"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 308: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)

Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 9, ngày Canh Thân mùng một, Tri gián viện Thái Biện xin rằng mọi việc bổ nhiệm, thay đổi nên được gửi đến Phong bác ty để thông báo cho Gián viện[1]. Được chấp thuận.

(Năm Nguyên Phù thứ 3, tháng 5, ngày Kỷ Mão, Cung Quái nói, có thể tham khảo.)

[2] Ngày Tân Dậu, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Bồ Tông Mạnh, Tri chế cáo Lý Thanh Thần kiêm chức Tường định quan chế. Kiểm chính Trung thư hộ phòng công sự Tất Trọng Diễn, Kiểm chính Trung thư lễ phòng công sự Vương Chấn, cùng kiêm chức Kiểm thảo văn tự.

[3] Quyền Tri đô thủy giám thừa công sự Tô Dịch tâu: “Hai lộ Hà Bắc, Kinh Đông, do vỡ đê bị thiệt hại, được triều đình ưu đãi, cứu tế, miễn thuế, tổng cộng tiền và thóc là 727.207 quan, thạch, còn dư, nhưng bia đền Linh Tân không ghi chép đầy đủ, xin giao việc này cho sử quan.” Được chấp thuận. Ngày Nhâm Tuất, chiếu rằng: “Mộ tổ của Tuyên Tổ hoàng đế ở thôn Đông An, châu Định, mỗi phía thêm 5 khoảnh đất, 10 hộ giữ vườn.”

(《Tân kỷ》 ghi việc này, 《Cựu kỷ》 không ghi.)

[4] Kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng ty tâu, xin lấy 100.000 quan tiền giao tử hàng năm chuyển đến ty này sử dụng, không bán cho Trà trường ty, và xin giảm bớt việc định ra tiền sao bốn loại ở Hi Hà lộ. Chiếu rằng tiền sao bốn loại theo tấu sẽ được cấp cho Kinh chế ty làm kinh phí hàng năm, cùng với các loại thuế và lợi nhuận thu được ở Hi Hà lộ, cùng sử dụng. Các loại lụa, lĩnh, vải, tơ cần dùng hàng năm, lệnh cho Thiểm Tây chuyển vận ty chiếu lệ ứng phó.

[5] Thiểm Tây tâu, bắt được bảy tên giặc là Quang Vạn thuộc bọn Trương Yến ở châu Quắc. Chiếu rằng: “Bọn giặc đã tan rã, lo người bắt giặc tham phần thưởng lấy thủ cấp, làm hại dân lành. Lệnh cho Đề điểm hình ngục ty chỉ huy các quan lại bắt giặc, nếu gặp giặc không chống cự, đều phải bắt giải đến nơi thuộc quyền để tra xét.”

[6] Ngày Quý Hợi, Ngự sử Vương Tổ Đạo tâu: “Thái thường thừa Uông Phụ Chi được bổ làm Chuyển vận sứ Quảng Đông, Phụ Chi liền xin được phân ty trí sĩ, triều đình đã đổi mệnh lệnh, cho ông tiếp tục làm Thôi quan phủ Khai Phong. Thần nghĩ rằng lúc bình thường không có việc gì, sai một Giám ty nghe lời xin tránh mà không thi hành, nếu chẳng may hai Quảng có việc biên thùy khẩn cấp, ai sẽ là người sẵn sàng vì bệ hạ mà hành động? Mong theo lời thỉnh cầu của Phụ Chi.” Chiếu cho Phụ Chi được phân ty.

(Ngày 7 tháng 8, Phong Tắc nói thêm…)

[7] Lại tâu: “Bốn mươi hai tướng ở Thiểm Tây, ba mươi bảy tướng ở Hà Bắc, Kinh Đông và phủ giới, đều do triều đình tuyển chọn, nhưng vẫn còn nhiều người tầm thường. Các nơi khác như Hoài, Chiết, Phúc Kiến, Kinh Hồ, Giao Quảng, tuy có phép đoàn kết huấn luyện, nhưng chưa thấy thực sự giảng dạy và kiểm tra, há chẳng phải do tướng lĩnh không đủ tài, nên công việc chưa hiệu quả? Lấy Thiểm Tây làm ví dụ, như Lý Hanh, Lưu Trấn, Trình Bác Cổ, nhân tài yếu kém, gặp việc thì lúng túng, sai họ đối phó với địch và lập công, chỉ đủ để thất bại nhanh chóng. Các nơi khác cũng có những người như Lý Hanh, Lưu Trấn, mong bí mật xuống chiếu cho các lộ Kinh lược Giám ty xem xét tài năng của các tướng phó, chia làm ba bậc, triều đình lại xem xét kỹ, loại bỏ những kẻ yếu kém không xứng đáng, đây chính là việc cấp bách của biên phòng hiện nay.”

[8] Triệu Tiết độ sứ Hà Đông, Thủ Tư đồ, kiêm Thị trung, Phán phủ Đại Danh Văn Ngạn Bác đến dự lễ tế. Trước đó, Ngạn Bác xin từ chức Sứ tướng, nhận chức Cung quan, chiếu tay dụ ông đợi qua lễ Minh đường rồi nghe chỉ. Do đó triệu ông, lại sai nội thị đón và ban trà thuốc.

(Chiếu tay dụ Ngạn Bác, theo《Ngự tập》là ngày 13 tháng 5.)

[9] Tường định lễ văn tâu rằng: “Kính xét sách 《Ngu thư》 viết: ‘Ta muốn xem hình tượng của người xưa, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng được vẽ, tông di, rong, lửa, bột gạo, văn phủ, văn phất được thêu.’ Các bậc tiên nho cho rằng chế độ nhà Ngu, Hạ, thiên tử mặc áo tế có mười hai chương. Mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng, sáu thứ này vẽ trên áo, nên gọi là tác hội, để phỏng theo sáu luật dương khí của trời. Tông di, rong, lửa, bột gạo, văn phủ, văn phất, sáu thứ này thêu trên váy, nên gọi là hi tú, để phỏng theo sáu lã âm khí của đất. Đến nhà Chu, mặt trời, mặt trăng, sao được vẽ trên cờ, gọi là tam thần kỳ kỳ. Còn áo miện có chín chương, rồng vẽ trên núi, lửa vẽ trên tông di, nên áo cổn lấy rồng làm đầu, áo tế lấy chim hoa trùng làm đầu, áo thuý lấy tông di làm đầu.

Triều ta quy định y phục, thiên tử mặc áo cổn miện mười hai chương: mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng, lửa, tông di tám chương trên áo; rong, bột gạo, văn phủ, văn phất bốn chương trên váy, thiếu hai chương, trái với văn trong 《Ngu thư》. Từ thời Đông Hán Minh Đế bỏ tục cũ nhà Tần, bắt đầu mặc áo miện lưu y thường, thiên tử có đủ mười hai chương mặt trời, mặt trăng, sao, không có tông di, mà lấy bột gạo làm hai chương, khá hợp với lời Khổng An Quốc. Nhà Tấn theo lệ cũ không đổi, nhà Lương, Tùy, Đường đều vẽ mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng, lửa, tông di trên áo. Rong, bột gạo, văn phủ, văn phất thêu trên váy. Có lẽ các bậc nho đương thời theo lời chú của Trịnh thị về lễ, cho rằng áo miện nhà Chu có chín chương, rồng vẽ trên núi, lửa vẽ trên tông di, nên áo cổn có năm chương, váy có bốn chương, sau này theo chế độ nhà Ngu, Hạ. Đã vẽ lại ba chương mặt trời, mặt trăng, sao trên áo, mà không đưa hai chương lửa, tông di về váy, nên áo có tám chương, váy có bốn chương, không hợp với nghĩa xưa.

