"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 307: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)

Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 8, ngày Tân Mão (mùng 1), Lý Tắc, chức Thiểm Tây chuyển vận sứ, quyền quản câu Kinh lược ty lộ Phu Diên, tâu:

“Kinh lược sứ tiền nhiệm Lữ Huệ Khanh từng thân hành phụng mệnh thánh huấn, bày mưu kế biên cương, đã thấy thành tựu. Nay xin giảng tụng thánh đức, khắc vào bia đá để truyền lại muôn đời. Việc khắc đá chưa xong, Huệ Khanh vì tang mẹ phải từ chức, nên chưa dám đề tên bia. Thần nay sao chép bản mực dâng lên, xin ban tên bia.”

Chiếu ban tên bia là “Nguyên Phong Lý Nhung Chi Bi”.

[2] Ngự sử Phong Tắc tâu: “Chu Sơ Bình và Lưu Nghị được cử đi Quỳnh Quản thể lượng an phủ. Nghe nói Sơ Bình nhẹ dạ ít mưu, từng dụ dỗ người Man là Dương Quang Tiếm, suýt bị bắt giữ, may mà thoát được. Nay cầm tiết trấn hải, kinh lý người Lê Man, uy danh đã suy, khó lòng thành công. Xin đổi cử người tài giỏi hơn để trấn phủ biên cương phía nam, tránh sinh biến loạn.”

Không được trả lời. (Có thể gộp vào lần bổ nhiệm đầu, lúc đó là tháng 7, ngày Mậu Dần.)

[3] Thái thường bác sĩ, quyền phát khiển Tư nông đô thừa Ngô Ung tâu: “Đã bàn định sách dịch hai lộ Hoài, Chiết, giảm bớt 1.300 người thừa, tiết kiệm được 284.900 quan tiền. Tính toán chi tiêu hàng năm, còn dư 1.040.000 quan. Các lộ khác cũng tương tự. Xin trước tiên tu chỉnh sách dịch ở hai ba lộ gần kinh thành, rồi ban hành cho các lộ khác noi theo.”

Được chấp thuận. Lệnh cho Ngô Ung cùng chủ phán Tư nông tự xem xét định đoạt.

[4] Cơ quan Tường định lễ văn tâu: “Ngọc dùng để tế trời Hạo Thiên Thượng Đế ở Minh đường nên dùng ngọc bích màu xanh. Nay dùng bốn ngọc khuê có đế, xin đổi lại dùng ngọc bích màu xanh để tế trời. Còn việc tế Ngũ Đế do quan lại đảm nhiệm, cũng xin theo chế độ của Đại tông bá, bày ngọc tùy theo màu sắc phương vị.” Được chấp thuận.

(Tháng này, ngày Kỷ Dậu, Vương Tổ Đạo có nói gì đó, nên gộp vào đây. Quyển 3 sách 《Lễ Văn》, chương Minh đường liệu đàn, chép việc này hơi khác so với 《Thực Lục》, nay theo 《Thực Lục》.)

[5] Kinh Đông chuyển vận ty tâu: “Sông Bạch Lãng ở Duy Châu hàng năm làm ngập đê bảo vệ thành, năm ngoái tốn hơn vạn bó cỏ[1], mới tạm tránh được nạn lụt. Tri châu sự, Lang trung bộ Giá là Dương Thái đào sông dẫn nước, nên nước không tràn đến chân thành, tốn ít mà tránh được tai họa.” Ban chiếu thư khen thưởng.

[6] Ngày Quý Tỵ, chiếu rằng các châu Ty lý tham quân từ nay theo quy định cũ bổ nhiệm, không cần tâu xin.

[7] Chiếu rằng quan văn võ không thuộc quyền nhau mà cùng chức, thì xếp theo chức vụ; chức vụ ngang nhau thì theo phẩm phục; phẩm phục ngang nhau thì theo thứ tự bổ nhiệm; thứ tự bổ nhiệm ngang nhau thì theo thời gian đổi chức; thời gian đổi chức ngang nhau thì theo xuất thân.

[8] Chiếu rằng các Đại bảo trưởng trong bảo giáp ở Thương Châu, Quắc Châu đều phải tập huấn, bảo giáp thuộc Binh bộ. Do đề cử Nghĩa dũng, Bảo giáp là Trương Sơn Phủ tâu: “Thương Châu, Quắc Châu không có Nghĩa dũng, chỉ có Bảo giáp, dân ở vùng núi hiểm trở xa xôi, theo pháp không phải tập luyện và đi phiên”, nên có chiếu này. Đề cử Nghĩa dũng, Bảo giáp Hà Đông là Vương Sùng Chửng, Hoàng Liêm tâu, tập huấn Nghĩa dũng, Bảo giáp ở năm châu quân là Giáng, Tấn, Trạch, Lộ, Uy Thắng, gồm 32 huyện, đặt 8 trường Tiết cấp, Đại bảo trưởng, tổng cộng 3.600 người; phủ Thái Nguyên, các châu Hãn, Đại, Bình Định, Phần, Thấp, Thạch, Lam, Hiến[2], Khả Lam, Bảo Đức, Hỏa Sơn, Ninh Hóa, gồm 13 châu quân, 37 huyện, đặt 9 trường Tiết cấp, Đại bảo trưởng, tổng cộng 3.070 người.

[9] Chiếu rằng Tưởng Chi Kì đang tra xét vụ Triệu Tế ở Hi Châu đã lâu, những người liên quan nên xử lý trước. Lại chiếu rằng Tưởng Chi Kì kiểm tra thấy Kinh lược an phủ ty Hoàn Khánh chi dùng trái phép tiền phủ dưỡng binh sĩ, quan lại không được miễn trừ vì đã giáng chức hay từ chức, phải điều tra tâu lên.

[10] Tư nông tự tâu: “Tiền miễn dịch và tiền phường trường, dân không muốn nộp lên châu mà muốn nộp tại huyện, hoặc do quan ty không thúc giục thu nộp, mà khi kiểm tra sổ sách lại thu lại, gây phiền nhiễu, xin được miễn trừ và để người có liên quan thu nộp.” Được chấp thuận.

[11] Ngày Giáp Ngọ, An phủ sứ Hồ Nam Tạ Cảnh Ôn, Chuyển vận phó sứ Chu Sơ Bình, Phán quan Triệu Dương tâu: “Tri châu Thiệu Châu Quan (Mộc Tỵ) xin đặt thành trại ở trấn Dung Lĩnh thuộc châu Thành, châu Huy để ngăn chặn nạn biên giới. Tuy nhiên, khi khởi công động viên dân chúng, cần điều động binh mã phòng thủ, xin hạ lệnh cho châu Nguyên xem xét. Nếu cần tăng thêm thành trại, cũng nên nhân cơ hội này chọn nơi hiểm yếu để xây dựng cùng lúc, hai lộ hợp lực, thế quân càng mạnh. Thành trại xây xong, đường thông suốt, đàn áp man di, không để xảy ra sự cố.” Được chấp thuận. Lại sai tướng thứ nhất Kinh Đông đóng quân ở Đàm Châu tạm đóng quân ở Thiệu Châu.

[12] Tri châu Nguyên Châu Tạ Lân tâu rằng tiền lương đã chuẩn bị đủ, xin tu sửa trại Thác Khẩu. Được chấp thuận.

[13] Chiếu lệnh Hàn Tồn Bảo chọn người đi dụ dỗ các tộc người man, nếu họ thuận theo, thì giữ lại người già và trẻ nhỏ làm con tin, điểm danh trai tráng lệnh làm tiên phong. Nếu bắt được thủ cấp của Khất Đệ, sẽ được thưởng như quân quan[3], nếu không tuân lệnh, có ý lưỡng lự, thì lập tức giết chết. Hơn nữa, đảng của Khất Đệ không kiên định, dễ dàng đánh bại, nếu chưa gặp Khất Đệ mà giết người man trước, khiến một hai tộc nghi ngờ sợ hãi, thì mọi người đều có tâm đấu tranh, hoặc hợp lực chống lại quân quan, hoặc làm tai mắt cho giặc. Lệnh Tồn Bảo dùng toàn bộ uy thế quân đội đàn áp, phải để họ tự đánh nhau, bắt được hết thủ phạm, phá hủy sào huyệt, đó là toàn công.

[14] Thượng phê: “Giặc quân Tây Kinh Trương Yến đã mấy ngày chưa thấy tấu báo tiếp về việc bắt giết, có thể lệnh cho đề điểm hình ngục ty hàng ngày báo cáo số lượng giặc bị giết, và nơi các quan bắt giặc đang truy đuổi để báo cáo.”

[15] Ban Tường định lễ văn tâu: “Khi nhà Vua thân hành tế lễ ở cung Cảnh Linh và Thái Miếu, xin đặt chậu rửa tay ở phía đông nam bậc thềm phía đông, hoàng đế đứng ở phía nam chậu rửa, hướng về phía bắc để rửa tay. Các quan hầu cận bưng khay đứng ở phía đông sân phía nam, người bưng chậu nước đứng ở phía tây phía đông của khay, người cầm khăn cũng đứng ở phía tây phía bắc của chậu nước. Các lễ tế khác và việc do quan lại đảm nhiệm đều theo quy định này.” Vua nghe theo.

(Việc này được tâu vào ngày 4 tháng 8 năm Lễ Văn thứ 3, ngày 21 tháng 8 lại xin áp dụng quy định này cho lễ Đại hưởng ở Minh Đường. Nay đã nói rõ các lễ tế khác và việc do quan lại đảm nhiệm đều theo quy định này, thì việc tâu vào ngày 21 tháng 8 có thể bỏ đi.)

[16] Ngày Bính Thân, Vua ra chiếu cho Viện Học sĩ dùng văn thư báo cáo với Thượng thư tỉnh và Xu mật viện.

[17] Lại ra chiếu cho các tông thất từ hàng đản miễn trở xuống được lĩnh lương bằng tiền mặt.

[18] Ban Tường định lễ văn tâu, Lưu Kỷ[4] xin theo lệ năm Cảnh Hữu, chọn các sứ thần cấp cao để tu sửa các nhạc khí lớn. Vua nghe theo.

