, vẫn theo lệ cũ không thay đổi. Triều ta kế thừa dùng lễ cũ, các quan chưa kịp bàn luận. Nay đã vâng chiếu khảo xét được mất, thì hợp tế là không đúng lễ, nên sửa đổi. Tuy nhiên, bậc vương giả coi Trời là cha, Đất là mẹ, việc phụng thờ phải đều, lễ lớn ba năm một lần, không thể tăng thêm. Đã bỏ hợp tế, thì việc đích thân tế chỉ dành cho Trời, mà không đến được Hoàng Địa Kỳ, về nghĩa chưa trọn. Quốc gia dùng ngày Đông chí, Hạ chí sai quan đại diện làm lễ ở hai nơi tế giao, là theo 《Chu Lễ》, chưa từng bỏ. Còn ba năm một lần làm lễ ở Nam Giao, là theo chế độ nhà Hán. Nếu thỉnh thoảng làm lễ ở Bắc Giao, thì không mất ý kính thờ Trời Đất. Triều trước đích thân cày ruộng tịch điền, hợp tế ở Thái Miếu, đều theo chu kỳ ba năm. Tạm ngừng lễ tế ở Giao Khâu, đó là điển lệ đã thực hiện. Huống chi từ thời tổ tông đến nay, các lễ Vu tế, Cầu mùa, Minh đường, Tịch điền, Hợp tế, Cung tạ, đều là đại lễ hiếm có, đều đã tu chỉnh, chỉ có lễ tế Hoàng Địa Kỳ ở Bắc Giao chưa từng đích thân làm. Nếu nhân việc bỏ hợp tế không đúng lễ, xuất phát từ ý chỉ của Thánh thượng mà thi hành, thực là việc thịnh sự hiếm có.
[19] Ba năm tế lễ một lần, từ thời Hán trở đi, được coi là lễ nghi phi thường, phải chuẩn bị đầy đủ lễ vật rồi mới tiến hành, không thể không xem xét thiên thời. Trong khoảng thời Hán, Đường, tế trời có khi dùng tháng giêng, có khi dùng tháng hai, có khi dùng tháng ba, có khi dùng tháng tư, có khi dùng tháng tám, có khi dùng tháng mười, có khi dùng tháng mười Một, có khi dùng tháng mười Hai. Tế đất có khi dùng tháng giêng, có khi dùng tháng hai, có khi dùng tháng ba, có khi dùng tháng năm, có khi dùng tháng mười Một, có khi dùng tháng mười Hai. Các tháng ngày tế trời đất qua các đời đều khác nhau. Đại khái là tùy thời mà thi hành, không theo lệ cũ. Năm Tường Phù, Chân Tông tế Hậu Thổ vào tháng hai. Còn như Thần Châu Địa Kỳ, từ đời trước đến nay, đều tế vào tháng Mạnh Đông. Nếu nhà nước thỉnh thoảng khôi phục điển lễ cũ, có việc tế ở Bắc Giao, dùng tháng ngày Mạnh Đông là thời kỳ thuần âm thịnh hành, lý cũng không có gì không được. Xin triều đình xem xét quyết định. Điền nói:
[20] Xem xét việc hợp tế trời đất, không phải là cổ lễ. Tuy nhiên, người xưa nhân tế Thượng Đế mà tế riêng Địa Kỳ, thì tế đất cũng không thể bỏ, chỉ là không có lễ hợp tế mà thôi. Bởi vì tế đất cũng là tế trời, nên dù tế Địa Kỳ cũng chỉ là thờ trời mà thôi. Vì vậy, sách 《Trung Dung》 nói: “Lễ Giao Xã là để thờ Thượng Đế.” Sách 《Tam Chính Ký》 nói: “Sau lễ Giao tất có ba lễ Vọng.” 《Xuân Thu》 cũng chép: “Không tế Giao, nhưng vẫn có ba lễ Vọng.” Truyện giải thích: “Vọng là chi tiết của lễ Giao.” Theo thần xét, lễ Vọng tế hoặc là vào ngày sau lễ Giao, hoặc là vào ngày đó, tuy không thể biết chắc, nhưng tóm lại sau lễ Giao tất có lễ Vọng tế, điều này rõ ràng.
[21] Sách viết: “Làm lễ tế lớn với Thượng đế, tế lễ sáu tông, tế lễ các núi sông.” Vọng là tế lễ đất. Không nói tế đất, nhưng tế đất có thể hiểu được. Nay hoặc vào ngày Đông chí, nhà Vua thân hành tế lễ Hạo Thiên Thượng đế, nhân đó ở phía bắc đàn viên khâu, tế riêng thần đất, không cần đến sáng mà lễ tế trời đất đều hoàn tất. Xét ý của tiên vương, cân nhắc việc thích hợp với thời nay, có lẽ có thể thực hiện được. Những người bàn luận nếu cho rằng tế đất nên ở phía bắc giao, thì đây là nhân dịp tế giao mà tế riêng, vốn không phải là lễ tế chính thức. Vả lại, mùa xuân làm lễ triều nhật ở ngoài cửa đông, thì cũng giống như lễ tế đất ở phía bắc giao vào ngày Hạ chí. Nhưng lễ báo lớn với trời mà lấy mặt trời làm chủ, phối hợp với mặt trăng, đều đặt đàn ở phía nam giao, thì lễ tế Hoàng địa kỳ nhân dịp tế trời mà tế riêng, tự nhiên khác với lễ tế chính thức vào ngày Hạ chí. Tế ở phía nam giao, lễ nghi là như vậy.
(Lục Điền vào tháng giêng năm thứ ba từ chức Quang lộc tự thừa được cử làm người tường định thuyết văn, kiêm tường định lễ văn, việc này chắc chắn là sau tháng giêng năm thứ ba.)