Kính xin đổi áo, váy mỗi thứ sáu chương: mặt trời, mặt trăng, sao, rồng, núi, chim hoa trùng, vẽ làm họa. Lửa, tông di, rong, bột gạo, văn phủ, văn phất, thêu làm tú. Lại quy định y phục, cổ áo thêu gấm, dệt hình rồng bay, tấm che gối theo màu váy, thêu hai con rồng bay, cũng không có căn cứ. Nên trên áo cổn phất, thêm cả rồng bay lên và rồng bay xuống. Lại nữa, áo miện xưa đều là áo đen, váy đỏ, nay áo dùng màu xanh thẫm, không có gốc gác, nên đổi lại dùng màu đen, để tượng trưng cho màu trời.” Chiếu rằng chương sắc áo cổn miện vẫn theo chế độ cũ. (Ngày 14 tháng 8 năm thứ 2.) Tám chương trên áo, bốn chương trên váy, nên xét kỹ lại tâu lên.

Do đó, Tường định tâu rằng: “Triều ta quy định y phục, thiên tử mặc áo cổn miện mười hai chương: mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng, lửa, tông di tám chương trên áo; rong, bột gạo, văn phủ, văn phất bốn chương trên váy, trái với văn trong 《Ngu thư》. Nay xin theo văn trong 《Ngu thư》, vẽ sáu chương mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng, chim hoa trùng trên áo, thêu sáu chương tông di, rong, lửa, bột gạo, văn phủ, văn phất[2] trên váy.” Chiếu giao cho Lễ viện.

(Ngày Quý Hợi, mùng 4 tháng 9 năm thứ 3, giao cho Lễ viện.)

[10] Ngày Giáp Tý, ban chiếu rằng: “Các quân ở Tây lộ thiếu ngựa, việc thu góp khó khăn, từ nay đều bãi bỏ. Ngựa thiếu, lệnh cho Ty Mãi mã chi trả bù.”

[11] Ban chiếu cấp cho Ty Trà trường 20 vạn quan tiền, giao cho An phủ sứ Kinh Nguyên lộ mua lương thảo để dự trữ.

[12] Đô đề cử thị dịch ty Vương Cư Khanh tâu: “Phép thị dịch có ba: kết bảo xin nợ, là một; khế ước dùng vàng bạc thế chấp, là hai; buôn bán hàng hóa, là ba. Trong ba phép ấy, chỉ có phép kết bảo xin nợ đã thi hành nhiều năm, nợ đọng càng nhiều. Năm ngoái có chỉ dụ trước hết bãi bỏ việc kết bảo vay tiền mặt, chỉ còn phép xin nợ hàng hóa theo lệ cũ chưa bỏ. Nhưng vẫn sợ lâu ngày sẽ không tiện, vì sao? Những hộ nợ cũ, phần nhiều vượt quá hạn để trốn tránh không trả, vừa tốn công đốc thúc, lại tiếp tục cho những người xin nợ hàng hóa lần nữa, tình thế cũng như vậy. Nợ cũ nợ mới, năm tháng chồng chất, trong đó những khoản hao hụt không thể bù đắp được, chiếm đến bốn năm phần mười. Như vậy thì cũng giống như việc xin nợ tiền mặt, cùng dẫn đến tệ nạn, nên cần giải quyết và thay đổi. Xin từ nay về sau, ty thị dịch cho phép các hộ xin nợ hàng hóa, mỗi năm không quá hai trăm vạn quan, lập sổ riêng để chi thu, chỉ cho các hộ cũ xin nợ, để giúp đỡ các gia đình buôn bán ở kinh thành, định kỳ năm năm, số lãi thu được đã vượt quá số vốn ban đầu, sau đó hoặc dừng hoặc tiếp tục, không cần xin ý kiến triều đình; còn những hộ không phải là hộ cũ xin nợ, thì chỉ dùng hai phép thế chấp và buôn bán, có thể thu hồi hàng hóa tồn đọng, thông suốt tiền của dư thừa. Như vậy, phép tắc hoàn chỉnh, lợi ích lâu dài, mà việc sử dụng không cạn kiệt. Còn tiền lương thực ở các lộ thị dịch, lấy bốn phần làm mức, tạm giữ lại một phần để giúp đỡ các hộ cũ, cũng không thi hành phép cho vay nợ. Nếu được triều đình thi hành, xin trong số tiền lãi thu được mỗi năm giảm bớt vài vạn. Việc khen thưởng các quan giám sát, cũng giảm bậc ban ơn. Tuy lãi suất thu hơi thấp, nhưng thu được đều là lợi thực, mong rằng phép này thi hành không có tệ nạn.”

Chiếu cho Trung thư Hộ phòng lập pháp tâu lên. Sau đó, Hộ phòng xin: “Hàng hóa ở kinh thành cho phép các hộ nợ xin nợ, thu rồi lại phát, tổng số nợ không quá ba trăm vạn quan; hàng hóa thị dịch ở các lộ lấy bốn phần làm mức, cho phép các hộ nợ cũ xin nợ một phần, thu rồi lại phát, tổng số nợ không quá một phần, và lập sổ riêng để chi thu.” Đều theo lời xin.

(Ngày 9 tháng giêng, ngày 19 tháng hai năm thứ hai, cần xét lại.)

[13] Cư Khanh lại tâu: “Việc miễn thuế hàng tháng hoặc hàng quý nộp tiền mặt, quan phủ thuê người thay làm việc dịch, đây là ý định lập pháp của triều đình, muốn khoan hồng cho dân chúng. Tuy nhiên, có danh mà không có thực. Bởi lẽ khi lập pháp ban đầu, đã không phân biệt giàu nghèo, chỉ căn cứ vào nghề nghiệp của người đó để định mức, nộp tiền nặng nhẹ không đồng đều, dù người nghèo nộp ít nhất, nhưng ngày ngày không đủ sống, lấy đâu ra mà nộp cho quan. Việc thúc giục thu thuế, có khi đến mức bắt giam, thật đáng thương xót. Thần xét kỹ nguyên định mức thuế miễn hành[3] tiền ba vạn bốn nghìn tám trăm mân, mỗi năm ngoài mức thường có tăng thêm, nay lấy những người buôn bán nhỏ lẻ như bán sắt vụn, dây thừng, tổng cộng tám nghìn sáu trăm năm mươi bốn người, mỗi tháng nộp từ một trăm đồng trở xuống đến ba đồng hai đồng, tính ra mỗi năm nộp bốn nghìn ba trăm mân. Số tiền họ nộp rất ít, nhưng vẫn thường không đủ. Vì vậy, người nghèo tư không đủ nuôi sống, công không đủ nộp thuế. Xin lấy số tiền tăng thêm ngoài mức để bù vào mức cũ, còn những hộ nghèo thì miễn thuế. Như vậy dân chúng mới thực sự được miễn dịch, đều được hưởng ân huệ của triều đình. Nếu sau này mức cũ bị thiếu hụt, không đủ số tiền đã miễn cho hộ nghèo, thì xin lấy từ tiền lợi nhuận hoặc tiền lãi của bản ty để bù vào. Tuy nhiên, những người nộp dưới một trăm đồng mỗi tháng, trong số đó có người khá giả, xin vẫn theo pháp cũ. Như vậy mới công bằng.”