[19] Bộ Hình tâu, Tri châu Kinh Châu, Viên ngoại lang bộ Ngu là Tô Quyên tính toán sai việc xây cầu Thạch Cừ, xin phạt 2 cân đồng. Vua ra chiếu đặc cách kéo dài thời gian khảo sát 2 năm.

[20] Lại tâu, Thừa Đại Lý tự là Chung Chính Phủ và Hàn Tông Nho thêm thắt lời của các quan chấp chính, và báo cáo không đúng sự thật. Vua ra chiếu giáng một cấp và cách chức.

(Việc này cần xem xét thêm. Ngày Ất Mão, Chu Ốc bị giáng chức, Hàn Tông Nho là ai?)

[21] Chiếu cho Bí thư thừa giám tại kinh lương liệu Trương Trọng An, Trứ tác tá lang Tôn Phác, Tướng tác giám chủ bạ Tôn Dã, đều phải nộp đồng để chuộc tội và bị cách chức. Tây đầu cung phụng quan Bạch Tùy bị giáng một chức, điều đến nơi xa nhỏ làm giám đương. Trung thư chủ sự Chu Ôn bị giáng một bậc. Các lại nhân khác như Giang Văn đều bị giáng chức và đánh trượng tùy mức độ. Phác và Dã đều là con của Tri xu mật viện Tôn Cố. Trước đó, Trọng An phải đi theo Quách Quỳ ứng phó quân kỳ An Nam, sai cháu là Trương Nguyện Phu đến nhà Cố hỏi Chu Ốc về việc phân tích thư của Quách Quỳ. Phác và Dã đã giúp Nguyện Phu dò hỏi tin tức từ Tùy và Văn, Ngự sử đài xét ra sự thật nên mới có lệnh này.

(Chu bản ghi tháng 6 ngày Nhâm Thìn, Ngự sử đài tâu rằng phụng chiếu xét việc Tôn Dã, xin gia hạn. Vua phê: “Nếu đã xét ra sự thật thì không cần giam giữ, trước hết cho ra ngoài, gia hạn thêm 20 ngày.” Tân bản bỏ đoạn này, nay ghi chú thêm, tháng 7 năm thứ 6 Cố bị cách chức.)

[22] Lại chiếu cho Giá bộ viên ngoại lang, trước đây làm Đề cử Hi Châu thị dịch Cấp Phùng nộp 10 cân đồng để chuộc tội, đổi từ lệnh đình chỉ thành cách chức. Quyền phát khiển Đề cử Tần Phượng lộ thường bình đẳng sự Lý Hiếu Bác bị cách chức đặc biệt. Hiếu Bác từng tâu việc Phùng làm trái pháp luật, nên trước đó đã ra lệnh đình chỉ Phùng để điều tra. Khi án đã trình lên, Phùng bị kết tội vì đã nhập lãi thị dịch từ kỳ trước vào kỳ sau, theo luật chỉ bị đánh 100 trượng, nên Phùng được miễn cách chức, còn Hiếu Bác vì tâu việc Phùng quá sự thật nên bị trách phạt.

[23] Ngày Đinh Dậu, Ngự sử Phong Tắc tâu: “Thần trộm thấy triều đình huấn luyện dân binh năm lộ, giao cho các quan Đề điểm hình ngục đảm nhiệm việc đề cử. Hồ Tông Dũ và Uông Phụ Chi đã lâu không xứng chức, nên đã dùng Hoàng Liêm thay thế. Tông Dũ được điều ra ngoài làm quan ở phương châu, Phụ Chi được sai quyền phát khiển Khai Phong phủ Suy quan, việc bổ nhiệm không đồng đều, khiến mọi người nghi ngờ. Phụ Chi chưa đến kinh đô, đã được đổi làm Quảng Nam Đông lộ Chuyển vận phó sứ. Quyền hình ngục đã bị bãi vì không có công lao, quyền tào vận sao có thể giao phó một cách dễ dàng! Xét Phụ Chi vốn có tư cách bất chính, tính tình khắc nghiệt, thần mong được đổi sang một chức vụ phù hợp.” Chiếu chỉ cho Phụ Chi vẫn giữ chức Khai Phong phủ Suy quan, dùng Thái tử Trung xá nhân Tôn Huýnh làm Quảng Nam Đông lộ Chuyển vận phó sứ.

(Tháng 6 ngày Đinh Tỵ, Phụ Chi được bổ làm phủ Suy quan; tháng 9 ngày Quý Hợi, được phân công.)

[24] Thượng phê: “Hôm nay Ngự sử Hà Chính Thần dâng sớ lên điện, nói rằng Phương Trạch trước sau bàn luận trái ngược, tư cách không ngay thẳng, triều đình đã nhìn rõ sự gian trá, bãi chức của y, không nên cho y vào chầu, để tránh gây nghi ngờ trong sĩ phu. Có thể theo lời tâu.” Lúc đó, Chính Thần nói Trạch trước đây làm quan Đề cử Giang Tây, cản trở phép dịch, Ty Nông tự tâu hặc và bị trị tội, nay đột nhiên được triệu vào chầu, khiến trong ngoài nghi ngờ, nên bãi chức.

[25] Ngày Mậu Tuất, chiếu cho Thái Thường tự từ nay về sau, các nghi lễ ở Minh Đường, Cảnh Linh cung và Thái Miếu đều dùng nhạc chương mới đã tập luyện.

[26] Lại chiếu cho hai chế, đài gián đến tổng quản, giám ty, mỗi người tiến cử một người có tài ứng thí Vũ cử Tiến sĩ, tâu lên tên tuổi.

[27] Ngày Kỷ Hợi, quần thần dâng biểu xin Vua ngự chính điện, khôi phục việc dùng bữa như thường. Không chấp thuận. Từ đó, dâng biểu năm lần, mới theo.

[28] Chiếu cho con trai của Bộc An Ý vương, tặng chức Vũ Ninh quân Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Sở quốc công Tông Tẫn, được theo lệ của Tông Trị, thăng một chức quan cho con trai.

[29] Chiếu cho Thẩm hình viện sáp nhập vào Hình bộ. Dùng quan Tri viện làm Phán Hình bộ, phụ trách việc tường nghị, tường phúc ty; hai viên chủ phán quan của Hình bộ làm Đồng phán Hình bộ, phụ trách việc tường đoạn ty; quan Tường nghị làm Tường nghị quan của Hình bộ.

[30] Bãi chức Kiểm pháp quan của các lộ Đề điểm hình ngục ty, những người đang tại chức được phép hoàn thành nhiệm kỳ.

[31] Ban cấp hai vạn thạch gạo thường bình và ba vạn quan tiền phường trường cho Ty chuyển vận lộ Tử Châu để ứng phó việc của người Di.

[32] Trung thư tấu: Sở định trùng tu biên sắc đã lập điều khoản thưởng cho việc bắt được kẻ vi phạm luật kho, xin theo như đã định. Vua phê: “Không thi hành, vẫn theo lệ cũ mà thưởng toàn phần, dù là người bị tra hỏi cũng thưởng toàn phần.” Lúc đó, có người bàn muốn dần nới lỏng luật kho, nên quan tu sắc trước hết nới lỏng việc thưởng báo, từ một trăm quan chia thành các bậc đến ba trăm quan, còn người bị tra hỏi thì giảm một nửa. Trung thư dâng tấu chương đã duyệt, nên có mệnh lệnh này.

(Theo bản Chu, Vua thấy rõ tình hình, nên ngưng lại. Bản mới từ “lúc đó, có người bàn” đến “ngưng lại” đều bị bỏ đi. Nay chỉ bỏ bảy chữ “Vua thấy rõ tình hình ngưng lại”, ngày 13 và 15 tháng 5.)

[33] Ngày Canh Tý, Vua phê: “Đồng tri gián viện Hoàng Nhan, trước đây vì bệnh tật, tinh thần suy sụp, từ khi giữ chức gián quan, không có gì kiến giải rõ ràng, có thể bãi chức, cho làm Tri lễ viện. Lấy Biên tu quan Quốc sử viện, Chủ bạ huyện Giang Âm, Hiệu thư Sùng Văn viện Thái Biện làm Thái tử Trung doãn, Hiệu lý Tập Hiền viện, Đồng tri gián viện, kiêm Quản câu Quốc Tử Giám.”

[34] Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự Tất Trọng Diễn dâng lên sách biên soạn 《Bị đối》, tâu rằng: “Nhà Chu, chức Trủng tể vào cuối năm ra lệnh cho các quan phủ chỉnh đốn việc cai trị, nhận sổ sách kế toán; Tiểu tể theo thứ tự nhận sổ sách quan trọng của các quan lại. Sách hội yếu chính là thứ mà Trung thư ngày nay nên có[5]. Từ Hán đến Đường, trải qua ngàn năm, chưa ai bàn đến việc này, nên có những câu hỏi về xử án, tiền lương mà không thể trả lời được. Nay bắt đầu từ ý chỉ của bệ hạ, sai thần biên soạn. Thần thu thập tư liệu cũ, soạn thành sách, gồm 125 mục, phụ lục 58 việc, thành 6 quyển. Việc nhiều thì chia làm thượng, trung, hạ, tổng cộng 10 quyển.” Chiếu cho Trung thư, Môn hạ mỗi nơi chép một bản giao cho chấp chính, lại chia lệnh cho các phòng dán lên. Ban đầu, sách thành, Trọng Diễn muốn xin Vua xem, để mong được ban thưởng. Vua cho rằng đây là sách để bề tôi chuẩn bị trả lời Vua hỏi, không nên dâng lên, nên có chiếu này. Trọng Diễn lại tâu: “Thần mong được thực hiện chiếu lệnh chuẩn bị trả lời hỏi trước đây, tu chỉnh phép ghi chép ngày, tháng, năm, để kiểm tra việc cai trị của các quan phủ và quan lại, thì hiệu quả khảo công như thời Đường, Ngu, Thành Chu sẽ sớm thấy, không chỉ là biết được số liệu mà thôi.”

(Ngày 13 tháng nhuận năm đầu, Hướng Tông Nho và Trọng Diễn biên soạn.)