[22] Điền và những người khác bàn luận chưa quyết định, Trương Tảo lại kiêm tường định, nhân đó đưa ra đề nghị này. (Trương Tảo lấy chức Hàn lâm học sĩ kiêm tường định, vào tháng giêng năm nay.) Do đó, các quan lễ xin theo đề nghị của Tảo. Đặt nhạc cung huyện, hai điệu múa văn vũ, cải chế chương nhạc, dùng sách trúc, tước bầu, tăng thêm bò tế phối hợp với đế và quan phân hiến dâng lễ, mở rộng đàn duy, trai cung, tu định nghi chú dâng lên. Nhưng Phán Thái thường tự Vương Tồn, Tri Lễ viện Tằng Triệu nói:
[23] Nay lễ tế phía bắc giao thường sai quan Trung thư môn hạ, đó là nhiệm vụ của Trủng tể. Các loại nhạc múa cũng là những điều được ghi trong lễ cũ thời Khai Nguyên, Khai Bảo, chỉ gần đây bị bỏ sót, cả hai đều là điển lệ thường hành do các cơ quan đảm nhiệm, chưa đủ để thay thế tầm quan trọng của việc tế lễ thân hành. Nếu nhất định cho rằng có điều chưa đầy đủ mà muốn thực hiện toàn bộ lễ cũ, thì lễ tế trời đất, tông miếu đều phải được chỉnh đốn, không thể chỉ riêng ba năm một lần tế ở phương khâu.
[24] Đại thể việc tế tự thời xưa, hoặc thiên tử tự thân hành lễ, hoặc quan lại thay mặt làm việc, chỉ có hai cách này mà thôi. Nay trong việc thay mặt tế tự, lại chia ra mức độ long trọng hay giản lược, điều này xưa chưa từng có. Hơn nữa, dù cử quan trọng yếu đi tế, nhưng cuối cùng cũng không phải là thiên tử tự thân hành lễ, e rằng không hợp với ý nghĩa “cha trời mẹ đất”. Tảo vốn cho rằng hợp tế là trái lễ, muốn bãi bỏ, nhưng những điều ông trình bày cũng chưa thấy hợp lễ. Huống chi năm nay đại hưởng ở Minh Đường, vốn đã không bao gồm Hoàng Địa Kỷ, mà riêng việc tế lễ vào ngày Hạ chí lại được đề cao, điều này càng không nên. Năm nay tế Hoàng Địa Kỷ vào mùa hè, nếu theo đề nghị của Tảo, xin hãy như đã trình bày trước, việc tế tự trời đất và tông miếu cần được chỉnh đốn. Tuy nhiên, ngày Hạ chí đã gần, e rằng chưa thể thực hiện ngay, xin hãy tạm theo chế độ cũ. Còn lễ tế tự thân hành, xin hãy ban chiếu cho cơ quan phụ trách lễ nghi giao miếu nghiên cứu kỹ lưỡng, quyết định việc làm sao cho đúng, để sửa chữa sai lầm của hậu thế, hầu hợp với ý của tiên vương. Phán Thái thường tự Lý Thanh Thần cũng tâu rằng:
[25] Việc lớn của thiên hạ, không gì quan trọng hơn việc tế tự trời đất, là khuôn mẫu cho muôn đời, không thể dễ dàng nói suông. Huống chi bàn luận ban đầu là năm thiên tử thân hành tế giao thì nên bãi bỏ hợp tế, vì thế tế tự thân hành không bao gồm Địa Kỷ, nên Tảo muốn ngoài lễ thường, riêng đề cao tế lễ ở Bắc giao để bổ sung ý nghĩa lễ nghi. Năm nay đúng vào dịp đại hưởng ở Minh Đường, nếu không phải là thiên tử thân hành tế Nam giao thì việc tế Hoàng Địa Kỷ cũng không thiếu lễ thường. Nếu năm nay ngày Hạ chí tạm dùng nghi thức cũ, để các quan lễ từ từ nghiên cứu, đợi khi tìm được nghĩa lý hợp lý rồi mới thi hành, thì sẽ rất thuận tiện. Dù có bàn luận kỹ sau này, cũng không ngoài những điều này. Tuy nhiên, ngày Hạ chí đã gần, mà nhạc vũ chưa sửa soạn, chương nhạc chưa soạn xong, âm nhạc tám biến chưa kịp tập, áo tế chay chưa kịp may, trai cung chưa kịp dựng, đàn duy chưa kịp mở rộng, sinh vật tế chưa kịp nuôi dưỡng. Thần e rằng các quan vội vàng chuẩn bị, hoặc làm qua loa, làm mất đi sự trang nghiêm. Xin bệ hạ hãy cân nhắc kỹ hơn.
[26] Thượng phê: “Lời tâu của Trương Tảo, trong tình hình hiện nay, vốn không thể thay đổi. Xét theo điển lệ cũ, đã thân hành tế lễ ở Minh Đường, thì Hoàng Địa Kỷ tự nhiên không cần đến. Có thể theo lời của Thanh Thần, dần dần xem xét để thấu hiểu các ý kiến.” Bèn hạ chiếu cho Lễ viện thảo luận thêm.
(Tháng 8 ngày Nhâm Dần, năm sau tháng 4 ngày Kỷ Tỵ, cần xem xét.)
[27] Điền lại tâu:
[28] Kính xét sách 《Xuân Thu》 năm thứ 31 đời Hi Công[7], “Tháng 4 mùa hạ, bốn lần bói về tế giao đều không thuận, bèn miễn tế sinh vật, nhưng vẫn làm lễ Tam Vọng.” 《Tả Truyện》 chép: “Làm lễ Tam Vọng là không đúng lễ. Vọng là việc nhỏ trong tế giao. Không tế giao, thì cũng không cần làm lễ Vọng.” Theo đó, không tế giao thì không có lễ Vọng phương hướng, nhưng nếu gặp dịp tế Trời và Thần Đất, thì có việc làm lễ Vọng phương hướng, điều này rõ ràng. Vì vậy, sách 《Lễ Tam Chính Ký》 chép: “Sau tế giao tất có lễ Tam Vọng.” Các bậc tiên nho cho rằng đây là việc giúp Trời ban phúc, nên khi tế Trời thì làm lễ này, đều vào ngày sau tế giao, và Thần Đất nhờ duyên với Trời mà được tế khắp, nên dù tế Thần Đất, thực chất cũng là thờ Đế mà thôi. Vì vậy, sách 《Trung Dung》 viết: “Lễ tế giao và xã tắc là để thờ Thượng Đế.”
[29] Thần xem xét lời tâu của Trương Tảo, xin Bệ hạ thân hành tế giao, ngày Hạ chí tế Đất, theo như lời Tảo. Còn ngày sau Đông chí tế Trời, theo lệ cổ về lễ Vọng phương hướng, nhân đó lệnh tế Đất ở Bắc Giao, và các thần Hải Nhạc, Tứ Độc, Sơn Lâm, Xuyên Trạch, phàm những vị thần trước đây từng được tế ở Viên Khâu, đều được tham dự, cũng sai Trủng Tể đứng làm lễ, đều theo nghi thức tế Hạ chí. Như vậy, thân hành đại lễ, tuy bỏ lễ hợp tế, nhưng Thần Trời Đất tự nhiên được cùng loại mà làm lễ, để tỏ rõ ý nghĩa tôn Trời thân Đất của Bệ hạ.
