VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 310: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 3 (CANH THÂN, 1080)
Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 3 đời Thần Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 11, ngày Kỷ Sửu, mùng 1: Hàn Lâm Thiên Văn Viện tâu rằng có nhật thực, nhưng vì mây che nên không thấy. Lại tâu rằng vào giờ Tỵ, khắc thứ 6, mây tan thấy mặt trời, nhưng không đủ để quan sát hết mức độ nhật thực. Tể thần Vương Khuê cùng các quan dâng biểu chúc mừng.
(Sách 《Cựu Kỷ》 chép việc nhật thực không thấy, còn 《Tân Kỷ》 đã bỏ đi.)
[2] Ngày Tân Mão: Chiếu chỉ cho Ty Đề Cử Giáo Tập Mã Quân, những binh sĩ mã quân dưới quyền các tướng đang được huấn luyện, ngoài những người đã thành thục được dẫn đến yết kiến rồi phái đi, những người sau này tiếp tục được huấn luyện thành thục, nên báo tên và số lượng lên để nghe chỉ dụ, sau khi trình diễn xong sẽ cho trở về đơn vị cũ.
(Việc này được thêm vào dựa theo 《Ngự Tập》 quyển 123, tờ chiếu tay. Các ngày 19 tháng 9 năm Hi Ninh thứ 7, 23 tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10, 14 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2, 11 tháng 3, 11 tháng 5, 18 tháng 6, 3 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 3, 17 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 5, và 5 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6.)
[3] Ngày Giáp Ngọ: Chiếu chỉ rằng: “Sáu viên Ngự sử, ba viên phụ trách xét án, ba viên chuyên lo việc tâu trình.”
[4] Ty Đề Cử Nghĩa Dũng, Bảo Giáp kiêm Đề Điểm Hình Ngục ở Hà Bắc tâu rằng: “Tri châu Tương Châu, Triều Nghị đại phu Lưu Hàng, nhậm chức được nửa năm, đã có thành tích xuất sắc. Gần đây theo chiếu chỉ xây dựng trường tập, Hàng ngày đêm ở công trường, khuyên răn đôn đốc, lập kế hoạch, hai tháng thì hoàn thành. Nhà cửa, đồ đạc đều tinh xảo, so với nơi khác tiết kiệm được nhiều công sức và chi phí. Ty này đã vẽ đồ án, gửi cho các châu làm mẫu. Lại khuyên dụ dân binh đến trường để kiểm tra, ai nấy đều hăng hái chờ được tuyển chọn, cùng với việc chiêu dụ các viên chức Nghĩa Dũng và Bảo Chính, người phụ thuộc nộp đơn xin được huấn luyện cũng không ít. Trong ngoài yên ổn, không có ai kinh sợ tránh né. Xin ban thưởng để khích lệ các quận khác.” Chiếu ban lời khen ngợi, lại ban thưởng bạc và lụa.
[5] Ty An Phủ Kinh Hồ Nam xin theo lệ của Nguyên Châu ở Hồ Bắc, chiêu mộ quân Cấm cùng dân phu xây dựng thành trại ở các châu quận thuộc vùng Khê Động. Được chấp thuận.
[6] Ty Đề cử Nghĩa dũng, Bảo giáp lộ Hà Đông tâu: “Những người nguyện tập học võ nghệ xin được quản thúc theo pháp của Nghĩa dũng, Tiết cấp, Đại bảo trưởng.” Vua đồng ý, lại lệnh cho lộ Hà Bắc, Thiểm Tây cũng làm theo.
[7] Ngày Ất Mùi, Ty Chuyển vận lộ Thiểm Tây tâu, Tri châu Lũng Châu, Tả Tàng khố sứ Tiết Liên mờ mịt, không phát giác lại nhận hối lộ, xin bãi chức. Vua phê: “Liên trước kia từng phạm tội bán rượu quá độ, nay lại không thể tuân thủ kỷ luật, chấn chỉnh công việc, lại buông lỏng, còn tệ hơn trước, không thể không nghiêm trị. Các quan liên quan ở Lũng Châu giao cho Ty Chuyển vận xét xử, Liên trước hết bị cách chức, các quan tiến cử Liên trong nhiệm kỳ này cũng bị xử lý sau.”
[8] Ngày Bính Thân, Tri châu Đại Châu Lưu Xương Tộ tâu: “Ở đất Trại Bình Hình, có người phương Bắc muốn đi đường tắt đến Phố Đoàn Sơn qua lại. Thần đã dụ sứ thần trong trại trả lời, không thể để họ có ý xâm phạm.” Chiếu rằng: “Nếu người phương Bắc đến biên giới hỏi han, hãy bí mật dụ sứ thần dùng lý lẽ khéo léo giải thích, không được để lộ dấu vết, khiến địch gây sự.”
[9] Ty An phủ duyên biên Hà Bắc tâu: “Theo chỉ triều đình, định gửi thư sang Ty An phủ giới Bắc, hỏi về việc người thuyền vào giới Hà Bắc bắn tên. Bản thư đã dâng lên.” Vua phê: “Đã gửi thư nhiều lần, có thể dừng lại, sợ địch quen, không coi đó là răn đe.”
[10] Chiếu rằng: Hữu chính ngôn, Trực Long đồ các, Tiền Tri Hi Châu Triệu Tế bị cách chức Trực Long đồ các, truy thu ba quan, lệnh ngừng chức; Thái thường bác sĩ, Tiền Quản câu cơ nghi văn tự Hứa Thuần, Trấn Ninh quân Tiết độ suy quan, Kinh chế Hi Hà lộ Biên phòng tài dụng ty Câu đương công sự Triệu Huy, mỗi người bị truy thu một quan, và lệnh ngừng chức; Sùng nghi sứ, Kinh Nguyên đô giám Đệ lục tướng Trương Ân, Tây nhiễm viện sứ, Hi Hà đô giám Đệ nhị tướng Hứa Lợi Kiến, mỗi người bị truy thu một quan; Chỉ sử, Tây đầu cung phụng quan Trương Tộ, Tam ban tá chức Lã Thầm, mỗi người phạt nộp mười cân đồng, và bị thay thế. Triệu Tế bị tội vì sai Trương Tộ, Lã Thầm dùng quân cấm vệ làm việc riêng đến kinh mua nô tỳ; Hứa Thuần, Triệu Huy mỗi người vì chuyển nhà vượt quá số người quy định, lại sai quân cấm vệ; Hứa Lợi Kiến biết mà cố tình dung túng, đều bị xử phạt đặc biệt. Sau đó, Triệu Tế lại bị tội vì tâu báo số tiền và thức ăn ngựa ở Hi Châu không đúng sự thật, lại có chiếu rằng đợi khi hợp lệ thăng quan thì kéo dài thêm hai kỳ.
[11] Thị ngự sử Tri tạp sự Hà Chính Thần tâu: “Lại bộ Trung thư Vương Miện, Mã Vĩnh Tích không nên đỡ Tể thần Vương Khuê lên bậc thềm điện Thần ngự của Từ Thánh Quang Hiến Thái hậu.” Chiếu rằng Vương Miện, Mã Vĩnh Tích mỗi người phạt nộp tám cân đồng.
[12] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng hội hiệu các lộ ngựa không ra đồng cỏ, lấy tiền thuế đất hàng năm trừ đi số tiền bồi hoàn cho Chuyển vận ty về chi phí cỏ và thóc, số còn lại đều thuộc về Quần mục ty: kiêm Chuyển vận ty đã nhận nợ tích lũy và tiền định mức hàng năm, nên giao cho Quần mục ty lập sổ, kịp thời thúc giục thu hồi.