[35] Ngày Nhâm Dần, chức Chư vương phủ Dực thiện, Thái thường Thiếu khanh, Trực sử quán Phùng Hạo được làm Quang lộc khanh, đề cử Sùng Hi quán. Hạo ở Chư vương phủ hơn mười năm, sau khi Chương Tịch Quang bị đuổi, một hôm Kỳ vương Hạo hỏi: “Tịch Quang nay ở đâu?” Hạo đáp: “Đại vương chỉ nên lấy trung hiếu làm lòng, Tịch Quang là tiểu nhân, không đáng hỏi.”

(Việc hỏi Chương Tịch Quang căn cứ theo 《Truyền tín lục》 của Tiên Vu Xước, nên tra lại tháng Hạo mới vào vương phủ để sửa chép riêng.)

[36] Kiểm chính Trung thư Hộ phòng công sự, Thái tử Trung doãn, Quán các Hiệu khám Thái Kinh được làm Tập hiền Hiệu lý, quyền Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự.

[37] Hà Dương tâu: “Đê Hùng Vũ vào ngày Kỷ Sửu tháng 7, nước sông biến đổi, bờ đê nguy cấp, đã điều động 1000 dân phu khẩn cấp từ huyện Tế Nguyên, Hà Âm đến cứu hộ.” Vua phê: “Năm nay vào mùa hạ thu, thời vụ nông nghiệp, dân ven sông liên tục bị điều động, sức người đã kiệt quệ, lại thêm trước đây tâu rằng đê Hùng Vũ đã xa dòng chảy, không còn gì đáng lo, lẽ nào vào lúc nước rút lại có thể nguy cấp! Đây là do quan lại không thương dân, khiến dân chúng mệt mỏi vì việc dịch, tin theo lời kêu gọi ồn ào của viên quan giám sát đê. Có thể sai Quyền đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự Dương Cảnh Lược đi xem xét, nếu không cần điều động dân phu, thì hặc tội báo lên.” (Ngày Kỷ Sửu tháng 7, tức ngày 28).

[38] Tường định lễ văn nói rằng: “Kính xét 《Chu Lễ》 có chỗ gọi là Hạo Thiên Thượng Đế, có chỗ gọi là Thượng Đế, có chỗ gọi là Ngũ Đế. Gọi là Hạo Thiên Thượng Đế thì chỉ một vị đế mà thôi, như ‘tế Hạo Thiên Thượng Đế thì mặc áo cừu lớn và đội mũ miện, tế Ngũ Đế cũng như vậy’ là thuộc loại này. Gọi là Thượng Đế thì bao gồm Hạo Thiên Thượng Đế và Ngũ Đế, như ‘loại tạo Thượng Đế phong cho đại thần’ là thuộc loại này. Gọi là Ngũ Đế thì Hạo Thiên Thượng Đế không bao gồm, như ‘tế Ngũ Đế thì bày trí đại thứ và tiểu thứ’ là thuộc loại này. Từ đó mà nói, thì kinh sách nói ‘tông tế Văn Vương ở minh đường, để phối hưởng với Thượng Đế’, cùng với 《Chu Lễ》 gọi là Thượng Đế là giống nhau. Việc tế tương lai Anh Tông hoàng đế ở minh đường, nên phối hưởng với Hạo Thiên Thượng Đế và Ngũ Đế.”

Tri lễ viện Triệu Quân Tích, Dương Kiệt, Vương Trọng Tu, kiểm thảo Dương Hoàn, Hà Tuân Trực nói: “Kính xét 《Chu Lễ》 chức Chưởng thứ nói: ‘Vua làm lễ lớn tế Thượng Đế thì bày trải chiếu cừu. Tế Ngũ Đế thì bày đại thứ và tiểu thứ.’ Lại chức Ty phục nói: ‘Tế Hạo Thiên Thượng Đế thì mặc áo cừu lớn và đội mũ miện, tế Ngũ Đế cũng như vậy.’ Rõ ràng Thượng Đế và Ngũ Đế là khác nhau. Vậy nên 《Hiếu Kinh》 nói ‘tông tế Văn Vương ở minh đường, để phối hưởng với Thượng Đế’, không thể bao gồm cả Ngũ Đế. Xét trong 《Dịch》, 《Thi》, 《Thư》 gọi Thượng Đế không phải một, 《Dịch》 nói: ‘Tiên vương làm nhạc tôn đức, dâng lên Thượng Đế, để phối hưởng với tổ tiên.’ 《Thi》 nói: ‘Sáng suốt thờ Thượng Đế, được nhiều phúc lành.’ Lại nói: ‘Thượng Đế là đáng kính.’ 《Thư》 nói: ‘Để tỏ lòng nhận từ Thượng Đế, trời sẽ ban mệnh lành.’ Lại nói: ‘Chỉ có Thượng Đế, ban lòng lành cho dân.’ Những điều như thế, há có thể đều cho là Ngũ Đế được sao? Từ khi học thuyết của họ Trịnh nổi lên, mới có thuyết sáu trời, việc này không thấy trong kinh điển. Đến đầu niên hiệu Thái Thủy đời Tấn, người bàn luận mới cho là sai, bèn ở minh đường chỉ bày một tòa Hạo Thiên Thượng Đế mà thôi. Lễ Hiển Khánh đời Đường cũng chỉ tế Hạo Thiên Thượng Đế ở minh đường. Nay đại tế sắp đến, người bàn luận vẫn cho rằng Thượng Đế có thể bao gồm cả Ngũ Đế, thần xin theo thánh chỉ, tế Anh Tông ở minh đường, chỉ phối hưởng với Thượng Đế, để tỏ ý tôn kính cha.” Chiếu theo ý của Quân Tích và các người.

(Ngày Giáp Tí mùng 2 tháng 5, ngày Đinh Hợi 27 tháng 7, ngày Kỷ Tỵ 12 tháng 4 năm sau, nên xét lại.)

[39] Tằng Triệu tâu: (Tằng Triệu bàn việc có thể bỏ đi, vì đã không thi hành lại không hợp lý.) “Thần trước đây cùng với các quan Tường định giao miếu lễ văn là Trương Tảo đã trình lên Trung thư, xin trong tương lai thờ Anh Tông hoàng đế ở Minh đường, để phối hưởng với Hạo Thiên Thượng đế và Ngũ đế. Lại có các quan Lễ là Triệu Quân Tích cũng trình bày riêng, xin chỉ phối hưởng với Thượng đế. Quân Tích cho rằng Thượng đế chỉ là một vị đế mà thôi. Theo lời phê của Trung thư về hai bản tấu, vâng theo thánh chỉ, y theo nghị của Quân Tích mà thi hành. Thần cho rằng chức trách của bộ phận hữu quan là phải tuân theo chiếu chỉ, đã vâng theo thánh chỉ cùng với Trương Tảo bàn bạc, xác định nghi thức tế tự rồi tâu lên.

Tuy nhiên, thần học vấn còn nông cạn, tuy đã theo chiếu chỉ mà làm, nhưng khi lui về suy nghĩ, vẫn còn chút nghi ngại. Việc riêng có điều nghi ngại, mà cứ dựa dẫm qua loa, giữ lòng không hết để phụng sự bệ hạ, đó không phải là đạo nghĩa của bề tôi. Vì vậy, thần không dám tránh tội lỗi, xin được trình bày hết ý kiến. Lễ nghi không gì nghiêm hơn tế tự, tế tự không gì trọng hơn thiên thần, nên Dương Hùng nói: ‘Tế tự không gì trọng hơn đất, đất không gì trọng hơn trời’, ý nói tế tự không gì trọng hơn trời. Nay Minh đường để tế thiên thần, mà thần được tế lại đột nhiên thay đổi, điều này thực sự là muốn dựa vào cổ huấn mà không bị ràng buộc bởi các thuyết của nho gia, muốn suy tôn Anh Tông riêng phối hưởng với một vị đế, để làm sâu sắc thêm đạo hiếu với cha, và hợp với lời Khổng Tử nói: ‘Tông tự Văn Vương ở Minh đường, để phối hưởng với Thượng đế’, điều này thực sự không phải là điều mà thần ngu muội có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, thần vẫn còn chút nghi ngại.

Xét theo kinh điển, những chỗ nói về Thượng đế trong Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư rất nhiều. Nhưng ý chính không phải là để phân biệt thần vị, nên nói chung, có khi gọi là Hạo Thiên, có khi gọi là Ngũ đế, có khi gọi chung là Hạo Thiên và Ngũ đế, đều không thể khảo cứu được. Đến những chỗ nói trong Chu quan, thì dùng để nói về tế tự, mà nói về tế tự thì chủ yếu là để phân biệt thần vị, lời văn không thể lộn xộn. Có chỗ gọi là Hạo Thiên Thượng đế, có chỗ gọi là Thượng đế, có chỗ gọi là Ngũ đế, đó là điều khiến thần không thể không nghi ngờ. Nếu cho rằng Hạo Thiên Thượng đế và Thượng đế là một, thì lời văn cũng phải thống nhất, không thể có lúc gọi là Hạo Thiên Thượng đế, có lúc gọi là Thượng đế. Lời nói của thánh nhân, e rằng không như vậy. Trong Chu quan, có hai chỗ gọi là Hạo Thiên Thượng đế:

Một là ‘Nhân tự Hạo Thiên Thượng đế’, hai là ‘Tế tự Hạo Thiên Thượng đế thì mặc áo cừu lớn và đội mũ miện’. Còn lại đều gọi là Thượng đế hoặc Ngũ đế, mà nay muốn coi Hạo Thiên Thượng đế và Thượng đế là một thần, đó là điều đáng nghi thứ nhất; lại có ‘Bốn ngọc khuê có đế để tế trời, lữ Thượng đế, hai ngọc khuê có đế để tế đất, lữ Tứ vọng’. Lại nói ‘Nước có việc lớn, thì lữ Thượng đế và Tứ vọng’, nên các bậc tiên nho cho rằng Tứ vọng không phải là đất, thì Thượng đế không phải là trời, điều này rõ ràng, đó là điều đáng nghi thứ hai; lại có ‘Đại lữ Thượng đế, thì trải chiếu, đặt đế hoàng; tế Ngũ đế, thì trải đại thứ, tiểu thứ’. Thì Thượng đế lại khác với Ngũ đế, đó là điều đáng nghi thứ ba.