[30] Tuy nhiên, sau lễ tế giao, ắt có việc tế phương vọng, kinh điển chứng minh rõ ràng, nên phải xem xét lại. Còn việc tế đất tuy chưa có bằng chứng rõ ràng, nhưng thần căn cứ vào lý lẽ mà suy ra, phương vọng còn phải tế, huống chi địa kỳ giúp trời ban phúc, lại là việc lớn hơn, sao có thể bỏ qua được! Kính xét sách 《Thuấn điển》, tế loại có Thượng đế mà không có nhật nguyệt tinh thần, tế nhân có lục tông mà không có Thái tổ, tế vọng có sông núi mà không có đại kỳ. Trong 《Chu quan》, chức Đại tông bá, tế tự có Thượng đế mà không có Ngũ đế, có Ty trung, Ty mệnh mà không có Ty lộc, tế tự có Xã tắc, Ngũ tự mà không có Đại kỳ, có núi cao mà không có bốn sông lớn, có sông núi rừng đầm mà không có gò đống, tế hưởng có tiên vương mà không có tiên công. Như vậy, thứ bậc tế tự trên dưới, so sánh nghĩa lý đều có thể biết được. Thần sợ rằng học vấn còn nông cạn, bàn luận chưa thấu đáo, xin nhờ ý chỉ của bệ hạ quyết định.
[31] Chiếu đưa xuống cho Ty Tường định xem xét. Ty Tường định cho rằng Điền đã nói chưa có bằng chứng rõ ràng, nên về lý khó thi hành.
[32] Chiếu cho Tả thị cấm[8], Cáp môn kỳ hậu Dương Diễm đợi hai năm thăng một chức. Trước đây có chiếu Diễm vĩnh viễn không được xét thăng, đến nay, vì tu sửa Hoàng đường của Thái hoàng thái hậu nên thăng cho.
[33] Ngày Ất Sửu, Cáp môn tâu: “Hàng năm vào mùa nóng, ngự ở hậu điện, tiện cho việc quyết sự. Xin từ ngày mùng một tháng 5 đến cuối tháng 7, những ngày đáng lẽ ngự ở tiền điện, Cáp môn xin chỉ. Nếu được chỉ ngự ở hậu điện, thì miễn triều tham.” Chiếu rằng: “Từ nay trong ba tháng nóng, năm ngày ngự ở tiền điện một lần.”
[34] Ty An phủ Kinh Hồ Nam lộ tâu, Tri châu Thiệu Châu Quan Kỷ bàn việc ở các châu trấn Huy, Thành thuộc khu vực Khê Động lập thành trại, đóng quân và kế sách phòng thủ chiêu dụ, xin giao cho Ty Chuyển vận xem xét. Chiếu cho Tạ Cảnh Ôn, Chu Sơ Bình, Triệu Dương xem xét lợi hại, và sau khi xử trí làm sao lâu dài không sinh sự, bảo đảm rồi tâu lên. Sau đó, việc xây dựng theo như kế sách của Kỷ.
(Ngày 4 tháng 8, theo kế sách của Kỷ. Ngày 16 tháng 9, có thể khảo cứu.)
[35] Biên tu học chế sở tâu: “Phụng chỉ lập thế yếu cùng quốc tử giám sinh, thái học quan thân thuộc, cho phép không cần theo quê quán mà được ứng cử tại Khai Phong phủ[9]. Thần xem xét kỹ, giám lấy tên là quốc tử nhưng không có thực chất giáo dưỡng quốc tử, e rằng không xứng với ý của triều đình xây dựng trường học để nuôi dưỡng nhân tài. Xin cho thân thuộc của các quan thanh yếu đều vào giám nghe giảng, lấy 200 người làm mức, cấp phát không quá 40 người.” Triều đình nghe theo.
[36] Ngày Bính Dần, chiếu cho Thị dịch vụ mượn 12 vạn quan từ khoản tiền phong trang miễn phu để trả tiền nhà dân bị chiếm ở phía đông cung Cảnh Linh. Vì việc tu sửa điện Thần Ngự đã xâm phạm nhiều nhà dân.
[37] Ngày Mậu Thìn, chiếu cho Bí thư giám trí sĩ Lưu Kỷ[10]đi ngựa trạm đến sở Tường định lễ văn để bàn về nhạc. Kỷ trước làm Tri Bảo châu, năm 61 tuổi thì về trí sĩ, nay đã 12 năm. Kỷ từng nói rằng luật lấy tiếng người làm gốc, không lấy thước đo để cầu hợp. Cổ kim khác thời, tiếng cũng theo đó mà biến đổi, giống như y phục ngày xưa, cho người nay mặc thì không hợp. Các nho sinh bám vào cổ, chỉ chú trọng hình danh, độ số mà không biết dùng thanh trọc nặng nhẹ, nên tìm ở nhạc khí tuy hợp, nhưng hòa với tiếng thì không thể vào được, chỉ rối rắm thôi. Kỷ từng đi chùa, nghe tiếng chuông, nói: “Tiếng rè mà buồn, không lợi cho người chủ.” Đến tối, vị sư trụ trì chết. Ở Bảo châu, nghe tiếng tù và, nói: “Cung nhỏ mà thương lìa, quan thủ thần lo lắng, ứng vào mùa thu.” Đến kỳ thì Kỷ bệnh. Ông thấu hiểu như vậy, nhưng học vấn phần nhiều tạp nhạp Trịnh, Vệ.
[38] Ngày Kỷ Tỵ, Bí thư giám Cao Phú bị bãi chức Tri châu Thái Châu, vì dân khách xin nhận ruộng bỏ hoang nhưng bị truy thu lại giấy tờ đã cấp. Do quyền Đề điểm hình ngục lộ Kinh Tây Bắc là Trương Phục Lễ tâu rằng Cao Phú đã chiếm đoạt đất đai ngoài khế ước của dân và ruộng bỏ hoang của hộ nghèo, chiêu mộ dân khách tự chiếm, gây ra sự náo động trong địa phương.
