"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 312: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)

Bắt đầu từ tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng 5 cùng năm.

[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Kỷ Mùi, Ty đề cử kinh thành tâu: “Việc xây dựng và tu sửa ban đầu dưới kinh thành, mỗi năm thu được lợi nhuận cố định là 12 vạn quan. Các quan lại phụ trách trước đây xin được ban thưởng. Từ nay về sau, mỗi năm chỉ cần thu đủ 12 vạn quan thì không cần ban thưởng thêm.” Chiếu chỉ yêu cầu thúc đẩy thu lợi nhuận và kiểm tra việc thu nạp.

[2] Phó sứ Cung bị là Đổng Gia Ngôn được thăng làm Phó sứ Tả tàng khố Tây Kinh, Ty đề cử Tống Dụng Thần được ban một khu đất làm nhà, các sứ thần phụ trách được thăng chức và giảm thời gian khảo hạch khác nhau.

[3] Ngày Canh Thân, Biên tu chế độ học các lộ là Vương Chấn tâu: “Các quan lại ở quận quốc quen theo lệ cũ, chỉ chú trọng vào sổ sách tiền lương, khi tiếp nhận pháp luật, chỉ biết thi hành, e rằng không phải là việc mà các quan lại tầm thường có thể thông hiểu. Xin triều đình chọn người có thể sai phái đi các lộ, sắp xếp đại cương, sau đó giao cho các sứ giả bộ và thái thú quận thực hiện, như vậy pháp luật sẽ được thi hành thông suốt, không còn trở ngại.” Chiếu chỉ chờ khi pháp luật hoàn thành sẽ xin chỉ dụ.

[4] Ngày Tân Dậu, Nội cung phụng quan là Vương Hoài Chính được sai đi áp tải quân khí đến Lư Châu, muốn không dừng lại công việc hiện tại ở Hậu uyển Tây tác, xin cấp thêm giấy phép dịch trạm. Vua phê: “Đường đến Lư Châu một nửa thuộc Thiểm Tây, khác với Quảng Nam, chỉ cần cấp giấy phép dịch trạm theo quy định hoặc thêm chi phí tại nhiệm sở. Nội tỉnh hỏi Hoài Chính về việc dám xin vô cớ để tâu lên.”

[5] Ghi chép con trai của Triệu Chẩn, nguyên là Điện trực, Tuần kiểm các huyện như Vi Thành, là Triệu An Dân, làm Tam ban sai sứ. Trước đây, Chẩn đánh nhau với giặc, bị thương mà chết, vợ ông xin ân điển. Xu mật viện tâu rằng Ty đề điểm phủ Khai Phong đã tâu rằng Chẩn không thể chống cự, đã bị cách chức trước đó, nhưng vì bị thương mà chết, nên xin đặc cách ban ân.

[6] Thừa nghị lang Hồ Tông Viêm tâu: “Núi Di Môn ở phía đông bắc trong cung, là vị trí đắc địa của kinh thành, nơi tụ khí vương đạo của quốc gia. Công tư đều lấy đất ở đây, khiến các gò đồi dần thành hố sâu. Xin cấm và lấp các chỗ đào bới.” Ty Thiên giám xác định như lời Tông Viêm, theo đó.

[7] Ngày Quý Hợi, chúa nước Liêu sai An Phục quân Tiết độ sứ Gia Luật Hữu, Khách tỉnh sứ Hàn Chiêu Nguyện đến chúc mừng tiết Đồng Thiên.

[8] Vua ngự điện Diên Hòa xem xét thử nghiệm đội bảo giáp, Ung vương Hạo và Tào vương Quần hầu cận. Một lát sau, Vua cho phép Hạo và Quần ngồi, xem xét xong thì ban trà, rồi cùng trở về cung cấm.

(Sách 《Tân Kỷ》 chép việc Vua ngự điện Diên Hòa xem xét bảo giáp.)

[9] Ngày Giáp Tý, Tri châu Nguyên Châu Tạ Lân tâu: “Chiêu dụ các thủ lĩnh ở các châu Thắng trong vùng khê động là Dương Thịnh Hướng, xin bổ nhiệm chức vụ.” Chiếu rằng những người xin bổ chức Phụng chức thì cho làm Tam ban Sai sứ, Tá chức thì cho làm Hạ ban Điện thị, Điện thị thì cho làm Quân tướng, Quân tướng thì cho làm Thủ duyệt Quân tướng. Lân lại tâu: “Theo chiếu đã lập bốn trại Thác Khẩu[1], Tiểu Do, Cổ Thành, Phụng Ái, mà huyện Kiềm Dương đều ở trong vùng phúc lý, xin giảm 550 lính thú, sai họ phòng thủ các trại mới; và xin lập ty Bác Dịch để thu tiền lãi. Dân bốn trại tính tình ngoan cố, may đã yên ổn, đã ra lệnh cho họ nộp đao nỏ về nơi quản lý, xin quan mua lại. Vàng cám ở sông Khê, xin chiêu mộ người đào lấy để bán, tạo công ăn việc làm cho dân du thủ. Thuế thân đinh ở các thành trại, xin miễn giảm đặc biệt trong 7 năm.” Vua đồng ý.

[10] Chuyển vận phán quan Kinh Hồ Bắc lộ là Cao Bác tâu: “Người quy thuận ở Cổ Thành châu là Dương Thịnh Kiên trước đây đến tạ ơn việc nộp đất, xin thuộc về Hồ Bắc. Thịnh Kiên sợ Tạ Lân xây dựng thành trại, uy hiếp nơi ở của mình, nên xin thuộc về Nguyên châu. Sau đó, người của Thiệu châu đến chiêu dụ, Thịnh Kiên lại xin thuộc về Hồ Nam. Thịnh Kiên thường cướp vợ con của Hướng Ngân Chu, sợ Ngân Chu ở Hồ Bắc sẽ đến đòi vợ, nên lại xin theo Thiệu châu quy thuận. Xin bí mật chỉ huy Nguyên châu, Thiệu châu, triệu Thịnh Kiên đến tra hỏi, bắt trả lại vợ con cho Ngân Chu, rồi dời về nội địa.” Đề điểm hình ngục là Chương Tiết cũng tâu: Thịnh Kiên gian xảo phản phúc, xin xem xét kỹ để xử trí. Chiếu rằng: “Thịnh Kiên là người quy thuận có đầu óc, tuy trước đây có hiềm khích với Ngân Chu, nhưng đó là chuyện thường của người man. Nay triều đình đã ra lệnh cho thuộc về Hồ Bắc, chính là muốn yên ổn vỗ về, tỏ rõ thành tín. Nay Cao Bác, Chương Tiết tâu lên, hoàn toàn không hiểu biết việc biên giới, nếu có chút lộ ra, khiến họ kinh nghi sinh sự, Bác, Tiết sẽ bị xử phạt nặng. Và truyền cho Tôn Khẩn, Tạ Lân biết rõ.”

(Tôn Khẩn vào ngày Đinh Hợi tháng 9 năm đó, được bổ làm Vận phó Hồ Bắc, lĩnh chức Tri Kinh Nam, lúc này chắc chắn đang làm Vận phó Hồ Bắc. Tháng 5 năm Hi Ninh thứ 6, được bổ làm Đề hình Hồ Nam, đặt ở Mai Sơn, thăng một chức.)

[11] Tử Châu lộ chuyển vận ty tâu: “Đô đại kinh chế Lô Châu man tặc công sự ty có điệp rằng: ‘Sắp tới khi vào cõi, ước khoảng bốn vạn người và kỵ binh, trong đó có ba nghìn ngựa, xin căn cứ vào số lượng chuẩn bị lương thảo đủ dùng trong tám mươi ngày, đi theo quân đội.’ Bản ty xem xét cần phải tính toán kỹ lưỡng, giảm bớt lương thảo ở các đồn bảo, dần dần tích trữ lương thực và vận chuyển, xin được sai và thuê năm vạn phu, trong đó bốn vạn từ bản lộ, sáu nghìn từ Thành Đô phủ lộ, bốn nghìn từ Quỳ Châu lộ; trâu, ngựa và xe cộ tổng cộng một vạn, trong đó năm nghìn từ Thành Đô phủ lộ, bốn nghìn từ bản lộ, một nghìn từ Quỳ Châu lộ.” Triều đình đồng ý, và lệnh rằng những người và trâu được sai và thuê trước hết phải từ bản lộ; nếu không đủ, thì từ Quỳ Châu lộ; nếu vẫn không đủ, mới được từ Thành Đô phủ lộ. Khi quân đội hành quân, Tử Châu lộ thuê một phu giá ba nghìn, nhiều nhất là bốn nghìn, Quỳ Châu lộ cũng tương tự, còn Thành Đô phủ lộ thì gấp đôi.

