"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 306: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)

Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 7 mùa thu, ngày Quý Hợi, Nội điện thừa chế Vương Thuấn Phong, người được cử làm sứ quản lý y dược sang Cao Ly, trở về, được bổ làm Cáp môn thông sự xá nhân, kiêm quản lý Ngự tiền Trung tá quân đầu dẫn kiến ty và y quan[1], được thăng chức, ban thưởng vàng, áo mũ theo thứ bậc.

[2] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu: “Các đập Thượng, Hạ của Quảng Vũ và Hùng Vũ tuy dựa vào địa hình, đảm bảo không có sơ hở, nhưng hiện nay mưa lũ khó lường, sông nước chảy xiết, cần phải nhờ người am hiểu thủy thế để chủ trì xử lý, thì việc sắp xếp mới không sai lầm, tránh được lo lắng cho triều đình. Có thể nhanh chóng cử Ngoại đô thủy giám thừa Trần Hữu Phủ đến xem xét.”

[3] Xuống chiếu cho Quyền phát khiển đề điểm Hà Bắc Tây lộ hình ngục, Thái thường bác sĩ Đỗ Thường làm Quyền phát khiển đề điểm Tần Phượng đẳng lộ hình ngục, kiêm quản lý nghĩa dũng, bảo giáp, thay cho Thái thường bác sĩ Lý Thâm, điều Lý Thâm làm Quyền phát khiển đề điểm Hoài Nam Đông lộ hình ngục. Do có chỉ dụ: “Lý Thâm cố chấp, tự ý quyết định, ý kiến thường mâu thuẫn, không hiểu rõ phép tắc huấn luyện quân đội, lại bài xích đồng liêu, bắt họ phải theo mình. Nếu không sớm thay đổi, khi nhậm chức chắc chắn sẽ gây rối loạn.”

[4] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu: “Tư chính điện học sĩ Lữ Huệ Khanh đang chịu tang mẹ, ngoài lương bổng được cấp thêm 50 quan tiền.”

(Ghi chép từ ngày 27 tháng 5.)

[5] Xuống chiếu: “Các lộ huấn luyện cấm quân không được quá hai kỳ.” Do Tần Phượng lộ Tẩu mã thừa thụ Tô Bôn tâu rằng có nơi giữ quân vài ngày không cho nghỉ ngơi.

(Có thể đã ghi chép trước, cần kiểm tra lại.)

[6] Ngày Bính Dần, xuống chiếu: “Các quan Lễ viện phải nộp tiền đồng theo thứ bậc.” Do việc thần chủ Từ Thánh Quang Hiến hợp tế ở miếu mà không báo cho Thiếu phủ giám sắp xếp.

[7] Ban cho ba vạn thạch gạo, khơi thông các đoạn sông cạn và bùn lầy trên kênh đào Tô Châu, Hàng Châu.

[8] Vua phê: “Sớm trình lên việc Thẩm quan đông viện, Thẩm quan tây viện và Tam ban viện vốn là chức vụ của Thượng thư tỉnh, chỉ nên dùng công văn qua lại. Vì Ty Nông tự và Quần Mục tự cũng đều là chức vụ của Lục tào, nay lại chỉ cho phép ba nơi này không tuân theo mệnh lệnh mới ban ra. Nếu không phải do triều đình đặc biệt ủy nhiệm, tùy theo hiện tại mà chủ phán bỏ lệnh đã ban hành, thì việc lấy cái này bỏ cái kia thật là mất đi đạo lý công bằng, không biết vì sao lại như vậy.” Trước đó, có chỉ dụ rằng Thẩm quan viện và Tam ban viện đối với Lại bộ đều dùng thư trình, Trung thư cho rằng không nên trình, chỉ nên dùng công văn. Sau đó lại trình lên, Thẩm quan viện, Tam ban viện, Ty Nông tự, Quần Mục tự đều dùng thư trình.

[9] Nội tỉnh tâu rằng Ký Tả tàng khố phó sứ, Câu đương Ngự dược viện Lương Tòng Chính hợp lệ khảo xét. Chiếu rằng Tòng Chính là người theo hầu từ lâu, đặc biệt sai làm Tây kinh Tả tàng khố sứ như cũ.

(Ghi chép bí mật, việc ngày mùng 5.)

[10] Tri Ung Châu, Tả tàng khố phó sứ, kiêm Cáp môn Thông sự xá nhân Lưu Sơ xin mượn hai trăm tấm độ điệp để thu lợi, mua sắm đồ dùng công sứ, dùng tiền vốn mua vàng nộp vào Nội tàng khố. Được chấp thuận.

(Chu bản chỉ ghi vào ngày mùng 9 tháng này là ngày Canh Ngọ, đặc biệt ghi rằng Lưu Sơ, Quảng Tây Phủ đô giám, được bổ nhiệm làm Tri Ung Châu, kiêm Chỉ huy sứ bản lộ. Xem lại Mặc bản, ngày mùng 6 tháng này là ngày Đinh Mão, Lưu Sơ đã được bổ nhiệm làm Tri Ung Châu rồi.)

[11] Ngày Mậu Thìn, chiếu rằng binh lính làm việc tại các đập Hùng Vũ và Quảng Vũ, đang trong mùa nắng nóng, làm việc cả ngày đêm, có thể được cấp tiền đặc biệt. Ban thuốc mùa hè cho các quan phụ trách.

[12] Vua phê: “Quân Tây Hạ ở Phu Diên lộ muốn chọn kỵ binh cướp phá ruộng đất Tuy Đức, nên nhanh chóng hạ lệnh cho Kinh lược ty điều tra kỹ lưỡng. Nếu quả thật như vậy, lệnh cho các tướng phụ trách chọn binh lính người Hán và người Phiên, chọn địa điểm then chốt mai phục, đợi chúng xâm nhập thì đánh cho chúng tan tác.”

[13] Ngày Canh Ngọ, lệnh cho Kỳ vương Hạo làm Á hiến trong lễ Minh đường, Gia vương Quần làm Chung hiến.

[14] Chuyển vận sứ Tử Châu, Thái thường thiếu khanh Lưu Thầm điều chuyển sang Lợi Châu lộ, Chuyển vận phó sứ Quỳ Châu lộ, Đồn điền viên ngoại lang Đổng Việt điều chuyển sang Tử Châu lộ. Thầm dâng sớ điều trần việc điều phát không đúng cách, nên bị cách chức và trở về chức cũ, giao cho Việt thay thế. Lại cử Điện trung thừa Miêu Thời Trung quyền phát khiển Chuyển vận phó sứ Tử Châu lộ.