[39] Ngày Canh Ngọ, Tể thần Vương Khuê tâu rằng em trai là Chức phương lang trung Vương Ngọc trước đây quản câu sơn lăng Đại hành Thái hoàng thái hậu, xin được ban ân. Chiếu lệnh cho Vương Ngọc làm chức Bát phát sông Thái Hà.
[40] Chiếu lệnh miễn trừ số tiền 5.000 quan công sứ của Hàng Châu mà cố Xu mật trực học sĩ Trần Tương đã chiếm dụng. Vì Trần Tương đã mất nên không truy cứu.
[41] Chiếu lệnh cho Tri châu Nguyên Châu[11], Khách tỉnh phó sứ Tạ Lân được tái nhiệm, thăng một chức quan cho con trai.
[42] Chỉ sử huyện Bình Ân, châu Minh là Vương Khuê, chức Tam ban sai sứ, xin từ chức để chịu tang cha. Được chấp thuận, đồng thời chiếu lệnh cho Binh bộ từ nay về sau, nếu có ai xin như Vương Khuê thì nên lập tức cho phép.
[43] Ngày Tân Mùi, chiếu lệnh cho Trung thư bàn riêng về việc sắp xếp lại phép kế toán của Tam ty.
(Xem tấu nghị của Tô Triệt năm Nguyên Hựu thứ nhất, cần tra cứu thêm.)
[44] Lại có chiếu rằng: Các cơ quan vi phạm, chậm trễ, nếu cần tâu mặt thì lệnh cho Ngự sử đài Trung thừa, Tri tạp cùng quan sát viên bản quán lên điện, hoặc tâu đầy đủ, còn lại thì trình lên Trung thư. Trước đây, Ngự sử đài xin rằng những việc không cần tâu thì theo quan đài xét xử phạt lại nhân hoặc sửa chữa, nhưng không được chấp thuận. Lại xin rằng các chức Ti cử quan, Đề điểm hình ngục ở các lộ đã thuộc quyền kiểm sát của đài. Các ty Đề điểm, Đề cử ở phủ giới Khai Phong, các ty Phát vận, Liễn vận, Bát phát, Đề điểm diêm sự, Địch tiện lương thảo, Thị dịch, Diêm thuế, Khanh dã, Chú tiền, Trà trường, Ứ điền, Doanh điền, cùng các ty Đồn điền ở Hà Bắc, ty Chế trí giải diêm ở Thiểm Tây, ty Kinh chế tài dụng biên phòng Hi Hà lộ, ty Thố trí công sự biên phòng bốn lộ duyên biên Thiểm Tây, ty Ngoại đô thủy giám thừa, ty Đề cử mua ngựa giám mục, ty Quân mã Lân Phủ lộ, các ty Kinh lược, Tổng quản, An phủ, Kiềm hạt ở các lộ, cũng nên thuộc quyền kiểm sát của đài. Đều được chấp thuận.
[45] Chiếu rằng: “Các chức Tuần kiểm ở Hà Bắc, Thiểm Tây lộ, quân lính đã thay bằng Nghĩa dũng, Bảo giáp, thì lương bổng có thể theo như phủ giới Khai Phong, Hà Đông lộ, phong trang theo quý, lập sổ kê khai, báo lên Xu mật viện và Binh bộ để chi phí lương thực cho Nghĩa dũng, Bảo giáp.”
[46] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng từ nay các quan đang tại chức ở ngoài không được thi Hình pháp.
[47] Chiếu cho Hàn lâm học sĩ Lý Thanh Thần thôi chức Tri thẩm quan tây viện. Thanh Thần vì đang tu sửa sách sử hai triều nên xin thôi kiêm nhiệm.
[48] Chiếu rằng những người được cử dạy tập mã quân, thấy dạy con em quan lại và dân chúng bắn cung một thạch lực, tên ngắn, trước sau tay chân đều hợp pháp, khi đến ngày dạy tập, có thể cấp mỗi người ba thăng gạo từ kho lương cấm quân thiếu ngạch.
(Trích từ 《Ngự tập》 quyển 121, tờ tay, ngày Giáp Dần tháng 9 năm Hi Ninh thứ 7; ngày Canh Ngọ tháng 9 năm thứ 10; ngày Tân Tỵ tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2[12], ngày Kỷ Dậu tháng 6 năm thứ 3, ngày Giáp Ngọ tháng 11 năm thứ 5, nên xem xét cùng nhau.)
[49] Chiếu tăng thêm một viên huyện lệnh huyện Phiền Chỉ châu Đại, và dùng sứ thần làm đô giám.
[50] Ngày Giáp Tuất, Tri châu Lư Châu, Công bộ Lang trung Hàn Tông Đạo, Quyền phát khiển châu Kiền, Thái tử Trung doãn Lưu Tải, mỗi người bị phạt mười cân đồng, quan giám sát thuế vụ châu Sở, đều bị thay thế. Vì trước đây ở Ty chuyển vận Hoài Nam, dùng Ty thị dịch châu Sở bán vải lụa dân nộp thuế, vi phạm chiếu chỉ không thi hành, và cho phép thuế vụ vi phạm chiếu chỉ thu thuế thị dịch tre gỗ nên bị xử phạt.
[51] Ngày Ất Hợi, chiếu rằng từ nay quân Thượng tứ mãn hạn, chỉ sai quân Trung thay đổi.
[52] Chiếu rằng Ty Nông Thiếu khanh, nguyên Tri châu Vệ Lỗ Hữu Khai bị phạt hai mươi cân đồng, Thông phán, quan Mạc chức, Chủ bạ huyện Cấp, Úy đều bị thay thế, quan Tuần hà Bộ dịch bị truất quan, cách chức, thay thế. Đều vì sông tràn không cứu hộ kịp.
[53] Quang lộc Tự thừa, Tri huyện Tương Thành châu Nhữ Vu Hữu bị tước bỏ văn bằng, cách chức, biên quản châu Hoành. Vì tội gian dâm và trộm cắp.
(Ngày Quý Dậu tháng 9, trách phạt người tiến cử.)
[54] Chiếu rằng cửa tiến thực trong Nội Đông Môn đặt tên là Hội Thông.
[55] Sở Tường định trùng tu biên sắc tâu rằng: “Hiện đang tu sửa sắc lệnh cùng với các điều khoản, quy chế, thể thức đều được thi hành, trong đó 《Đường thức》 gồm 20 quyển, điều mục rất nhiều. Hơn nữa, việc xưa nay khác nhau, xin lấy những việc có thể thi hành chung cùng với các điều kiện của một lộ, một châu, một huyện và các cơ quan ngoài để soạn tu, còn lại gửi đến Sở Tường định các sắc thức của các ty.” Được chấp thuận.