[13] Ngày Quý Mão, An phủ ty dọc biên giới Hà Bắc tâu: “Ở khu vực sông giới thuộc Tín An quân, có thuyền đánh cá của người phương Bắc, Tri quân Vương Duy Thuần chỉ huy ngăn chặn, bắt quay lại cửa Lộc Giác nơi họ xuất phát, nhưng người phương Bắc lại tăng thêm người và ngựa, muốn đi xuống phía dưới, dẫn đến hai bên đã bắn tên. Bản ty xét thấy Vương Duy Thuần tuy có dụng tâm, nhưng chưa hợp lý. Nếu vì việc này mà xử phạt đặc biệt, lại lo người phương Bắc sinh sự khác. Hơn nữa, xét thấy bờ bắc sông giới thông với địa giới phương Bắc, các cảng sông không thống nhất, xin từ nay khéo léo thuyết phục, nếu họ đã đi xa khỏi cửa sông xuất phát, chỉ cho họ quay về ở cửa cảng gần nhất, tránh gây ra tranh chấp.” Được chấp thuận.
[14] Ngày Đinh Mùi, Thái học bác sĩ, Thông trực lang Chu Phục được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử lý hành.
[15] Chiếu rằng: Nghe nói các tướng ở Hà Bắc dưới quyền có nhiều giáo đầu chưa thông thạo pháp mới và kỹ thuật, nên những người họ dạy chắc chắn không đạt chuẩn. Hiện nay, gần đây đều có các trường tập huấn, có thể ra lệnh cho các tướng, căn cứ vào số người có kỹ năng, chọn lựa những người trẻ tuổi khỏe mạnh, giao cho Ty đề cử nghĩa dũng, bảo giáp để huấn luyện. Sau khi thành thạo, sẽ cử về các tướng dưới quyền để phân công dạy. Hà Đông, Thiểm Tây cũng làm theo cách này.
[16] Ngày Canh Tuất, Tri Quảng Châu, Trung đại phu, Tập hiền viện học sĩ Trần Dịch được bổ nhiệm làm Long đồ các đãi chế, tái nhiệm.
[17] Tào Dật nhờ ơn được phong làm Tế Dương quận vương, xin cho con trai là Tứ phương quán sứ Bình và Dẫn tiến phó sứ Dụ được thăng chức. Chiếu rằng: Bình được thăng làm Dẫn tiến sứ, Dụ được thăng làm Khách tỉnh phó sứ.
[18] Thị ngự sử tri tạp sự Hà Chính Thần tâu rằng: “Quân khí giám đã định ra pháp thức từ bảy năm nay, và sắc lệnh của một ty cũng gần năm năm, nhưng vẫn chưa hoàn thành sách. Có lẽ do quan lại hưởng lợi từ việc thêm chi phí, nên cố tình trì hoãn.” Chiếu rằng: Tam ty phải kiểm tra lại số tiền ăn uống mà các quan đã chi từ khi lập cục, và bắt họ hoàn lại, đồng thời khấu trừ một nửa từ lương tháng.
[19] Ngày Tân Hợi, Quản câu Quốc tử giám Thư Thiện tâu rằng: “Gần đây, Tiêu Chi Mĩ nói rằng các quan khảo thí ở Thái học không xem xét kỹ lưỡng, và các quan tuần phố không chỉ dẫn đúng cách cho thí sinh bổ sung. Các quan khảo thí tuy đã được ân xá, nhưng thần với chức trách đốc thúc thuộc quan, thực sự không có lý do để được miễn tội.” Chiếu rằng: Trung thư ghi vào sổ. Thiện cho rằng hình phạt nhẹ, lại xin tội, chiếu rằng phạt mười cân đồng.
[20] Ngày Nhâm Tý, Tăng Củng, chức Trực Long đồ các, Câu đương Tam ban viện, tâu rằng: “Bệ hạ đề cao đức lớn, làm sáng tỏ đạo lớn, tham khảo trời đất, lấy nhân luân làm gốc, khuyến khích học hành, tôn sùng giáo hóa để cảm hóa thiên hạ. Dù là tâm ý của Vua Nghiêu, Vua Thuấn cũng không thể hơn được. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là trường học ngày nay không phải là pháp giáo dưỡng của tiên vương; khoa cử ngày nay không phải là chế độ tuyển chọn nhân tài của tiên vương. Thánh ý của Bệ hạ thật cao minh, từ sau thời Tam đại, các bậc quân vương chưa từng ai đạt được như vậy. Thần cho rằng những phương tiện khuyến giáo của trường học thời Tam đại, cùng các tiêu chí tuyển chọn của quận quốc và Thái thường thời Hán, nếu xét theo tình hình hiện nay, có thể tham khảo áp dụng. Ngày nay, châu quận và kinh sư đều có trường học giống thời Tam đại, nhưng pháp giáo dưỡng và tuyển chọn không phải là phép tắc của tiên vương, há chẳng phải vì bỏ mất thực hành đạo đức, chỉ chú trọng văn chương hư ảo, không phù hợp với ý chỉ giáo dục nhân tài của Bệ hạ sao?
Xin hãy ra lệnh cho châu huyện, nếu có người ham học văn chương, giữ gìn danh tiết, hiếu đễ cẩn thận, ra vào không trái đạo, thì báo lên, cho các quan lệnh, tá đề cử lên châu học, châu cẩn thận xét người có thể được thì tiến cử lên Thái học, căn cứ vào quy mô châu mà định số lượng mỗi năm. Ở Thái học một năm, cẩn thận xét người có thể được thì tiến cử lên Lễ bộ, Lễ bộ cẩn thận xét người có thể được thì ghi tên tâu lên. Từ châu học đến Lễ bộ, đều lấy người thông thạo ít nhất một nghề qua kỳ thi. Nay đã chính thức định rõ chức trách của Tam tỉnh và các tự, giám, các chức như Đô sự, Chủ sự, Chưởng cố, phẩm cấp cũ không thấp, nên thanh lọc việc tuyển chọn, dùng lại sĩ nhân để phù hợp với nghĩa cổ. Sau đó, lấy những người đỗ đạt trong số người được Lễ bộ tuyển chọn, lần lượt cho thử làm quan. Sau hai hoặc ba năm, chọn lựa để bổ nhiệm làm thuộc quan châu hoặc huyện lệnh, huyện thừa, nếu có người tài giỏi xuất chúng, đều báo tên lên, không bị ràng buộc bởi chế độ này.
Như vậy, sẽ có những người được đặc cách tiến cử, kỳ thi không dùng phép bịt tên và sao chép bài, chỉ cần thông thạo một nghề trở lên, không chỉ áp dụng chế độ thời Hán. Theo 《Chu Lễ》, Đại Tư đồ dùng ba điều ở làng để dạy dân và tiến cử người hiền, cũng dựa trên sáu nghề: Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số. Chế độ khoa cử cũ, vì đã áp dụng lâu, khó bỏ ngay được, xin hãy tạm giữ như cũ. Chỉ có số lượng tiến cử, lấy đặc cách làm chuẩn, còn việc thử làm quan và thứ tự tuyển dụng[1], đều thấp hơn đặc cách, đến khi giáo hóa đã thấm nhuần, phong tục đã hình thành, thì bãi bỏ hết. Chi tiết của việc lập pháp, xin hãy giao cho các cơ quan hữu trách bàn định.” Nhưng không được thi hành.
(Bản Chu bỏ đi.)