(Việc điều trần điều phát không đúng, căn cứ theo 《Bình Man Lục》. 《Ngự Tập》 ngày 25 tháng 7 chép: Gần đây Chuyển vận ty Tử Châu tâu việc huy động phu dịch, triều đình đã thấy sai trái, Lưu Thầm tuy bị cách chức, nhưng Trình Chi Tài vẫn tại chức, bèn hạ chiếu cấm chỉ. Việc này xảy ra ngày Bính Tuất.)

[15] Đô thủy giám tâu: Ở Tôn Thôn, Trần Tảo thuộc Thiền Châu và Đại Ngô, Tiểu Ngô Tảo, sông bị vỡ đê.

(Theo bản chép tay của Chu. 《Cựu Kỷ》 và 《Tân Kỷ》 đều chép sông vỡ đê ở Tôn Thôn, Thiền Châu, đến ngày Ất Dậu tháng 4 năm sau mới chép việc vỡ đê ở Tiểu Ngô Tảo.)

[16] Ngày Nhâm Thân, Tẩu mã thừa thụ công sự Hi Hà lộ Nhạc Sĩ Tuyên tâu: “Quỷ Chương dùng chữ Phiên gửi cho Tri Hà Châu Lưu Xương Tộ rằng: ‘Ta đã nói đừng khởi công xây dựng, nhưng lại còn sửa chữa thành Dân Châu[2], ta muốn đến Dân Châu giải quyết.’ Lại nghe Quỷ Chương đang tập trung binh mã, chưa biết hướng đi.” Vua phê: “Nên lệnh cho Kinh lược ty trình bày rõ, thư của Quỷ Chương vừa vô lý lại bất kính, sao không tâu lên? Lập tức tra hỏi việc xâm phạm gây sự, và tuyển người đi dò xét tình hình, nghiêm lệnh các thành trại biên giới ngày đêm phòng bị.”

[17] Quyền Tri Đô thủy giám Tô Dịch tâu: “Vâng chỉ chiếu quản việc bảo vệ đê Tảo ngạn Thiền Châu, đang đi xem xét.” Vua phê: “Chỗ vỡ đê này tuy nước tràn qua đê, nhưng nếu chậm trễ không đắp lại, e rằng dòng sông thay đổi, sẽ thành đại họa, nên hạ lệnh cho Ngoại giám thừa ty khẩn trương sửa chữa.”

[18] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng các cơ quan biên soạn văn thư tại kinh đô, có thể chỉ huy thúc đẩy hoàn thành, quan chủ quản phải trình bày rõ ngày tháng hoàn thành để tâu lên. Trung thư xem xét kỹ, căn cứ vào mức độ phức tạp của công việc và số lượng nhân lực, tùy nghi quyết định.

[19] Tư châu lộ Đề điểm hình ngục Thịnh Nam Trọng xin hạ lệnh cho huyện Giang An chiêu dụ người Di ở Đẩu Bồng, sai họ cùng với người dũng cảm Trình Thuấn Nguyên và những người khác mưu tính chém đầu Khất Đệ, còn các người Di khác đều có thể trừ diệt. Chiếu chỉ giao cho Nam Trọng, nếu bắt được thủ cấp của Khất Đệ, người không có chức tước sẽ được phong làm Dao quận Thứ sử, người có chức tước sẽ được tăng thưởng tương ứng và ban thưởng 5.000 lượng bạc và lụa. Người Di ở Đẩu Bồng nếu thực sự thuận theo, có ý muốn hợp lực với quân triều đình, thì đợi đại quân tiến đánh, báo cáo cho Hàn Tồn Bảo, không được trừ diệt tất cả.

[20] Ngày Giáp Tuất, chiếu chỉ gửi Trung thư: “Trẫm nghĩ rằng Hoàng dùng đạo, Đế dùng đức, Vương dùng nghiệp, mỗi thời đều có tên gọi phù hợp với thực chất, sao phải thêm tôn hiệu để tự tô điểm! Từ thời Tần, Hán trở lại đây, tôn xưng Thiên tử là Hoàng đế, như vậy là đủ rồi. Trẫm thừa hưởng phúc lành của tổ tiên, ở trên muôn dân, mọi hư văn lễ nghi rườm rà đều đã bãi bỏ, nhưng gần đây các quan lại vẫn thỉnh thoảng xin tôn hiệu, tuy xuất phát từ lòng trung thành muốn tôn vinh và báo đáp, nhưng không phải là ý của Trẫm noi theo tiên vương. Từ nay về sau, mỗi khi gặp đại lễ, bãi bỏ việc Lễ bộ dâng tôn hiệu.”

(Hai kỷ đều ghi chép.)

[21] Nhập nội Đông đầu Cung phụng quan, Lô châu Câu đương công sự Hàn Vĩnh Thức tâu: “Nghe nói ở Lộ Lợi có mưa lớn, sông suối dâng cao, cuốn trôi ruộng dân, giá cả tăng cao, dân chưa yên ổn. Xin hạ lệnh cho Chuyển vận và Đề cử ty của lộ này cứu tế.” Chiếu chỉ giao cho Đề cử ty thi hành theo quy định. Hàn Vĩnh Thức không nên dùng tráp tử tấu sự, đặc cách tha tội.

[22] Cơ quan Tường định lễ văn tâu rằng: “Cờ hiệu Nhị thập bát tú, Ngũ tinh, Nhiếp đề dùng trong nghi lễ Lỗ bạ, các quan lại lại theo thuyết của phương sĩ, vẽ thành hình người, không có căn cứ trong lễ nghi. Xin thay đổi chế độ, vẽ hình tượng của chúng theo thiên văn.” Được chấp thuận. Lại tâu: “Sách 《Lễ ký – Giao đặc sinh》 viết: ‘Tuyên bố mệnh lệnh trong cửa Khố môn[3], là để cảnh cáo trăm quan; mệnh lệnh ở Thái miếu, là để cảnh cáo trăm họ.’ Người giải thích nói: ‘Trăm họ là người thân của Vua.’ Nay thề ước với trăm quan ở Thượng thư tỉnh, thề ước với tông thất ở Trung thư tỉnh, không có căn cứ trong lễ nghi. Xin cảnh cáo trăm quan ở triều đường, cảnh cáo tông thất ở Thái miếu.” Được chấp thuận. Lại tâu: “Thời khắc tế tự, nay tham khảo, mùa hè và mùa thu dùng giờ Sửu một khắc, mùa xuân và mùa đông dùng giờ Sửu bảy khắc. Việc hành lễ đến sáng, đều là mười lăm khắc, để hợp với lễ cũ, không quá gấp gáp.” Được chấp thuận.