Vì vậy, thần trước đây cùng với Trương Tảo bàn, cho rằng trong Chu quan, khi nói Hạo Thiên Thượng đế thì chỉ là một vị đế, khi nói Thượng đế thì là chỉ Hạo Thiên Thượng đế và Ngũ đế, khi nói Ngũ đế thì Hạo Thiên Thượng đế không bao gồm. Điều này tuy cổ nhân chưa từng nói, nhưng suy ra, Thượng đế vừa không cùng văn với Hạo Thiên Thượng đế, lại khác lễ với Ngũ đế, thì ý nghĩa có lẽ là như vậy. Ngũ đế ở trên trời, đó là điều mà con người không dám biết, chỉ dựa vào kinh điển mà thôi. Nhưng từ thời Tần, Hán trở lại đây, điển tịch không còn đầy đủ, lễ văn bị thiếu sót, kinh điển có thể khảo cứu được rất ít, mà nay muốn bỏ qua văn minh bạch trong Chu quan, dùng lời nghi ngờ và thuyết hư vô, khinh suất bỏ đi tế tự tôn trọng nhất qua các đời, nên dù triều đình đã có quyết định, nhưng lòng riêng vẫn không thể không nghi ngờ.

Truyện nói: ‘Có việc đã làm, không dám bỏ’. Lại nói: ‘Thà quá mà bỏ, không bằng quá mà giữ’. Thời Thái Thủy nhà Tấn, thời Hiển Khánh nhà Đường, tuy từng bỏ phối hưởng Ngũ đế, nhưng chẳng bao lâu lại khôi phục. Vậy cũng chưa đủ làm khuôn mẫu. Kính nghĩ bệ hạ thánh triết văn minh, động tĩnh hợp với đạo, kính sợ trời, phụng sự thần, cung kính thành thật, há chỉ riêng việc đại tế này dễ dàng thay đổi? Chắc là do các quan hữu ty khảo cứu chưa thấu đáo, chưa đủ để thỏa lòng thánh ý, đó là trách nhiệm của thần.

Kinh Thư nói: ‘Ngươi có điều nghi ngờ lớn, hãy bàn với lòng mình, bàn với khanh sĩ, bàn với dân chúng, bàn với bói toán’. Tiên vương đối với điều nghi ngờ, cẩn thận như vậy, huống chi việc phối hưởng thiên thần của tiên đế, là đại tế trọng yếu, chắc chắn không thể dùng lời lẽ thiên lệch mà quyết định. Kính mong bệ hạ lưu tâm xem xét, lại xuống chiếu cho các quan thị tòng, đài các cùng bàn bạc thêm, để tìm ra điều thích đáng, làm thỏa lòng bệ hạ kính sợ trời, phụng sự thần, cung kính thành thật.”

(Triệu nói: Năm Nguyên Phong thứ ba, tế Anh Tông ở Minh đường, chỉ phối hưởng với Thượng đế, lại xuống chiếu cho các quan Lễ cùng với các quan Tường định giao miếu lễ văn soạn nghi thức. Trương Tảo và Quân Tích có ý kiến khác nhau, chiếu theo ý kiến của Quân Tích, Triệu lại dâng tấu này riêng.)

[40] Ngày Quý Mão, sao chổi xâm phạm vào chòm sao Hiên Viên.

[41] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển, từ nay gọi là Thượng thư Lại bộ.

[42] Tường định lễ văn tâu rằng: “Kính xét sách 《Thiếu Lao Quỹ Thực Lễ》 có viết: ‘Hoàng thi mệnh cho công chúc, truyền lại nhiều phúc vô biên cho người cháu hiếu.’ Trong bài thơ 《Sở Tỳ》 nói về lễ của thiên tử cũng viết: ‘Công chúc truyền lời, ban phúc cho cháu hiếu.’ Sách 《Đinh Phu Hán Nghi》 chép lời chúc phúc của Đông Hán khi tế tự Hoàng hậu Cung Hoài rằng: ‘Hoàng hậu Cung Hoài[6] mệnh cho công chúc, truyền lại nhiều phúc vô biên cho người cháu hiếu là hoàng đế.’ Điều này cho thấy Đông Hán vẫn dùng công chúc. Nay theo lễ, hoàng đế uống rượu phúc, tức là nhận lời chúc phúc xưa. Nhưng trong nghi thức lại dùng nội thần rót rượu trao cho Thị trung, Thị trung quỳ dâng lên, đều không có căn cứ, xin đổi lại mệnh cho Đại chúc.” Được chấp thuận.

Lại tâu: “Xưa kia, việc đốt lễ vật và chôn lễ vật đều có thân thể con vật hiến tế, khác với lễ chính tế. Các bậc tiên nho cho rằng chia thân thể con vật để cúng ở hai nơi, nhưng thực chất chỉ là một con vật. Vì thân thể dùng trong lễ chính tế đều lấy phần xương sống và phần thịt bên phải, còn phần dùng để đốt và chôn thì trong sách lễ không còn ghi chép đầy đủ, không thể biết được.

Sách 《Hán Nghi》 dùng đầu và đùi trái, Đông Tấn Hạ Tuần nói: ‘Nay ở lễ giao, dùng chín cái xương sườn, Thái Lao lệnh dâng xương sườn con vật đặt lên đống củi để đốt.’ Sách 《Ngũ Lễ Tinh Nghĩa》 của Vi Đồng viết: ‘Con vật dùng để đốt và chôn, thời gần đây dùng đùi và xương sườn, nay chỉ dùng đầu, là theo lễ nhà Hán.’ Thần xem xét kỹ nghi thức tế tự thời Hi Ninh, chỉ có Hạo Thiên Thượng Đế, Hoàng Địa Kỳ và Cao Môi dùng đầu bò con để đốt và chôn, còn từ Cảm Sinh Đế, Thần Châu Địa Kỳ trở xuống đều dùng thân thể con vật, điều này hoàn toàn không phù hợp với sách lễ.

Lại xét sách 《Chu Lễ》 phần Dương Nhân viết: ‘Khi tế tự, mổ con dê, dâng đầu lên.’ Sách 《Lễ Ký》 viết: ‘Dâng đầu lên là để báo đáp dương khí.’ Đầu thuộc dương, thì xương sườn và đùi thuộc âm là điều hiển nhiên. Báo đáp dương nên dùng vật thuộc dương, báo đáp âm nên dùng vật thuộc âm, mỗi thứ đều theo loại của nó. Xin từ nay trở đi, Hạo Thiên Thượng Đế và Cảm Sinh Đế đều dùng đầu con vật để đốt, báo đáp dương khí. Hoàng Địa Kỳ, Thần Châu Địa Kỳ, Thái Xã, Thái Tắc, phàm là lễ tế địa thần, đều chôn đùi trái con vật để báo đáp âm khí. Phàm khi dâng lễ vật tế Thái Miếu, đều dâng đầu lên trong thất[7], như vậy mới hợp với ý nghĩa của lễ.” Được chấp thuận.

(Lễ văn ngày 14 tháng 8 năm thứ 3, theo lời tâu.)

[43] Chiếu cho quan Tri phủ Thành Đô là Trương Sân phải cảnh giác, xét hỏi bọn gian đạo, vỗ về dân chúng, cốt sao giữ được yên ổn. Những kẻ phạm tội có hành vi hung ác, tuy theo luật chưa đến mức phải đi đày, thì cho phép đày ra khỏi châu[8], đợi khi việc ở châu Lô yên ổn thì xử lý như cũ.

[44] Lại chiếu cho các ty Chuyển vận ở lộ Quỳ, Lợi và Thành Đô, những việc ứng phó cho quân đội ở châu Lô, nếu là con đường mà quân mã đi qua thì phải chuẩn bị đầy đủ để ứng phó, còn những nơi không phải là đường đi thì không được tùy tiện sắp đặt. Nếu có việc khẩn cấp thì đều do quan cấp phát, không được lấy của dân, không được gây phiền nhiễu. Ty Đề hình phải cảnh giác, xét hỏi và tâu lên. Nếu để xảy ra sơ suất trong việc cảnh giác, xét hỏi thì sẽ bị xử tội như kẻ phạm tội.

[45] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu cho Trung thư rằng: “Trẫm khen ngợi nhà Chu dùng việc để lập quan, dùng tước để định lộc, việc lớn nhỏ đều rõ ràng, không gì không có thứ tự, phân chia chức vụ, lãnh đạo thuộc hạ, mà mọi việc đều ngăn nắp, noi theo hai đời trước, làm đầy đủ và long trọng. Đến thời suy vi, đạo đức cùng thời đại suy giảm, cải cách hỗn tạp, không có gì đáng noi theo. Chỉ có nhà Bắc Chu của Vũ Văn thị, nhờ sự giúp đỡ của các bậc phụ tá tài giỏi, dựa theo cổ chế mà sáng lập chế độ, ý nghĩa rất đáng xem. Quốc gia ta nhận mệnh trời đã trăm năm, bốn biển thừa hưởng đức lớn, lẽ nào chính sách quan chế lại còn thua kém người xưa. Nay sẽ suy xét nguồn gốc của chế độ, ý nghĩa của việc noi theo tổ tiên, hiến chương, cân nhắc thêm bớt, phù hợp với thời thế, khiến cho các quan ở Đài, Tỉnh, Tự, Giám thực sự nắm giữ chức vụ[9]; những người giữ chức vụ hư danh đều bãi bỏ hết, thay bằng cấp bậc, dùng đó để định lộc. Tất cả các ân điển đều theo quy chế cũ, không chỉ triều đình có thể căn cứ vào danh vị để xét việc, mà còn khiến các khanh sĩ đại phu khi nhậm chức biết rõ trách nhiệm, không mất đi thực chất của sủng lộc, há chẳng tốt sao! Những việc cần thi hành, Trung thư hãy liệt kê tâu lên.”

(Hai bộ sử đều chép lời chiếu, phần đầu 《Chức quan chí》 chép: Cuối niên hiệu Hi Ninh, Vua muốn chính danh quan chức, bắt đầu sai các quan ở Quán các hiệu đính 《Đường lục điển》, năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Phong, ban bản sao cho quần thần, rồi ban chiếu này… Ngày tháng ban 《Lục điển》 cần tra cứu thêm.)