(Ngày 15, ngày 9 tháng 8, ngày 24 tháng 6 năm thứ 2, có thể tham khảo.)
[56] Ngày Đinh Sửu, Sở Tường định trùng tu biên sắc tâu rằng: “Vâng chiếu mỗi tháng phải trình bày công việc để tâu lên, nhưng vì phải tham khảo ý kiến của nhiều người, nghiên cứu nghĩa lý, cùng với việc so sánh các mâu thuẫn, trùng lặp, thiếu sót, đúng là lúc khó lập chương trình công việc, xin miễn tấu công việc.” Không được chấp thuận, vẫn ra chiếu cho Trung thư lập thể thức.
[57] Ra chiếu cho Chuyển vận sứ Lợi Châu lộ Lưu Thầm dời đến Tử Châu lộ thay cho Cao Bỉnh, Bỉnh lưu lại bản lộ nghe chỉ. Lúc đó đang mở án, điều tra việc Vương Tuyên và những người khác làm mất mát tài sản.
[58] Ty An phủ duyên biên Hà Đông xin chuyển văn thư ngăn cản việc người phương Bắc xây dựng nhà trạm dọc biên giới. Vua phê: “Nếu người phương Bắc xây dựng thành trì ở phía bắc đường phân giới, tức là vi phạm thệ ước. Nếu chỉ tăng thêm nhà trạm, thì không được ngăn cản. Hoặc nếu ở phía đông Thổ Môn, tiếp giáp phía nam Chân Định, xâm phạm, tăng thêm nhà trạm, hào hậu, thì trước hết phải giải thích lý lẽ; nếu không nghe, thì ngăn cản việc vượt biên giới.” Tiếp tục ra chiếu: “Nếu người phương Bắc quả thực có xây dựng thêm, mà bên ta chưa có nhà trạm, thì nên xem xét tăng thêm ở những nơi cần phòng thủ, trước hết vẽ bản đồ tâu lên.”
[59] Tẩu mã thừa thụ Lân Phủ lộ Lăng Trung[13] tâu rằng: “Nghe nói ở Cửu Lương Tân, Phủ Châu và Giả Hồ Tẩu có người phương Bắc phá tường đá hào giới[14] để lấy nước.” Ra chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông lộ bí mật xem xét nên xử trí thế nào, còn việc tuần tra ở nơi đó không cẩn thận, cũng phải điều tra xử lý.
[60] Chiếu cho các quan trong triều, người được tuyển chọn, và các viên chức thử thi về kinh nghĩa, luật lệnh đại nghĩa, người đạt loại ưu nhất sẽ được giảm thời gian khảo hạch hai năm; người thi làm quan pháp luật, hai người đạt loại ưu sẽ được bổ nhiệm làm quan pháp luật, người thứ ba và thứ tư sẽ được bổ nhiệm làm việc học tập công vụ, từ người thứ năm đến thứ bảy sẽ được thăng hai bậc, ba người dưới cùng sẽ được thăng một bậc, những người còn lại sẽ được ban ơn theo thứ tự.
[61] Ngày Mậu Dần, Vua đến thăm bệnh ở phủ của Thục Quốc Trưởng Công chúa, sau đó đến thăm phủ của Trần Quốc Trưởng Công chúa.
[62] Ngày Kỷ Mão, Thục Quốc Trưởng Công Chúa băng hà. Công chúa gả cho Vương Sân, mẹ của Sân là bà Lô góa, công chúa ở tại nhà bên cạnh, mỗi bữa ăn đều chọn những món ngon quý dâng lên. Khi bà Lô bệnh, công chúa ngày ngày đến bên giường, tự tay pha thuốc dâng lên. Những người thân thích nhà Sân đều được công chúa giúp đỡ, trong ngoài đều khen ngợi. Khi công chúa bệnh nặng, Hoàng Thái hậu và Hoàng hậu đến thăm, công chúa ban đầu không tỉnh, Hoàng Thái hậu khóc lóc thảm thiết. Sau đó công chúa tỉnh lại, nói rằng mình không thể qua khỏi, rồi cùng nhau ôm nhau khóc. Hoàng đế đến sau, thấy công chúa gầy yếu, quỳ xuống giường khóc, nước mắt rơi ướt đẫm. Hoàng đế tự tay bắt mạch cho công chúa, triệu tập các thầy thuốc, hỏi về tình trạng bệnh, tự tay dâng cháo cho công chúa ăn, công chúa vì Hoàng đế mà cố ăn. Ngày hôm sau, tin công chúa không qua khỏi được báo lên. Hoàng đế chưa kịp ăn sáng, liền lên xe đến, nhìn thấy cổng nhà mà khóc. Ban cho nhà công chúa năm trăm vạn tiền, ngừng triều chính năm ngày, sai Nhập nội phó đô tri Tô Lợi Thiệp lo việc tang lễ, lễ nghi theo như Tần Quốc Đại Trưởng Công Chúa, không câu nệ theo quy định. Truy phong là Việt Quốc, thụy hiệu là Hiền Huệ.
Công chúa tính không ghen tuông, Sân hầu hạ công chúa khi bệnh, lại thông dâm với tỳ nữ bên cạnh công chúa, tỳ nữ nhiều lần xúc phạm công chúa, có lời nói sau lưng, Sân lại đồng tình. Khi công chúa mất, nhũ mẫu tố cáo, Hoàng đế sai hữu ty điều tra kỹ, tám tỳ nữ đều bị đánh trượng, phối đến Sằn vụ và quân doanh xe. Sau khi công chúa được an táng, Sân dâng sớ xin chịu tội. Hoàng đế phê: “Sân trong thì dâm loạn buông thả, ngoài thì lừa dối bất trung. Trưởng Công Chúa vì phẫn uất mà bệnh nặng không qua khỏi, Hoàng Thái hậu đau buồn nhiều tháng, ít khi dùng cơm. Tội của Sân, nghĩa không thể tha, nên cách chức Phò mã đô uý, giáng làm Chiêu Hoá quân Tiết độ Hành quân Tư mã, an trí tại Quân châu.”
(Cựu kỷ chép tháng năm ngày Kỷ Mão Thục Quốc Trưởng Công Chúa băng, chiếu giáng Phò mã đô uý Vương Sân làm Chiêu Hoá quân Tiết độ Hành quân Tư mã. Tân kỷ không chép.)