(Cơ quan Tường định dựa vào tấu trình vào ngày 23 tháng 8 năm thứ ba, nay phụ thêm sau phần thề ước.)

[23] Vua phê: “Các lộ trong phủ giới thiếu số lượng cấm quân hàng vạn không ít, triều đình tuy nhiều lần chiêu mộ, nhưng cuối cùng vẫn chưa đủ số. Có thể ban chỉ huy khắp nơi, sớm cho đủ số lượng, để khi cần điều động, không lỡ việc.”

[24] Chiếu cho cựu Sát phỏng sứ Vĩnh Hưng quân lộ Lý Thừa Chi, cựu Tri Tư nông tự thừa Trang Công Nhạc[4], cựu Đề cử Thường bình thương Trầm Phi, Thái Mông, Chuyển vận phán quan Chương Tiết, Dương Bàn, mỗi người gia hạn thời gian khảo xét ba năm. Đề điểm hình ngục Lý Nam Công, Chuyển vận sứ Triệu Chiêm gia hạn hai năm. Cựu Chuyển vận sứ Trương Sâm, Sở Kiến Trung mỗi người chuộc tội bằng 20 cân đồng. Vì tội bảo lãnh việc tu sửa cửa Hồng ở Vĩnh Hưng không đúng.

[25] Kinh chế Hi Hà tài dụng ty tấu: “Từ năm Nguyên Phong thứ nhất lần lượt thi hành đến nay, đã được một năm, xin trình bày số tiền lãi thu được để tâu lên.” Vua phê: “Có thể nhanh chóng so sánh theo gần đây của Trà trường ty, tính toán số thuế thu được nhiều hay ít, ưu đãi và ban thưởng. Mong rằng việc ban đầu được khích lệ, thúc đẩy các quan chức tại chức ra sức kinh doanh, hỗ trợ chi phí lớn, lâu dài không làm phiền triều đình cung ứng.” Do đó, xuống lệnh xác minh sự thật, lại sai Chuyển vận sứ Vương Khâm Thần kiểm tra và tâu lên.

[26] Ngày Ất Hợi, chiếu rằng: “Những hộ dân ở Thiền Châu, Đại Danh phủ bị nước sông nhấn chìm, thiếu lương thực, người lớn mỗi ngày được cấp một thăng gạo, trẻ em nửa thăng. Nếu di chuyển đến nơi khác để kiếm sống, qua sông, nếu mang theo đồ đạc, thì tiền thuế qua đò được miễn thu trong một mùa.”

[27] Lại chiếu cấp mười vạn thạch gạo từ kho thường bình của Thành Đô phủ lộ, năm vạn quan tiền từ kho thường bình của Tử Châu lộ, sai người thuê vận chuyển đường thủy và đường bộ đến trước quân của Hàn Tồn Bảo.

[28] Ban Tường định lễ văn tâu rằng: “Xem xét sách 《Lỗ bộ ký》 ghi chép về việc các công khanh dẫn đường: Thứ nhất là Khai Phong lệnh, đi xe dao; tiếp theo là Khai Phong mục, đi xe cách, cờ chuẩn; tiếp theo là Thái thường khanh, đi xe cách, cờ phượng; tiếp theo là Tư đồ, đi xe cách, cờ ngựa tốt; tiếp theo là Ngự sử đại phu, đi xe cách, cờ giải trãi; tiếp theo là Binh bộ thượng thư, đi xe cách, cờ hổ. Theo thần khảo xét, đều là không đúng. Kính xét chức Cân xa trong 《Chu lễ》 nói: ‘Cô đi xe hạ triện, khanh đi xe hạ mạn, đại phu đi xe mặc.’ Chức Ty thường nói: ‘Cô, khanh dựng cờ chiên, đại phu dựng cờ vật.’ 《Nghi lễ – Cận lễ》 nói: ‘Chư hầu đi xe mặc, cắm cờ rồng.’ Vậy lệnh là ngũ phẩm, ngang hàng đại phu, nên đi xe mặc và dựng cờ vật; mục ngang hàng chư hầu, nên đi xe mặc và dựng cờ; Thái thường khanh, xưa là Xuân quan khanh, nên đi xe hạ mạn và dựng cờ chiên; Tư đồ, nay là Tam công, nên đi xe hạ triện và dựng cờ chiên; Ngự sử đại phu, tam phẩm, ngang hàng khanh; Binh bộ thượng thư, xưa là Hạ quan khanh, đều nên đi xe hạ mạn và dựng cờ chiên. Kính xin từ công khanh trở xuống dẫn đường: Trước là Khai Phong lệnh dẫn đường, đi xe mặc dựng cờ vật; tiếp theo là Khai Phong mục dẫn đường, đi xe mặc dựng cờ; tiếp theo là Thái thường khanh dẫn đường, đi xe hạ mạn dựng cờ chiên; tiếp theo là Tư đồ dẫn đường, đi xe hạ triện dựng cờ chiên; tiếp theo là Ngự sử đại phu dẫn đường, đi xe hạ mạn dựng cờ chiên; tiếp theo là Binh bộ thượng thư dẫn đường, đi xe hạ mạn dựng cờ chiên. Như vậy là phù hợp với chế độ cửu kỳ trong 《Chu lễ》.”

[29] Thiếp hoàng nói: “Kinh Lễ không ghi rõ xe Tam công đi và cờ dựng, lại nói xe thiên giá không vào cửa vương, chư hầu vào triều đi xe mặc. Nay căn cứ vào việc Cô đi xe hạ triện dựng cờ chiên, quy định chế độ của Tư đồ.” Vua theo lời tâu, lại sai khẩn trương bàn bạc tìm hiểu chế độ xe cờ vật để tâu lên.

(Ngày Ất Hợi, 14 tháng 7 năm thứ 3, theo lời tâu.)