(Giá thuê phu, căn cứ theo 《Bình Man Lục》.)

[12] Ngày Ất Sửu, chiếu cho Hà Bắc lộ chuyển vận phó sứ Giả Thanh xem xét việc mới xây dựng các châu Khê Động, Huy, Thành Châu thuộc về Hồ Nam hay Hồ Bắc lộ nào thì thuận tiện. Sau đó, Thanh trình bày cụ thể về đường sá, triều đình bèn chiếu rằng Thành Châu đặt trị sở ở Cừ Dương, thuộc Kinh Hồ Bắc lộ; Huy Châu đổi thành huyện Thì Trúc, thuộc Thiệu Châu, Hồ Nam.

(Căn cứ vào chiếu hỏi Giả Thanh nguyên do thêm vào[2]. Trước đó một tháng mười một ngày, Thanh mới được bổ nhiệm làm Hà Bắc vận phó sứ với chức Triều phụng đại phu, hoặc chữ “Hà” nên là chữ “Hồ”, cần xem xét kỹ hơn. Việc Thành, Huy Châu thuộc về từ cuối tháng chín được gộp vào đây.)

[13] Chiếu tạm dừng việc Hà Bắc lộ sai quan kiểm tra và đo đạc đất đai, đợi khi mùa vụ mở cửa sẽ thi hành theo lệnh và chiếu chỉ.

[14] Ngày Kỷ Tỵ, Tri Định Châu, Kiến Hùng quân tiết độ sứ Hàn Giáng được bổ nhiệm làm Tri Dĩnh Xương phủ, Tri Dĩnh Xương phủ, Tư chính điện học sĩ Hàn Duy được bổ nhiệm làm Tri Định Châu. Sau đó, Giáng được làm Tây Thái Nhất cung sứ, Duy vẫn làm Tri Dĩnh Xương như cũ.

(Ngày 28 tháng 6, Giáng làm Tây Thái Nhất sứ; ngày 13, Duy lại làm Tri Dĩnh Xương. Nay ghi chung vào đây.)

[15] Quyền Thiểm Tây lộ Chuyển vận sứ kiêm Chế trí Giải diêm Lý Tắc tâu: “Xét gần đây giá nội ngoại diêm sao đều ổn định, thần cho rằng giá cao là do khó kiếm, giá thấp là do dư thừa. Trước khi thi hành pháp mới, tính toán số lượng muối chi dùng trong bảy năm, mỗi năm khoảng ba mươi sáu vạn tịch, nên giá diêm sao cao thấp tùy thuộc vào số lượng mà cơ quan ấn hành[3]. Sau khi thi hành pháp mới, diêm sao có số lượng cố định, từ mùa đông năm Hi Ninh thứ 10 đến hết năm Nguyên Phong thứ 2, tổng cộng ấn hành hơn một trăm bảy mươi bảy vạn tịch, nhưng tra hỏi thì muối trong trì chỉ sản xuất được hơn một trăm mười bảy vạn năm ngàn tịch, còn hơn năm mươi chín vạn diêm sao lưu thông trong quan tư, nên giá tất nhiên phải giảm. Khi giá diêm sao cao, không nên phát hành thêm, nay giá thấp lại chưa thu hồi, thì phép cân bằng đầy vơi chưa được hoàn thiện. Kính mong bàn bạc giảm bớt số lượng diêm sao[4], đồng thời thu mua khi giá thấp và bán ra khi giá cao, để thực hiện đạo lý bình chuẩn, nhằm duy trì lâu dài mà không có tệ hại.” Chiếu đợi Tiền Hiệp điểm kiểm muối của bản lộ về rồi sẽ lấy chỉ.

[16] Lâm Quảng tâu, xin lệnh cho Bành Tôn khi đến Lô Châu trước hết bàn bạc với thần về thứ tự tiến quân. Chiếu lệnh Bành Tôn theo chiếu trước, chọn đường tắt tiến đánh, phối hợp với Lâm Quảng chiếu ứng.

(Có thể tham khảo trong 《Tịch Trọng Minh mộ chí》. Tháng 3, ngày Giáp Dần.)

[17] Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ Kiềm hạt ty tâu: “Tử Châu lộ muốn chế tạo thiết tật lê, đã gửi văn thư cho Chuyển vận ty phân bố cho các châu chế tạo. Tuy nhiên, trước đây triều đình đã vận chuyển nhiều quân khí đến Lô Châu và bản lộ cũng chuẩn bị không ít, mà Hàn Tồn Bảo chưa từng tiến sâu đánh dẹp, nên số lượng sử dụng chắc chắn không nhiều. Xin hạ lệnh cho Lâm Quảng ước tính số lượng hiện có, đừng để yêu cầu quá mức.” Chiếu: “Kinh chế ty trừ số lượng quân khí mà Hàn Tồn Bảo chưa dùng hết để bổ sung nhu cầu, ước tính số lượng quân khí thực tế hiện nay để chế tạo. Đồng thời hạ lệnh cho Tử Châu lộ Chuyển vận ty trình bày rõ lý do trước đây gửi văn thư yêu cầu các lộ lân cận chế tạo quân khí mà không tấu trình.”

[18] Chiếu rằng: “Khi thân hành tế lễ ở Bắc Giao thì theo nghi thức của Nam Giao, nếu không thân hành thì do Thượng công đảm nhiệm. Nhưng cần tu chỉnh riêng nghi thức đảm nhiệm.” Trước đó, đã có chiếu theo nghị của Trương Tảo, lệnh cho Lễ viện nghiên cứu thêm. (Ngày Giáp Tí, mùng 2 tháng 5 năm thứ 3.) Phán Thái thường tự Lý Thanh Thần, Tri lễ viện Hoàng Nhan, Vương Trọng Tu, Dương Kiệt, Hà Tuân Trực, Diệp Tổ Hợp, Văn Cập Phủ xem xét định lại lễ văn, Trương Tảo, Lý Thanh Thần, Lục Điền đều ký tên tấu trình. Đồng Phán Thái thường tự Trần Tiến có ý kiến riêng, và Đồng Tri lễ viện Tăng Triệu cũng có chỗ khác biệt nhỏ, nên đều dâng tấu riêng.

[19] Dâng lời rằng: “Những người bàn luận cho rằng việc hợp tế trời đất bắt đầu từ Vương Mãng, xét theo điển lễ thì có chỗ chưa hợp, nên muốn bỏ đi, thần thấy có điều nghi ngờ. Kính xét: 《Chu tụng》 nói ‘Hạo thiên hữu thành mệnh’, là tế trời đất ở giao. 《Tiền Hán chí》 chép bài ca tế giao gồm mười chín chương, chương thứ bảy nói: ‘Duy Thái Nguyên tôn, Ảo Thần phiền li.’ Người giải thích rằng: ‘Thái Nguyên là thần trời; Ảo Thần là thần đất.’ Chương thứ tám nói ‘Quyên tuyển hưu thành, thiên địa tịnh huống[5]‘, điều này cho thấy việc tế trời đất cùng nhau đã có từ lâu, e rằng không phải bắt đầu từ Vương Mãng. Việc lớn của quốc gia, không gì lớn hơn việc tế trời đất và tông miếu, đã có việc này thì không ai dám bỏ.

Xưa kia việc tế tự đều do thiên tử đích thân làm, về sau việc này khác xưa, có chỗ theo, có chỗ đổi, tùy theo chỗ thích hợp, nên thường sai quan làm thay. Nay triều đình thánh minh, việc tế giao miếu, ba năm một lần đích thân làm, trước hết phải tế ở Cảnh Linh cung, dâng lễ ở Thái miếu, sau đó hợp tế trời đất ở Viên Khâu, đều tham khảo cựu chương, hợp với lễ. Những người bàn luận lại nói năm thiên tử đích thân tế giao, việc tế Phương Khâu vào tiết Hạ chí, lúc trời nóng nực không thể đích thân làm, nên sai Trủng tể làm thay, và bỏ việc hợp tế trời đất vào tiết Đông chí.