[63] Ngày Canh Thìn, y quan Trần Dị Giản bị phạt sáu mươi cân đồng, Thẩm Sĩ An ba mươi cân, Đỗ Nhâm bị truất hai chức; Quốc tử Tứ môn Trợ giáo Dương Văn Uất bị truất một chức, đều bị cách chức. Vì chữa bệnh không hiệu quả.
[64] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu rằng: “Tiến sĩ Lưu Đường ở phủ Dĩnh Xương dâng lên mười kế sách chống trộm cướp. Xem văn chương của ông, tuy chưa xuất sắc, nhưng khá am hiểu việc đời, lời nói không trái lý, có điều đáng khen. Nếu những điều ông bàn luận xuất phát từ tấm lòng, nếu cho làm quan thử việc, có thể sẽ bộc lộ tài năng. Có thể triệu ông đến Trung thư để tham khảo thực tế, lệnh cho quan Kiểm chính của bản phòng đưa các điều khoản về bắt trộm cướp của chức Huyện úy cho ông xem xét kỹ.” Sau đó, bổ nhiệm Lưu Đường làm Huyện úy huyện Tiêu, châu Từ.
[65] Ngày Quý Mùi, Thái học bác sĩ, Hiệu thư ở Sùng Văn viện, Chủ bạ huyện Giang Âm là Thái Biện được bổ làm Biên tu quan ở Viện Tu quốc sử. Ban đầu, Lâm Hi được bổ nhiệm chức này, nhưng sau đó được lệnh đi sứ Cao Ly, ông không muốn đi nên bị cách chức. Đến lúc này lại triệu ông về làm Biên tu quan, nhưng Ngự sử Hà Chính Thần tâu rằng nên để Thái Biện thay thế. Chính Thần lại tâu: “Gần đây việc tiến cử quan chức ít chú ý đến những người xuất thân hàn vi, phần lớn lợi lộc đều dành cho con em nhà quyền quý, đặc biệt là trong việc buôn bán. Mong rằng ban chiếu cho Trung thư xem xét lại những người được tiến cử ở kinh đô, hoặc những người đã được bổ nhiệm nhưng chưa nhận chức, xem họ có người thân trong họ hay ngoại tộc đang làm quan hưởng lộc hay không, rồi tâu lên để quyết định bãi miễn hay giữ lại, nhằm thể hiện sự công bằng. Xin từ nay về sau, việc tiến cử quan chức đều phải theo quy chế tiến cử Kinh quan và Huyện lệnh, phải kê khai rõ người thân.” Chiếu gửi cho Đô đề cử Thị dịch Vương Cư Khanh, và lệnh cho Trung thư đặt ra quy định.
[66] Quyền Phát khiển Khiêm hạt lộ Phu Diên là Khúc Trân xin tâu lên, xin đổi tên hộ khẩu cho đất của tổ tiên ông là dân Cung tiễn thủ ở địa giới quân Đức Thuận, nếu không được thì xin nộp tiền cho quan. Chiếu rằng: “Khúc Trân nhiều lần lập chiến công, ban cho ông bốn khoảnh rưỡi đất.”
[67] Quyền Phó sứ Giang Hoài phát vận là Lô Bỉnh tâu: “Sông Hoàng Hà đổ vào sông Biện, nước chảy xiết, nhiều thuyền vận tải bị vỡ, gây thiệt hại nhân mạng. Nay sông Biện trong và chảy chậm, nên giảm bớt số lượng thuyền. Nay quy định thuyền nặng sáu trăm liệu, đi ngược dòng giảm hai người, xuôi dòng giảm hai người, thuyền không đi ngược dòng giảm hai người, xuôi dòng giảm ba người, còn lại cứ theo thứ tự mà giảm.” Theo đó.
(Bản Chu bỏ đi, bản mới cũng bỏ đi.)
[68] Ngày Giáp Thân, lệnh cho Tổng quản Kinh Nguyên lộ kiêm Đệ nhất tướng, Tứ phương quán sứ, Trung Châu đoàn luyện sứ Hàn Tồn Bảo làm Đô đại kinh chế Lô Châu man tặc sự, cho phép chọn binh sĩ thuộc quyền và binh sĩ Thiểm Tây cùng Đông binh một vạn người đi theo, nghĩa quân nỏ thủ cũng được chọn lựa, cử 40 sứ thần; khi xuất quân, trước hết phải dụ dỗ các hộ man thuộc hai bên, bảo họ an cư, nếu muốn theo quân đánh giặc cũng được; các quan chức quân sự trong lộ đều phải tuân theo sự điều động. Lại lệnh cho Nội tàng khố sứ, Trung Châu thứ sử, Quyền phát khiển Kinh Hồ Bắc lộ kiềm hạt Bành Tôn làm Đề cử tróc sát Lô Châu man tặc, cho phép cử 20 sứ thần, chọn 3.000 quân mã bộ, tự tìm đường tiện lợi tiến đánh, nếu gặp quân của Hàn Tồn Bảo thì phải tuân theo sự điều động của Hàn Tồn Bảo.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép: Tổng quản Kinh Nguyên lộ Hàn Tồn Bảo kinh chế Lô Châu man tặc, sách 《Tân kỷ》 chép: lại lệnh.)
[69] Chiếu đổi Đô đại đề cử Đạo Lạc thông Biện ty thành Đô đề cử Biện Hà đê ngạn ty.
(Ngày 21 tháng 2 năm thứ 2, lần đầu đặt Đạo Lạc thông Biện ty, ngày 3 tháng 5 năm thứ 8 bãi bỏ các khoản thu lợi.)
[70] Chiếu lệnh cho chức Tịch điền lệnh thuộc Thái thường tự, mỗi tháng cấp thêm 7.000 tiền.
[71] Vua phê: “Con của Trần Quốc trưởng công chúa là Vương Thù, Vương Thực được thăng 5 bậc.”
[72] Ngày Ất Dậu, ban cho Giá bộ viên ngoại lang, Quản câu Sùng Phúc cung Tôn Kinh áo tía, các bậc phụ lão ở Dĩnh Xương phủ được ban trà và lụa có phân biệt. Tôn Kinh cùng 622 người vì việc thăng Dĩnh Xương phủ đến cửa khuyết tạ ơn, Vua triệu kiến và hỏi thăm, nói: “Khanh vượt nắng nóng từ xa đến, vất vả nhiều.” Nên ban thưởng.