[21] Lại bàn về kinh phí rằng: “Thần nghe xưa lấy ba mươi năm thông suốt để chế định quốc dụng, khiến có dự trữ chín năm. Mà việc chế định quốc dụng tất phải vào cuối năm, vì căn cứ vào thu nhập để quyết định chi tiêu. Việc quốc gia không thể bớt là tế tự, nhưng cũng không quá một phần mười của số dùng, thì ý của tiên vương nuôi dân có thể biết được. Vì chi tiêu có chừng mực, thì thiên hạ dù nghèo, sự giàu có cũng dễ đạt được. Chi tiêu không có chừng mực, thì thiên hạ dù giàu, sự nghèo khó cũng dễ xảy ra.
Nhà Tống dấy lên, kế thừa tệ đoan của năm đời, sáu bậc thánh kế tiếp nhau, cho dân nghỉ ngơi, nên dân số đông đúc, của cải dư thừa. Lấy các năm Cảnh Đức, Hoàng Hựu, Trị Bình mà so sánh, năm Cảnh Đức có 7.300.000 hộ, khai khẩn 1.700.000 khoảnh ruộng; năm Hoàng Hựu có 10.900.000 hộ, khai khẩn 2.250.000 khoảnh ruộng; năm Trị Bình có 12.700.000 hộ[2], khai khẩn 4.300.000 khoảnh ruộng.
Thu nhập hàng năm của thiên hạ, năm Hoàng Hựu và Trị Bình đều trên một trăm triệu, chi phí hàng năm cũng trên một trăm triệu. Năm Cảnh Đức có hơn mười nghìn quan chức, năm Hoàng Hựu có hơn hai mươi nghìn, năm Trị Bình kể cả mạc chức và quan châu huyện là hơn ba nghìn ba trăm, tổng cộng hai mươi bốn nghìn người. Chi phí tế giao năm Cảnh Đức là sáu triệu, năm Hoàng Hựu là mười hai triệu, năm Trị Bình là mười ba triệu. So sánh hai điều này, số quan chức gấp đôi năm Cảnh Đức, chi phí tế giao cũng gấp đôi năm Cảnh Đức. Số quan chức khác nhau như vậy, là vì năm Hoàng Hựu và Trị Bình có nhiều cửa vào làm quan hơn năm Cảnh Đức; chi phí tế giao khác nhau như vậy, là vì năm Hoàng Hựu và Trị Bình có nhiều khoản chi tiêu hơn năm Cảnh Đức. Nếu thực sự ra chiếu cho các cơ quan tra cứu sổ sách và tìm hiểu nguyên nhân, khiến số quan chức, các cửa vào làm quan có thể khảo cứu mà biết được; chi phí tế giao, các khoản chi tiêu có thể khảo cứu mà biết được.
Sau đó bàn bạc những gì có thể bãi bỏ thì bãi bỏ, có thể giảm bớt thì giảm bớt, khiến dân chúng thiên hạ như thời Hoàng Hựu, Trị Bình thịnh vượng, mà chi tiêu của thiên hạ, số quan chức, chi phí tế giao đều giống năm Cảnh Đức, thì hai điều này tiết kiệm được khoảng một nửa. Lại lấy loại mà suy ra, chi tiêu của thiên hạ, có cái ít hơn xưa mà nhiều hơn nay, có cái ít hơn nay mà nhiều hơn xưa. Cái nhiều hơn, tất phải tìm nguyên nhân nhiều hơn mà ngăn chặn; cái ít hơn, tất phải căn cứ vào nguyên nhân ít hơn mà theo. Như thế mà ra sức thực hiện, lấy thu nhập hàng năm trên một trăm triệu mà tính, tiết kiệm được một phần mười, thì mỗi năm có dư một trăm triệu. Dần dần không ngừng, đến khi tiết kiệm được ba phần mười, thì mỗi năm có dư ba trăm triệu. Lấy ba mươi năm thông suốt mà tính, sẽ có dư chín trăm triệu, có thể dự trữ mười lăm năm. Từ xưa đến nay, sự giàu có của quốc gia chưa từng đến mức này. Xưa nói dự trữ chín năm, là tính mỗi năm thu nhập để lại ba phần mười, chỉ là nói ước chừng. Nay thần trình bày, cũng là nói ước chừng, con số không thể hoàn toàn giống nhau, nhưng cốt yếu đại ý chắc không xa. Đời trước trong thời suy tàn, còn có thể biến nghèo thành giàu. Nay ta lấy thế toàn thịnh, chi tiêu có chừng mực, tiết kiệm được một, thì là một của ta, tiết kiệm được hai, thì là hai của ta. Điều khó của đời trước, là điều dễ của ta, không cần bàn mà biết được.
Kính nghĩ bệ hạ tính tình điềm tĩnh, chất phác, thiên tính tự nhiên, xe cộ, đồ dùng, y phục, do Thượng phương chế tạo, chưa từng dùng một thứ kỳ lạ; cung tần tả hữu, cửa Dịch đình, chức vị nhiều chỗ khuyết, thân hành tiết kiệm, làm gương cho thiên hạ. Ý lo lắng cho dân chúng, đổi mới mọi việc, thực sự rất thiết tha, cảm động trên dưới. Việc làm rõ pháp độ, để nuôi dưỡng của cải thiên hạ, lại không phải là điều khó đối với bệ hạ.”
[22] Sau đó lại dâng tấu rằng: “Bệ hạ cho rằng lời thần nói, lấy việc tiết kiệm làm trọng yếu trong việc quản lý tài chính, những người bàn về quản lý tài chính trong thiên hạ chưa ai đề cập đến điều này, xin giao cho Trung thư xem xét. Thần đang đảm nhiệm chức vụ ở Tam ban, xét theo quy chế từ đầu triều đại, lấy chức Cung phụng quan, Tả Hữu ban Điện trực làm Tam ban, đặt chức Đô tri, Hành thủ lĩnh để quản lý. Lại có Viện Điện tiền Thừa chỉ ban, đặt riêng chức Hành thủ lĩnh. Từ niên hiệu Đoan Củng về sau, chia làm Đông Tây Cung phụng, lại đặt thêm chức Tả Hữu Thị cấm và Thừa chỉ, Tá chức[3], đều thuộc quản lý của Tam ban, nhưng tên gọi Tam ban vẫn không thay đổi. Ban đầu, số lượng lại viên của Tam ban chỉ khoảng ba trăm người, hoặc ít hơn. Đến niên hiệu Thiên Hy, tổng số đã lên đến bốn nghìn hai trăm người, đến nay thì tổng số đã lên đến mười một nghìn sáu trăm chín mươi người, lại thêm tám trăm bảy mươi người thuộc tông thất. Số lượng từ niên hiệu Cảnh Đức đã gấp mười lần so với ban đầu, mà xét đến nay, gần như gấp ba lần so với thời Cảnh Đức. Lược xét sổ sách thu chi trong ba năm[4], niên hiệu Hi Ninh năm thứ tám, số người nhập tịch là bốn trăm tám mươi bảy người; năm thứ chín là năm trăm bốn mươi bốn người; năm thứ mười là sáu trăm chín mươi người. Còn số người chết, nghỉ hưu hoặc bị miễn chức mà ra khỏi sổ tịch, mỗi năm có khi hơn hai trăm người, hoặc ít hơn. Như vậy là năm nào cũng tăng, chưa thấy dừng lại. Thần lại lược xét nguyên nhân nhập quan, ghi thành điều mục riêng để tâu lên, xin bàn bạc những chức vụ có thể bãi bỏ thì bãi bỏ, có thể giảm bớt thì giảm bớt, xin Bệ hạ lựa chọn.