[30] Lại nói: “Kính xét chức vụ Nhung Hữu trong 《Chu Lễ》 có ghi: ‘Khi hội đồng, đầy đủ xe cộ.’ 《Nghi Lễ》 nói: ‘Xe thứ hai đều có người ngồi.’ 《Lễ Ký》 nói: ‘Khi ngồi xe, không dám bỏ trống bên trái, bên trái nhất định phải có người.’ Đó là vì các vị quân chủ thời xưa, xe phía sau và đường đi không dám để trống, nhất định phải cho người ngồi, để tránh sự nghi ngờ về việc bỏ trống bên trái. 《Thi Kinh》 nói ‘Ra lệnh cho xe phía sau, bảo họ chở người’ là vậy. Từ khi Tần thống nhất chín nước, xe cộ và y phục, Tây Hán noi theo, đại giá có 81 cỗ xe thuộc. Vì thế 《Đông Hán Chí》 nói: ’81 cỗ xe thuộc, do Thượng thư, Ngự sử ngồi.’ Lại có Dương Hùng nói: ‘Đồ quốc khí của Si Di, gửi trên xe thuộc.’ Trương Hành nói: ‘Xe thuộc chở chó săn, không chỉ để vui chơi, mà còn chứa sách bí mật.’ Như vậy xe thuộc thời Hán không chỉ chở người, mà còn chở vật, cũng là ý nghĩa ‘đều có người ngồi’ trong 《Nghi Lễ》. Lỗ bộ của triều ta, có 12 cỗ xe thuộc, đi sau pháp giá, để trống không ngồi, thực sự gần với sự nghi ngờ về việc bỏ trống bên trái, đều không hợp lễ chế. Xin cho 12 cỗ xe thuộc, để Thượng thư, Ngự sử ngồi, hoặc dùng để chở y phục của hoàng đế, đã tâu lên rồi.”

(Văn lễ không có ngày tháng, nay phụ vào đây, việc theo hay bỏ cần xem xét.)

[31] Ngày Đinh Sửu, Vua phê: “Dân bị thiếu ăn do lũ lụt ở Hà Bắc có thể tạm thời chiêu mộ vào các quân đang thiếu người trong và ngoài, nên chọn quan để nhanh chóng thi hành.”

[32] Chiếu rằng từ nay bãi bỏ việc đặt thảm hoàng đạo ở giao miếu.

(Cả 《Tân Kỷ》 và 《Cựu Kỷ》 đều ghi việc này, vì dựa vào thực lục. Ngày 3 tháng 11 năm Nguyên Niên đã có chiếu, nay giữ cả hai.)

[33] Chiếu cho Hiến ty Hà Bắc điều tra và tâu lên về việc các quan chức phụ trách đê điều bị vỡ.

[34] Tường định lễ văn nói: “Nghi chú minh đường, đặt vị trí của hoàng đế ở phía đông nam dưới bậc giữa, hướng tây. Thần kính xét, thời xưa quân chủ khi tế lễ, đứng ở tả. Việc quân chủ đứng dưới bậc tả khi tế lễ, là lễ của đại phu và sĩ. Từ thời Tào Ngụy trở đi, các quan đã sai lầm. Xin đặt bản vị của hoàng đế ở trên bậc tả, hướng tây. Thái miếu, Cảnh Linh cung cũng làm như vậy.” Được chấp thuận.

[35] Ngày Mậu Dần, ban chiếu rằng các binh sĩ cung nỏ thuộc lộ Kinh Nguyên do Hàn Tồn Bảo chỉ huy để kinh lý chế ngự giặc man ở Lô Châu, được cấp tiền hàng tháng cho gia đình: từ Thập tướng trở xuống đến Trưởng hành là một nghìn, Phó Binh mã sứ trở lên là hai nghìn, Đô ngu hậu trở lên là ba nghìn. Lấy Tri Hi Châu Miêu Thụ làm Đồng kinh chế biên phòng tài dụng Hi Hà.

[36] Chuyển vận phó sứ Kinh Hồ Nam lộ là Chu Sơ Bình làm Quỳnh Quản thể lượng an phủ, quyền đề cử thường bình đẳng sự Quảng Nam Tây lộ là Lưu Nghị làm Đồng thể lượng an phủ.

(Tháng 8 ngày Tân Mão, Phong Tắc có tâu, hoặc chép vào đây.)

[37] Ban chiếu rằng những người quy minh được cấp ruộng mà bị thu thuế, nếu là đất hoang thì miễn 20 kỳ, đất đã khai khẩn thì miễn một nửa.

[38] Ngự sử trung thừa Lý Định tâu: “Triều đình mỗi khi có bổ nhiệm, pháp cấm tiết lộ, nếu có điều không đúng, Ngự sử không thể tâu lên. Xin giao cho Phong bác ty báo cáo ngay trong ngày.”

[39] Đại Lý tự tâu: “Từ nay, nếu quan lại bị xét xử chỉ vì công việc chậm trễ, tội trượng trở xuống, xử tội lại nhân theo pháp luật, quan chức thì xử lý sau khi xét án. Nếu quan ty không kịp thời xét xử, dù gặp ân xá cũng không được tha.” Đều được chấp thuận.

[40] Ngày Kỷ Mão, Đồng quản câu kinh chế biên phòng tài dụng Hi Hà lộ, Bí thư thừa Hồ Tông Triết kiêm quản câu việc mới đặt Giám mục và cấp phát giống ngựa cho các bộ tộc phiên. Theo lời tâu của Đô đại kinh chế biên phòng tài dụng ty Hi Hà lộ.

(Sách 《Mật ký》 có chép việc này. Vương Quân Vạn mất vào tháng 5, Hồ Tông Triết có lẽ là thay thế Quân Vạn.)

[41] Ngày Nhâm Ngọ, Vua phê: “Tri Tần Châu La Chửng từ mùa xuân đến nay, thường xuyên nghỉ bệnh, thân thể gầy yếu, tinh thần mệt mỏi, biên vụ nhiều, e khó đảm đương, có thể giao cho Chuyển vận ty xem xét rồi tâu lên.” Chửng sau đó mất tại Tần Châu.

(Chửng mất vào ngày mùng một tháng 8, nay chép chung.)

[42] Ban chiếu cấp tiền đặc chi cho binh lính tham gia tu sửa đê Đại Tiểu Ngô Tảo theo mức khác nhau.

[43] Lại ban chiếu rằng những phu phen tham gia tu sửa cửa sông Thượng Hạ Thiếp Sơn, ngoài việc được miễn phu xuân năm sau theo số ngày làm việc, còn được giảm thêm một nửa.