Thần cho rằng việc tế Phương Khâu vào tiết Hạ chí, quyết không thể không đích thân làm, dù có đầy đủ lễ nhạc, Thượng công làm thay, cũng e rằng việc bàn luận này chưa hợp với cổ lễ, rốt cuộc không bằng ngày hợp tế trời đất, đích thân cầm khuê tệ, lòng thành kính đầy đủ, lễ nghi trang trọng. Huống chi thiên tử coi trời như cha, coi đất như mẹ, đã đích thân tế thần trời mà không đích thân tế thần đất, xét về tình lý, e rằng chưa ổn. Bệ hạ thông minh duệ trí, học vấn thâm uyên, muôn việc xưa nay, không gì không thấu suốt nguồn gốc, việc đích thân tế hợp trời đất hàng năm, kính xin hãy theo cựu chế, để tỏ lòng cung kính với ba thần.”

[20] Triệu tâu: “Thần trộm xét sách 《Chu quan》 chép: Đại tông bá, Vua không tham dự tế lễ thì người khác thay thế. Đời sau việc tế tự, nhà Vua không thể tự mình làm hết, nay chỉ có lễ tế giao ba năm một lần là nhà Vua tự làm, còn lại đều do quan lại thay thế. Vì thế Trương Tảo xin vào ngày Hạ chí sai Trủng tể thay làm lễ tế ở Bắc giao, theo lễ cũng không có gì không được. Đến như nhạc vũ cũng nên bổ sung những gì còn thiếu. Nhưng thần vẫn còn nghi ngờ, bởi vì Thiên thần và Địa kỳ, thể chất vốn ngang nhau, Vua phụng thờ không nên có sự khác biệt, nên kinh nói: ‘Thờ trời thì sáng, thờ đất thì rõ.’

Sách 《Chu quan》 chép: Ngày Đông chí tế trời, ngày Hạ chí tế đất, không có sự khác biệt lớn nhỏ. Từ khi quốc triều lập, ba năm một lần tế trời đất, tổ tông, chưa từng bỏ sót. Nay nếu bỏ lễ hợp tế vào ngày Đông chí, mà ngày Hạ chí lại để quan lại thay làm, thì sẽ không còn lúc nào nhà Vua tự thân tế Địa kỳ. Việc thờ trời thì tự làm, việc thờ đất thì sai quan đi, như vậy đối với nghĩa cha trời mẹ đất, dường như có sự khác biệt lớn nhỏ, điều này khiến thần không thể không nghi ngờ.

Việc tế đất vào ngày Hạ chí, đây là điều tiên vương đã làm, nhưng có người bàn rằng hiện nay nghi trượng của thiên tử gấp đôi xưa, vào lúc nóng nực, tình thế có chỗ bất tiện. Thần trộm nghĩ, cổ kim tuy khác, nhưng nóng lạnh của đông hạ, đều là thiên thời như nhau. Ghét lạnh sợ nóng, tình người cũng như nhau. Tiên vương có thể làm việc vào tháng năm, mà đời sau lại nghi ngại vì nghi trượng phơi nắng, vậy thì bỏ bớt nghi trượng hư văn, để thực hiện việc tự thân tế Địa kỳ, áp dụng vào nay, hẳn là không có gì không được. Thần trộm xét chuyện cũ đời gần đây, Hậu Chu, Tùy, Đường, đều thường tế đất vào tháng năm. Huống chi với sự cung kính siêng năng của bệ hạ, hẳn không có gì phải ngại; với sự minh thánh của bệ hạ, việc sắp xếp thêm bớt nghi trượng, hẳn không có gì khó.

Thần ngu muội, nên mong bệ hạ quyết đoán từ tấm lòng thánh, gặp năm thân tế Nam giao, thì vào ngày Hạ chí đủ lễ tự thân tế Bắc giao, để giữ nghĩa thờ đất, hợp với chế độ tiên vương, mà làm phép tắc bất dịch cho muôn đời, há chẳng tốt sao? Giữ kinh mà không biết biến, đó là tội của thần ngu; lấy nghĩa cổ dẫn dắt bề trên mà không dám cẩu thả, cũng là chức phận của thần. Nếu có người vẫn còn nghi ngại vì nắng nóng phơi mình, thì không cần cứng nhắc vào ngày Hạ chí, mà cân nhắc biến thông, thuận theo sự tiện lợi của thiên thời, chỉ cần không mất đi việc tự thân tế Địa kỳ, thì đại điển một đời, vốn phải đợi thánh học, không phải trí lực của thần ngu có thể nghĩ tới được.”

Bèn dâng tấu của Triệu lên, rồi ban chiếu này.

(Tên người trong tấu trạng của Phán Thái thường tự, Tri Lễ viện và Tường định lễ văn, theo 《Tằng Triệu tập》 thêm vào. 《Tân kỷ》, 《Cựu kỷ》 đều chép: “Chiếu bỏ lễ hợp tế trời đất ở Nam giao, từ nay thân tế Bắc giao theo nghi thức Nam giao, không thân tế thì sai Thượng công thay làm, nhạc vũ như thân tế.” 《Tân kỷ》 chép: “Có việc không đi, thì sai Thượng công thay làm.”)

[21] Ngày Canh Ngọ, Ty chế trí giải diêm Thiểm Tây lộ tâu: “Tiền tăng thêm hàng năm từ muối Giải, theo quy định làm thành sao thục để chiêu mộ người mua, trong đó 6 vạn quan lệnh cho Tam ty phong trang. Năm ngoái, Tam ty phong trang tiền tăng thêm hàng năm 6 vạn quan, tổng cộng là 9.751 tịch sao. Nay trong dân gian sao nhiều giá rẻ, nếu lại bán đi, sợ sẽ làm giảm giá sao, xin nộp tất cả sao vào Tam ty, không phát ra nữa.” Theo lời tâu, và cả số tiền 6 vạn quan mà Kinh chế, Chuyển vận ty được chia, cũng lệnh nộp vào Tam ty, từ nay tạm ngừng cấp sao.

[22] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự điện Sùng Chính xét xử tù nhân.

(Cựu kỷ chép: “Xét tù nhân ở kinh kỳ và ba kinh, giảm tội một bậc, tội trượng trở xuống thì tha.”)

[23] Chiếu rằng người trước đây bị truất quan, lệnh dừng chức là Chủ bạ huyện Sơn Âm, châu Việt, Giáo thụ phủ Thái Nguyên là Dư Hành Chi bị xử tử bằng hình lăng trì. Trước đó, Hành Chi vì bị phế truất nên oán hận, bịa đặt phù sấm, chỉ trích hoàng thượng, lời lẽ cực kỳ nguy hại. Giáo thụ châu Định, Suy quan Đoàn luyện châu Dĩnh là Quách Thời Lượng đến kinh đô tố cáo việc này. Tri châu Định là Hàn Giáng liền bắt Hành Chi giam vào ngục. Chiếu cho Tham quân Ty lục phủ Khai Phong là Lộ Xương Hoành đến châu Hình tra xét, Hành Chi nhận tội và bị xử tử. Phong Thời Lượng làm Thông trực lang, triệu vào đối đáp, nhưng Thời Lượng kiên quyết từ chối, nên được cho trở về nhiệm sở cũ. Khi Hành Chi mới bị giam, hoàng thượng hỏi Đồng tu Khởi cư chú là Lục Điền, Điền đáp: “Thần biết người này, trước làm Chủ bạ huyện Sơn Âm, vợ con đều không quan tâm, huống chi là bệ hạ?” Hoàng thượng nói: “Như vậy thì chỉ là kẻ cuồng vọng thôi.” Hành Chi đã bị xử tử, nên tha cho vợ con.

(Sách 《Cửu triều thông lược》 chép: Gia truyền của Lục Điền viết: “Hoàng thượng ban đầu lo lắng, sau khi nghe lời Điền, liền vui mừng nói: ‘Liệu Ân làm loạn, không đáng lo ngại. Nay Hành Chi là bậc sĩ đại phu trong triều mà có mưu đồ như vậy, nên Trẫm rất lo, sợ rằng kỷ cương triều đình có chỗ sơ hở. Nay nghe lời khanh, thì chỉ là kẻ cuồng vọng thôi.’ Khi vụ án Hành Chi kết thúc, liền tha cho vợ con.” Vì Vương Khuê đã bí mật tâu với hoàng thượng rằng Lục Điền rất thân với Hành Chi, nên hoàng thượng hỏi ông. Điều này căn cứ theo bản truyện của Lục Điền. Việc sai Xương Hoành đi vào ngày 27 tháng 2. Cả hai bộ sử 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép: “Chủ bạ huyện Sơn Âm là Dư Hành Chi mưu phản, bị xử tử.”)