Triều đình đồng ý, và lệnh thi hành trong đợt ân xá sắp tới.

(Lời tâu của Cư Khanh, bản mới đã bỏ đi.)

[14] Chiếu ban tặng lễ vật sinh thần cho Hạ quốc chủ, sứ giả mang tang phục vào mùa đông, khi đến Hạ quốc, cho phép theo lệ của các quan ở ba vùng biên giới, đều được nghe nhạc. Vì tang phục của Thái hoàng thái hậu chưa hết hạn.

[15] Ngày Bính Dần, Vua ngự điện dùng bữa.

(Hai bộ sử đều chép việc này.)

[16] Chiếu cho Giang Nam Đông Lộ chuyển vận sứ, Thái thường thiếu khanh Tôn Khuê, quyền phát khiển đề điểm hình ngục, Tán thiện đại phu Vương An Thượng, mỗi người bị giáng hai cấp và cách chức. Vì An Thượng và Khuê kiện cáo lẫn nhau không đúng sự thật.

[17] Ngày Đinh Mão, chiếu rằng: Vụ án của dân chúng Trương Thắng ở Kiến Châu, Bộ Hình đến nay hơn một năm chưa xử quyết. Phán Bộ Hình Đỗ Hoành và quan tường đoán Lý Thế Nam, mỗi người bị phạt 10 cân đồng.

[18] Chiếu cho quyền Tam ty sứ Lý Thừa Chi, nguyên phó sứ Hàn Trung Ngạn, phán quan Hoàng Hảo Khiêm, mỗi người bị hoãn xét công trạng hai năm; dân Diêm Khánh bị đánh trượng vào lưng và đày đi Lao thành Quảng Nam. Trước đây, Khánh giả mạo tờ trình của trung sứ Trình Chiêu Cát, nói rằng trong cung giáng chỉ mua đồng của Tam ty để đúc chuông. Tam ty không xét kỹ thật giả, đã nghe theo việc mua, rồi mới tâu lại, nên Thừa Chi và những người khác bị trách phạt. Trước đây, Trung Ngạn quyền phát khiển Hộ bộ phó sứ, từng có chiếu rằng khi mãn nhiệm sẽ bỏ chữ “phát khiển”, cho tái nhiệm. Khi Đại Lý tự điều tra vụ Diêm Khánh chưa xong, Trung thư dâng lên, Vua phê rằng hãy đợi. Sau đó, Trung Ngạn được bổ làm Bảo Văn các đãi chế, tri châu Doanh, cuối cùng vì vụ Khánh mà bị hoãn xét công trạng.

(Trung Ngạn làm đãi chế ở Doanh Châu vào ngày 21 tháng 7, nay phụ chép.)

[19] Ngày Canh Ngọ, lấy Thái tử trung doãn, quán các hiệu khám, giám sát ngự sử lý hành Hà Chính Thần làm Trực tập hiền viện, kiêm Thị ngự sử tri tạp sự. Trung thư dâng lời cáo từ rằng: “Ngươi hãy giữ sự ngay thẳng, đừng khắt khe cũng đừng nhu nhược, khiến cho việc phải trái, tốt xấu không bị bưng bít đến tai trên.” Vua phê: “Nên đổi chữ ‘hà’ thành chữ ‘uổng’.”

[20] Chiếu cho quan tường nghị của Thẩm hình viện Lưu Hạ bị hoãn xét công trạng hai năm; Ôn Hi Đạo, Ứng Thích, Trương Thân mỗi người một năm, Thân lại được bổ nhiệm chức khác; Tào Bình nửa năm; Vương Hi bị bãi lộc. Đều vì Trung thư so sánh trong năm Nguyên Phong thứ hai có việc xử oan người chết mà bị trách phạt đặc biệt.

[21] Tri Gián viện là Thư Thiện tâu: “Quan Kiểm chính Trung thư là Trương Thương Anh gửi thư tay cho thần, và đưa cho thần xem những gì con rể là Vương Duy đã làm. Thần giữ chức ở ngạch gián quan, việc này liên quan đến thỉnh cầu, không dám giấu giếm. Nay xin nộp hai bức thư tay của Thương Anh và một tập sách của Duy.” Chiếu cho Thương Anh bị cách chức Hiệu khám ở Quán các, giáng làm Giám thuế huyện Giang Lăng, phủ Giang Lăng.

[22] Trước đây, Thiện làm Huyện úy, vì tội giết người bị cách chức nhiều năm. Thương Anh khi làm Ngự sử đã tâu rằng tài năng của Thiện có thể dùng được, nên Thiện mới được cải bổ. Đến nay, Thiện lại hãm hại Thương Anh, khiến sĩ luận chê trách.

[23] Thái thường bác sĩ, Tập hiền hiệu lý, quyền tri Hồ Châu Trần Đồng tâu: “Thần thấy Bệ hạ noi theo cổ nhân, tu sửa mọi việc, mà việc thờ cúng ở giao miếu và các thần đều được xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt là việc nghiên cứu điển lễ rất nghiêm cẩn. Chỉ có việc đặt đàn tế Ngũ Nhạc, Tứ Độc chưa được thiết lập. Thần xin dẫn theo chức trách của Tiểu Tông Bá trong 《Chu Lễ》: ‘Đặt đàn tế Ngũ Đế ở bốn phía ngoại thành, đàn tế Tứ Vọng, Tứ Loại cũng như vậy.’ Trịnh thị chú giải Tứ Vọng là Ngũ Nhạc, Tứ Độc. Tứ Loại là Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần. Nay ở bốn phía ngoại thành đã có đàn tế Ngũ Đế và Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần, nhưng riêng đàn tế Tứ Vọng lại chưa xây dựng. Khi triều đình có việc cầu đảo, thì tạm đặt vị trí ở dưới đàn Hoàng Địa Kỳ, điều này rất không phù hợp với cổ chế. Thần xin theo 《Chu Lễ》, xây đàn Tứ Vọng ở bốn phía ngoại thành để tế Ngũ Nhạc, Tứ Trấn, Tứ Độc, như vậy vừa hợp với kinh điển, vừa thể hiện được ý nghĩa phụng thờ của Bệ hạ.”

Chiếu đưa xuống Tường định lễ văn sở. Tường định sở[4] tâu: “Xin theo lệnh tế tự của triều đình, đặt đàn Tứ Vọng ở bốn phía ngoại thành để tế Ngũ Nhạc, Tứ Trấn, Tứ Hải, Tứ Độc. Đàn tế Đại Sơn, Nghi Sơn, Đông Hải, Đại Hoài ở phía đông; đàn tế Hoành Sơn, Hội Kê Sơn, Nam Hải, Đại Giang, Tung Sơn, Hoắc Sơn ở phía nam; đàn tế Hoa Sơn, Ngô Sơn, Tây Hải, Đại Hà ở phía tây; đàn tế Thường Sơn, Y Vu Lư Sơn, Bắc Hải, Đại Tế ở phía bắc. Mỗi phương, Ngũ Nhạc và Tứ Trấn cùng chung một đàn, Tứ Hải và Tứ Độc cùng chung một hố. Vào ngày Nghênh Khí của năm mùa, đều dùng huyết tế và chôn xuống đất. Khi có việc thì cầu đảo. Lại đặt các núi sông ở bốn phương phụ thuộc dưới Ngũ Nhạc, Tứ Trấn, Tứ Hải, Tứ Độc của phương đó, riêng làm một đàn và một hố. Núi chung một đàn, sông chung một hố, khi có hạn hán thì cầu đảo. Việc tế tự ở phía bắc và các châu huyện vẫn như cũ.” Chiếu rằng bốn phương Ngũ Nhạc, Tứ Trấn cùng chung một đàn để tế, còn lại theo lời tâu.