Điều thần biết rõ là Tam ban, còn Lại bộ, Đông Tây Thẩm quan và các khoản chi phí khác trong thiên hạ, ắt cũng có tình trạng tương tự, xin Bệ hạ thử xem xét, tìm hiểu theo loại mà xử lý. Nếu thiên hạ mỗi năm thu được ức vạn, mà tiết kiệm được một phần ba, tính trong ba mươi năm, ắt sẽ có dự trữ đủ cho mười lăm năm. Tài chính là gốc rễ của thiên hạ, nếu quốc gia giàu mạnh như vậy, thì còn gì không đạt được, việc gì không thành! Với tư chất thánh minh của Bệ hạ, lại thêm sự chăm chỉ tinh tấn, để thay đổi tệ nạn trì trệ cẩu thả, đang đại tu chính sách pháp độ, để làm phúc cho thiên hạ, chiếu rọi muôn đời, nên thần dám nhân chức vụ mà bàn về số lượng tăng giảm, kết thúc lời nói trước đây để dâng lên, xin Bệ hạ xem xét lựa chọn.”
Vua rất khen ngợi và tiếp nhận.
(Đoạn này căn cứ theo bản truyện mà ghi chép thêm.)
[23] Kiểm chính Trung thư Lễ phòng công sự, hội định Thiểm Tây ngũ lộ niên kế Vương Chấn nói: “Đã hội kiến số thực, lập làm định pháp, quyết có thể tự biện, không còn có lý do can thiệp triều đình. Trước đây, Chuyển vận ty còn nợ tiền các ty khác, dù triều đình đốc thúc trả nợ, các ty dù bị tội, cũng chưa có kỳ hạn trả, chi bằng gia ân xá miễn tất cả. Từ nay minh lập ước thúc, không được lại xin mượn chi, hoặc gặp lúc thêm quân mã và tai họa lớn, tự có thể để triều đình tùy thời xử trí.” Chiếu rằng số nợ của Tam ty, Kinh lược ứ điền cùng bác mã, diêm dẫn, đề cử thôi khu. Tiền vật thị dịch các châu Tần, Hi đều được xá miễn, còn lại hạn trong ba năm trả hết.
[24] Biên loại tướng quan sắc sở nói: “Các tướng phó kiêm tri châu quân, xin miễn tuần giáo các doanh, để miễn cho quan thuộc phải đến doanh quá sảnh.” Chiếu rằng các tướng quan kiêm tri châu, nếu miễn hết tuần giáo, thì giống như độc nhiệm tướng phó, việc tiến thoái võ nghệ của các quân đều không chịu trách nhiệm, sau này không còn cách nào khảo nghiệm việc tu phế chức sự để làm căn cứ thưởng phạt. Có thể đổi lệnh năm ngày một lần đến, tức ngày tuần giáo ở doanh, các chức sự châu quân, nếu không gấp thì không được hành khiển và tiếp kiến quan thuộc.
(Bản mới bỏ đi.)
[25] Ngày Giáp Dần, Ngự sử đài nói: “Ngự sử phân lĩnh việc sát, mỗi viên lĩnh hai án, văn tự nhiều ít khác nhau, khó phân định thứ tự. Muốn lấy một viên lĩnh Lại, Công, một viên lĩnh Binh, Hình, một viên lĩnh Hộ, Lễ.” Theo đó.
[26] Ngày Đinh Tỵ, Tam ty nói: “Xin theo lời tấu của Thành Đô phủ lộ Chuyển vận ty, khôi phục tiền giám châu Nhã đúc tiền, tạm lấy hai vạn mân làm ngạch, đợi sau này thành thứ tự, mỗi năm đúc ba vạn mân.” Theo đó.
[27] Tháng 12, ngày Kỷ Mùi mùng một, chiếu các lộ giám ty trình bày tình hình trị sự của các tri châu, thông phán dưới quyền, ai có trị trạng tốt nhất mà chưa được triều đình bổ nhiệm, lệnh Trung thư ghi tên lại.
[28] Ngày Canh Thân, Vua phê: “Các lộ dùng nhiều ngựa để huấn luyện dân binh, nhưng ty mua ngựa ở Thiểm Tây có hạn ngạch cung cấp hàng năm, việc chi dùng ở kinh đô thường không đủ. Có thể sai Quần mục phán quan Quách Mậu Tuấn đến cùng với ty đề cử mua ngựa tính toán xem mỗi năm triều đình cấp tiền bạc để mua ngựa, nên mua bao nhiêu? Ngoài việc cung cấp và phân phối cho các lộ ở Thiểm Tây như thổ quân, cung tiễn thủ, còn bao nhiêu có thể tăng thêm để gửi về kinh đô, ứng phó cho dân binh.”
[29] Chiếu cho Trung thư nên tham khảo kỹ lưỡng các tấu chương liên tục của Quỳnh Quản thể lượng an phủ Chu Sơ Bình, xin xử lý nhanh chóng, để sứ giả triều đình đi xa vạn dặm không phải là uổng công, và dân chúng ở vùng đảo xa xôi sớm được hưởng ân huệ. Sơ Bình tâu rằng: “Ở các nơi như Quỳnh Châu, Chu Nhai, quan bán muối không tiêu thụ được, liền bắt các chủ quản nha tiền bồi thường, và có những nơi khai khống số lượng muối, ban đầu không nộp đủ mà lại bắt các chuyên điển bồi nạp, xin đều được miễn trừ. Lại nữa, sổ sách ở các huyện thuộc bốn châu quân ở Hải Nam không chỉnh tề, hoặc thư lại tăng thuế một cách vô căn cứ, hoặc do nhầm lẫn mà thuế được chuyển vào hộ của thư lại, hoặc tệ nạn đóng thuế thay chưa bị xóa bỏ, hoặc một hộ có hai ba tên mà người thu thuế không biết. Xin rà soát lại số lượng thuế ban đầu, ngoài số chính thức, những gian lận khác đều phải sửa đổi. Ruộng đất ở các động người Lê vốn do các động cùng chiếm giữ, cùng cày cấy và chia phần thu hoạch, ban đầu không có văn bản ghi chép. Nay họ đã đầu hàng và nhập vào đất tỉnh, chỉ nộp thuế thân và một phần thuế lúa, nhưng dân ở Hải Bắc lại làm giấy tờ xin ruộng, tra xét ruộng đất của họ, khiến họ không có đất canh tác. Lại có người nhân việc buôn bán với một ít hàng hóa mà bắt họ tăng số tiền lên, lập khế ước mua ruộng đất của dân động, lâu ngày chiếm đoạt, gây ra kiện tụng, đến khi quan lại truy bắt, thường xảy ra việc rút dao giết nhau, xin cấm chỉ tất cả. Đất đai ở các động người Lê rộng rãi, có nhiều nơi có thể làm ruộng tốt, muốn đợi khi việc ổn định sẽ chọn quan, tuyển những người trẻ khỏe muốn cày cấy, lập thành bảo giáp, sống xen kẽ với người Lê để phân chia ruộng đất. Mỗi người được hạn định số mẫu, dạy cung tên và võ nghệ, đủ để chống lại giặc biên giới.”
[30] Lại tâu: “Các châu Quỳnh, Nhai, Đam, Vạn ở ngoài biển, đường sá không thông, dân đã nghèo khổ, lại phải nộp tiền dịch, những nơi ít người không khỏi phải theo lệ cũ mà luân phiên sai dịch. Lấy danh nghĩa là thuê mướn, nhưng trong đó phần lớn là người nghèo khổ, chưa từng nộp thuế, thậm chí có người trốn vào các động người Lê, xin triều đình tạm thời cho những nơi không thi hành pháp dịch được luân phiên sai dịch. Hiện bốn châu quân còn dư tiền 7.250 quan, nếu mỗi năm theo phép Thanh miêu, chỉ cho Quỳnh Quản một nơi phát ra, số tiền lãi thu được sẽ dùng đủ cho việc đưa đón quan lại bốn châu quân. Như vậy, việc đưa đón không lấy từ dân mà vẫn có dư. Ba quân thuộc chức nhiệm của tuyển nhân, xin đều cấp tiền công. Nếu được chấp thuận, xin giảm bớt số người làm dịch ở bốn châu quân.”