[44] Ngày Quý Mùi, Vua phê rằng: “Những điều các tướng tâu lên, có thể gửi đến ty Thừa chỉ, nếu thấy trong sắc lệnh hiện hành chưa ghi chép, mà lý lẽ có thể chấp nhận được, thì ghi thành lệnh.”

[45] Quyền phát khiển Diêm thiết phán quan, Thái thường bác sĩ, Trực Long đồ các Hàn Tông Ngạn được bổ làm Hữu chánh ngôn, Bảo văn các đãi chế, tri châu Doanh.

[46] Đêm đó, sao chổi xuất hiện ở phía tây bắc thuộc khu vực Lang vị phía nam trong Thái vi viên, nằm ở chòm sao Chẩn.

(Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép sao chổi xuất hiện ở Thái vi viên. 《Thiên văn chí》 chép: Những người xem thiên văn cho rằng điềm này báo hiệu kinh thành sẽ có binh biến. Do đó, triều đình tu sửa kinh thành, xây dựng lầu canh, thúc giục các hộ dân nuôi ngựa hoàn thành đúng hạn, đốc thúc huấn luyện bảo giáp, sửa chữa vũ khí để phòng bị. Sử quan chép việc chuẩn bị ứng phó với biến cố, có lẽ đã xảy ra trước đó, nay không chép.)

[47] Ngày Giáp Thân, Ngự sử Vương Tổ Đạo tâu: “Trần Đồng, nguyên là tri châu Hồ Châu, sau khi có di chiếu của Từ Thánh Quang Hiến thái hậu, trên đường đến nhậm chức ở Tô Châu, đã cho nữ kỹ hầu rượu, sau đó tự thú với quan chức địa phương. Học thuật của Đồng sai lầm, hạnh kiểm thấp kém, mọi người đều biết. Để hắn ra làm quan ở phương xa, đã không đủ để làm gương cho dân, huống chi di chiếu vừa ban xuống chưa lâu, dân chúng trong làng xóm không ai không đau lòng, mà Đồng vẫn an nhiên làm việc đó. Thần cho rằng, dù theo luật Đồng được miễn tội vì đã tự thú, nhưng đạo nghĩa của bề tôi thì sao có thể dung thứ được! Mong bệ hạ đặc biệt xét xử.” Vua xuống chiếu cho Đề điểm hình ngục lộ Lưỡng Chiết Tôn Xương Linh điều tra. Xương Linh tâu rằng, Đồng quả thực đã cho nữ kỹ hầu rượu. Vì di chiếu không có lệnh cấm làm nhạc sau khi hết tang, nên không trị tội.

[48] Ngày Bính Tuất, Vua ban chiếu rằng do thiên tượng biến đổi, từ ngày Mậu Tý tháng này trở đi, Vua sẽ tránh ra khỏi chính điện, giảm bớt bữa ăn thường ngày, cho phép các quan trong ngoài thẳng thắn nói lên những thiếu sót trong triều chính.

(Hai bộ 《Kỷ》 đều chép lời chiếu này.)

[49] Lúc đó, có người giỏi thuật số nói rằng sẽ có binh biến, Vua sai hoạn giả kiểm tra việc ăn uống của các vệ sĩ. Ngự sử trung thừa Lý Định vội vào tâu: “Một bữa ăn không đủ để thể hiện ân huệ, chỉ khiến lòng tiểu nhân dao động mà thôi.” Vua bèn bãi bỏ việc đó. Lại có người bàn việc bãi bỏ Minh đường, Vua hỏi ý Lý Định, Định nói: “Ba năm một lần tế giao, tế Minh đường, từ thời tổ tông đến nay chưa từng thay đổi, không biết ai là người nói ra lời này, xin được hặc tội họ vì sự mê muội và ngông cuồng của họ.” Vua nói: “Nghe lời khanh là đủ rồi.”

(Chiếu này cầu lời nói thẳng, không biết còn có ai ứng chiếu nói thẳng, cần xem xét thêm. Lưu Chí viết 《Vương Củng Thần hành trạng》 cũng chỉ là lời bàn thông thường, nay không chép.)

[50] Tri chế cáo Vương An Lễ tâu: “Khí hòa thì sinh điềm lành, khí nghịch thì sinh tai ương. Có lẽ là do các đại thần chấp chính không tuân theo đạo lý, kẻ nắm quyền chỉ lo mưu lợi, không hiểu ý Vua thương dân, dùng sức đến kiệt quệ nơi người nghèo khổ, vơ vét lợi lộc đến tận người làm vườn, e rằng đã gây nên biến động ở các vì sao. Thần mong bệ hạ bớt những việc sửa đổi không cần thiết, giảm bớt những công việc quá sức. Còn những việc nhỏ như cầu đảo, làm giảm ý nghĩa cũ, e rằng không phải là cách ứng trời bằng sự thực.” Vua xem tờ tấu khen ngợi. Một hôm vào chầu, Vua nói: “Vương Khuê muốn khanh trình bày rõ ràng. Trẫm thường nói với các đại thần rằng, nên truyền đạt tình hình dưới lên trên, không nên ngăn trở lời nói của người khác, làm che mắt nhà Vua. Nay lấy một ngón tay che mắt, dù Thái Sơn, Hoa Sơn ở trước mặt cũng không thấy. Kẻ thân cận che mắt Vua, thì Vua khác gì thế! Trẫm nay tin khanh, khanh cũng nên tự tin, cứ nói thẳng đừng ngại.”

[51] Vua phê: “Các lộ ở Đông Nam tập hợp các quân, trước đây chưa từng sai sứ đi kiểm tra, có thể sai Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Câu đương Quân đầu ty Lý Sân, Nội thị áp ban Thạch Đắc Nhất, theo như điều lệ của Trương Sơn Phủ kiểm tra các tướng ở Kinh Tây mà thi hành.”

[52] Chiếu cho Ty chuyển vận lộ Tử Châu, các vật dụng cung cấp cho quân đội đều do quan cấp hoặc mua bán, không được tùy tiện bắt dân đóng góp, di chuyển hoặc biến đổi[5]. Người vi phạm sẽ bị xử theo chiếu chỉ mới ban. Vua thấy lộ này tâu việc bắt phu, làm trái phép, quấy nhiễu dân, Lưu Thầm tuy đã bị cách chức nhưng Trình Chi Tài vẫn còn tại chức, nên ban điều ước này. Giao cho Ty đề điểm hình ngục giám sát, lại thúc giục Miêu Thời Trung vào chầu từ biệt, lệnh lên điện xong, ngay hôm đó phải ra khỏi cửa.