(Ngày Canh Ngọ, 11 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 3, theo lời tâu.)

[24] Ngày Nhâm Thân, lấy Hữu chánh ngôn, Trực Long đồ các Triệu Tế làm Hữu ty gián, vẫn thăng một bậc; cho con của cố Dẫn tiến sứ Vương Quân Vạn được thăng một chức; Giá bộ viên ngoại lang Hoắc Tường làm Chủ khách lang trung; Nội phó đô tri Lý Hiến được ban một khu vườn ở phía bắc thành; Quyền phát khiển Vĩnh Hưng quân lộ Đề điểm hình ngục Diệp Khang Trực được giảm hai năm khảo khóa. Tất cả đều do Kinh chế Hi Hà biên tài dụng ty tâu về công lao thu thuế lợi.

[25] Ngày Quý Dậu, vì Tri đồng châu, Hữu gián nghị đại phu, Tập hiền điện tu soạn Trương Cảnh Hiến từng tiến cử Tri Tương Thành huyện Ư Thạch, phạm tội tham ô. Hình bộ tâu rằng Cảnh Hiến phải chịu tội đồ hai năm, bị cách chức. Trung thư nói Cảnh Hiến nên theo lệ của Lưu Tường, bị truất một chức, miễn cách chức, điều đến một quận nhỏ, vì là quan hai tỉnh nên phải trình lên xin chỉ dụ. Vua phê: “Có thể theo lệ của Tường.” Bèn giáng một chức, làm Tri Phòng châu. Tri Bảo châu, Tây thượng các môn sứ, Gia châu đoàn luyện sứ Trương Lợi Nhất cũng vì tiến cử Thạch, phải chịu tội đồ hai năm, bị truất một chức đoàn luyện sứ, miễn cách chức, nhưng phải thay người. Xu mật sứ nói Lợi Nhất giữ chức vụ ở biên giới quan trọng, xin chỉ dụ. Vua phê: “Theo án miễn thay người và cách chức, cho gia hạn một kỳ để xét lại.”

(Tháng 5, ngày Ất Hợi, Ư Thạch bị tước danh hiệu.)

[26] Ngày Ất Hợi, Tri gián viện Thư Thiện tâu: “Gần đây, Khai Phong phủ giới Đề cử quan Trần Hướng bàn việc nuôi ngựa ở Xu mật viện, Tri xu mật viện Tiết Hướng và các quan khác bàn luận ồn ào, trong ngoài đều đồn đại. Thần nghĩ rằng phép nuôi ngựa là do viện này ban hành, lợi hại ra sao, Hướng và các quan đã từng bàn. Nếu cho là tiện, nên tự mình thi hành trước, khiến người khác noi theo. Sao lại khởi xướng lời đồn nhảm, làm dao động dân tình? Nếu không phải vậy, thì lúc bàn phép mới nên có kiến nghị, không nên đến bây giờ mới gây ra chuyện này. Đại thần mưu việc nước như thế, ắt có ý gì, xin cho Trần Hướng trình bày rõ lời của Hướng và các quan để xử lý.” Vua xuống chiếu cho Trần Hướng trình bày rõ.

(Tư Mã Quang ghi chép việc của Trần Hướng, chú thích khi Tiết Hướng bị bãi chức Xu mật. Hướng bị bãi chức vào ngày 27 tháng này, ngày Bính Tuất, sau đó 11 ngày.)

[27] Cơ quan Tường định quan chế dâng lên quy chế mới về việc thay thế chức quan bằng phẩm hàm để hưởng bổng lộc: “Chức Trung thư lệnh, Thị trung, Đồng bình chương sự đổi thành Khai phủ nghi đồng tam ty; chức Tả, Hữu bộc xạ đổi thành Đặc tiến; chức Lại bộ thượng thư đổi thành Kim tử quang lộc đại phu; chức Ngũ tào thượng thư đổi thành Ngân thanh quang lộc đại phu; chức Tả, Hữu thừa đổi thành Quang lộc đại phu; chức Lục tào thị lang đổi thành Chính nghị đại phu; chức Cấp sự trung đổi thành Thông nghị đại phu; chức Tả, Hữu gián nghị đổi thành Thái trung đại phu; chức Bí thư giám đổi thành Trung đại phu; chức Quang lộc khanh đến Thiếu phủ giám đổi thành Trung tán đại phu; chức Thái thường đến Ty nông thiếu khanh đổi thành Triều nghị đại phu; chức Lục tào lang trung đổi thành Triều thỉnh, Triều tán, Triều phụng đại phu, gồm ba bậc; chức Viên ngoại lang đổi thành Triều thỉnh, Triều tán, Triều phụng lang, gồm ba bậc; chức Khởi cư xá nhân đổi thành Triều tán lang; chức Ty gián đổi thành Triều phụng lang; chức Chánh ngôn, Thái thường, Quốc tử bác sĩ đổi thành Thừa nghị lang; chức Thái thường, Bí thư, Điện trung thừa đổi thành Phụng nghị lang; chức Thái tử trung doãn, Tán thiện đại phu, Trung xá, Tẩy mã đổi thành Thông trực lang; chức Trứ tác tá lang, Đại Lý tự thừa đổi thành Tuyên đức lang; chức Quang lộc, Vệ úy, Tướng tác giám thừa đổi thành Tuyên nghị lang; chức Đại Lý bình sự đổi thành Thừa sự lang; chức Thái thường tự thái chúc, Phụng lễ lang đổi thành Thừa phụng lang; chức Bí thư tỉnh hiệu thư lang, Chính tự, Tướng tác giám chủ bạ đổi thành Thừa vụ lang.”

[28] Lại nói: “Từ Khai phủ nghi đồng tam ty đến Thông nghị đại phu trở lên không có pháp khảo xét, từ Thái trung đại phu đến Thừa vụ lang thì phải khảo xét. Chức Đãi chế trở lên, sáu năm thăng hai bậc, đến Thái trung đại phu thì dừng. Thừa vụ lang trở lên, bốn năm thăng một bậc, đến Triều thỉnh đại phu thì dừng, đợi khi Triều nghị đại phu có khuyết thì bổ sung, Triều nghị đại phu lấy 70 người làm định ngạch. Việc khảo xét quan lại tuyển dụng đều theo pháp của Lại bộ, thăng làm quan triều đình thì theo quy định mới hiện nay. Lệnh về bổng lộc đều lấy số cũ của chức sự quan cùng bổng lộc so sánh với quy định mới hiện nay để định.” Đều theo đó.