[24] Vua phê dụ gửi Kinh lược sứ Kinh Nguyên là Lô Bỉnh: “Gần đây liên tiếp nhận được các báo cáo từ biên giới: ‘Nước Hạ có biến cố, Bỉnh Thường bị ám sát, các họ Lương nắm giữ binh quyền, các thủ lĩnh lớn đều có ý ly khai, trên dưới hỗn loạn, các quan lại mới cũ ở Hưng Châu và tả hữu, những kẻ tà ác tạo phản cùng các thân đảng cũ của Bỉnh Thường, đều nắm giữ binh lực tự cố thủ, chặn đứt các bến sông, nam bắc cách trở, chưa biết thắng bại thuộc về ai.’ Nếu tin như báo cáo, thì các lộ nên cùng nhau dò xét tình hình, nhưng bản lộ lại hoàn toàn không nghe thấy gì, khanh hãy nhanh chóng chọn cử biên lại dò xét sự thật để tâu lên.” Và truyền dụ xuống các Kinh lược ty Tần Phượng, Hoàn Khánh, Hi Hà, Hà Đông.

Trước đó, Quyền Phó đô tổng quản Mã quân lộ Phu Diên kiêm Tướng thứ nhất là Chủng Ngạc tâu: “Gần đây nhận được tin báo: Quốc mẫu Tây Hạ nhiều lần khuyên Bỉnh Thường không theo lễ Hán, nhưng Bỉnh Thường không nghe. Lương tướng công[6] cùng thúc mẫu cũng liên tiếp khuyên nhủ. Sau đó, Bỉnh Thường bị Lý tướng quân kích động, muốn mưu sát thúc mẫu và Lương tướng công, lời nói bị lộ. Lương tướng công cùng thúc mẫu bàn mưu, mở yến hội mời Bỉnh Thường, trong lúc uống rượu, Bỉnh Thường say rồi đứng dậy, bị hại ở vườn sau, vợ con và người theo hầu gần trăm người đều bị giết ngay lập tức. Thần nghĩ rằng giết Vua, người trong nước không ai không căm ghét, người Khương đột nhiên có biến loạn trên dưới như vậy, đúng là thời cơ trời diệt. Nên nhân cơ hội này xuất đại quân, hỏi tội chúng. Thần mong bệ hạ cho thêm chính binh ngoài chín tướng Hán, Phiên của Phu Diên, chọn người thân tín trung quý bên cạnh bệ hạ làm Giám quân cùng đi, văn vũ tướng tá, cho phép thần tự chọn, chỉ mang lương thực mười mấy ngày, cuốn giáp tiến quân, nhân lúc quân trưởng chưa định, trong lúc vội vàng, đại quân thẳng tiến Hưng, Linh, phá tan sào huyệt, thì Hà Nam, Hà Bắc có thể dùng hịch mà định.” Vì thế có chiếu này.

(Phu Diên Thẩm Quát, Tần Phượng Tăng Hiếu Khoan, Hoàn Khánh Dũ Sung, Hi Hà Miêu Thụ, Hà Đông Vương Khắc Thần, vào ngày Canh Thân mùng 3 tháng 4 tâu việc này. Lại tâu vào ngày Bính Tý.)

[25] Ngày Quý Dậu, Vua phê: “Đã sai Vương Trung Chánh đi các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh để xem xét và xử lý việc biên giới, có thể bí mật chiếu cho hai lộ Kinh lược ty, những tiền vật mà Trung Chánh cần, từ kho Phụ Dưỡng không kể nhiều ít, phải kịp thời cung ứng.” Trung Chánh vừa đi, xưng là nhận chiếu chỉ trực tiếp, đi qua nơi nào cũng chiêu mộ cấm binh nguyện theo mình để dẫn đi, mà các quan chủ quản quân đội không dám trái lệnh. Đến Tây Kinh, Văn Ngạn Bác lấy cớ không có chiếu chỉ từ chối, Trung Chánh cũng không chiêu mộ nữa mà đi.

(Bản Chu bỏ việc Trung Chánh chiêu mộ binh, có lẽ là để kiêng tên Trung Chánh. Nay theo bản mới, khôi phục lại.)

[26] Ngày Giáp Tuất, Vua phê: “Đã bàn việc tập hợp quân mã ở năm lộ Thiểm Tây, Hà Đông, tiền lương và khí giới, Trung thư, Xu mật mỗi nơi cử một quan để kiểm kê toàn bộ[7], chuẩn bị cung ứng.” Bèn hạ chiếu giao việc tiền lương cho một viên Kiểm chính quan, khí giới cho một viên Kiểm tường quan, thu thập văn tự để kiểm kê.

[27] Ngày Ất Hợi, Vua phê: “Nghe đồn rằng Cao Sĩ, đồng Quản câu Thiểm Tây Mãi mã ty, mỗi khi giao dịch với các bộ tộc phiên, thường dùng lời ác để mắng chửi, đồng loại của họ thường tỏ vẻ oán hận, cũng là một lý do ngăn cản họ đem ngựa đến. Có thể lệnh cho Quách Mậu Tuấn xem xét rồi tâu lên.”

[28] Chiếu cho Quyền Phát khiển Độ chi phó sứ kiêm Thố trí Hà Bắc Địch tiện Kiển Chu Phụ kiêm chức Đề cử Giang Nam Tây lộ, Quảng Nam Đông lộ Diêm sự, những viên Giám ty phụ trách việc muối mà không đủ năng lực, xem xét rồi tâu lên.” Đặt hai cục ở Tư Nông tự.

(Bản Chu nói: “Hai cục chỉ là tạm thời do Chu Phụ đặt, bỏ đi.” Bản mới đã khôi phục lại.)

[29] Đô đại đề điểm tại kinh thảng trường ty tâu: “Biện hà lương cương mỗi năm vận chuyển hơn sáu triệu thạch, cùng với Ty Nông tự khởi phát từ Hoài, Chiết hơn bốn mươi vạn thạch, đều được phân nạp tại các kho dọc đường Biện. Xin tăng thêm bốn trăm gian nhà kho tại hai kho Vạn Doanh và Quảng Diễn.” Chiếu sai Khai Phong phủ suy quan Tăng Hiếu Liêm đi xem xét, vẽ đồ đệ trình.

(Chu bản bỏ đi, nói: “Sau này kiểm tra thấy lệnh trên đã gộp lại, việc nhỏ không cần ghi chép.”)

[30] Chiếu truyền: Thừa nghị lang, Thiên Chương các đãi chế, Tri Khánh châu Du Sung truy hai cấp, giáng làm Thông trực lang, miễn cách chức, giữ nguyên chức vụ; Triều thỉnh đại phu, Tri Dương châu Tiên Vu Sân truy một cấp, giáng làm Triều tán đại phu, bị thay thế. Do liên quan đến việc tiến cử Tri Miên châu Thần Tuyền huyện Hồ Hiến phạm tội tham nhũng.

[31] Ngày Bính Tý, Tân quyền phát khiển Kinh Tây lộ chuyển vận phó sứ[8], Triều phụng lang Lý Nam Công làm Hà Bắc lộ chuyển vận phán quan. Do Tri gián viện Thái Biện tâu rằng Nam Công trước đây vì bỏ rơi em gái không gả chồng, quản câu cung quan, gần đây đã hai năm, nên khôi phục chức vụ từ từ.

(Nam Công nhận chức Kinh Tây vận phó vào ngày 7 tháng 4, Giáp Tý, nay ghi chung. Ngày Bính Tý là ngày 19.)

[32] Phó Đô tổng quản Mã bộ quân kiêm Đệ nhất tướng của Phu Diên lộ là Chủng Ngạc tâu rằng: “Thần trước đây vào ngày Canh Thân tháng này đã tâu: Hạ quốc Bỉnh Thường bị bề tôi phản nghịch giết chết, xin triều đình xuất quân hỏi tội. Nay dò biết được binh mã của Bỉnh Thường đang tập trung tại trại gỗ nơi y ở, còn quốc mẫu và binh mã của Lương tướng công đang tập trung tại sào huyệt của quốc mẫu. Từ trại gỗ đến sào huyệt của quốc mẫu khoảng năm dặm, nay đã chặt cầu qua sông, người ngựa nam bắc không qua lại được. Lương tướng công đã xuất ngân bài để điểm tập binh mã, nhưng chưa biết có tuân theo hay không. Thần trước đây đã tâu xin nhân lúc quân chủ chưa định, người trong nước ly loạn, thuận theo mà xuất quân chiêu thảo. Vả lại, binh quý thần tốc, cơ hội không thể bỏ lỡ, huống chi bọn người phương Tây này làm phản, nước láng giềng nào chẳng động lòng? Khiết Đan trong mấy năm gần đây, mỗi năm thường ba bốn lần, lấy cớ lễ bái Phật tháp, muốn mượn đường qua Hưng châu, nhưng thực chất là muốn thôn tính nước ấy. Người phương Tây bình thường đã lo sợ việc này, huống chi nay trong nước có loạn, nếu nghe Trung Quốc bỏ mặc không đoái hoài, hoặc phòng bị mà chần chừ, thì e rằng Khiết Đan sẽ nhân cơ hội này xuất binh thôn tính, dễ như trở bàn tay. Nếu Tây Hạ thực sự bị Khiết Đan thôn tính, thì ngày sau ắt sẽ thành mối họa lớn cho Trung Quốc. Vì vậy, việc này hiện nay liên quan đến việc triều đình có hành động hay không, quyết định hay không quyết định.