[31] Lại tâu: “Các châu quân ở Hải Nam, việc dân gian mua bán muối không dễ dàng, ngoài việc đã xin giảm số lượng, những người nấu muối càng phải gánh vác nặng nề, hơn nữa số lượng muối nấu ra mỗi nơi khác nhau, là do các quan trước sau tự ý tăng số lượng muối. Xin lấy số người nấu muối và số muốn bán ra ở các châu quân, định ra một mức số nhất định, để những hộ nấu muối hiện tại có thể đảm đương được, không đến nỗi phá sản. Nếu từ nay việc bán muối được thông suốt, cần thêm muối, thì cho các nơi báo lên chuyển vận sứ xem xét, tăng thêm người nấu, hoặc cấp thêm tiền để mua. Nếu quan lại dám tự ý tăng thêm, xin lập điều khoản nghiêm khắc.”
[32] Lại tâu: “Châu Nhai quân ở phía nam Quỳnh Châu, cách xa 16 ngày đường, đất hẹp người ít, thuế thóc không đủ. Trước đây lấy thuế thóc của Xương Hóa quân nộp thay, không chỉ vì đường xa, mà còn bị người Lê cướp bóc dọc đường. Hàng năm, lại dịch phải mang tiền đi mua nộp, mỗi đấu tính ba bốn trăm tiền, dân rất khổ sở. Nhưng nghe nói Châu Nhai quân có nhiều thóc từ các động người Lê, thuyền buôn từ bắc biển chở thóc đến, và quân nhân ngồi kho, đều có thể mua được. Nếu số thóc hàng năm đủ dùng, xin cho nộp toàn bằng tiền mặt, thật là lợi ích lâu dài.”
[33] Lại tâu: “Hàng năm, các ty ở tỉnh xuống bốn châu quân mua hương, mà bốn châu quân này ở ngoài biển, quan lại không căn cứ vào giá thực tế, trầm hương mỗi lạng chỉ chi trả 130 đồng. Đã không thể mua được, liền lấy số lượng tương đương bắt các hộ buôn hương phải nộp, xuống đến cả tăng đạo, nhạc công, thợ vẽ, không ai không bị liên lụy. Quan phủ thúc mua gấp, giá hương liền tăng vọt. Mỗi lạng cao nhất một quan, thấp nhất cũng bảy tám trăm đồng. Người thu nạp vừa lấy thêm cân nặng, lại thêm hao hụt, khi chuyển về Quế Châu nộp, chi phí bồi thường thường gấp đôi, mà quan lại nhân cơ hội mua riêng, không tính vào đó, vì thế dân chúng nhiều người phá sản. Nỗi khổ lớn ở Hải Nam, không gì hơn việc này. Vả lại, Quảng Châu là nơi tập trung hương liệu ngoại quốc và khách thương Hải Nam, nếu đặt trường mua bán, thêm hai ba trăm người, cũng không phải là quá đáng.”
[34] Lại tâu: “Hải Nam thu thuế, quy định thuế thuyền theo kích thước, gọi là ‘cách nạp’. Phương pháp này chia làm ba bậc, ví dụ thuyền dài 5 trượng 3 xích là bậc hai, thì thuyền dài 5 trượng 2 xích lại là bậc ba. Chỉ giảm một xích, mà số tiền nộp chênh lệch gấp mười lần. Thêm vào đó, hàng hóa từ các châu quận mà khách thương mang đến, giá trị cao thấp khác nhau, từ Tuyền Châu, Phúc Châu, Lưỡng Chiết, Hồ Nam, Quảng Đông đến, chở toàn vàng bạc, lụa vải, giá trị có khi lên đến hơn một vạn quan; từ Cao Châu, Hoá Châu đến, chỉ chở gạo, đồ gốm, gia súc, giá trị có khi không quá một hai trăm quan. Sự chênh lệch như vậy, mà dùng kích thước thuyền để thu thuế, thật không hợp lý. Vì thế, khách thương từ Tuyền Châu, Phúc Châu tìm mọi cách kiếm lợi, còn khách thương từ Cao Châu, Hoá Châu không đến. Do đó, Hải Nam thiếu thốn trâu bò, gạo. Nay muốn đặt ra pháp lệnh, bắt thuyền buôn phải cập bến tại các cửa biển của bốn châu Quỳnh, Nhai, Đam, Vạn, không dùng kích thước thuyền, chỉ căn cứ vào hàng hóa, thu thuế xong, quan phủ cấp giấy chứng nhận, mới được bán trong khu vực quản lý. Những kẻ trốn thuế, không đến cửa biển nộp thuế, cho phép người khác tố cáo, và lấy hàng hóa trên thuyền làm phần thưởng.”
[35] Lại tâu rằng: “Hải Nam nhiều nơi nghèo khó, vay mượn từ nhà giàu có, lãi suất mỗi năm tăng gấp đôi, chồng chất lên nhau, cuối cùng phải bán con cái, không thể thoát thân. Xin nghiêm cấm quan lại để ý xem xét.” Lại ban chiếu rằng: “Quỳnh Châu, Vạn An, Xương Hóa, Chu Nhai quân lệnh theo Uy, Mậu, Lê, Nhã Châu bãi bỏ phép miễn dịch, theo lệ cũ sai dịch. Các châu quân thuộc Quỳnh Quản đều có kho thường bình, nếu thi hành đúng phép, tự nhiên không có nạn dân chúng phải chịu lãi nặng. Theo lời tâu của Sơ Bình đẳng, việc sắp xếp ở Hải Nam không ít, nhưng đều không đề cập đến việc kho thường bình, hãy trình bày rõ ràng để tâu lên, còn lại đều theo đó.”
[36] Lệnh cho Kiểm chính Trung thư Lễ phòng Công sự Vương Chấn, tính toán phân chia tiền vật của Tam ty và phủ giới Khai Phong, cùng với các quan đề điểm của Tam ty và phủ giới liên danh tâu lên.
[37] Ngày Giáp Tý, ban chiếu rằng những người được thăng chức và bổ nhiệm, đều tạm thời giữ nguyên chức vụ hiện tại, trừ các chức Đại lưỡng tỉnh, Đãi chế trở lên đến Đại trung đại phu, các chức khác đến Triều thỉnh đại phu, đều được xét duyệt thăng chức. Tiến sĩ sau 8 năm, các chức khác sau 10 năm được thăng một lần. Thời gian tính từ ngày ban chiếu. Từ khi thi hành chế độ quan chức mới, các chức Thiếu khanh, Giám cũ được đổi thành Triều nghị đại phu, các chức Khanh, Giám thành Trung tán đại phu, chức Bí thư giám thành Trung đại phu. Theo lệ cũ, các chức Lưỡng chế trở lên khi thăng chức đến Tiền hành lang trung thì được vượt cấp lên Gián nghị đại phu. Tiền hành lang trung trong hệ thống quan chức tương đương Triều thỉnh đại phu, Gián nghị đại phu tương đương Đại trung đại phu. Những người thuộc Lưỡng chế được xét duyệt thăng chức, theo lệ cũ không được thăng lên các chức Khanh, Giám, nên theo chế độ hiện tại không được thăng ba bậc này. Lại theo lệ cũ, chức Triều nghị đại phu chỉ có 70 người, các chức khác khi thăng đến Triều thỉnh đại phu phải đợi có khuyết mới được bổ nhiệm. Đến nay, do các cơ quan trình bày, nên ban chiếu này. Các chức Đại lưỡng tỉnh, Đãi chế trở lên, từ Thông trực lang đến Đại trung đại phu, xét duyệt thăng chức sau 3 năm; từ Thừa vụ lang trở lên đến Triều thỉnh đại phu sau 4 năm, vẫn theo lệ cũ.