(《Cựu kỷ》 chép: Chiếu cho lộ Tử Châu, các vật dụng cung cấp cho quân đội đều do quan cấp, không được bắt dân đóng góp.)

[53] Chiếu rằng: “Nghe tin Khất Đệ đã trở về sào huyệt, sửa sang khí giới, kết giao nhiều người Di, e rằng sẽ bất ngờ xâm phạm đất đai của triều đình. Vương Quang Tổ đã dời quân vào gần, giao cho Hàn Tồn Bảo đợi khi đường sá thông suốt, chọn ngày gần đây xuất quân. Đến Lô Châu, thời tiết còn nóng, hãy chia quân đóng ở các quận gần đó, xem xét tình hình rồi tiến đánh.”

[54] Chiếu ban thưởng tiền cho binh lính làm việc ở sông Hiệp, mức thưởng có khác nhau.

[55] Tường định lễ văn nói rằng: “Theo cổ lễ, không có việc đón thần, và trong lúc bắt đầu và kết thúc lễ tế đều không lạy[6]. Kính xét lễ thiếu lao quỹ thực: ‘Chủ nhân mặc triều phục, đứng ở vị trí phía đông bậc thềm, mặt hướng tây.’ Trịnh thị nói: ‘Để chuẩn bị tế lễ.’ Nhưng không nói đến việc lạy. Đến khi chúc cáo lễ thành, chủ nhân ra đứng ở phía trên bậc thềm, mặt hướng tây, cũng không nói đến việc lạy. Dù là tượng thần, khi mới đón vào, chủ nhân và khách chỉ tránh chỗ mà thôi. Khi ra cũng như vậy. Chỉ trong việc tiếp khách mới có lạy đón và lạy tiễn, vì chủ và khách ngang hàng, có thể làm lễ. Lễ đặc sinh quỹ thực: ‘Chúc đón thi ở ngoài cửa.’ Trịnh thị cho rằng ‘đến chỗ của mình mà mời, không lạy, vì không dám làm lễ với bậc tôn quý.’ 《Ngọc tảo》 nói: ‘Kẻ sĩ với đại phu, không dám lạy đón.’ Người giải thích cũng nói: ‘Lễ không ngang hàng.’ Thời cận đại, việc thờ thần lại lạy đón tiễn, như vậy là coi việc tế tự giống như tiếp khách, hoàn toàn không đúng với ý nghĩa của lễ. Tất cả các nghi thức: Hoàng đế đến vị trí bản vị, đứng hướng tây, lạy hai lần, nhạc múa chín khúc, xong, lại lạy hai lần, và khi tiễn thần, nhạc một khúc, dừng, hoàng đế lạy hai lần. Xin bỏ không làm. Các quan tại vị cũng theo đó.” Đều theo lời tâu.

[56] Lại tâu rằng: “Tộ trở và thần trở, xương cốt khác nhau, cách bày cũng khác. Nay nghi thức đều không hợp lễ. Xin dùng phần thịt bên trái của con vật tế làm tộ trở. Một xương cánh tay trái, hai xương sườn dài, hai xương sườn ngắn, đặt lên trở, khi thần trở được đưa vào thì bày như vậy. Khi ấy đặt tộ trở ở giữa thềm, đợi hoàng đế uống rượu phúc, đặt chén xuống thì Thái chúc bưng trở tiến lên, cắt hai xương sống chính và hai xương sống ngang trước thần vị, đặt chung lên trở rồi dâng lên. Khi quan hữu ty thay mặt tiến tộ, dùng thái lao thì lấy vai trái, cánh tay, xương chân trước của bò, chín đoạn; dùng thiếu lao thì lấy vai trái, cánh tay, xương chân trước của dê, bảy đoạn, Thái úy xem xét rồi trao cho sứ giả, lạy hai lạy rồi tiễn đi. Nay nghi thức Nam giao tiến tộ không hợp lễ, xin sửa lại.” Được chấp thuận.

(Ngày 25 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 3, theo tấu.)

[57] Lại tâu rằng: “Việc ban tộ trong lễ tế thân, từ các tể thần trở xuống đến các quan tế, tuy có nhiều ít khác nhau nhưng không phân biệt sang hèn. Xin theo lễ mà định rõ.” Được chấp thuận.

(Ngày 1 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 4 theo tấu, nay phụ vào sau ngày 25 tháng 7 năm thứ 3 bàn về tộ trở.)

[58] Lại tâu: “Theo điển chế nhà Vua: ‘Trâu dùng để tế tông miếu có sừng dài một nắm tay.’ Sách 《Chu lễ》 chép: ‘Phàm các cuộc tế nhỏ, đều dâng trâu làm lễ vật.’ Lại nữa, xưa kia chư hầu có năm miếu, các lễ Dược, Từ, Chưng, Thường, mỗi miếu dùng một con trâu lớn (thái lao), đại phu của thiên tử cũng dùng thái lao, nên nói ‘Đại phu dùng trâu tìm kiếm (sách ngưu)‘. Gọi là ‘sách’ vì tìm được rồi mới dùng, chỉ là không nuôi trong chuồng mà thôi. Đại phu của chư hầu, khi tế phụ dùng thái lao, tế cát thì dùng thiếu lao; còn tế lễ của thiên tử, không có lễ nào không dùng trâu. Sách 《Đường giao tự lục》 chép rằng tế tông miếu, xã tắc đều dùng thái lao. Về sau dần thay đổi chế độ cũ. Khi tế thời hưởng ở chín miếu do quan hữu ty đảm nhiệm, chỉ dùng chung một con nghé. Đầu niên hiệu Khai Bảo, có chiếu rằng khi thiên tử thân hành tế lễ ở Thái miếu, dùng chung một con nghé. Lại có chiếu rằng trong các lễ tế thường, chỉ có tế trời đất dùng nghé, còn các đại lễ khác dùng dê và lợn thay thế. Vào niên hiệu Gia Hựu, khi Nhân Tông thân hành tế hợp, mỗi nhà thờ dùng một thái lao, còn những lần tế hợp ba năm sau đó, tám nhà thờ dùng chung một con nghé, khi quan hữu ty đảm nhiệm chỉ dùng dê và lợn. Sách 《Ký》 chép: ‘Chế độ lễ nghi của tiên vương, không thể nhiều quá, cũng không thể ít quá, chỉ cần phù hợp mà thôi.’ Nay ba năm thân hành tế lễ, mà tám nhà thờ dùng chung một con nghé; đến lễ hợp hưởng là đại lễ trọng thể, quan hữu ty đảm nhiệm lại không dùng thái lao[7], như vậy là không phù hợp. Xin rằng khi thiên tử thân hành tế lễ ba năm một lần và tế thời hưởng, do quan hữu ty đảm nhiệm, ở Thái miếu mỗi nhà thờ đều dùng thái lao.” Chiếu chỉ rằng chỉ khi thiên tử thân hành tế lễ và hợp hưởng, mỗi nhà thờ dùng thái lao.