Như người xưa nói: ‘Sở được thì Sở thắng, Hán được thì Hán thắng.’ Nay nếu lãnh thổ Tây Hạ về tay Trung Quốc, thì Khiết Đan sẽ bị cô lập, thế lực của họ một khi đã cô lập, thì từ từ sẽ bị ta tính toán. Binh pháp có câu: ‘Kẻ ra tay trước thì chế ngự người, kẻ ra tay sau thì bị người chế ngự.’ Xin bệ hạ lưu tâm, sớm vận dụng mưu kế thắng lợi, đây là cơ hội ngàn năm có một, bệ hạ lập nên công lao vạn đời, chính là ngày hôm nay vậy.”

Lại tâu: “Trước đây, Nguyên Hạo sắp chết, để lại lời di ngôn: ‘Ngày sau khi thế lực suy yếu, nên quy phụ Trung Quốc, tuyệt đối không thể bị ép theo Khiết Đan. Trung Quốc nhân từ yêu thương, còn Khiết Đan phụ bạc, nếu quy phụ Trung Quốc, thì con cháu được yên ổn, lại được quan tước; nếu bị Khiết Đan ép buộc, thì cả họ ta sẽ bị giết sạch không còn sót một ai.’ Lời này người trong nước đều biết, đến nay vẫn truyền nhau. Nay triều đình xuất quân thảo phạt, không chỉ dễ thành công, mà Tây Hạ vốn đã phòng bị Khiết Đan, ắt sẽ buông vũ khí quy thuận.”

Lại tâu: “Không cần phải điều động binh lực từ xa, chỉ cần phát binh của chín tướng trong lộ này, mang lương thực vượt biên, thẳng tiến đến sào huyệt. Binh quý thần tốc, chúng chưa kịp biết, quân ta đã đến biên giới rồi.” Vua phê: “Tuy triều đình đã sai Vương Trung Chính đi xem xét tình hình thực hư, nhưng vẫn lo rằng cơ hội binh cơ một khi đã mất, thì hối hận không kịp. Nên trước hết lệnh cho Thẩm Quát, Chủng Ngạc bàn bạc kín đáo việc điểm tập binh mã, tuyên cáo nghịch thuận, chiêu dụ các thủ lĩnh cầm quân ở biên giới, chờ đại quân hợp lực. Nhưng vẫn chưa được tùy tiện hành động, trước hết phải kín đáo chuẩn bị kế hoạch rõ ràng rồi tâu lên.”

(Bản Chu bỏ đi hơn ba mươi chữ trong lời tâu của Chủng Ngạc, nói rằng trùng với văn thư ngày Nhâm Thân, không cần chép lại. Nay vẫn giữ nguyên.)

[33] Hoàn Châu thuộc Khương, thủ lĩnh tộc Mộ Gia là Nghênh Bô nhiều lần phóng hỏa giết người, quan lại không dám hỏi tội, hắn kết nối các bộ lạc khác định làm phản. Tri Hoàn Châu là Trương Thủ Ước dẫn quân bắt giữ hắn cùng 36 đồng đảng, những kẻ còn lại chạy trốn vào nước Hạ. Thủ Ước đóng quân ở biên giới để bắt chúng. Sau vài ngày, Giám quân Vi Châu là Đa Di bắt được những kẻ phản loạn giao nộp. Thủ Ước xiềng xích Nghênh Bô và đồng bọn đem về, chém ở chợ Hoàn Châu. Kinh lược sứ Du Sung tâu lên, Vua ban chiếu rằng: “Tộc Mộ Gia thuộc Khương trước sau nhiều lần vi phạm kỷ luật, quấy nhiễu dưới trại, tướng giữ thành chỉ biết vỗ về, nuông chiều thành thói kiêu ngạo. Gần đây thủ lĩnh của chúng không lượng được thời thế, nối tiếp thói hung hãn trước, giết hại người vô tội, tập hợp đồng đảng. Nếu không có khanh biết rõ tình hình, vừa chiêu dụ vừa trừng trị, khiến chúng phải sợ hãi, thì họa tự thiêu cháy mình, hầu như không thể cứu được.”

(Việc này chép trong truyện của Trương Thủ Ước và Du Sung, không rõ thời gian. Theo 《Ngự Tập》, Kinh lược ty Hoàn Khánh tâu rằng Trương Thủ Ước bắt được thủ lĩnh phản loạn cùng đầu lâu, và chiêu hàng hơn 3.000 người trở về tộc cư trú, vào ngày 19 tháng 4, nay phụ chép. Tần Phượng vì con của Du Sung là Thừa Vụ Lang Thứ Cao viết ký rằng: “Năm Nguyên Phong thứ nhất tháng 8, Vua ban chiếu lấy tiên thần là Du Sung làm Thiên Chương Các Đãi Chế, An phủ Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ. Năm thứ 3 tháng 4, tộc Mộ Gia ở trại Túc Viễn Hoàn Châu là Bạch Tử cướp bóc người Khương, tập hợp binh lính làm loạn, đánh giết các tộc lân cận. Tiên thần sai tướng thứ hai là Trương Thủ Ước và Tẩu Mã Thừa Thụ Lục Trung chiêu hàng chúng, giết những kẻ không nghe lệnh, từ đó tộc Khương mới yên. Có khoảng 300 người chạy sang nước Hạ, lại sai Thủ Ước đóng quân ở biên giới[9], gửi hịch cho người Hạ bảo trả lại dân chúng. Người Hạ vâng mệnh sợ hãi, đưa dân chúng trở về. Ban đầu, khi tộc Khương Mộ Gia làm phản, phụ chép tâu lên, có chiếu rằng bắt được kẻ chạy trốn, không kể lớn nhỏ già trẻ, đều chém ngay tại chỗ. Đến lúc này, chém 122 thủ lĩnh, còn ghi chép 142 phụ nữ và trẻ em bị ép theo, xin triều đình, chiếu đều tha. Lại ban chiếu khen ngợi, tiên thần quỳ nhận đọc, cảm kích rơi nước mắt, lui về bảo chúng tôi rằng: ‘Ta vốn là kẻ cô độc, được Vua biết đến, ơn đãi ngộ như thế, tự nghĩ không thể báo đáp được một phần vạn, chỉ cùng các ngươi thề nguyện hiến thân mà thôi.’ Năm sau, tiên thần qua đời, chúng tôi ghi nhớ di huấn, ngày đêm lo lắng, nghĩ không có cách nào bày tỏ tấm lòng nhỏ bé, bèn tìm đá khắc chiếu chỉ, để lưu truyền mãi mãi, cũng là ý nguyện của tiên thần.

Xưa, tể tướng nhà Đường là Quyền Đức Dư từng đọc chiếu chỉ của Thái Tông ban, đến nỗi rơi nước mắt nói: ‘Quan hệ quân thần đến thế sao!’ Thần cho rằng muôn đời sau, sẽ có người đọc chiếu chỉ mà cảm động, lại như Đức Dư, há chỉ khuyên răn bách quan ngày nay sao?'”)

[34] Chiếu cho các tướng lĩnh phụ trách huấn luyện và đoàn kết ở phía đông Nam, binh lính 5.000 người thì bổ nhiệm một tướng và một phó tướng, 3.200 người thì bổ nhiệm một tướng đơn; các chức tướng quan đều do các quan huấn luyện đương nhiệm đảm nhiệm, nơi nào cần bổ nhiệm phó tướng thì tuyển chọn người phù hợp để bổ nhiệm.

[35] Chiếu rằng: “Các điều lệ của Ty Trà trường, lệnh cho Trung thư lập riêng phép thế chấp.” Trước đây, có chỉ đặc biệt cho Ty Thị dịch ngừng cho vay tiền quan, lệnh cho dân dùng vàng lụa để thế chấp, việc công tư đều thuận tiện, nên muốn mở rộng áp dụng.