(Bản chí chép như vậy, kèm theo ngày 16 tháng 9, chiếu nói rằng tiến sĩ sau 8 năm, các chức khác sau 10 năm được thăng một lần, cần xem xét.)
[38] Ngày Bính Dần, ban chiếu cách chức Tiền quyền phát khiển Lô châu, Tả tàng khố phó sứ Kiều Tự, Thái thường thiếu khanh, Tiền Tử châu lộ chuyển vận sứ Cao Bỉnh. Thái tử trung doãn, Tập hiền hiệu lý, Quyền phát khiển Quỳ châu lộ chuyển vận phán quan Hứa An Thế giáng một chức, điều đến nơi nhỏ. Tri châu Toại, Tỷ bộ viên ngoại lang Phạm Thuần Lễ, Tiền Dục tỉnh giám phán quan Vương Tham đều bị thay thế. Chỉ huy Lô châu, Tam ban tá chức Dương Khả Cửu bị cách chức. Ban đầu, Tự và những người khác vì tâu không đúng sự thật về việc người Man Khất Đệ thề ước, dẫn đến việc Khất Đệ giết Đô giám Vương Tuyên và hơn 700 người. Lại tâu sai về việc nơi xảy ra xung đột không thuộc địa phận triều đình, mà An Thế lúc đó là Chuyển vận phán quan Tử châu lộ, nên đều bị trách phạt.
[39] Ngự sử Phong Tắc tâu: “Thần gần đây giám sát việc tế lễ ở xã, thấy Nhiếp Quang lộc khanh, Triều thỉnh đại phu Vương Chi Tài thần khí mờ mịt, bước đi khó khăn, nói năng lắp bắp, đáng lẽ nên chọn người khác để sai đi làm Tri châu Hóa Châu, xin đổi bổ nhiệm một chức vụ nhàn hạ.” Chiếu ban cho chức cung quan, lệnh Thẩm quan viện từ nay khi cử người làm lễ tế, phải chọn người có khả năng đảm nhiệm việc này.
[40] Ty Đề điểm phủ Khai Phong tâu: “Các huyện thành đều bị hư hỏng quá nửa, có chỗ cao không quá vài thước. Trước đây, dân huyện Phù Câu và Yển Lăng tự nguyện tu sửa, đã được phê chuẩn thi hành. Nay các huyện khác cũng có người nguyện làm, nhưng quan lại không dám tự quyết. Xin từ nay những người nguyện làm thì cho kiểm tra, giám sát, chỉ không được ép buộc.” Được chấp thuận.
[41] Ngày Đinh Mão, Trung đại phu, Học sĩ Viện Tập hiền Tô Tụng được bổ làm Tri châu Thương Châu. Tụng vào từ biệt, nhân nói mẹ già sợ lạnh, xin đợi mùa xuân mới lên đường. Vua hỏi: “Mẹ khanh là ai?” Tụng đáp: “Là con gái của Long đồ các Trực học sĩ Trần Tòng Dịch.” Vua hỏi: “Có phải là thị tòng thời Thiên Thánh không?” Tụng đáp: “Ngoại tổ thần thời Thiên Thánh giữ chức Trực Chiêu văn quán, làm Tri châu Quảng Châu, khi về không mua vật phẩm phương Nam, chỉ chở tiền lương dư qua núi. Nhân Tông nghe chuyện, ngay hôm đó thăng chức Tri chế cáo.” Vua nói: “Thanh liêm hơn cả Mã Viện vậy.” Tụng đến Thương Châu vài tháng thì được triệu về, giữ chức Phán Lại bộ.
[42] Ngày Kỷ Tỵ, Tân Chuyển vận phán quan phủ lộ Thành Đô là Chu Chi Đạo tâu: “Sau lễ đại xá ở Minh đường lộ Kinh Đông, có hơn 80 tên cướp xin giao cho hai lộ An phủ và Đề điểm hình ngục ty xử lý.” Chiếu lệnh Đề điểm hình ngục ty trình bày lý do không truy bắt được giặc, và số lượng chưa bắt được để tâu lên. Chi Đạo là người Trường Hưng.
[43] Tri đô thủy giám chủ bạ công sự Lý Sĩ Lương tâu: “Hoàng hà hiện quản lý hơn 160 viên đại tiểu sứ thần, đều do giám thừa trở lên tâu cử, thường có người nhờ quan hệ, chưa chắc đã thông thạo việc thủy lợi. Xin từ nay bãi bỏ chế độ cử quan ở các đê sông, giao cho Thẩm quan Tây viện và Tam ban viện tuyển chọn. Riêng chức Đô đại đề cử quan xin tạm giữ như cũ.” Triều đình đồng ý. Lại lệnh các cơ quan trong ngoài, nơi nào trước nay cử quan quá nhiều, Trung thư căn cứ vào đây lập pháp tâu lên.
[44] Ngày Canh Ngọ, chiếu rằng số lượng cử nhân của Khai Phong phủ đều chuyển về Thái học. Số lượng cử nhân của Quốc tử giám, lấy theo tỷ lệ phân số của Thái học để tuyển người.
(Ngày 19 tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ 3, cần tra cứu thêm.)
[45] Ngày Tân Mùi, Quyền Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận phó sứ, Quỳnh Quản thể lượng an phủ Chu Sơ Bình tâu: “Quỳnh Quản cách biển lớn, giám ty chưa từng đi tuần tra, nên quan lại tha hồ tham nhũng. Xin mỗi năm hoặc cách năm, cử một viên giám ty Quảng Tây, cấp thêm lộ phí, sang biển tuần tra.”
[46] Khách tỉnh phó sứ Vương Uyên tâu: “Gần đây kiểm tra quân mã của 12 tướng quân ở Hà Bắc, phần lớn không đạt chuẩn. Tướng quan Đoàn Hoài Đức, phó tướng Vương Dụng, kiêm áp đội cung phụng quan Miêu Ngộ, Dương Lập, điện trực Thạch Thuấn Phong, đều không hiểu thứ tự huấn luyện quân đội. Các áp đội sứ thần thử cưỡi ngựa bắn cung, cũng không thành thạo.” Chiếu rằng tướng phó Đoàn Hoài Đức, Vương Dụng mỗi người bị giáng hai cấp, cách chức; các áp đội Miêu Ngộ, Dương Lập, Thạch Thuấn Phong đều bị cách chức. Lại lệnh Thừa chỉ ty ghi rõ tình trạng bất xứng của tướng phó, cùng cách xử lý lần này, thông báo khắp các tướng. Sau lại chiếu rằng, An phủ ty lộ Chân Định phủ, Chuyển vận đề hình ty Hà Bắc mỗi nơi phải bảo đảm Hoài Đức thực có tài dũng, nhưng bản quan gần đây vì bất xứng bị bãi chức, mỗi nơi phạt 10 cân đồng.
[47] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng từ nay Xu mật thừa chỉ ty truyền tuyên, chỉ làm theo thánh chỉ mà thi hành.