[46] Bí thư thừa, đồng tri Lễ viện Dương Kiệt tâu: “Trước đây vào tháng 8 năm ngoái, thần đã dâng lên bản đồ mười hai quân đại nhạc, nhưng chưa được ban hành thi hành.” Lại tâu: “Âm thanh của kim loại vang xa, nếu sai lệch sẽ trở nên nặng nề; âm thanh của đá ôn hòa, nếu sai lệch sẽ trở nên nhẹ nhàng; âm thanh của đất hàm hồ[10], nếu sai lệch sẽ trở nên thấp; âm thanh của tre trong trẻo, nếu sai lệch sẽ trở nên cao; âm thanh của tơ mảnh mai, nếu sai lệch sẽ trở nên nhỏ; âm thanh của da trầm hùng, nếu sai lệch sẽ trở nên lớn; âm thanh của bầu tụ tập, nếu sai lệch sẽ trở nên dài; âm thanh của gỗ không dư thừa, nếu sai lệch sẽ trở nên ngắn. Chỉ có con người được ban cho khí trung hòa nên có âm thanh trung hòa, đủ để cân đo tám loại âm thanh, khiến cho luật lữ đều lấy âm thanh con người làm chuẩn, dùng một âm thanh để hát một lời. Lời tuy dài, nhưng không thể vượt quá âm thanh. Nay những người hát hoặc ngâm một lời mà lạm dụng nhiều luật, hoặc câu chương đã hết mà nhạc âm chưa kết thúc, đó chính là cái gọi là hát không kéo dài lời. Kính xin hãy chế ngự những âm thanh rườm rà, dùng một âm thanh để hát một lời, tuân theo phép kéo dài lời. Các bậc tiên nho nói: Dựa vào âm thanh con người mà chế nhạc, mượn nhạc khí để diễn tả âm thanh, nhạc vốn bắt chước con người, chứ không phải con người bắt chước nhạc. Nay các chương nhạc tế tự đều theo cùng một luật, âm thanh không dựa vào lời kéo dài, mà lấy lời kéo dài dựa vào âm thanh, luật không hòa với âm thanh, mà lấy âm thanh hòa với luật, đó không phải là chế độ cổ xưa. Kính xin hãy xem xét định lại đại nhạc, lấy ca làm gốc, âm thanh phải dựa vào lời kéo dài, luật phải hòa với âm thanh.”

[47] Lại nói: “Sách 《Ngu thư》 viết: ‘Tiêu thiều chín khúc, phượng hoàng đến múa’, lấy tiêu làm chủ; 《Thương tụng》 viết: ‘Vừa hòa vừa yên, theo tiếng khánh của ta’, lấy khánh làm nền; 《Chu quan》 chép rằng chung sư dùng chuông trống tấu chín khúc hạ, lấy kim làm đầu. Vậy chuông, khánh, tiêu là gốc của các nhạc, là thứ quý của thánh đế minh vương. Số mười sáu, nguồn gốc của nó đã lâu đời. Nhà Hán được mười sáu khánh cổ ở quận Kiền Vi. Trịnh thị chú giải 《Chu lễ》 về biên chung, biên khánh, và 《Đại Chu chính nhạc tam lễ đồ》[11], biên khánh, biên chung, tiêu đều lấy số mười sáu, thể hiện nhạc của thiên tử dùng tám; chuông, khánh, tiêu là gốc của các nhạc, lại gấp đôi thành mười sáu. Vả lại, mười hai là bản thanh của luật; bốn là ứng thanh của luật. Bản thanh nặng và lớn, ứng thanh nhẹ và trong; bản thanh là quân phụ, ứng thanh là thần tử, nên bốn thanh ấy gọi là thanh thanh. Từ năm Cảnh Hựu, Lý Chiếu bàn về nhạc, chuông, khánh, tiêu bắt đầu không dùng bốn thanh, là có gốc mà không có ứng, có xướng mà không có hòa, tám âm làm sao hòa hợp được! Nay sào sanh, hòa sanh, ống đều mười chín, lấy mười hai ống phát bản thanh của luật lữ, bảy ống làm ứng thanh của luật lữ. Dùng đã lâu, mà âm thanh rất hòa hợp. Xin tham khảo cổ chế, theo lệ sào sanh, hòa sanh, dùng biên chung, biên khánh, tiêu, để hòa tám âm.”

[48] Lại nói: “Nay đại nhạc tấu lên, đàn cầm, đàn sắt, huân, trì, sáo, tiêu, sáo, đàn nguyễn, đàn tranh, trúc tấu một tiếng, thì bác chung, đặc khánh, biên chung, biên khánh đánh liền ba tiếng, trong các nhạc tiếng rất phiền toái. Xin bác chung, đặc khánh, biên chung, biên khánh đều theo nhịp điệu của các nhạc khí, không được đánh liền, để quý trọng tám âm không lấn át lẫn nhau.”

[49] Lại tâu rằng: “Nhạc tế giao miếu của triều đình ta, trước tấu văn vũ, sau tấu vũ vũ. Vũ vũ có sáu biến đổi về dung tiết: Biến thứ nhất tượng trưng sáu đạo quân mới xuất chinh, hướng về phía bắc; biến thứ hai tượng trưng Thượng Đảng được bình định, hướng về phía bắc; biến thứ ba tượng trưng Duy Dương được yên định[12], hướng về phía đông nam; biến thứ tư tượng trưng Kinh Hồ quy phụ, hướng về phía nam; biến thứ năm tượng trưng Cung Thục nộp khoản, hướng về phía tây; biến thứ sáu tượng trưng quân đội trở về, hướng về phía bắc rồi chuyển sang nam. Nay người múa không chỉ phát dương đạo lệ, tiến thoái phủ ngưỡng, không xứng với công đức lớn lao, mà còn sai hướng. Hơn nữa, dung tiết của văn vũ cũng không có phép tắc. Xin quy định dung tiết của hai điệu múa và sửa lại hướng, để xứng với công đức lớn lao. Lại xin theo 《Chu lễ》 tấu luật ca lã, hợp với âm thanh âm dương.”

[50] Lại tâu rằng: “Nhã nhạc và cổ khí của ta không phải không còn, luật lã của Thái thường không phải không đủ, nhưng các học sĩ, đại phu bỏ qua không bàn, việc đánh nhạc tấu khúc giao cho kẻ thấp hèn, sao không khiến nhã nhạc và tạp nhạc lẫn lộn! Xin xem xét điều chỉnh chuông quản của Thái thường, theo điển lễ dùng phép hoàn cung của mười hai luật, khiến mọi người hiểu rõ âm của mười hai luật, thì tạp nhạc không thể làm loạn nhã nhạc.” Chiếu đưa đến Nghị nhạc sở[13]. Lưu Kỷ và các quan tâu rằng những điều Kiệt xin đều có thể thi hành. Chiếu theo đó.

(Phần Nhạc chí chép rất chi tiết bảy điều Kiệt tâu, nay chỉ theo thực lục.)

[51] Thiên Chương các đãi chế Tôn Thản làm Tri châu Tần. Thản sau vì bệnh mắt xin từ chức, đổi làm Đề cử cung Hồng Khánh.

(Việc đổi làm Hồng Khánh vào ngày 11 tháng 9 nhuận.)

[52] Ngày Đinh Mùi, phủ Khai Phong tâu: “Các huyện vùng kinh thành bị hạn hán mùa hè, nặng nhất mất mười phần, nhẹ hơn cũng không dưới bảy phần, đã lần lượt kiểm tra và miễn giảm. Nay mùa thu có triển vọng thu hoạch, nhưng sức dân chưa hồi phục, xin miễn thuế tô còn thiếu.” Chiếu theo đó.

[53] Ngày Mậu Thân, Lưu Kỷ, người đã về hưu từ chức Bí thư giám, cùng những người bàn về nhạc, tâu rằng: “Nhạc khí chung khánh của Thái thường đại lạc có ba loại: một là nhạc của Vương Phác, hai là nhạc của Lý Chiếu, ba là nhạc của Hồ Viện và Nguyễn Dật. Nhạc của Vương Phác có âm thanh quá cao, điều này đã được Thái Tổ hoàng đế từng nói, không cần bàn luận cũng rõ. Thời Nhân Tông, niên hiệu Cảnh Hữu, sai Lý Chiếu định lại nhạc, bèn hạ thấp luật pháp để lấy âm thanh Hoàng Chung. Lúc đó mọi người quen nghe nhạc cũ, nghi ngờ âm thanh quá nặng, nên nhạc của Lý Chiếu không được dùng. Đến thời Hoàng Hựu, Hồ Viện và Nguyễn Dật lại định lại đại nhạc, so với nhạc của Vương Phác thì hơi thấp hơn, nhưng âm luật gần giống, khi đúc đại chung, có người chê âm thanh u ám, nên cũng không dùng. Vì thế, tế lễ ở giao miếu vẫn dùng nhạc của Vương Phác. Các nhạc công tự trình bày rằng, nếu dùng nhạc của Vương Phác, chung khánh có âm thanh quá cao, khó theo, nếu cải chế hạ thấp luật, thì âm thanh chung khánh mới có thể dùng được. Càng chứng tỏ âm thanh chung của Vương Phác quá cao, khó dùng hết. Nay lấy ba loại chung khánh so sánh âm thanh, thì Hoàng Chung trong nhạc của Vương Phác và Nguyễn Dật, chính tương đương với Thái Thấu trong nhạc của Lý Chiếu. Nhạc của Vương Phác và Nguyễn Dật, biên chung và biên khánh mỗi loại mười sáu, tuy có bốn thanh âm, nhưng thực sự sai lệch với chính âm của Hoàng Chung và Đại Lã. Nhạc của Lý Chiếu, biên chung và biên khánh mỗi loại mười hai, tuy có Hoàng Chung và Đại Lã, nhưng hoàn toàn thiếu bốn thanh âm, không phải là chế độ cổ xưa.