(Ngày 16 tháng 12, cần xét lại. 《Tân kỷ》 chép ngày Ất Hợi chính thức định lại tên quan, lấy Thị trung, Trung thư lệnh, Đồng bình chương sự làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Tả, Hữu bộc xạ làm Đặc tiến, từ Lại bộ Thượng thư đến Tướng tác giám Chủ bạ làm Ký lộc quan, từ Kiểm hiệu Bộc xạ trở xuống cùng các hàm giai, tán, hiến đều bãi bỏ. 《Cựu kỷ》 chỉ chép ban bố lấy giai thay quan làm Ký lộc cách. 《Tuyển cử chí》, năm Nguyên Phong thứ 3 tu định quan chế, từ Khai phủ nghi đồng tam ty đến Thông nghị đại phu không có pháp khảo xét, từ Thái trung đại phu đến Thừa vụ lang thì phải khảo xét, chức Đãi chế trở lên, sáu năm thăng hai bậc, đến Thái trung đại phu thì dừng; Thừa vụ lang trở lên, bốn năm thăng một bậc, đến Triều thỉnh đại phu thì dừng; qua Trung tán đại phu, thì bảy năm mới thăng; Triều nghị đại phu lấy 70 người làm định ngạch, có khuyết thì bổ sung theo thứ tự. Lại chiếu rằng những người được thăng quan trừ bổ đều lấy Ký lộc. Từ khi thi hành quan chế, lấy Thiếu khanh giám cũ làm Triều tán đại phu, các Khanh giám làm Trung tán đại phu, Bí thư giám làm Trung đại phu. Theo lệ cũ, hai chế không chuyển làm quan Khanh giám, Tiền hành Lang trung thì siêu chuyển làm Gián nghị đại phu. Tiền hành Lang trung theo giai quan là Triều thỉnh đại phu, Gián nghị đại phu theo giai quan là Thái trung đại phu. Vua cho rằng khảo xét là pháp khảo công xưa, dùng chung với trăm quan, mà riêng cận thần được siêu chuyển, là trái phép. Bèn hạ chiếu: Từ Đãi chế trở xuống đều ba năm thăng một lần, lại chuyển làm Triều nghị đại phu, Trung tán đại phu, Trung đại phu ba chức, để chính danh, thực chất là ngăn chặn sự may rủi. Chiếu ban ngày 6 tháng 12.)

[29] Ngày Bính Tý, ban chiếu: “Khai phủ nghi đồng tam ty làm sứ tướng, không ghi vào đại sắc hàm. Các tể tướng, sứ tướng đương nhiệm, thực ấp và thực phong tổng cộng đến một vạn hộ; các tể tướng tiền nhiệm, thực ấp đến một vạn hộ, đều được phong làm quốc công. Tông thất theo lệ cũ.” Lại ban chiếu: “Các thần liêu được gia ân, đều theo lệ cũ. Những người đã được phong huân đến Thượng trụ quốc thì được gia thêm thực ấp và thực phong; các chức cấp, gián, đãi chế được phép gia thêm thực phong; các chức tỉnh phó, tri tạp được phép gia thêm huân; những người đã được phong huân đến Thượng trụ quốc, từ nay về sau khi gia thêm thực ấp, số thực ấp giảm bớt, giao cho bản phòng Trung thư lập pháp.” Bản phòng tâu: “Từ trước đến nay, trong các đại lễ, việc gia phong công thần, giai, huân, thực ấp và thực phong có năm bậc. Nay đã bãi bỏ công thần và dùng giai để thay thế quan chức, chỉ còn lại huân, thực ấp và thực phong, tổng cộng ba bậc. Những người đã được phong huân đến Thượng trụ quốc, thực ấp vẫn theo lệ cũ, từ ba trăm, bốn trăm, năm trăm, bảy trăm đến một nghìn hộ; thực phong từ một trăm, hai trăm, ba trăm đến bốn trăm hộ. Xin được giảm bớt một bậc so với điều lệ cũ để gia phong, như thực ấp hợp lệ gia thêm một nghìn hộ[5], thì chỉ gia thêm bảy trăm hộ. Thực phong cũng theo tỷ lệ này, tức là thực phong một trăm hộ và thực ấp ban đầu ba trăm hộ vẫn không giảm. Xin được ban hành trước, đợi khi hoàn thành sách sẽ sửa đổi riêng[6].” Được chấp thuận.

[30] Trung thư tâu: “Gần đây có chỉ dụ triều đình, các quan ở Quán các, Đài gián, Lưỡng tỉnh, Lưỡng chế không bị ràng buộc bởi quy chế thông thường, mỗi người tiến cử Giáo thụ, không phân biệt đang tại chức hay không, cho cấp giấy dịch trạm, và đi ngựa trạm về kinh, sai quan ở Bí các thi ba đề kinh nghĩa. Nay chỉ dụ trên thuộc về các quy định học chế đang được tu chỉnh ở các lộ. Xin không đợi học chế ban hành, trước hết tập hợp những người do triều đình yêu cầu và các quan tiến cử, cùng các học quan vừa mãn nhiệm, đợi khi đủ mười người trở lên, thì lệnh cho Quốc tử giám chủ phán tổ chức thi, các việc liên quan đều áp dụng theo điều lệ thi cử.” Được chấp thuận.

[31] Lại tâu: “Theo tờ trình của Quan cáo viện, các chức Đô tri, Áp ban, Trưởng hành ở các ban trực, các chức Sứ, Phó ở các quân, Đô binh mã sứ, Đô đầu, Phó đô đầu, nếu chưa từng được gia ân, khi gặp đại lễ, được thụ chức Ngân thanh quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Quốc tử tế tửu, kiêm Giám sát ngự sử Vũ kị úy. Vì hiện nay các quan ở Đài, Tỉnh, Tự, Giám đều đổi sang dùng phẩm trật, nên chức Ngân thanh quang lộc đại phu là phẩm trật, còn Quốc tử tế tửu, Giám sát ngự sử là chức sự quan, đều không hợp dùng để gia ân. Nay ở Minh đường, những người thuộc loại này chưa được gia ân, xin đều gia thêm Vũ kị úy, xin gửi Quan cáo viện chiếu theo thi hành.” Được chấp thuận.

[32] Lại tâu: “Theo chỉ dụ của triều đình, ngoại trừ Tam công, Tam sư, các chức kiểm hiệu quan và tán giai đều bị bãi bỏ. Tất cả tông thất và võ quan chính nhiệm từ Nội thường thị trở lên, nội thần từ Cung phụng quan trở xuống, tuyển nhân, kỹ thuật quan, tướng hiệu, chủ sự của Trung thư, Xu mật viện trở xuống, cùng các lại nhân của các ty được thụ chức lưu quan, nha hiệu[7], đều có mang các tán giai, kiểm hiệu quan và hiến hàm, xin đều bãi bỏ. Các tăng quan và người man ở Khê Động làm Tri châu, Tri trấn cùng các quan ngoại phiên, đều mang các tán giai, xin để triều đình quyết định.” Được chấp thuận. Sau đó, ban chiếu bãi bỏ tất cả các tán giai văn võ, ngoại trừ người ngoại phiên vẫn được giữ nguyên.

(Người ngoại phiên vẫn giữ tán giai, vào ngày Mậu Thân, 26 tháng giêng năm thứ 5, nay ghi chung lại.)

[33] Nguyên Châu tâu: “Xin hạ lệnh cho Hồ Nam bí mật chuẩn bị, đợi khi châu này xây xong các trại Thác Khẩu, thì cùng lúc xây dựng trại Quán Bảo ở Cổ Thành Châu.” Chiếu lệnh cho Kiềm hạt ty Hồ Nam[8] và Nguyên Châu, theo chỉ dụ gần đây, xác định các nơi cần xây thành trại, tùy nghi xây dựng. Các người như Dương Thịnh Kiên ở Cổ Thành Châu, theo lệnh của Sát phỏng ty, được cắt về Hồ Bắc Lộ.