[48] Tri Lễ viện, kiêm Thái thường tự thừa Vương Tử Thiều tâu: “Tự thừa Lưu Thứ Trang có bà nội qua đời, có cháu đích tôn, Thứ Trang là em cùng mẹ của cháu đích tôn. Bản viện định rằng bà nội của Thứ Trang qua đời, không có các con và không có cháu đích tôn, Thứ Trang là em cùng mẹ của cháu đích tôn nên đứng ra lo việc tang. Kiểm tra điều luật gần đây về tang phục năm đời: ‘Cháu đích tôn lo việc tang cho ông bà’ có chú thích rằng: ‘Người đứng lo việc tang là cháu đích tôn của ông bà, đối với cụ cố cũng như vậy. Nếu con đích tử chết, không có các con khác, thì cháu đích tôn đứng lo việc tang, tức là cháu đích tôn được kế thừa tước vị, dù có các con khác vẫn phải đứng lo việc tang.’ Thần xét kỹ điều luật trên, chỉ quy định về việc cháu đích tôn có đứng lo việc tang hay không, mà không có quy định về việc cháu thứ tôn đứng lo việc tang. Từ trước đến nay, cháu đích tôn không phân biệt lớn nhỏ đều đứng lo việc tang. Nếu cháu đích tôn đã chết, hiện có em cùng mẹ còn nhỏ, lại có em khác mẹ đã trưởng thành, nếu xét theo tuổi tác, thì cháu thứ tôn lớn tuổi nhất đứng lo việc tang. Nếu cho rằng cháu thứ tôn không nên đứng lo việc tang, thì em cùng mẹ của cháu đích tôn, dù còn nhỏ cũng phải để tang ông bà ba năm, nhưng chưa có chỉ thị rõ ràng. Xin hạ lệnh cho quan Lễ bàn bạc kỹ lưỡng để đặt ra quy định.” Lễ viện tâu: “Từ nay về sau, người đứng lo việc tang, nếu con đích tử chết, không có các con khác, thì cháu đích tôn đứng lo việc tang; không có cháu đích tôn, thì em cùng mẹ của cháu đích tôn đứng lo việc tang; không có em cùng mẹ, thì cháu thứ tôn lớn tuổi nhất đứng lo việc tang, đối với cháu chắt trở xuống cũng theo quy định này. Còn việc kế thừa tước vị, vẫn theo lễ và luật.” Được chấp thuận.
[49] Ngày Giáp Tuất, ban chiếu: “Các đô phó bảo trưởng, đại bảo trưởng trong phủ giới được miễn một người phu xuân, và những người thay thế đại bảo trưởng làm giáo đầu, đều được miễn việc vận chuyển cỏ trong phạm vi dưới một trăm dặm, miễn hai trăm bó. Cứ thêm một trăm dặm, giảm sáu mươi bó, đến một trăm hai mươi bó thì dừng. Nếu hộ đó không phải đóng phu và cỏ, hoặc số cỏ không đủ, thì xem xét tính toán để điều chỉnh với hộ khác.”
[50] Cơ quan Đô đại đề cử sông Biện và đê điều tâu rằng: “Viện Phổ Tế ở châu Tứ, từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 2, nước sông Lạc chảy vào sông Biện[5], đến tháng 9 nhuận năm thứ 3, vớt được 540 xác chết trôi, so với những năm trước giảm 1.500 người. Có lẽ do dòng nước êm ít người bị cuốn trôi, khó mà trách cứ đủ số. Việc mỗi năm độ tăng cũng xin theo lệ cũ.” Chiếu rằng từ nay mỗi khi vớt được 1.000 người thì sẽ ban ơn.
[51] Ngày Canh Thìn, Thừa nghị lang Vũ Văn Xương Linh được bổ làm Giám sát ngự sử lý hành, chiếu theo lời tâu của Điện trung thị ngự sử. Xương Linh là người huyện Song Lưu.
(Do Trương Tảo tiến cử Xương Linh.)
[52] Chiếu rằng Chính tự ở Bí thư tỉnh, người phụ trách kiểm tra tiền vật ở chợ là Phạm Bách Gia bị truất một chức quan và cách chức, Quyền phát khiển phó sứ Hộ bộ, Đô đề cử ty Thị dịch là Vương Cư Khanh được miễn truất quan và cách chức, cho phép chuộc tội bằng tiền. Bách Gia phạm tội khi còn giữ chức Giám diêm, vi phạm pháp luật để nhận thưởng, còn Cư Khanh thì không xác minh rõ, bị hặc tội hư vọng.
[53] Hàn Tồn Bảo tâu rằng: “Khất Đệ sai người đưa thư đến, có vẻ như muốn đầu hàng. Nhưng lại sợ có âm mưu, nên muốn tạm hòa hoãn, hiện đang xem xét việc tiến đánh.” Vua phê rằng: “Khất Đệ trước đây đã làm bị thương quan binh, lại giết chết Vương Tuyên, triều đình phái quân đi, tất phải giết kẻ cầm đầu. Tồn Bảo từ khi tiến quân đến nay, chưa từng có chiến công lớn, nay nhận được thư xin hàng của Khất Đệ, không biết Tồn Bảo muốn dùng kế hòa hoãn với giặc để nhân cơ hội tiến đánh, hay thực sự muốn nhận hàng. Nếu dùng kế hòa hoãn với giặc, đó là điều nên làm trong dụng binh; nếu thực sự muốn nhận hàng, thì hoàn toàn trái với ý triều đình khi xuất quân. Nếu Khất Đệ còn có thể tập hợp lực lượng, giao cho Tồn Bảo tùy cơ ứng biến mà tiêu diệt. Nếu bọn giặc tan rã chạy trốn, cũng phải chọn tướng giỏi để truy bắt, treo thưởng giết chúng. Nếu chần chừ không hoàn thành nhiệm vụ, tất sẽ trị tội theo quân pháp.” Lúc này Tồn Bảo đã cùng Khất Đệ thề ước rút quân, đóng ở Giang An được 5 ngày rồi.
[54] Ninh Viễn quân Tiết độ sứ, Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ Dương Toại mất. Xa giá đến viếng, ngừng triều, ban tặng ba nghìn lạng bạc, truy tặng chức Thị trung, thụy là Tráng Mẫn.
[55] Ngày Tân Tỵ, Thông trực lang, Giám sát Ngự sử lý hành Chu Phục tâu: “Thần trước làm Thái học Bác sĩ, vừa rồi được triệu đối, sau đó vào học cung chức, ở nhà của Bác sĩ Mai Hạo, có Bác sĩ Viên Mặc gọi thần dậy, đến chỗ kín nói nhỏ với thần rằng: ‘Nghe nói ngài đã có mệnh lệnh bổ nhiệm. Trước đây cử Ngự sử thường kéo dài nhiều ngày, ngài được nhanh chóng như vậy là nhờ Chương Tham chính ra sức, hôm đó đặc biệt tâu lên, liền có chỉ huy.’ Lúc đó, thần chưa nhận mệnh, lại biết Viên Mặc thường nói khoác, nên không trả lời. Đến ngày Kỷ Tỵ tháng này, lại có Thành Đô lộ Chuyển vận Phán quan Chu Chi Đạo đến nhà riêng của thần, nói rằng gặp Chương Tham chính nhờ chuyển lời, vì thần đang giữ chức ngôn luận, không dám nhận thư, thấy tờ tâu của thần rất hay, lại khen ngợi tướng mạo của thần, còn hỏi tháng sinh của thần. Thần vừa rồi được triệu đối, vô tình được thánh thượng đề bạt, đã được tuyên dụ trực tiếp. Nhưng Đôn là chấp chính, lại uốn éo truyền ý, coi như ân của mình. Huống chi chấp chính với Ngự sử không nên giao thiệp. Nếu đúng như hai người nói, thì gian tà không thể không trị. Thần với Viên Mặc trước cùng chức vụ, Chu Chi Đạo lại có thân thuộc, nhưng vì giữ chức trách ngôn luận, không dám im lặng.” Chiếu cho Đại Lý sứ xét hỏi.