Thánh nhân làm nhạc để ghi lại âm thanh trung hòa, nhằm dẫn dắt khí trung hòa, thanh âm không được quá cao, nặng không được quá thấp, khiến tám âm hòa hợp, người hát thoải mái mà có thể kéo dài lời ca, đó mới gọi là trung hòa. Chúng thần xin chọn mười hai biên chung và biên khánh của Lý Chiếu phù hợp với luật[14], thêm vào Vô Xạ, Ứng Chung của Vương Phác cùng thanh âm Hoàng Chung và Đại Lã, để làm bốn thanh âm Hoàng Chung, Đại Lã, Thái Thấu, Giáp Chung, khiến các nhạc khí khác theo đó, người hát kiêm cả thanh âm để ca ngợi, âm thanh thanh không quá cao, nặng không quá thấp, âm thanh trung hòa có thể xét được. Xin hạ nhạc của Vương Phác xuống hai luật, để định âm thanh trung hòa, chọn những chung khánh của Thái thường có thể dùng được. Những cái không thể sửa thì chế tạo riêng.”

Được chấp thuận.

(《Nhạc chí》 ghi rất chi tiết, nay chỉ theo 《Thực lục》.)

[54] Ngày Kỷ Dậu, Tiến sĩ Tiêu Chi Mĩ dâng sách trực ngôn. Một điều nói rằng: “Có bác sĩ Thái học giảng kinh Dịch, hoặc hai người cùng giảng một kinh, một người giỏi một người không, thì một người soạn giảng nghĩa rồi chia nhau giảng; hoặc chưa từng nghiên cứu kinh, thì mượn tay người khác soạn giảng nghĩa để giảng.” Chiếu cho Trung thư bản phòng lập pháp. Lại nói: “Chức trai trưởng, trai dụ là để làm gương mẫu và dẫn dắt. Nay lại để học chính, học lục cử người để bổ nhiệm, người được cử không phải là bạn bè thì là người quen biết. Xin từ nay trai trưởng, trai dụ phải do học dụ cử lên học chính, học lục, học chính, học lục cử lên bác sĩ, phán, giám sát xem có thể đảm nhiệm chức vụ không, rồi mới cho làm.” Chiếu cho Ngự sử đài điều tra. Lại nói: “Năm Tân Hợi ở Tây Lạc, phép mới bắt đầu thi hành, thấy dân chúng không ai không vui; năm ngoái ở Hồ Bắc, Kinh Tây, thấy dân oán hận lại nhân vi phạm pháp không thể kể xiết.” Chiếu cho Kinh Tây, Kinh Hồ Bắc lộ chuyển vận, đề điểm hình ngục ty điều tra tâu lên.

[55] Giám sát Ngự sử Lý hành Vương Tổ Đạo tâu: “Kính xem chiếu chỉ minh bạch, cho rằng thuyết ‘lục thiên’ của các tiên nho là không phù hợp với cổ lễ, nay lại muốn thờ cúng cả Ngũ đế, đó cũng là ‘lục thiên’. Các quan Lễ bộ muốn bỏ bốn ngọc khuê và bỏ ngọc tế thần, như thế không phải là cách thờ Trời. Kính mong bãi bỏ những ý kiến hời hợt, thực hiện lại chiếu chỉ trước, để sửa chữa sai lầm cho muôn đời.” Chiếu chỉ dùng ngọc khuê và ngọc bích, Lễ viện phải nhanh chóng xem xét và tâu lên.

Sau đó, quan phụ trách xem xét tâu: “Kính xét 《Chu Lễ》 chép: ‘Dùng ngọc làm sáu loại khí cụ để tế Trời, Đất và bốn phương.’ Lại chép: ‘Bốn ngọc khuê có đế để tế Trời, tế Thượng đế.’ Trịnh Khang Thành nói: Tế Trời vào ngày Đông chí, tế Trời là chỉ lễ Giao tế vào tháng Hạ chí. Tấn Từ Mạc dẫn sách chép: ‘Cầm ngọc bích, nắm ngọc khuê’, cho rằng ngọc bích dùng để tế thần, ngọc khuê do mình cầm. Cả hai thuyết này đều không đủ để làm căn cứ, nhưng có thể biết rằng không thể dùng cả hai trong một lễ tế. Nay Vương Tổ Đạo cho rằng ở Giao khâu và Minh đường, ngọc khuê và ngọc bích không thể bỏ một thứ nào. Có người bàn rằng nên dùng ngọc bích màu xanh để tế thần, dùng bốn ngọc khuê có đế để thiêu, nhưng xét trong kinh điển, không thấy có thuyết này. Các đời trước và triều đình ta, khi tế Trời, nếu dùng ngọc bích màu xanh thì ngọc thiêu cũng dùng ngọc bích màu xanh; nếu dùng bốn ngọc khuê có đế thì ngọc thiêu cũng dùng bốn ngọc khuê có đế. Nay muốn dùng cả hai loại ngọc, nhưng không có căn cứ rõ ràng. Theo lễ Khai Nguyên và Khai Bảo, khi tế Hạo Thiên Thượng Đế và Ngũ đế ở Minh đường, ngọc tế thần và ngọc thiêu đều dùng bốn ngọc khuê có đế. Nay chiếu chỉ chỉ tế Thượng đế, nên bốn ngọc khuê có đế không cần thiết. Chúng thần cho rằng nên theo lễ Nam Giao, dùng ngọc bích màu xanh để tế thần và thiêu, để phù hợp với chiếu chỉ.” Chiếu chỉ dùng ngọc bích màu xanh và bốn ngọc khuê có đế, tất cả đều theo chế độ cũ.

(Tháng này, ngày mùng một Tân Mão[15], quan phụ trách xem xét mới đề nghị.)

[56] Nhà Vua phê rằng: “Gần đây ban hành phép nuôi ngựa của các lộ ở kinh sư, đã có thời hạn, ắt sẽ có bọn thương nhân gian xảo nhân cơ hội kiếm lợi, dùng giá cao ép những hộ nuôi ngựa, khiến cho phép tốt không thể nhanh chóng thành công. Nên lệnh cho quần mục ty chọn hơn một nghìn con ngựa từ loại nhiêu kị trở lên, định giá để giao dịch với dân, tức là không được giao dịch với những hộ không nuôi ngựa.”

(Ngày 28 tháng 2, ngày 27 tháng 6, ngày 22 tháng 8, và ngày 27 tháng 8.)

[57] Ngày Tân Hợi, quan tường định lễ văn tâu rằng: “Tấn triều, Trí Ngu bàn về lễ tế ở giao khâu, quét đất mà tế, dùng sinh vật nhỏ như kén và hạt dẻ, đồ dùng bằng đất nung và bầu, việc trở về với thuở ban đầu, nên dùng tổ tiên xa để phối hưởng; lễ tế ở minh đường, dùng đủ các vật phẩm để dâng, ba loại sinh vật cùng bày, bát đĩa xếp thành hàng, lễ giống như lẽ thường của con người, nên dùng tổ tiên gần để phối hưởng. Từ đó mà nói, lễ tế ở giao khâu dùng người xa để tôn kính, nên lấy đạo trời mà thờ; lễ tế ở minh đường dùng người gần để thân thiết, nên lấy đạo người mà thờ. 《Khai Bảo Thông Lễ》 và nghi chú hiện hành, lễ hưởng ở minh đường, dùng chiếu bằng cỏ mộc kiết, đồ dùng bằng đất nung và bầu, không khác gì lễ tế ở giao khâu. Xin thay chiếu mộc kiết bằng chiếu cỏ quản và bồ việt, thay chén bầu bằng chén ngọc, các đồ đậu, đăng, quỹ, trở, tôn, lôi đều dùng đồ của tông miếu, chỉ không dùng loã, nên không cần bày di toản.” Lại tâu: “Việc đốt lửa quán ở lễ hưởng minh đường thời Hoàng Hựu là không đúng, xin không đốt.”

(Việc lễ văn ngày 21 tháng 8.)

[58] Lại tâu: “Việc nhận lộc thần nên làm vào cuối buổi tế. Từ thời Hán đến nay, số lần dâng rượu trong lễ tế chỉ dừng ở ba lần. Vua làm lễ sơ hiến, có khi mới dâng một lần đã nhận lộc thần. 《Khai Nguyên Lễ》, hoàng đế tế ở thái miếu và lễ hưởng minh đường, dâng rượu xong, thái úy chưa lên đàn, hoàng đế đã uống rượu phúc và nhận thịt tế, theo lệ này đến nay. Xin sửa lại nghi chú, sau khi á hiến và chung hiến hành lễ xong, rồi quan lễ dẫn đường, hoàng đế uống rượu phúc và nhận thịt tế. Á hiến và chung hiến thì không nhận.” Đều được chấp thuận.

(Ngày Kỷ Sửu tháng 9 năm Nguyên niên, quan tường định tâu rằng á hiến và chung hiến không nên nhận lộc thần, đã ghi trong ngày tháng này.)

[59] Quyền phát khiển Vĩnh Hưng quân đẳng lộ đề điểm hình ngục, kiêm đề cử nghĩa dũng, bảo giáp Diệp Khang Trực tâu: “Những năm gần đây, việc hội họp so sánh các đội bảo ngũ, gửi vào quân chính, bắt đầu từ kinh kỳ rồi mở rộng ra năm lộ, tu sửa và làm rõ pháp dạy chiến đấu, xoay chuyển uốn khúc, là điều chưa từng có từ xưa đến nay. Tuy nhiên, binh lính gắn với nông nghiệp thì số lượng nhiều ít khác nhau, việc huấn luyện xem xét thành tựu thì thời gian nhanh chậm cũng khác nhau. Nay Hà Đông lấy hai năm, Hà Bắc lấy ba năm, dân binh Thiểm Tây so với Hà Bắc thì số lượng không chênh lệch nhiều, nhưng lại riêng lấy bốn năm làm hạn. Thần trộm nghĩ, xin cho nghĩa dũng, tiết cấp, bảo giáp, đại bảo trưởng ở Thiểm Tây chỉ huấn luyện trong ba năm, để sớm đạt được thành quả.” Chiếu rằng việc huấn luyện ở Hà Bắc, Thiểm Tây lộ không quá ba năm.