[73] Ty kiềm hạt Tử Quỳ lộ tâu lên việc bộ hạ của Lộ phân đô giám Lô Châu Vương Tuyên không cứu hộ chủ tướng, chia làm ba bậc. Chiếu lệnh đều miễn tội chết, xử phạt đi đày, bậc nhất 18 người, đày đến các châu quân xa xôi ác nghiệt ở Quảng Nam, giam trong lao thành, gặp xá cũng không được về; bậc hai 47 người, đày đến lao thành Kinh Hồ; bậc ba 15 người, đày đến lao thành cách xa nghìn dặm. Những người bị thương nặng được miễn đánh trượng.
[74] Ngày Bính Tuất, Khởi cư xá nhân, Long đồ các đãi chế, Tri thẩm quan Tây viện Thẩm Quát được bổ nhiệm làm Tri Thanh châu. Trước đó hai ngày, Quát được bổ nhiệm làm Tri thẩm quan, Ngự sử Mãn Trung Hành tâu: “Quát từ chức quan nhỏ, không mấy năm đã lên đến chức Hàn lâm viện học sĩ, không thể giữ trọn lòng trung thành phụng sự Vua, lại ngầm theo phe cánh đại thần, làm hại chính sự. Vừa bị cách chức chưa lâu, đã vội được phục chức, trong ngoài đều nghi ngờ và kinh ngạc. Nay lại triệu về, những kẻ gian tà tham lợi đều đang chờ xem, khiến lòng người dao động. Mong xét lại phẩm hạnh của ông ta, bổ nhiệm một chức vụ ngoài kinh thành.” Vì thế có mệnh lệnh này. Bảy ngày sau, Quát được đổi làm Tri Diên châu. Trung Hành lại tâu: “Nghe nói Giáo thụ Vệ châu là Thái Đạo vì phạt sinh viên Tạ Hoàn, là cháu của Thiêm thư phán quan Tạ Kinh, ỷ thế là thân thuộc của quan châu, mắng chửi thầy giáo. Đạo dựa vào quy chế học đường để trừng phạt, Kinh bèn xét việc mua rượu của châu học để thỏa mãn oán riêng, giam giữ hơn năm chưa xử. Tri châu Lý Đoan Xác tự ý sai cấm quân canh giữ nhà Đạo, cắt đứt thuốc men và thức ăn, lại sai công nhân đột nhập nhà Đạo. Coi thường pháp lệnh, lấn át chính quyền, không gì tệ hơn! Mong xét tình hình của Đoan Xác và Kinh, đặc biệt giáng chức.” Chiếu cho Chuyển vận ty xúc tiến xét xử, nếu Đoan Xác và Kinh thuộc diện được ân xá hoặc đã thôi chức, cũng phải tường trình tình tiết. Sau đó, Đoan Xác bị phạt 10 cân đồng, Tạ Kinh bị thay thế.
[75] Ngự sử đài tâu, kiểm tra sổ sách vật phẩm của Tam ty từ năm Hi Ninh thứ 8 đến năm trước, có 190 việc chưa kết thúc. Chiếu cho Đại Lý tự xét tội các quan lại để mất sổ sách.
[76] Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu, các trạm báo hỏa hiệu ở biên giới chỉ báo thẳng về bản trại, chưa từng báo sang các trại lân cận, xin ban hành quy chế báo hỏa hiệu ngang. Chiếu cho các lộ xem xét thi hành.
[77] Kinh lược ty Tần Phượng lộ tâu: “Theo quy chế gần đây, kỵ binh tập bắn và chiến đấu ngoài đồng từ ngày 1 tháng 10 đến ngày Cốc vũ. Vì vùng biên giới lạnh, xin cho tập từ ngày 1 tháng 8 đến ngày 1 tháng 5.” Được chấp thuận, và chiếu cho các quân ở Hà Đông, Thiểm Tây cũng làm theo.
(Bản chí ghi chiếu này vào tháng 5 năm thứ 2, nay không theo.)
[78] Chiếu cho Ty Tường định trùng tu biên sắc xét kỹ ý nghĩa của luật, trước hết xét kỹ điều khoản về việc xét hỏi vụ án muốn trình bày để tâu lên. Sau đó, Ty Tường định tâu rằng những người phạm tội vì nghi ngờ bị bắt, tang chứng chưa rõ ràng, đã qua xét hỏi và khai báo đầy đủ, thì cho phép áp dụng pháp luật giảm tội như tự thú, và đến nay vẫn thi hành.
(Theo bản ghi của Chu. “Đến nay” là chỉ thời kỳ Thiệu Thánh.)
[79] Lại chiếu cho Trung thư Hộ phòng, Tam ty và các quan Ty Trướng, trước hết lấy sổ sách của Kinh Tây lộ để sắp xếp và lập pháp rồi tâu lên.
[80] Chiếu rằng: “Người man ở châu Quy Lai biết Khất Đệ làm loạn, nếu các bộ lạc man lân cận hoặc những người man thuộc cả hai phe, nếu có thể chém được Khất Đệ, nếu muốn làm châu Quy Lai, thì cho làm Thứ sử bản châu, mỗi tháng cấp trà và lụa; nếu muốn nhận chức quan của nhà Hán, thì cho làm Nội điện thừa chế, ban thưởng một nghìn lạng bạc, một nghìn tấm lụa. Nếu có thể bắt hoặc chém được các thủ lĩnh cấp dưới, thì sẽ thưởng theo thứ bậc. Những người man dưới quyền Khất Đệ nếu tự mình giết được Khất Đệ hoặc các thủ lĩnh cấp dưới, cũng được áp dụng như vậy. Hãy treo bảng xá tội ở các con đường trọng yếu mà người man qua lại, và phái các tướng chiêu an vào sâu trong vùng man để tuyên bố rõ.”
[81] Đô thủy giám thừa tâu: “Cùng với Ngoại giám thừa và các Đô đại bàn bạc về việc các đê sông Hoàng Hà đang hướng về phía trước hay lùi lại, chia làm ba hạng để tính toán số lượng binh lính và vật liệu. Xin cho một viên Phán giám đi xem xét và thi hành.” Chiếu phái Phán giám Lưu Định đi.