[34] Tường định lễ văn sở tâu: “Theo nghi thức Nam Giao, Thượng y khố cung cấp phất trạch, Nội thị tỉnh cử hai viên nội thị cầm. Họ mặc công phục, đi giày, mỗi khi ở Đại Khánh điện, Cảnh Linh cung, Thái miếu, Nam Giao, từ đại thứ đến tiểu thứ, đều dùng để dẫn đường. Nguồn gốc của việc này là từ cung đình nhà Hán thời Càn Hữu, chế độ này không hợp lễ, xin bãi bỏ.” Được chấp thuận.

(Lễ văn năm thứ nhất, ngày 17 tháng 9 theo tấu, ngày 17 là ngày Bính Tý.)

[35] Ngày Mậu Dần, trai giới ở Văn Đức điện, bách quan trai giới ở Minh đường.

[36] Ngày Kỷ Mão, tiến hưởng ở Cảnh Linh cung, trai giới ở Thái miếu.

[37] Ngày Canh Thìn, triều đình làm lễ tế ở tám nhà thờ, ăn chay ở điện Văn Đức.

[38] Ngày Tân Tỵ, làm lễ đại tế ở Minh Đường, (theo 《Cương yếu》 thì dùng Anh Tông để phối hưởng.) ngự ở điện Tử Thần, các quan chúc mừng, ngự ở cửa Tuyên Đức. Đại xá, tha cho dân những khoản thuế hai năm trước, thuế miễn dịch, tiền lãi thường bình và những người ở kinh đô nộp dưới một trăm đồng tiền miễn hàng tháng, đều được miễn trừ.

[39] Ngày Quý Mùi, Thượng thư Lễ bộ Thị lang, Bình chương sự Vương Khuê đổi làm Chính nghị đại phu, Hữu Gián nghị đại phu, Tham tri chính sự Chương Đôn, Thái Xác đều đổi làm Thái trung đại phu. Công bộ Thị lang, Đồng tri Xu mật viện Tiết Hướng đổi làm Chính nghị đại phu, Hữu Gián nghị đại phu, Đồng tri Xu mật viện Tôn Cố đổi làm Thái trung đại phu, cùng làm Xu mật phó sứ.

[40] Ngày Ất Dậu, ra chiếu chỉ xây mười một điện ở cung Cảnh Linh, dùng lễ vương thời đó để tế tổ tiên.

(Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều ghi như vậy, 《Hội yếu》 có chỗ cần bỏ bớt và thêm vào.)

[41] Sai Câu đương Ngự y viện Đậu Sĩ Tuyên đến Bắc Kinh, Câu đương Nội đông môn ty Diêm An đến châu Thiền để sắp xếp, kiểm tra, niêm phong các vật dụng quân khí của hai quân Cửu quân, tường trình xem có đúng mẫu hay không và có thể dùng được hay không. Lại hạ lệnh cho Quân khí giám cấp mẫu cũ.

[42] Quan văn điện Đại học sĩ, Tập hi quan sứ, Tả bộc xạ, Thư quốc công Vương An Thạch được phong làm Đặc tiến, cải phong làm Kinh quốc công. Tuyên huy Nam viện sứ, Kiểm hiệu Thái úy, Tây Thái nhất cung sứ Vương Củng Thần bị bãi chức Khai phủ nghi đồng tam tư. Đều là do việc thực hiện chính danh theo quan chế mới. Chiếu cho Củng Thần làm Phán Đại danh phủ, Củng Thần từ chối nói: “Thần đã già, không đủ sức đảm đương việc lớn.” Vua nói: “Cửa Bắc là nơi trọng yếu, khanh từng trị nhậm ở đó, hãy cố gắng vì Trẫm mà đi.”

(Lưu Chí viết hành trạng của Củng Thần có ghi: Lúc đó ba lộ bắt dân làm bảo giáp, hộ hạ đều không được miễn, ngày ngày tập hợp huấn luyện. Các quan đề cử ra lệnh cấm nghiêm ngặt, bảo giáp ở Hà Bắc thường làm giặc cướp, từng đám hàng trăm người, châu huyện không dám tâu lên. Củng Thần hết sức bàn về tệ hại, nói rằng không chỉ làm khốn đốn tài lực, hại đến nông tang, mà còn khiến họ trở thành kẻ bất lương, là do pháp luật ép buộc. Sợ rằng lâu dần sẽ thành đại tặc, rất đáng lo, mong miễn giảm cho hộ hạ. Bấy giờ người chủ trương chỉ trích Củng Thần ngăn trở pháp luật, có ý kiến khác, Củng Thần nói: “Đây là cách lão thần báo đáp quốc gia.” Tấu chương dâng lên nhiều lần, thiên tử mới tỉnh ngộ về việc bảo giáp làm giặc. Xét ngày 18 tháng 2 năm nay, lệnh cho các lộ hộ có tài lực ở phường quách nuôi ngựa, có lẽ là do Củng Thần đề xuất, nhưng Chí không ghi, chỉ ghi việc Củng Thần bàn về bảo giáp làm giặc, không rõ có đúng như vậy không. Bản truyện chỉ nói, ba lộ lúc đầu bắt dân làm binh, Củng Thần xin miễn giảm cho hộ hạ. Cũng không như Chí đã ghi. Nên tra cứu thêm. Việc miễn giảm hộ hạ xảy ra vào ngày 12 tháng 2 năm thứ 7.)

[43] Tri Hà Nam phủ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Cấp sự trung Vương Đào được phong làm Chính nghị đại phu, Quan văn điện học sĩ, Tri Nhữ châu. Đoan minh điện học sĩ, kiêm Hàn lâm Thị độc học sĩ, Long đồ các học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Hàn Duy, Bảo văn các học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, kiêm Thị độc Trần Tiến đều được phong làm Thông nghị đại phu, Tư chính điện học sĩ. Xu mật Trực học sĩ, Binh bộ Lang trung Tôn Vĩnh được phong làm Thái trung đại phu, Đoan minh điện học sĩ. Đào và những người khác vốn là cựu thần của Đông cung, nhân dịp đổi quan chế nên được đặc cách thăng chức.

[44] Bãi bỏ việc bàn luận và tu sửa nhạc cụ. Phạm Trấn được ban chiếu khen ngợi, ban thưởng 100 lạng bạc và 100 tấm lụa, Dương Kiệt được 50 lạng bạc và 50 tấm lụa, Lưu Kỷ[9] được đặc ân dùng ân điển của Minh Đường, cho phép tiến cử một người con hoặc cháu. Khi Phạm Trấn mới được triệu kiến, đã tâu với Vua rằng: “Định nhạc trước hết phải chỉnh đốn luật lệ.” Vua nói: “Đúng vậy, dù có tài thính âm như Sư Khoáng, nếu không dùng sáu luật thì không thể chỉnh đúng năm âm.” Phạm Trấn soạn ra luật, thước, dược, hợp, thăng, đậu, khu, phủ, hộc, muốn dâng lên biểu đồ, lại xin tìm kiếm loại kê thật để định ra Hoàng Chung. Còn Lưu Kỷ thì dùng nhạc của Lý Chiếu thêm bốn thanh thanh, rồi tấu nhạc thành công. Đến lúc này, Phạm Trấn tạ ơn nói: “Đây là nhạc của Lưu Kỷ, thần có liên quan gì đâu.”

(Ngày Canh Tý tháng 6, lần đầu triệu Phạm Trấn.)