[36] Bắc Ngoại Đô thủy thừa Trần Hữu Phủ tâu: “Trước đây thần vâng chỉ lệnh cho Tri châu Thâm Châu là Tôn Dân Tiên cùng một viên quan của Ty Chuyển vận Hà Bắc, cùng thần từ Vệ Châu, Vương Cung Tảo đến cửa biển xem xét dòng sông cũ. Vì thần vốn biết Tôn Dân Tiên thường có tấu nghị, muốn khôi phục dấu tích cũ của Đại Vũ, nên xin xem xét. Nay Dân Tiên đã mất, thần chưa dám đi.” Chiếu cho quan Ty Chuyển vận cùng xem xét.

[37] Ngày Mậu Dần, Sở Tường định lễ văn tâu: “Kính xét sách 《Lễ ký – Tế pháp》 viết: ‘Chôn thiếu lao ở Thái Chiêu để tế thời.’ 《Thi – Vân Hán》 viết: ‘Chẳng tiếc gì sinh vật.’ 《Chu lễ – Thái chúc chú》 viết: ‘Quái, Vinh đều có sinh vật.’ Đó là việc cầu đảo có sinh vật. Từ thời Hậu Ngụy trở đi, □[Hư Hòa án: Nguyên thư chỗ này để trống] nếu không phải đại tế, đều chỉ dùng phô hải, rượu tệ mà thôi. Nên 《Đường thư chí》 viết: ‘Cầu đảo dùng rượu hải.’ Xưa chỉ có bậc sĩ thấp kém mới dùng phô hải để tế, lẽ nào cầu đảo thần lớn, cung cấp cho quỷ thần mà lại không có mùi vị để thần linh hưởng ứng? Kính xin phàm cầu đảo ở giao miếu, xã tắc đều dùng thiếu lao.” Theo lời tâu.

(Ngày 21 tháng 4 năm thứ 4, y theo tấu.)

[38] Ngày Kỷ Mão, Kiến Hùng quân Tiết độ sứ, Tri châu Định Châu Hàn Giáng tâu việc tu sửa thành Bảo Châu đã xong. Ban chiếu khen ngợi.

[39] Đề cử hai lộ Hà Bắc Đông, Tây lộ Nghĩa dũng Bảo giáp Địch Tư tâu: “Theo chỉ dụ, trong các chỉ huy binh sĩ, có người tuổi cao bệnh tật, từ 55 tuổi trở lên, có em cháu con cháu đủ tiêu chuẩn, cho phép thay thế hưởng lương. Thần thấy trong số đó cũng có người không đủ sức phục vụ, xin cho phép thay thế những người từ 40 tuổi trở lên.” Chiếu cho các quân Mã, Bộ ở Hà Bắc đều theo quy định này.

[40] Chiếu cho quan phụ trách Quần mục ty cấp 7.984 quan tiền phong trang, giao cho Ty Mã, Bộ quân Điện tiền, dùng để mua cung tên cho các quân Cung tiễn thủ tập bắn, mỗi người 50 mũi tên. Các quân từ trước đến nay tự chuẩn bị tiền của, đều bị cấm.

[41] Ngày Canh Thìn, Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Lưu Thiệu Năng và các người khác dò biết Hạ quốc chủ Bỉnh Thường bị Lý Lang Quân dụ dỗ, chiêu mộ các kỹ nữ, nhạc công trong địa giới nhà Hán, Quốc mẫu đặt tiệc rượu dụ bắt Lý Lang Quân và những người khác giết chết.” Chiếu sao chép tờ tâu gửi cho Vương Trung Chính để thông báo, các lộ khác tâu việc tương tự đều theo quy định này.

[42] Ngự sử Vũ Văn Xương Linh tâu: “Gần đây, pháp luật sáu điều tra xét không áp dụng cho Trung thư, Xu mật viện, thần đã nhiều lần tâu trình, nhưng chưa được chỉ đạo. Thần cho rằng Trung thư, Xu mật viện là nơi quyết định việc bãi bỏ, ban thưởng, trừng phạt, hiệu lệnh, cần phải được kiểm soát chặt chẽ hơn.” Lại tâu: “Pháp luật sáu điều tra xét chỉ áp dụng cho các cơ quan khác mà không áp dụng cho Trung thư, Xu mật viện, đó là bỏ đại cương, trị tiểu tiết, thả sói lang, bắt chuột cáo. Mong xét lại tờ tâu trước để thi hành.” Không được trả lời.

[43] Ngày Nhâm Ngọ, Ngự sử tri tạp sự Thư Thiện tâu: “Các đại thần chấp chính tiếp khách đã có quy định, nhưng con em họ đi lại thăm viếng, giao tiếp với bạn bè vẫn chưa bị cấm, thực là không hợp lẽ.” Chiếu cho Trung thư lập pháp. Sau đó, lập pháp quy định: các quan chấp chính ở kinh thành, người thân trong họ không liên quan đến chức vụ và thân thuộc, không được đi lại thăm viếng, người vi phạm và người đi lại đều bị đánh 100 trượng.

[44] Ngự sử Phong Tắc tâu: “Quyền phán Hình bộ Trần Mục lệnh cho quan nghị thay viết trạng pháp, tội khinh mạn, đã hội giảm. Xét: Mục say rượu tự tại, gặp việc thường mê muội, thuộc hạ biện minh, lại nhẹ dạ nổi giận, việc hình pháp không phải sở trường. Xin đổi cho Mục một chức vụ nhàn hạ.” Không được trả lời.

[45] Ngày Giáp Thân, chiếu dời Ty Đề điểm phủ Khai Phong đến huyện Bạch Mã, Ty Đề cử đến huyện Quản Thành. Vì Ngự sử Mãn Trung Hành tâu: “Quan hai ty tuy danh là ngoại nhiệm, nhưng trị sở lại ở trong thành, không chuyên tâm công việc, chỉ lo chạy chọt xin xỏ.”

[46] Trung thư tâu: “Xét việc biến chuyển vật phẩm của Ty Nông lộ Xuyên Hạp, đã vận chuyển đến Thiểm Tây, cần xử lý. Lệnh các lộ Đề cử ty, trừ bạc và lụa, lĩnh, vải đúng mẫu có thể dùng thì giữ lại, còn lại biến chuyển, di dời, bán hoặc đổi lấy lương thực, đều chứa ở các châu quận biên giới, hạn trong một năm xong. Vật phẩm từ Xuyên Hạp đến Thiểm Tây chưa vận chuyển, sợ hư hỏng, thì thúc giục vận chuyển, nếu thiếu phu trạm, cho phép thuê người cùng chở, tiền chi phí lấy từ tiền biến chuyển.” Theo đó.

[47] Chuyển vận phó sứ lộ Hà Bắc là Giả Thanh tâu: “Lộ Phúc Kiến núi sông hiểm trở, người thấp bé, từ trước dân gian dùng binh khí khác với quân đội về tên gọi, chế độ, nặng nhẹ, lớn nhỏ. Xin cho chế tạo theo binh khí dân gian của bản lộ để bắt giặc. Còn phép dùng thương, đao, khiên, nón của tân binh mới chiêu, cũng xin theo phép tinh xảo dân gian, chọn người chỉ huy hoặc thợ thương trượng giỏi ở Ty Kiềm hạt để dạy tập. Thần đã chế tạo được sáu loại thương, đao, khiên, nón, xin đem vào trình.” Chiếu cho Thanh đem vào cửa Đông Nội.

[48] Ngày Ất Dậu, châu Thiền tâu rằng sông Hoàng Hà vỡ đê Tiểu Ngô Tảo.

(Sách 《Cựu kỷ》 chép: “Ngày Ất Dậu, sông Hoàng Hà vỡ đê Tiểu Ngô Tảo. Sông chảy về phía đông lâu ngày, bắt đầu vỡ và chảy về phía bắc.” Việc này cần xem xét kỹ để bổ sung. Lại nữa, ngày Canh Tý tháng 7 năm thứ 3 cũng cần xem xét kỹ.)

[49] Chiếu rằng ở các châu Doanh, Định, Thiền dự định xây dựng kho lương lớn để chứa lương thực dự trữ, mỗi châu xây hai kho, giao cho Kiển Chu Phụ, quan chuyên trách việc mua lương ở Hà Bắc, cử quan đến đó, xem xét nơi thích hợp để xây dựng rồi tâu lên.