[59] Lại tâu: “Nay tế đất cũng làm đàn tròn, ở phía bắc kinh thành. Theo nghi thức tế lễ niên hiệu Hi Ninh: tế Hoàng địa kỳ, đàn có tám góc; tế Thần châu địa kỳ, đàn rộng 48 bước, cao 5 thước. Nay lại đổi đàn phương khâu thành đàn tròn, Thần châu tuy xây đàn vuông nhưng không có hố, đều không hợp lễ. Xin rằng tế Hoàng địa kỳ và Thần châu địa kỳ đều làm đàn vuông, bên ngoài đàn đào hố, để phù hợp với chế độ cổ.” Chiếu chỉ đổi đàn tròn thành đàn phương khâu, còn các việc khác không thi hành.

[60] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu cho Trung thư rằng: (Ngày Đinh Hợi, 27 tháng 7. Xét ngày 6 tháng 8 trong tập ngự bút: “Ngày trước ban chiếu cho Trung thư, Môn hạ, việc tế tự Anh Tông ở Minh Đường sắp tới, chỉ dùng để phối hưởng với Hạo Thiên Thượng Đế. Nay xét lại kinh văn, chỉ nói Thượng Đế, không phải chuyên phối với Hạo Thiên Thượng Đế, có thể trong chiếu chiếu hội tiết xuất hành hạ[8].” Chiếu này chính là phần tiết xuất hành hạ.) “Trẫm nghĩ rằng tiên vương chế định hành vi để phù hợp với lễ, hiếu không gì lớn hơn việc kính trọng cha, kính trọng cha không gì lớn hơn việc phối hưởng với trời. Phối hưởng với trời là một, nhưng có sự khác biệt về tôn ti thân sơ, lễ có sự hơn kém khác nhau. Vì vậy, xa mà tôn là tổ, thì tế ở Giao Châu, Viên Khâu để phối hưởng với trời; gần mà thân là cha, thì tế ở Minh Đường trong nước để phối hưởng với Thượng Đế. Trời đủ để bao hàm Thượng Đế, nhưng Thượng Đế chưa đủ để bao hàm trời, vì vậy tế ở Viên Khâu là đối diện với các thần, còn ở Minh Đường chỉ là Thượng Đế mà thôi. Vì vậy, việc phối hưởng như thế mới đủ để phù hợp với ý nghĩa tôn ti thân sơ xa gần. Đó là điều mà Chu Công đã từng thân hành, và Khổng Tử cho là thịnh đức. Sự việc ghi chép trong điển sách, lý lẽ rất rõ ràng. Nhưng từ các đời trước đến nay, việc phối hưởng ở Hợp Cung đã làm rối loạn kinh điển, thậm chí còn xen lẫn thuyết Lục Thiên của các nho gia trước, đều do sự thiếu hiểu biết cổ xưa, làm mất đi sự phù hợp của tình và văn, Trẫm rất không tán thành. Việc tế tự Hoàng đế Anh Tông ở Minh Đường sắp tới, chỉ dùng để phối hưởng với Thượng Đế, các thần khác theo tế đều bãi bỏ.”

(Hai bộ sử ký đều chép lời chiếu, ngày 12 tháng 8 Nhâm Dần, Triệu Quân Tích bàn, cần xem xét.)

[61] Ngày Mậu Tý, ban chiếu: “Nhập nội Đông đầu Cung phụng quan Hàn Vĩnh Thức vừa được sai đi Lô Châu làm việc, nay đã trở về, có thể sai lại làm Đô đại Kinh chế Lô Châu Di tặc ty để trông coi xe ngựa. Sai Câu đương Ngự dược viện Ngô Tĩnh Phương ở điện Chân Thất trong Trung Thái Nhất cung xây dựng đạo tràng Thiên Hoàng Cửu Diệu tức tai cầu phúc trong bảy ngày đêm. Ngày khai mạc và bế mạc, một viên Tham tri chính sự đến hành hương.”

[62] Hộ bộ Thị lang trí sĩ Phạm Trấn tâu: “Xin hạ lệnh cho các chuyển vận ty Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây, định ra mức thưởng, tìm kiếm loại kê thật, để điều chỉnh âm nhạc.”

[63] Sao Thái Bạch xuất hiện ban ngày.

[64] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho chuyển vận ty Châu Tử điều một viên quan, theo quân vào biên giới.

[65] Quyền phát khiển Đô thừa ty Nông tự Ngô Ung tâu: “Xin lập một cục để tập hợp các sách về dịch vụ trong thiên hạ, bỏ bớt những điều rườm rà, chi trả tiền công, so sánh mức độ nặng nhẹ, soạn thành mẫu, gửi xuống các lộ để thảo luận và báo cáo, rồi sửa đổi thêm.” Được chấp thuận. Lại tâu: “Cử quan khảo sát tiền công của các lão tráng còn lại, cùng tiền chi trả cho nha tiền, tính toán tập trung về kinh sư, hoặc chuyển đến vùng biên giới, đổi thành vàng và lương thực.” Chiếu cho ty đề cử trong vòng một quý[9], báo cáo đầy đủ số liệu.