(Ngày 18 tháng giêng năm thứ ba, lấy Binh bộ viên ngoại lang Trương Đường Dân, Đồn điền viên ngoại lang, Quyền phát khiển Hà Bắc đề điểm hình ngục Lưu Định, cùng quyền làm Phán đô thủy giám, ngày 15 tháng 6 lại cho kiêm chức Đề hình kiêm Nghĩa dũng, Bảo giáp.)
[82] Đô đại kinh chế sự vụ Lô Châu man tặc Hàn Tồn Bảo tâu rằng, đang chỉ huy một vạn năm nghìn quân chính quy, theo phép trận cửu quân chia làm bốn tướng hành dinh. Chiếu lấy Hoàng thành sứ, Nhã Châu thứ sử, Kinh Nguyên lộ Kiềm hạt Diêu Hủy làm Đệ nhất tướng, Trang trạch sứ, Quyền Phu Diên lộ Đô giám Lã Chân làm Đệ nhị tướng, Lạc uyển phó sứ, kiêm Cáp môn thông sự xá nhân, Kinh Nguyên lộ Đệ ngũ phó tướng Tôn Hàm Ninh làm Đệ tam tướng, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ, Kinh Nguyên lộ Đệ tứ phó tướng Quách Chấn làm Đệ tứ tướng.
[83] Ngày Kỷ Sửu, Tri châu Diên Châu Lữ Huệ Khanh tâu rằng đã soạn xong điều ước năm lộ, xin được phép đến kinh đô tâu trình để báo cáo thành bại. Vua đồng ý. Huệ Khanh sau đó gặp tang mẹ.
(Bản Chu chép riêng ngày Bính Thân mùng 5 tháng 6 có chiếu triệu Huệ Khanh về kinh. Xét theo gia truyền của Huệ Khanh, mẹ ông thực tế mất ở kinh sư, đầu tháng 6 Huệ Khanh mới biết tin, có lẽ việc triệu ông về không phải tháng 6, nay theo bản Mặc. Gia truyền chép việc Huệ Khanh tuần biên, có thể lược bớt, nhưng cũng không đáng chép.)
[84] Ngày Canh Dần, Vua ra chiếu cho Hàn Tồn Bảo và Bành Tôn không được mang theo những người phù lãng cử nhân ở Thục. Vua phê rằng: “Tồn Bảo trước đây đánh giặc Di họ La, Hồ, Cẩu ở châu Lô, thường có quy định không được thu nạp phù lãng cử nhân, nên gửi trát cho Tồn Bảo và Tôn.”
[85] Cơ quan Tường định nghi chú triều hội tâu: “Nay định ở phía sau cửa Đại Khánh điện, bên đông tây dựng màn làm các, lại ở hai bên trái phải điện dựng màn ở phòng đông tây, làm nơi xa giá ra vào.” Lại tâu: “Xe bình liễn và tiêu diêu dùng trong triều hội, trước đặt ở điện Tây Đóa, nay tông thất ngồi ở điện Tây Đóa dự tiệc, xin dời xe bình liễn đặt ở trên long trì đông tây.” Vua đều đồng ý.
[86] Ở châu Thanh, huyện Lâm Cù và Ích Đô có đá hóa thành bột, dân lấy ăn.
(Sách 《Tân kỷ》 chép việc này.)
- Theo văn bản, nghi ngờ chữ 'tấu' sau 'bảo minh' bị thiếu chữ 'văn'. ↵
- 'Văn' nguyên bản là 'Minh', căn cứ vào các bản, bản hoạt tự và 《Thông khảo》 quyển 71, phần Giao xã khảo sửa lại. Xem 《Ngụy thư》 quyển 7 hạ, phần Cao Tổ kỷ, năm Thái Hòa thứ 20, tháng năm, ngày Bính Tuất: 'Lần đầu xây dựng Phương Trạch ở Hà Âm', ngày Đinh Hợi: 'Xa giá đến làm lễ ở Phương Trạch'. ↵
- Hiệu quả rõ ràng mà tiên vương đã thực hiện, 'hiệu' nguyên bản là 'giao', theo các bản và 《Thông khảo》 quyển 71, phần Giao Xã Khảo sửa lại. ↵
- Người nước Tấn sắp làm lễ tế sông, chữ 'Tấn' nguyên bản là 'Lỗ', căn cứ vào sách 《Lễ ký - Lễ khí》 và sách trên mà sửa lại. ↵
- Hậu Hán nhân từ Nam Giao, chữ 'từ' nguyên là 'giao', căn cứ theo các bản khác và sách liên quan sửa lại ↵
- Ngũ Cung, chữ 'cung' nguyên là 'vị', căn cứ theo sách liên quan và 《Tục Hán Thư·Lễ Nghi Chí》 sửa lại ↵
- Năm thứ 31 đời Hi Công, chữ 'Hi' nguyên bản viết là 'Văn'. Xét: Văn Công tại vị chỉ 18 năm, việc bói bốn lần về tế giao được chép trong 《Tả Truyện》 năm thứ 31 đời Hi Công, theo đó sửa lại. ↵
- 'Tả', bản các các làm 'Hữu'. ↵
- Cho phép không cần theo quê quán mà được ứng cử tại Khai Phong phủ, hai chữ 'cho phép' nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào bản trong các sách và 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 hạ, 《Tống hội yếu》 chức quan 28-10 sửa lại. ↵
- Lưu Kỷ, chữ 'Kỷ' nguyên bản viết là 'Kỷ', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 nhạc 5-10 và 《Tống sử》 quyển 128 nhạc chí, quyển 262 Lưu Kỷ truyền sửa lại. ↵
- Nguyên châu, chữ 'Nguyên' nguyên bản viết là 'Hãng'. Xét: Nhà Tống không có châu 'Hãng', trong 《Tống sử》 quyển 330, truyện Tạ Lân có ghi: 'Chương Đôn đi sứ Hồ Nam, mở rộng Nguyên Châu, tiến cử Tạ Lân làm thủ lĩnh', chữ 'Hãng' rõ ràng là sai, nên sửa lại. ↵
- Ngày Tân Tỵ tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2, chữ 'tứ' nguyên là 'bát', theo bản trong các kho sửa lại. Xét: Tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2, ngày Mậu Thìn là mùng một, ngày Tân Tỵ là ngày 14. ↵
- 'Lăng' trong 'Lăng Trung', 《Tống hội yếu》 binh 28-22 chép là 'Lục', có lẽ đúng. ↵
- 'Phá' trong 'người phương Bắc phá tường đá hào giới', nguyên bản chép là 'chiết', theo bản các các và sách trên sửa lại. ↵