(Ngày 15 tháng 8 thì khôi phục châu Hoạt, ở đây chép là châu Vị, chắc chắn là sai, nay sửa lại thành châu Thiền. Ngày 27 tháng 9 chép về Bắc Kinh và các nơi khác, cần xem xét. Lại nữa, ngày 11 tháng 3 năm này và chú thích ngày 11 tháng 7 năm thứ 6 cần tham khảo, hoặc chuyển chú thích về 《Ngự tập》 ngày 11 tháng 6 năm thứ 6 vào đây.)

[50] Tháng 5, ngày Mậu Tý, Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu: “Lộ này thiếu 9.700 khoảnh đất cho cung thủ, lấy 4.000 khoảnh đất đồi và đồng bằng ở dãy núi Lũng Sơn thuộc châu Vị, có thể chiêu mộ hơn 2.000 cung thủ. Các hộ canh tác có người không muốn ứng mộ, xin theo chiếu tháng 8 năm Hi Ninh thứ 8, thu lại đất của họ vào quan, và lấy đất của cung thủ bỏ trốn chia đều cho những người thiếu đất.” Chiếu rằng: “Đất ở dãy núi Lũng Sơn thuộc châu Vị và quân Đức Thuận, cho dân tiếp tục canh tác và nộp tô như cũ. Những cung thủ đang tại ngũ bỏ trốn mà hết hạn không tự thú, đất của họ sẽ giao cho cung thủ thiếu đất.”

(Chiếu tháng 8 năm Hi Ninh thứ 8 cần xem xét.)

[51] Ngày Kỷ Sửu[10], lấy quyền phán quân khí giám, Triều thỉnh đại phu Lý Lập Chi làm quyền tri châu Thiền, sai Nội cung phụng quan, Câu đương Ngự dược viện Đậu Sĩ Tuyên giám sát việc đắp đê chỗ sông vỡ tại Tiểu Ngô Tảo. Mã quân Phó đô chỉ huy sứ Yến Đạt và Đô đại đề cử Hà Bắc chuyển vận phó sứ Chu Hoa tâu: “Chỗ sông vỡ tại Tiểu Ngô Tảo, bản châu tuy đã phát 6.000 dân phu khẩn cấp để tu sửa, sau đó lại điều thêm dân phu và binh lính từ các vùng lân cận cùng thuyền chở củi và rơm, nhưng số người được huy động vẫn còn ít. Xin cho phép điều động binh lính từ các châu quân gần đó, cùng với việc rút binh lính từ các đê khác để cùng góp sức thi công.” Triều đình đồng ý. Chiếu rằng do đê Tiểu Ngô Tảo năm trước tu sửa không chắc chắn, lệnh cho Hà Bắc chuyển vận ty truy cứu trách nhiệm các quan lại đương chức, còn Nam ngoại đô thủy giám thừa Tô Dịch tạm thời bị cách chức.

[52] Ngày Canh Dần, Ty Kinh lược An phủ sứ Quảng Nam lộ tâu: “Trước đây được chỉ ban 65.000 quan tiền, cho phép người dân vay mượn sinh lãi và buôn bán với các châu khác để kiếm lợi, chuyên dùng vào việc kinh lược và phủ dụ man di. Sau đó dùng tiền này khai mỏ vàng tại các động Điền Nãi thuộc châu Ung, mỗi năm mua 3.000 lạng vàng để cung tiến. Gần đây do chiến sự, dân chúng nghèo khó, lợi tức từ buôn bán giảm sút, sản lượng vàng từ mỏ cũng ít ỏi, chi phí hàng năm lại gấp đôi trước đây, e rằng sẽ không tránh khỏi thiếu hụt. Xin ban đặc ân 500 độ điệp để thu tiền thêm vào làm vốn.” Chiếu chỉ ngừng việc cống vàng hàng năm.

[53] Chiếu tha tội cho Bộc Dương quận vương Tông Huy. Tông Huy bị tội vì nhận gỗ từ lăng tẩm do Tam lăng đô giám Chu Giao Hữu đốn trộm để đóng xe, bị Thị ngự sử tri tạp sự Thư Thiện đàn hặc.

[54] Chiếu rằng: “Sông Hoàng Hà vỡ đê ở Tiểu Ngô Tảo, đã hoàn toàn chuyển dòng qua sông lớn. Nếu chỉ theo lệ thường điều động 3.000 đến 5.000 dân phu khẩn cấp thì chắc chắn không thể ngăn được. Hiện đang vào mùa thu hoạch tằm và lúa mạch, không nên tùy tiện điều động sức dân. Nên lệnh ngay cho Yến Đạt xem xét, nếu có thể điều động binh lính từ các đê phía đông bị lùi lại[11], thì không cần điều động dân phu khẩn cấp. Đối với các hộ dân ở châu huyện bị ngập lụt, lệnh cho Ty Chuyển vận cứu hộ thành quách, đồng thời cử quan viên dùng thuyền bè cứu người, và lệnh cho các Ty Đề cử Đông, Tây lộ nhanh chóng cứu tế.”

[55] Châu Thiền tâu: “Sông Hoàng Hà vỡ đê, nước tràn vào thành, thế nước hung dữ. Bản châu không có binh lính để điều động và cũng không có cỏ lau, xin được điều động 500 đến 700 binh lính trong lộ, cùng với việc mượn 1.000 cọc và 20.000 bó cỏ lau từ trường đê, bản châu đã mua sẵn 40.000 bó cỏ.” Triều đình đồng ý.

[56] Ngày Giáp Ngọ, Yến Đạt tâu: “Dòng cũ Tiểu Ngô đã bị cắt đứt, hiện nước lũ đang dâng cao, cửa sông đều sâu và rộng, đê đập chưa ổn định, khó tính toán công sức và vật liệu, chưa thể tu sửa và ngăn chặn.” Chiếu lệnh Yến Đạt tạm thời về kinh, đồng thời lấy Quyền Tri châu Thiền là Lý Lập Chi làm Quyền Phán Đô thủy giám, lệnh cho Lập Chi từ Hà Dương đến cửa vỡ đê Tiểu Ngô kiểm tra đê đập.

[57] Thượng chỉ phê: “Nghe nói từ khi các lộ phía đông nam lập quân đội, binh lính ngày ngày tập luyện, những kỹ năng làm việc và thủ công trước đây để kiếm thêm thu nhập riêng không còn thời gian làm; cùng với các quân lính dưới quyền Tuần kiểm được cấp thêm lương, đôi khi bắt được giặc cũng được thưởng. Nay đã chiêu mộ thổ binh, không còn luân phiên ra vào, cũng là bịt kín một con đường kiếm ăn, do đó trong quân đội có nhiều người rất nghèo, ngày không đủ ăn. Nên nhanh chóng tìm hiểu lợi hại và có biện pháp xử lý.” Do đó, chiếu lệnh các Ty Chuyển vận và Đề điểm hình ngục của các lộ Hoài Nam, Lưỡng Chiết, Giang Nam, Kinh Hồ, Phúc Kiến, Quảng Nam bí mật điều tra xem từ khi ban hành quy định tập luyện mới, binh lính có bị thiệt hại gì không rồi báo lên.

[58] Xét duyệt việc tập hợp các quân ở Hoài Nam và các lộ khác, Thạch Đắc Nhất tâu rằng: “Quân tập hợp ở Giang Nam Đông lộ và Hoài Nam Tây lộ võ nghệ còn non kém, không theo phép cũ để kết thành đội, gọi tên từng đội mà không phối hợp với nhau. Các quan đề cử huấn luyện là Đinh Hối ở Giang Nam Đông lộ, Triệu Vĩnh Ninh ở Hoài Nam Tây lộ cùng các quan phụ trách giáo duyệt và các sứ thần áp đội đều lơ là, xin xử lý.” Chiếu chỉ cách chức Đinh Hối và Triệu Vĩnh Ninh, còn lại đợi định xong thứ hạng rồi sẽ lấy chỉ.

[59] Ngày Đinh Dậu, chiếu cho Lưu Định, đề điểm hình ngục lộ Hà Đông, chuyên lo cứu tế nhân dân bị thiệt hại do lũ lụt.

[60] Ngày Mậu Tuất, chiếu cho các hộ giữ phần mộ của Thượng hoàng ở Bảo Châu được miễn tham gia nghĩa dũng và bảo giáp, chỉ cần phụ vào bảo.