[66] Tường định lễ văn tâu rằng: “Xét xưa kia cầm khuê để làm lễ tế, chưa hành lễ thì không cầm. Nay hoàng đế ngồi xe ngọc, cầm trấn khuê đến cung Cảnh Linh, lễ xong lại đến Thái Miếu, Thanh Thành, đều ngồi xe và cầm khuê, không hợp lễ. Xin từ nay ngồi xe thì không cầm khuê, và ngồi đại liễn cũng không cầm.” Lại tâu: “Xưa kia trong nhà thờ tổ đặt đá để giữ bài vị, gọi là tông thạch. 《Xuân Thu truyện》 nói ‘Điển ty tông thạch’ là vậy. Bài vị chính miếu đều giữ ở tường phía tây trong thái thất, bài vị thiên miếu giữ ở tường phía bắc trong thái thất của Thái Tổ, hốc đá cách mặt đất sáu thước một tấc. Từ Hán đến Đường, bài vị thiên miếu giữ hoặc ở nhà phía tây, hoặc ở gian phụ phía tây, còn bài vị chính miếu tuy đều giữ ở tường phía tây trong nhà thờ, nhưng Vua và hoàng hậu lại làm hốc đá riêng, đều không hợp lễ. Bài vị thiên miếu nên giữ ở tường phía bắc trong thái thất của Thái Tổ, đời sau miếu không khác cung, vẫn nên giữ ở thái thất của miếu Thái Tổ. Triều ta giữ bài vị Thuận Tổ ở gian phụ phía tây, là sai lầm do theo thói cũ. Lại nữa, lễ thiếu lao quỹ thực, dâng lễ vật năm lên tổ tiên, ắt phải có hoàng hậu đi cùng. Vì thế cùng một bàn, chung một lễ, một người thay mặt, mà đồ tế không bày hai lần. Nay Thái Miếu giữ bài vị, Vua và hoàng hậu ở nhà khác nhau, không hợp với nghĩa cùng bàn. Xin giữ bài vị thiên miếu ở tường phía bắc trong thái thất của Thủy Tổ, bài vị Vua và hoàng hậu đều chung một hốc đá.

Lại nữa, trên giường ngà ở Thái Miếu đều có chiếu bồ, cùng chiếu tía, gối, bàn cong, bàn thẳng, khi tế lễ thì trên giường ngà bày đồ tế[10]. Khi tế đế hợp thì đồ dùng trong các gian đều chuyển ra sân điện trước một ngày. Xét 《Chu Lễ – Thái Tể》[11]: ‘Tế tiên vương, dâng bàn ngọc.’ Trịnh thị chú: ‘Bàn ngọc để thần tựa, thiên tử bên trái bên phải đều có bàn ngọc.’ 《Ty kỷ diên》: ‘Vua bày chiếu quản, thêm chiếu tơ vẽ, thêm chiếu thứ thêu, bên trái bên phải đều có bàn ngọc. Chiếu tế tiên vương cũng như vậy.’ Như trên đã trình, thì chiếu nên bày đơn, chiếu tơ, chiếu thứ đều bày chồng lên. 《Lễ Ký》 nói: ‘Chiếu của thiên tử có năm lớp.’ Nay bàn chiếu ở Thái Miếu đều không hợp lễ. Xin đổi dùng chiếu quản, thêm chiếu tơ vẽ, thêm chiếu thứ thêu, bên trái bên phải đều có bàn ngọc. Phàm khi tế lễ, đều thêm một lớp chiếu tơ và chiếu thứ, cùng chiếu quản thành năm lớp.” Đều theo lời tâu.

[67] Ngày Canh Dần, Kinh lược ty lộ Hi Hà tâu rằng: Thủ lĩnh giới Tây là Dũ Tang Kết Bồ Dược và bộ lạc Phiên là Ba Cúc đem thư dịch đến báo rằng nước Hạ đang tập trung binh lính, chuẩn bị xây thành Tát Bồ Đạt Tông ở địa giới Hà Châu, phía nam Hoàng Hà, phía tây Đào Hà. Vua phê: “Nếu như lời báo cáo, thì đây thuộc địa phận Hà Châu, sao có thể để chúng xây dựng! Lo ngại rằng Kinh lược ty không rõ địa phận được chỉ ở trên, hoàn toàn không chuẩn bị gì, cũng không có kế hoạch đuổi đánh và ngăn chặn, nên lập tức hạ lệnh cho bản ty chuẩn bị nhiều binh mã để cấm chỉ việc này.”

[68] Bãi bỏ trại Vĩnh Ninh thuộc châu Thi, đặt hai trại Hành Khuếch và An Đối.


  1. Theo chế độ nhà Tống, trong việc sai phái không có chữ 'đẳng'. Dựa vào 《Thông khảo》 quyển 55, phần Chức quan khảo: 'Chế độ nhà Tống, Hàn lâm y quan viện có sứ và phó mỗi chức hai người, cùng quản lý viện sự, do Thượng dược, Phụng ngự đảm nhiệm, hoặc có thêm chức Chư ty sứ', nghi ngờ chữ 'đẳng' ở đây là sai, nên sửa thành 'viện'.
  2. 'Dân' nguyên là 'Manh', theo 《Tống Hội Yếu》 Phiên Di 6/16 sửa lại.
  3. 'Môn' nguyên bản viết 'Tứ', căn cứ vào bản trong các kho và sách 《Lễ ký - Giao đặc sinh》 sửa lại.
  4. Trang Công Nhạc trong 《Tống hội yếu》 Thực hóa 7-31 viết là 'Trang Nhạc'.
  5. 'Chi di chiết biến' nguyên bản là 'Chi di tân biến'. Xét: Chế độ thuế khóa nhà Tống có phép 'chiết biến', nghĩa là thuế thường thu bằng vật phẩm cố định, nhưng khi cần thiết thì biến đổi thành vật phẩm khác, xem 《Tống sử》 quyển 174, chí Thực hóa, chỗ này 'tân' rõ ràng là sai, nên sửa thành 'chiết'.
  6. Trong lúc bắt đầu và kết thúc lễ tế đều không lạy, chữ 'ư' nguyên bản là 'dư', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 lễ 17-32 sửa lại.
  7. Chữ 'thái' trong 'thái lao' nguyên bản viết là 'thiếu', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 lễ 17-33 và 《Thông khảo》 quyển 98 phần tông miếu khảo mà sửa lại.
  8. chữ 'hành' trong câu 'có thể trong chiếu chiếu hội tiết xuất hành hạ' vốn bị thiếu, căn cứ vào câu dưới bổ sung.
  9. Một quý 'Quý', Tống hội yếu thực hóa 66-43 chép là 'tháng'.
  10. trên giường ngà bày đồ tế, hai chữ 'đồ tế' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 lễ 15-7 bổ sung
  11. 《Chu Lễ - Thái Tể》, chữ 'Chu' nguyên bản thiếu, chữ 'Tể' nguyên bản viết là 'lao', theo 《Chu Lễ - Thái Tể》 sửa bổ sung

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.