[45] Ngày Bính Tuất, Chính nghị đại phu, Bình chương sự, Tập Hiền điện Đại học sĩ Vương Khuê được phong làm Ngân Thanh Quang Lộc đại phu, kiêm Môn hạ Thị lang, Bình chương sự, kiêm Tu quốc sử.

(Cả 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép Vương Khuê giám tu quốc sử.)

[46] Thái Ninh, Trấn Hải đẳng quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái uý, Đồng bình chương sự Kỳ vương Hạo được giữ chức Tư không, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, vẫn giữ chức Thái Ninh, Trấn Hải đẳng quân Tiết độ sứ, tiến phong làm Ung vương.

(Cả hai bộ sử đều chép.)

[47] Bảo Tín, Bảo Tĩnh đẳng quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái uý, Đồng bình chương sự Gia vương Quần được giữ chức Tư không, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, vẫn giữ chức Bảo Tín, Bảo Tĩnh đẳng quân Tiết độ sứ, tiến phong làm Tào vương.

(Cả hai bộ sử đều chép.)

[48] Hà Đông Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái sư, Thủ Tư đồ, kiêm Thị trung, Phán Đại Danh phủ, Lộ quốc công Văn Ngạn Bác được giữ chức Thái uý, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, vẫn giữ chức Hà Đông Tiết độ sứ, Phán Hà Nam phủ.

(Cả hai bộ sử đều chép.)

[49] Cảnh Linh cung sứ, Hộ Quốc quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái sư, Thủ Tư đồ, kiêm Trung thư lệnh, Hà Trung doãn, Kim Hương quận công Tào Dật, (hai bản kỷ đều chép Dật là quận vương.) Trấn Nam quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Tư không, Đồng bình chương sự, Dự Chương quận vương Tông Ngạc, Hoài Khang quân Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Bộc Dương quận vương Tông Huy, Sùng Tín quân Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Phán Đại tông chính sự, Thiên Thủy quận công Tông Đán, đều được phong làm Khai phủ Nghi đồng tam ty. Dật được phong Tế Dương quận vương, Tông Đán được phong Hoa Âm quận vương. Vua muốn ban ơn hậu hĩ cho nhà Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, nên đặc biệt phong cho Dật, bảo Hàn lâm học sĩ Lý Thanh Thần rằng: “Dật là người khác họ mà được phong vương, không phải lệ thường, khanh hãy thay Trẫm nói rõ ý này.”

(Bản kỷ mới chép Tông Đán, bản kỷ cũ không chép.)

[50] Vũ Ninh quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái sư, Thủ Tư không, Đồng bình chương sự trí sĩ, Hàn Quốc công Phú Bật được giữ nguyên Kiểm hiệu Thái sư, Thủ Tư không, Khai phủ Nghi đồng tam ty, Thông nghị đại phu, Tri Xu mật viện Phùng Kinh được thăng làm Chính nghị đại phu, Xu mật sứ, đều được tăng thêm thực ấp thực phong. Theo lệ cũ, trong đại lễ, chỉ có tể thần trở xuống được ban ơn. Đến đây, do cải cách quan chế, Khuê, Hạo, Quần, Ngạn Bác, Kinh được đặc cách thăng chức để ban ơn.

(Bản kỷ mới chép Kinh làm Xu mật sứ, bản kỷ cũ không chép.)

[51] Thiên Bình quân Tiết độ sứ, Quân Quốc công Dung, Vũ Ninh quân Tiết độ sứ Thừa Dụ, Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ, Ninh Viễn quân Tiết độ sứ Dương Toại, Kiến Hùng quân Tiết độ sứ Hàn Giáng, đều được tăng thêm thực ấp thực phong. Hàn lâm học sĩ trở xuống, các quan thị tòng, nội ngoại lưỡng chế, đều được đổi sang tân giai và ban ơn.

[52] Tương Châu Quan sát sứ, Đồng tri Đại tông chính Tông Huệ được làm Vũ Xương quân Lưu hậu.

[53] Chính Nghị đại phu, Đồng tri Xu mật viện Tiết Hướng giữ chức Tri Dĩnh châu. Vì Trần Hướng đã trình bày chi tiết việc nuôi ngựa, nhưng Vua phê rằng: “Hướng bàn việc trái ngược, không có phong cách của bậc đại thần”, nên bị cách chức. Ban đầu, khi còn ở ngoài, Hướng có kế sách biên cương tinh tế, việc cung cấp lương thực được xử lý chu đáo, khi vào triều bàn việc quân sự đều là những điều Vua muốn nghe, nên được giao nhiệm vụ chấp chính, và Vua muốn cùng bàn việc Tây Bắc. Nhưng khi ở trong triều đình, Hướng chỉ chú trọng giữ thế trọng và nuôi dưỡng uy quyền, không chủ động đề xuất gì, không như Vua mong đợi. Cuối cùng, Hướng nhận ra dân chúng không thuận lợi với lệnh nuôi ngựa, bàn định muốn thay đổi, các sĩ đại phu đều cho rằng ý kiến của Hướng không sai. Nhưng khi xảy ra tranh cãi với quan đề cử, Vua mới nhận ra Hướng không trung thực, nên cách chức.

(Theo bản chép tay truyện về Hướng, bản in đỏ ghi rằng đã bị xóa sau khi tra hỏi. Bản mới lại giữ lại, nay theo bản mới, ghi thêm lúc Hướng bị cách chức. 《Tư Mã ký văn》 chép: Đề điểm Khai Phong phủ giới Trần Hướng đề nghị dân có tài sản từ ba nghìn quan trở lên phải nuôi một con ngựa chiến, dân chúng rất khổ cực. Tiết Sư Chính lúc đó là Xu mật phó sứ, ban đầu không có ý kiến gì, nhưng khi việc đã thi hành, Hướng đến Xu mật viện trình bày, Sư Chính muốn áp đảo ý kiến của mọi người, tranh cãi rất gay gắt. Hướng tức giận, báo cho gián quan Thư Đản hặc tấu rằng: “Sư Chính là đại thần, việc gì không thể nói thẳng mà lại lén lút phỉ báng để trộm danh”, vì thế bị cách chức làm Chính Nghị đại phu, Tri Dĩnh châu. Gián quan lại tâu rằng: “Sau khi bị cách chức, không đóng cửa tự xét lỗi, mà khách khứa tụ tập trước cửa, mỗi ngày hàng trăm người, trước mặt khách có lời oán giận”, nên đổi làm Tri Tùy châu. Hàn lâm học sĩ, Ngự sử trung thừa Lý Định vì không hặc tấu, bị giáng một chức, làm Tri Hà Dương. 《Cựu kỷ》 chép Tiết Hướng bàn việc trái ngược, bị cách chức làm Tri Tùy châu. 《Tân kỷ》 chỉ chép Hướng bị cách chức.)

[54] Chiếu rằng những người từng giữ chức Hàn lâm học sĩ, trừ Tư chính điện học sĩ trở lên, không được kiêm thêm chức học sĩ khác.

[55] Tri châu Nguyên là Tạ Lân tâu: “Cổ Thành châu cùng các nơi Tiểu Do, Tứ Kỳ, Trúc Than, Đại Do[10], Thác Khẩu, các hộ người dân ở các động đã quy thuận, thần tiếp tục chiêu dụ chín nha hai mươi ba châu, Địa Lâm mười ba châu, theo lệ tâu bổ danh mục, giữ gìn biên giới. Lại chiêu nạp các thủ lĩnh ở Tường châu, tổng cộng hơn bảy nghìn hộ, xin thêm xây dựng các thành, trại, đồn, phố dọc biên giới, cùng điều quân đồn trú để vỗ về dân chúng, nhập vào hộ tịch thành dân của triều đình.” Được chấp thuận.