[60] Ngày Nhâm Tý, Lại phòng Trung thư tâu: “Quyền Đề điểm Hà Bắc Đông lộ Hình ngục công sự Lưu Định tâu rằng, chức vụ Đô thủy phần lớn ở ngoài, mà ngoài chỉ có một viên Giám thừa, nhiệm vụ quá nặng, xin nên giảm bớt để công việc được phân đều và dễ thực hiện. Bản phòng xin lệnh cho Ngoại đô thủy Giám thừa Nam ty trị sở tại Hà Âm huyện, lấy nơi cũ của Đô đại ty làm trị sở, phân chia các việc lớn về sông ở bốn địa phận Hoài, Vệ, Tây Kinh, Hà Âm, Toan Tảo, Bạch Mã thuộc về đó. Từ bờ nam sông Hoàng Hà phía trên đến đê bờ sông Hà Thanh huyện Tây Kinh, phía dưới đến đê Nghênh Dương huyện Bạch Mã, bờ bắc; phía trên đến bờ bắc Hà Dương, phía dưới đến bờ tây Tô Thôn huyện Vệ Châu, tổng cộng 36 chỗ đắp đê. Ngoại đô thủy Giám thừa Bắc ty trị sở tại Kim Đê Bắc Kinh, lấy nơi cũ của Đô đại ty làm trị sở, phân chia các việc lớn về sông ở bốn địa phận Thiền, Bộc, Kim Đê, Đông lưu, nam bắc hai bờ thuộc về đó. Từ bờ bắc sông Hoàng Hà phía trên đến Đại Ngô huyện Thiền Châu, phía dưới đến Diêm Sơn huyện Thương Châu, bờ nam; phía trên đến Linh Bình thượng huyện Thiền Châu, phía dưới đến Vô Lệ huyện Thương Châu, tổng cộng 33 chỗ đắp đê. Còn các đoạn thượng, trung, hạ của sông Ngự, hai chỗ đắp đê sông Chương, các đoạn thượng, hạ của sông Hô Đà, ba con sông này ở phía bắc bờ bắc sông Hoàng Hà, cũng lệnh cho Bắc ty quản lý. Các quan lại, quân ty đều chia đôi. Đô thủy Giám nội ngoại Giám thừa trước đây có ba viên, nay chỉ lệnh cho Ngoại đô thủy Giám thừa hai viên, phân quản Nam Bắc hai ty. Lưu lại một viên Giám thừa, cùng với Chủ bạ ở lại bản giám.” Đều theo lời tâu.

[61] Hàn Tồn Bảo tấu: “Dân chúng vùng biên giới Thiểm Tây nguyện đến quân tiền Lô Nam hiệu dụng, nay đã thử bắn cung lực một thạch được 123 người, đã thu nhận làm kỳ binh dũng cảm, xin cấp thêm tiền gạo.” Đều theo lời tâu.

[62] Tường định lễ văn tâu rằng: “《Lễ ký》 chép: ‘Tam công một mệnh cổn’, thì Tam công nên mặc áo tế miện. Bài thơ ‘Đại xa’ chê trách đại phu, mà nói ‘Áo lông chim như cỏ thảm’, thì thượng đại phu khanh nên mặc áo thuý miện. 《Chu lễ·Điển mệnh》 chép: ‘Công hầu có cô tứ mệnh’, lại nói đại phu của vương có tứ mệnh, y phục của họ tùy theo số mệnh. Cô của công hầu, y phục từ hi miện trở xuống, thì đại phu của vương nên mặc hi miện; khanh đại phu của chư hầu, y phục từ huyền miện trở xuống, thì sĩ của vương nên mặc huyền miện, đó gọi là người Chu đội mũ mà tế. 《Ty phục》 chép: ‘Y phục của cô từ hi miện trở xuống; y phục của khanh đại phu từ huyền miện trở xuống; y phục của sĩ từ bì biện trở xuống.’ Đó là y phục của bề tôi chư hầu khi tế lễ, nhưng không ghi rõ y phục của công khanh đại phu sĩ triều đình, vì nêu dưới để thấy trên, có thể suy ra mà biết. Quan chức triều ta tuy khác xưa, nhưng xét theo 《Đường lục điển》, chú thích Thượng thư Lại bộ là khanh Thiên quan đời Chu. Chú thích Thị lang là Tiểu tể, Trung đại phu đời Chu. Chú thích Viên ngoại lang là Thái tể, thuộc quan Thượng sĩ đời Chu. Nay ước lệ theo 《Lục điển》, tham khảo thứ bậc triều ta, xin cho Đại học sĩ Tư chính điện trở lên khi tế lễ mặc tế miện, Quan sát sứ trở lên mặc thuý miện, Giám sát ngự sử trở lên mặc hi miện, triều quan trở lên mặc huyền miện, tuyển nhân mặc tước biện.” Được chấp thuận, lại lệnh từ Cung phụng quan trở xuống đến tuyển nhân đều mặc huyền miện không có tua, không dùng tước biện.

[63] Ngày Quý Sửu, Tri chế cáo Vương Tồn làm sứ sinh thần Liêu chủ, Hoàng thành sứ, Tế châu Phòng ngự sứ Lưu Vĩnh Bảo làm phó; Thái tử Trung doãn, Tập hiền Hiệu lý, kiêm Đồng tu khởi cư chú Thư Thiện làm sứ chánh đán, Tây kinh Tả tàng khố Phó sứ Vương Cảnh Nhân làm phó. Lại lệnh từ nay phái văn thần đi sứ, nếu nguyên có quán chức thì vẫn giữ chức. Sau đó Thiện từ chối không đi, lấy Quyền phát khiển Đề cử Tam ty Trướng ty, Ty môn Viên ngoại lang Tiền Hiệp thay thế.

(Năm sau tháng giêng ngày Bính Ngọ, Vĩnh Bảo chết.)

[64] Chiếu rằng từ nay những việc công của triều đình gửi đến Ngự sử đài, chỉ lệnh cho Trung thừa cùng với các Ngự sử sở tại xét xử triệt để.

[65] Ngày Ất Mão, Quang lộc tự thừa Chu Ốc bị giáng hai cấp, đồng thời bị cách chức. Trước đó, Chu Ốc tâu rằng các tướng lĩnh dùng ý chỉ trong thư của tể tướng để đàn áp mọi người, khiến họ không dám bàn luận về việc biên cương. Việc này được giao xuống Ngự sử đài điều tra kỹ lưỡng, phát hiện thư của Ngô Sung gửi cho Quách Quỳ, nói rằng các quận huyện điều động dân phu chậm trễ, đã có chỉ dụ của triều đình xét tội, giao cho quan chức xử lý, chắc chắn đã có kế hoạch, chỉ cần lâu dài tiện lợi là tốt. Vì vậy, Chu Ốc bị kết tội nói không đúng sự thật và bị trị tội.

(Chu Ốc ban đầu bị tống giam vào tháng 8 năm thứ hai, ngày Tân Hợi. Lại xem thêm sự việc của Chung Chính Phủ vào tháng 2 năm này, ngày Bính Thìn, và tháng này, ngày Bính Thìn.)

[66] Tư nông tự tâu: “Gần đây sai Chủ bạ Hàn Tông Lương đến Hoài, Chiết để điều động lương thực, do các lộ năm nay mùa thu được mùa, giá cả rất rẻ, số tiền thuế miêu, dịch, phường trường tích lũy lâu ngày có thể nhân cơ hội này thu nộp, để mua thêm lương thực. Nay xin cử ngay Tông Lương làm Đề cử hai lộ Hoài Nam, Đông Lộ và các châu quân ở Hoài, lệnh cho các lộ họp bàn, nếu có thể thuận tiện vận chuyển lên kinh đô, số tiền tiết kiệm được từ chi phí vận chuyển có thể thêm vào giá thị trường để mua lương thực, thực sự tiện lợi, thì cứ theo cách này mà làm. Như ở Lưỡng Chiết trước đây đã có kế hoạch[16], lương thực ở những nơi xa cũng có thể điều động sử dụng.” Chiếu cho Hàn Tông Lương, nếu việc mua lương thực như vậy có thể vận chuyển mà không bị hư hỏng và có nơi chứa đựng, thì cứ theo cách này mà thi hành.

[67] Đề cử Vĩnh Hưng quân, Tần Phượng đẳng lộ bảo giáp Trương Sơn Phủ tâu: “Hai mươi tám châu quân trong lộ này có ba mươi mốt vạn bảy nghìn sáu trăm hai mươi ba người nghĩa dũng và bảo giáp, một vạn hai nghìn sáu trăm sáu mươi bốn tiết cấp và đại bảo trưởng cần huấn luyện, đã lập ba mươi ba trường tập huấn, xin chia làm ba đợt, tính trong ba năm có thể hoàn thành.” Triều đình đồng ý.

[68] Ngày Bính Thìn, quyền Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự Dương Cảnh Lược tâu: “Đê Hùng Vũ từ tháng 6 đến tháng 7 liên tục nguy cấp, đã sai điều động dân phu khẩn cấp từ 5 huyện Hà Âm và các huyện khác, tổng cộng 8.000 người[17], riêng huyện Hà Âm đã chiếm 3.000 người[18]. Huyện này có nhiều thôn xóm bị thiên tai nghiêm trọng, nhưng phường quách vẫn phải điều động đến hạng 10, thôn xóm đến hạng 4; có hộ trong một ngày phải xuất đến 117 người, so với các huyện khác càng thêm khốn đốn.” Chiếu rằng huyện Hà Âm được miễn trừ số dân phu khẩn cấp đã điều động, ngoài ra mỗi hộ được miễn thêm 3.000 tiền thuế tạp; nếu không đủ, thì tính theo năm để khấu trừ.

[69] Thái thường tự tâu: “Gần đây xin giữ lại chuông khánh của Vương Phác, nay nơi tu sửa nhạc lớn đã tập hợp thợ, chuẩn bị lò than, e rằng sẽ bị nấu chảy hoặc mài mòn. Hơn nữa, nhạc khí là pháp độ, độ lượng thanh luật tinh vi, sau khi sửa chữa, nếu bệ hạ thân hành nghe thử, vạn nhất có chỗ chưa hài hòa, sẽ không còn nhạc khí cũ để đối chiếu. Bản tự mỗi khi có đại lễ, ngoài việc dùng nhạc của Vương Phác, còn có nhiều nhạc khí và đá khánh do Lý Chiếu, Hồ Viện chế tác, có thể chế tác nhạc mới để kiểm nghiệm thuật của người bàn luận.” Chiếu cho phép mượn chuông nhạc của Vương Phác làm thanh âm, không được nấu chảy hoặc mài mòn.