(Tháng 3 năm thứ 4, ngày Canh Tý, Đôn bãi chức.)
[56] Ngày Quý Mùi, Mã quân Phó đô chỉ huy sứ, Kiềm Châu Quan sát sứ Lô Chính được làm Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ, Vũ Thái Tiết độ sứ. Chính xuất thân từ lính, nhờ có nhiều công lao, được thăng lên nắm quân chính. Lúc đó Hác Chất, Cổ Quỳ, Dương Toại lần lượt mất, Chính liền được giao cai quản cấm vệ. Ông đã hơn bảy mươi tuổi, nhưng khí sắc không suy, đứng hầu dưới điện suốt mấy canh giờ không mệt mỏi, theo hầu trước xa giá, vẫn có thể một mình lên ngựa, hăng hái dẫn đường. Người xem đều khen ngợi.
(Cựu kỷ chép Chính làm Tiết độ sứ, Tân kỷ bỏ đi.)
[57] Thượng phê: “Phó sứ Cung bị khố Đổng Gia Ngôn được sai quản câu bốn mặt tường thành kinh đô kiêm lợi tức vườn tược. Sứ Nội tàng khố, Đoàn luyện sứ Khánh châu Tống Dụng Thần, có thể giữ nguyên chức vụ ở Sở kinh thành, đổi chức Đề hạt thành Đề cử.”
[58] Ngày Giáp Thân, Vua Liêu sai Tiết độ sứ Trường Ninh quân Tiêu Vĩ, Thiếu khanh Thái thường, Đãi chế các Can Văn Thạch Tông Hồi đến chúc mừng ngày Chính đán.
[59] Ngày Ất Dậu, Quyền phát khiển Thừa Bắc ngoại đô thủy giám Trần Hữu Phủ tâu: “Hồ Thương vỡ đê hơn ba mươi năm, dòng sông chảy qua bị bồi lấp dần cao, không chỉ hàng năm phải gia cố đê điều, mà còn thường xuyên bị ngập lụt. Kế sách hiện nay có ba: đó là hồ Thương và dòng cũ Hoành Lũng, cùng dấu tích xưa của Vua Vũ. Hồ Thương và Hoành Lũng địa thế cao bằng, đất xốp xấu, đều không thể khôi phục, dù có khôi phục cũng không thể bền lâu; chỉ có dấu tích xưa của Vua Vũ, dòng cũ vẫn còn, nằm giữa núi Đại Phi và Thái Hành, đất thấp mà thế vững. Vì vậy, Hiệu lí Bí các Lý Thùy và Tri châu Thâm châu hiện nay là Tôn Dân Tiên đều có đề nghị khôi phục. Xin cho Dân Tiên tạm giao chức vụ, cùng một viên quan Chuyển vận ty Hà Bắc, từ Vệ châu, đê Vương Cống Tảo đến cửa biển đi khảo sát.” Được chấp thuận.
[60] Chuyển vận ty lộ Quỳ châu tâu: “Quân Nam Bình chỉ có một viên Thông phán, không có chức quan. Quân này có hai huyện, một trấn, sáu trại bảo, công việc nhiều, xin theo lệ của châu Gia, đặt một viên chức quan, kiêm Giám đúc tiền.” Được chấp thuận.
[61] Chiếu rằng: “Sắp tới xây dựng Thượng thư tỉnh, hiện nay trong thiên hạ, chỉ có rừng núi Hi Hà lâu năm trong đất Khương, nuôi dưỡng cây lớn, rất nhiều, có thể lấy đủ số lượng cần dùng hiện nay. Nên cử riêng Đô đại kinh chế biên phòng tài dụng sự lộ Hi Hà Lý Hiến kiêm chuyên trách Đề cử mua gỗ của lộ này. Những việc cần đặt quan thuộc và lập quy ước, đều phải vạch rõ từng điều tâu lên. Các lộ phía đông lộ này, liên quan đến công việc hiện nay, các ty khác không được tùy tiện can thiệp.”
[62] Ngày Bính Tuất, Vua phê: “Xét việc Tẩu mã thừa thụ công sự là người do triều đình cử đi, nếu có tham ô phạm pháp, Giám ty tự phải tâu lên tội trạng, nghe chỉ đưa vào ngục xét hỏi. Nay Tẩu mã thừa thụ công sự Tần Phượng lộ là Tô Bôn chưa thấy có tội ác lớn, mà Quyền phát khiển Tần châu là Tưởng Chi Kỳ khinh suất càn rỡ, đêm ngày 12 tháng 12 sai người bắt giam ngay để xét hỏi. Xưa nay chưa từng có quan giữ chức như thế mà ngang ngược vô lễ như vậy, nên lập tức giao cho Đề điểm hình ngục ty xét hỏi. Còn Tô Bôn thì hạn ngay khi có chỉ phải thả ra.”
(Việc này căn cứ vào sách Ngự tập ngày 28 Bính Tuất, nay chép thêm vào, cần xét kỹ. Ngày 28 tháng 3 năm thứ 2, Chi Kỳ được bổ làm Thiểm Tào.)
[63] Ngày Đinh Hợi, Thông nghị đại phu, Thiên Chương các đãi chế Mã Trọng Phủ mất.
[64] Khôi phục lại huyện Xương Hóa thuộc quân Xương Hóa, huyện Lăng Thủy thuộc quân Vạn An, trại La Cải thuộc châu Lô, hai bảo Tây Nguyên và Bắc Hà thuộc Hà Bắc, hai trại Thác Khẩu và Quán Bảo thuộc châu Nguyên. Bãi bỏ trại Trấn Giang, đổi thành phố.
[65] Năm đó, con cháu hoàng tộc được ban tên và bổ nhiệm làm quan gồm 51 người. Trong cả nước, hộ chủ thuộc Hộ bộ là 11.244.601 hộ, đinh là 16.236.430 người; hộ khách là 5.485.903 hộ, đinh là 7.594.351 người. Xử án tử hình 1.212 người.
(Sách Cương yếu chép: Năm đó, bắt đầu đặt kho Nguyên Phong; ba lộ Hà Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây bắt đầu thi hành phép Bảo giáp.)
- thứ tự tuyển dụng 'tuyển' nguyên là 'khất', căn cứ vào 《Nam Phong Loại Cảo》 quyển 30 của Tăng Củng, chương 'Thỉnh lệnh châu huyện đặc cử sĩ' mà sửa ↵
- Số hộ năm Trị Bình 12.700.000 '7', sách trên cùng quyển bàn về kinh phí chép là '9'. ↵
- Chữ 'Tá' nguyên là 'Cung', căn cứ theo sách trên quyển 31 bàn về kinh phí mà sửa. ↵
- Chữ 'Tam' nguyên là 'Nhị', căn cứ theo các bản khác và sách trên mà sửa. ↵
- Từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 2, nước sông Lạc chảy vào sông Biện, chữ 'nhị' nguyên bản là 'tam', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. Xét: Tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 2 khởi công dẫn nước sông Lạc vào sông Biện, đến tháng 6 thì hoàn thành, xem 《Tống sử》 quyển 94, chí về sông ngòi. ↵