[56] Ngày Đinh Hợi, lấy Hộ bộ Thị lang, Đồng tri Xu mật viện sự Lữ Công Trứ làm Chính nghị đại phu, Xu mật phó sứ. (Tiết Hướng, Tôn Cố ngày 24 được đổi làm Xu mật phó sứ, Phùng Kinh ngày 27 được đổi làm Xu mật sứ, Công Trứ ngày 28 được đổi làm Xu mật phó sứ, thứ tự trước sau khác nhau, cần xem xét. 《Xu mật viện thời chính ký》 ghi Công Trứ đổi làm Xu mật phó sứ vào ngày mùng một tháng nhuận 9. 《Tân kỷ》 ghi ngày Đinh Hợi Công Trứ làm Xu mật phó sứ, 《Cựu kỷ》 không ghi.) Công Trứ cùng Phùng Kinh, Tiết Hướng, Tôn Cố cùng giữ chức ở Tây phủ, ba người kia thường tranh luận trước mặt Vua, chỉ có Công Trứ không nói. Sau đó Vua hỏi, Công Trứ mới từ từ phân tích đúng sai, lời lẽ ngắn gọn mà đúng ý, Vua thường nghe theo, ba người kia cũng không thể phản đối. Khi ra ngoài thì chưa từng nói với ai, bên ngoài đều chê Công Trứ nhu nhược, không xứng với kỳ vọng của mọi người, Công Trứ cũng không biện bạch. Có đồng liêu vì ông mà biện giải. Vua thường bàn việc thiên hạ với các phụ thần, một hôm, bảo Công Trứ rằng: “Dân gian không còn biết đến lao dịch nữa.” Công Trứ đáp: “Đúng vậy. Hộ giàu trước kia vì lao dịch nhiều mà tan cửa nát nhà, nay được no ấm yên ổn, thật là may mắn. Hộ nghèo trước kia không phải chịu lao dịch, nay phải đóng tiền, thì khổ sở.” Vua nói: “Vậy thì pháp luật cũng nên thay đổi.”

(Hai việc này căn cứ theo 《Tư mã ký văn》, nay phụ chép vào.)

[57] Chiếu cho Đô đại đề cử ứ điền và quan trang thuộc về Tư nông tự. Lại chiếu cải chức Tri ngoại đô thủy thừa Nam Bắc ty công sự thành Tri Nam Bắc ngoại đô thủy thừa, Nam Bắc ngoại đô thủy thừa vẫn đặt cơ quan tại Thiền Châu như cũ.

[58] Mệnh cho Quyền phát khiển Độ chi phó sứ Kiển Chu Phụ xem xét việc bán muối ở Giang Tây và Quảng Đông.

(Việc bán muối ở Giang, Quảng là do Giáp Thiện đề xuất. Sách cũ ghi vào ngày Mậu Tý tháng 12 năm thứ 6, sách mới ghi vào ngày Kỷ Dậu tháng 9 năm thứ 7. Ngày Nhâm Thìn tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, cùng với cuối tháng có tấu chương của Lã Đào, nên tham khảo thêm để bổ sung, việc này vào ngày mùng 1 tháng 3 năm thứ 4, Chu Phụ dâng lên hai pháp về Quảng Đông và Giang Tây.)

[59] Ngày Mậu Tý, chiếu cho cựu Quyền Hà Bắc Đông lộ Chuyển vận phó sứ Trần Tri Kiệm và Quyền phát khiển Hà Đông lộ Chuyển vận phán quan Hoàng Sân mỗi người bị giáng một chức, phạt 10 cân đồng, và bị thay thế. Đều do tội không tiến cử người tài.

[60] Gia Vương Quần tấu xin cho vợ là Vương Khắc Phục, người chú họ xa, được bố trí vào chức văn. Chiếu cho rằng Khắc Phục là người thân không có tang phục, nên không cho phép.

[61] Kinh lược ty Hi Hà lộ tâu xin trước hết hãy tổ chức lại các phiên cung tiễn thủ, được chấp thuận. Năm đó có chiếu: “Tất cả cung tiễn thủ, binh kỵ đều lấy 50 người làm một đội, đặt các chức dẫn chiến kỳ đầu, tả hữu khiểm kỳ, và lấy các phiên thủ, tướng hiệu bản thuộc làm ủng đội, đều theo phép quân chính. Phiên tróc sinh, phiên cảm dũng, sơn hà hộ cũng như vậy. (50 người làm một đội, ngày 6 tháng 5 năm Hi Ninh thứ 9, bảo giáp cũng như thế.) Tất cả việc chiêu mộ cung tiễn thủ, phiên tróc sinh, cường nhân, sơn hà hộ, không phân biệt đẳng cấp, chỉ cần có người bảo lãnh, tuổi từ 17 trở lên, bắn cung được 7 đấu, có sức mang vác. Phu Diên lộ các phiên tróc sinh mới và cũ, Hoàn Khánh lộ cường nhân, các lộ Hán cung tiễn thủ, Phu Diên lộ quy minh giới bảo nghị phiên hộ, cung tiễn thủ đều xăm lưng.”

(Theo 《Binh chí》 quyển 3, đều thuộc năm Nguyên Phong thứ 3. Nay phụ vào cuối tháng 9, việc Hi Hà tổ chức lại phiên cung tiễn thủ, cần xem xét lại ngày tháng cụ thể.)


  1. 'quan' nguyên văn là 'Khai', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 chức quan 3-54 sửa lại
  2. Văn phủ, văn phất nguyên bản thiếu, theo bản các bổ.
  3. Nguyên định mức thuế miễn hành: Theo chế độ nhà Tống, thuế trà, muối, rượu đều có mức định sẵn, gọi là tổ ngạch, căn cứ vào tình hình thu thuế, định kỳ so sánh, tiến hành thưởng phạt, xem 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-7, 《Thông khảo》 quyển 16, phần Chinh giác khảo dẫn lời Trần thị của Chỉ Trai, ở đây căn cứ vào đoạn sau nói 'ngoài mức', 'mức cũ', nghi ngờ chữ 'tô' là sai, đúng ra là 'tổ'.
  4. chữ 'sở' nguyên bản thiếu, theo bản trong các bản khác bổ sung.
  5. Như thực ấp hợp gia thiên hộ 'hợp' nguyên tác 'lệnh', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 80 Cải quan chế sửa.
  6. Hậu thành thư nhật biệt san định 'San' nguyên tác 'phó', theo sách trên sửa.
  7. Các lại nhân của các ty được thụ chức lưu quan, nha hiệu, chữ 'Cập' nguyên là 'Nãi', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 56-3 sửa lại.
  8. Chữ 'Kiềm' nguyên là 'Cán', theo bản các sửa lại.
  9. Chữ 'Kỷ' trong 'Lưu Kỷ' nguyên bản viết là 'Kỷ', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 128, chí về nhạc sửa lại.
  10. 'Do' trong 'Đại Do' nguyên bản viết là 'Điền'. Xét: Châu Nguyên thời Tống có các trại Đại Do, Trúc Than, xem 《Tống sử》 quyển 88, chí Địa lý, chữ 'Điền' ở đây rõ ràng là viết nhầm thành 'Do', nên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.