[70] Ban đầu, Lưu Kỷ và Dương Kiệt muốn nấu chảy chuông cũ của Vương Phác, ý rằng khi nhạc mới hoàn thành, dù không tốt cũng không còn thanh âm cũ để so sánh. Sau đó, chấp chính đến Thái thường tự kiểm tra, đêm hôm trước, Kiệt bày ra một chiếc chuông cũ của Vương Phác đã hỏng. Nhạc công đều bất bình, đêm đó đổi lại, nhưng Kiệt không biết. Hôm sau, chấp chính đến, Kiệt lớn tiếng nói: “Chuông của Vương Phác rất không hài hòa”, bảo nhạc công gõ thử, âm vận lại càng hay. Kiệt rất xấu hổ.

(Bản Chu bỏ đi việc Dương Kiệt xấu hổ, nói rằng tra hỏi không có căn cứ, bản mới đã khôi phục lại, nay theo bản mới. 《Lạc chí》 nói đại khái là bênh vực Lưu Kỷ và Dương Kiệt, nay không theo.)

[71] Vương An Thạch dâng lên việc sửa chữa các chữ sai trong sách 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ》, chiếu lệnh ghi chép và gửi đến Quốc Tử Giám để chỉnh sửa.

[72] Ngày Đinh Tỵ, chiếu lệnh cho Trung thư: “Đem các án lệ đã biên soạn ở phòng Hình và các án lệ xử án của Pháp tự, gửi lại đến sở Tường định biên sắc, lệnh lấy thêm các án lệ chưa được biên soạn cùng với các điều lệ để xem xét kỹ. Những điều luật đã có quy định mà các cơ quan áp dụng sai lệch, chỉ cần làm rõ lại các điều khoản cũ. Những điều khoản chưa đầy đủ, sửa chữa lại; hoặc những điều chưa được quy định mà có thể làm thành luật, thì lập điều khoản mới; những điều luật không thể quy định hết, thì ghi thành án lệ. Những điều không thể áp dụng, bỏ đi.”

[73] Chiếu lệnh cho Khai Phong phủ giới và các lộ đề cử ty, tại các châu huyện trọng yếu, chiếm dụng đất trống hoặc doanh trại bỏ không để xây dựng kho Thường Bình. Lại ước lượng số lượng tích trữ hàng năm, chi phí đều lấy từ tiền lãi của kho Thường Bình. Nếu kho tỉnh có chỗ trống hoặc quan xá có thể tu sửa, cũng cho chiếm dụng. Những nơi không thiếu, không được tùy tiện xây dựng.

[74] Lại chiếu lệnh tại các châu huyện thuận tiện, lưu lại ba vạn quan tiền và năm vạn thạch gạo từ kho Thường Bình để chi phí cho việc đối phó với man di ở Lô Nam.

[75] Quyền phát khiển Tư Nông tự Đô thừa Ngô Ung tâu: “Hoài, Chiết liên tiếp được mùa, trước đây từng xin lưu lại kho Chuyển Ban ở Dương Châu để làm kho Thường Bình đô của Hoài, Chiết, xin ủy cho đề cử ty bổ nhiệm một viên quan chuyên trách. Hàng năm mở rộng việc thu mua, ngoài số lượng dự toán hàng năm, thường tích trữ một vạn thạch, cùng với việc thu nhận lương thực chuyển ban từ Lưỡng Chiết và đổi lấy số lượng thóc gạo cung cấp cho Phát vận ty.” Được chấp thuận.

[76] Quần Mục ty tâu: “Đã cho phép những hộ dân nuôi ngựa đến ty mua ngựa, nhưng do ty mua ngựa ở Thiểm Tây mỗi năm phát số ngựa không dư dả, xin ngoài kế hoạch hàng năm, thêm 3.000 con ngựa từ cấp Kiêu Kị trở lên, giao nộp về ty.” Vua đồng ý.

(Ngày 28 tháng 2, ngày 27 tháng 6, ngày 22 tháng 8.)

[77] Trung thư tâu, điều lệ thị bạc Quảng Châu đã tu chỉnh xong, xin cử riêng quan viên thi hành. Chiếu cho Quảng Đông do Chuyển vận phó sứ Tôn Huýnh, Quảng Tây do Chuyển vận sứ Trần Sai, Lưỡng Chiết do Chuyển vận phó sứ Chu Trực Nhụ, Phúc Kiến do Chuyển vận phán quan Vương Tử Kinh, Huýnh và Trực Nhụ kiêm chức Đề cử thi hành, Sai và Tử Kinh kiêm chức Giám sát câu lưu. An phủ sứ Quảng Nam Đông lộ không kiêm chức Thị bạc sứ nữa.

[78] Ngày Mậu Ngọ, sao chổi biến mất. Trước đó, tháng 7 ngày Quý Mùi, sao chổi xuất hiện ở chòm Chẩn, dài một trượng. Ngày Bính Tuất, xuất hiện ở chòm Dực. Ngày Mậu Tý, dài ba trượng. Tháng này ngày Canh Tý, xuất hiện ở chòm Trương, 36 ngày sau mới biến mất.

(Cả hai kỷ đều chép ngày Mậu Ngọ sao chổi biến mất.)

[79] Tân Đề cử Hà Bắc đông tây lộ nghĩa dũng, bảo giáp Địch Tư đã xin xuống Mã quân ty[19]sai các đại tiểu giáo đầu, và tại giáo tập mã quân sở[20]lại tiến hành khảo thí, đợi khi đạt chuẩn, sẽ đưa đi. Xu mật viện dự thảo tấu, muốn theo như lời xin. Vua phê: “Nên chỉ lệnh cho các lộ đề cử quan, võ thần đến đề cử giáo tập mã quân sở cách tay khảo thí, xong, sẽ đưa đi. Nếu trong đó có người kỹ năng chưa tinh thông, hãy gửi văn thư đến Mã quân ty để đổi người khác.”

(Ngày tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 3, 《Ngự tập》 quyển 122.)


  1. Năm ngoái tốn hơn vạn bó cỏ, chữ 'sao' nguyên là 'sảo', theo các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 17/9 sửa.
  2. Chữ 'Hiến' nguyên bản thiếu, theo các bản và 《Tống hội yếu》 binh 2/17 bổ.
  3. 'Binh' chữ nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 phiên di 5-26 bổ sung
  4. Chữ 'Kỷ' nguyên bản viết là 'Kỷ', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 128, chí về Nhạc và quyển 262, bản truyện sửa lại.
  5. Chính là thứ mà Trung thư ngày nay nên có, chữ 'kim' nguyên là 'lệnh', theo nghĩa văn mà sửa
  6. Chữ 'Hoài' trong 'Cung Hoài Hoàng hậu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Đinh Phu Hán Nghi》 và 《Hậu Hán Thư》 quyển 10 thượng, phần Hoàng hậu kỷ bổ sung.
  7. 'Thất' nguyên bản viết là 'đường', căn cứ theo các bản khác và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 78, phần Tường Định Giao Miếu Lễ Văn sửa lại.
  8. cho phép đày ra khỏi châu: hai chữ 'biên phối' (đi đày) vốn bị thiếu, chữ 'châu' vốn viết là 'xuyên', nay căn cứ vào 《Tống hội yếu》 phần Hình pháp 4-27 để bổ sung và sửa lại.
  9. sửa chữ 'thủ' thành 'tự' theo 《Ngọc Hải》 quyển 119, mục Quan chế
  10. Âm thanh của đất hàm hồ, chữ 'Hồ' nguyên bản là 'Ngưng', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 128, 《Tống hội yếu》 phần nhạc 5-10 sửa lại.
  11. Trịnh thị chú giải 《Chu lễ》 về biên chung, biên khánh và 《Đại Chu chính nhạc tam lễ đồ》, chữ 'biên chung' và chữ 'đại' vốn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 nhạc 5-11 bổ sung.
  12. 'Duy Dương' nguyên văn là 'Hoài Dương', theo 《Tống hội yếu》 quyển 5, phần 11 và 《Tống sử》 quyển 128, phần Nhạc chí sửa lại.
  13. Chữ 'sở' nguyên văn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 quyển 5, phần 12 bổ sung.
  14. Chúng thần xin chọn mười hai biên chung và biên khánh của Lý Chiếu phù hợp với luật, 'thỉnh' nguyên văn là 'Tinh', theo 《Tống hội yếu》 quyển 3, trang 21 và 《Tống sử》 quyển 128, 《Nhạc chí》 sửa lại.
  15. Tháng này, ngày mùng một Tân Mão, chữ 'thị' nguyên bản là 'tường', căn cứ theo văn trên và văn lệ của sách này mà sửa.
  16. Như Lưỡng Chiết trước đây đã có kế hoạch 'đã có' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào ý nghĩa văn bản mà sửa lại.
  17. 8.000 người, chữ 'thiên' nguyên bản viết là 'thập', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 15.6 sửa lại
  18. 3.000 người, chữ 'thiên' nguyên bản viết là 'thập', theo sách trên sửa lại
  19. Chữ 'Mã quân' trong 'Mã quân ty' nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo văn bản dưới sửa lại.
  20. Chữ 'tập' trong 'giáo tập mã quân sở' nguyên bản bị thiếu. Xét: Vào niên hiệu Nguyên Phong đời Tống có giáo tập mã quân sở dạy các quân bắn cung ngựa, xem 《Tống sử》 quyển 195, 《Binh chí》, quyển 304 của sách này, ngày Quý Dậu tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 3 cũng chép: 'Chiếu cho đề cử giáo tập mã quân sở dạy các con em quan lại và dân chúng bắn cung bộ một thạch', v.v. Ở đây chữ 'giáo' rõ ràng thiếu chữ 'tập', nên bổ sung. Dưới đây cũng vậy.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.