[61] Đề cử tróc sát giặc man ở Lô Châu là Bành Tôn tâu rằng, Dương Quang Chấn chém được thủ cấp của Tống A Ngoa, nhưng sợ là giả dối. Chiếu rằng: “Triều đình muốn dùng nhiều cách để thưởng và chiêu mộ người diệt trừ Khất Đệ. Việc Dương Quang Chấn chém được thủ cấp Tống A Ngoa, dù không thật, triều đình vẫn nên thành tâm không nghi ngờ, trọng thưởng để khích lệ, huống chi đã được quân Nam Bình tập hợp người nhận mặt xác nhận, triều đình đã ban ơn mệnh, Bành Tôn không được tỏ ý nghi ngờ ngoài ý muốn, khiến Quang Chấn và những người khác sinh lòng phản trắc, không thể hợp lực làm việc.”

[62] Thượng phê: “Ty đề cử bảo giáp phủ Khai Phong đang bắt đầu sắp xếp việc tập hợp và giáo duyệt, trong lúc Vương Trung Chính chưa về, nên cho Lưu Quản và Lộ Xương Hoành, nếu có việc chức sự gì khó khăn, đến ty thừa chỉ Xu mật viện để bẩm báo nghị sự. Nếu triều đình có điều gì muốn biết, ty thừa chỉ tạm triệu quan đến để hỏi.”

(Lưu Quản cùng đề cử giáo duyệt bảo giáp phủ giới, vào ngày Canh Tý tháng 3; Lộ Xương Hoành vào ngày Canh Tý tháng này được quyền phát khiển đề cử thường bình phủ giới, rồi trừ chức kiểm chính phòng hình, ba ngày sau vẫn chưa thấy lúc đề cử bảo giáp.)

[63] Thiểm Tây chuyển vận sứ, Đô đại đề cử trà trường Lý Tắc tâu: “Thần phụ trách pháp lệnh trà đã ba năm, tuyển chọn quan thuộc, đồng tâm hiệp lực, thực hiện các điều chiếu. Nay các quan châu được bổ nhiệm đã mãn nhiệm kỳ, xin bản ty từ nay được tâu xin bổ nhiệm các chức Tri châu Nhã Châu, Hán Châu, Thông phán Cung Châu, Bành Châu, Lợi Châu, và Tri huyện Danh Sơn, Vĩnh Khang, Miên Cốc, Thuận Chính. Mong duy trì pháp độ, lâu dài không lơ là.” Chiếu rằng: Nếu quan dưới quyền buông lỏng, chỉ cho ty trà trường tâu xin thay đổi và xử tội để tâu lên.

[64] Ngày Kỷ Hợi, Đại Danh phủ lộ An phủ sứ Vương Củng Thần tâu: “Dân chúng ở các châu huyện dưới quyền bị lũ lụt, tản cư lên nơi cao, trộm cướp nhiều, khó xin từng việc, cần xử lý ngoài pháp luật.” Chiếu rằng: Phạm tội trộm cắp dù là tháng nóng, đặc biệt cho xét những trường hợp tình nặng mà pháp nhẹ để tâu xin xử lý.

[65] Ngày Tân Sửu, Tân quyền Giang Ninh phủ Quan pháp suy quan Chung Thế Mỹ được bổ làm Thừa vụ lang, Trung thư hộ phòng Tập học công sự.

[66] Ngày Quý Mão, Phán Quân khí giám, Long đồ trực học sĩ, Thái trung đại phu An Đào bị giáng làm Trung đại phu. Vì cùng Thừa Tăng Hiếu Liêm bàn việc không hợp, đôi bên tâu hặc nhau, mà Đại Lý xét thấy lời tâu của An Đào không đúng sự thật.

[67] Ân Châu tâu: “Sông Hoàng Hà vỡ đê ở Thiền Châu, chảy vào Ngự Hà, bản châu rất nguy cấp. Xin lấy các vật liệu đê điều và binh lính Hà Thanh ở các chỗ đê lở trong châu, điều động đến bản châu; các sứ thần Đô đại sứ Bắc ngạn và các sứ thần Tuần hà cũng xin cho đến châu để chỉ huy công việc.” Theo lời tâu, cỏ được lệnh cho ty Bắc ngoại đô thủy thừa lượng ứng phó.

[68] Ngày Ất Tỵ, Thái trung đại phu, Tri đàm châu Tạ Cảnh Ôn được thăng làm Thông nghị đại phu; Chuyển vận phó sứ Kinh Hồ Nam lộ, Triều phụng lang, Trực tập hiền viện Chu Sơ Bình được thăng làm Triều tán lang; Chuyển vận phán quan, Triều tán lang Triệu Dương được thăng làm Triều thỉnh lang, sung chức Bí các hiệu lý; Triều phụng lang, Quyền tri Thiệu châu Quan Kỷ được thăng làm Triều tán lang; Cung bị khố phó sứ Chu Sĩ Long được thăng làm Tây kinh Tả tàng khố phó sứ kiêm chức Cáp môn thông sự xá nhân. Đó là do có công chiêu nạp và tu sửa thành trại ở châu Huy, châu Thành. Khi đó, Chu Sơ Bình tự tâu rằng từ khi trở về từ Quỳnh Quản thì công việc xây dựng thành trại đã hoàn thành, xin miễn thăng chức, được chấp thuận.

[69] Chiếu rằng: “Từ nay, các khoản tích thặng của thường bình cùng với tiền thu được từ phường trường và tiền phải nộp của Ty Nông tự ở Thành Đô phủ và Tử Châu lộ, kể từ ngày Lý Nguyên Phụ trở về, hàng năm giao cho Ty đề cử đổi lấy vật phẩm và lụa gửi đến hai Ty đề cử ở Thiểm Tây lộ để biến chuyển, rồi đưa về các châu quận trọng yếu ở biên giới để tích trữ.”

[70] Chiếu rằng: “Các khoản nợ thế chấp nhà cửa và tài sản của dân hộ tại các Thị dịch vụ trong và ngoài kinh thành, cùng với tiền lãi và tiền phạt do vay mượn có bảo lãnh, đều được xóa bỏ theo thứ bậc. Tiền gốc được chia làm ba kỳ nộp[12], tiền lãi và tiền phạt quá hạn được chia làm ba phần, xóa bỏ theo thứ bậc: Nếu nộp đủ tiền gốc trong kỳ đầu, thì tiền lãi và tiền phạt đều được xóa; kỳ thứ hai, xóa hai phần; kỳ thứ ba, xóa một phần; nếu quá hạn vẫn còn nợ, thì ước tính bán tài sản thế chấp và bắt người bảo lãnh nộp thay. Số tiền thu được, tại kinh thành giao cho Thị dịch vụ hạ giới, tại các địa phương giao cho Ty đề cử phong trang.”

[71] Thượng phê: “Nghe nói ở Doanh Châu trước đây không có nước sông Hoàng Hà tràn vào địa giới, nay đang huy động gấp khoảng hơn một vạn dân phu, quá mức gấp rút, làm hao tổn sức dân, nên lệnh cho giải tán ngay. Từ nay, nếu không phải là tường thành hay đê điều đang trong tình trạng cực kỳ nguy cấp, thì không được tùy tiện điều động.”

[72] Ngày Đinh Mùi, xuống chiếu cho Tô Tụng, người đang giữ chức Tri châu Thương, bị giáng làm Trung đại phu, Học sĩ Viện Tập hiền, tạm quyền phán xử việc ở Lại bộ, đợi khi mãn nhiệm kỳ sẽ lấy chỉ dụ phục chức; bãi chức Kiểm chính Trung thư Khổng mục phòng Lại phòng Công sự Vương Trắc Thần, cho trở lại làm Độ chi Phán quan. Trước đó, Tô Tụng được chỉ dụ phục chức Thái trung đại phu, nhưng Tri chế cáo Thư Thiện tâu rằng: “Tô Tụng trước đây cai trị kinh thành, vì có liên hệ thân thích với Tôn Thuần nên đã dung túng cho Thuần vay tiền của nhà chùa mà không xử lý. Thánh thượng khoan dung, chỉ giáng chức nhẹ, nhưng chưa được bao lâu lại có lệnh bổ nhiệm này.” Đồng thời, Đồng tri Gián viện Thái Biện cũng tâu: “Tể tướng đặt chức duyện để dùng người công chính có tài năng, nhưng Trắc Thần không có đức tính đặc biệt, tài năng cũng không có gì nổi bật, chỉ biết nịnh hót, a dua với người quyền quý, cầu an để được dung thân. Xin đặc biệt thu hồi mệnh lệnh này.” Vì thế mới có mệnh lệnh trên.

[73] Ngày Mậu Thân, xuống chiếu cho các lộ Hà Đông, Hà Bắc[13] Chuyển vận ty tìm kiếm nơi có mộ và miếu thờ của Trình Anh và Công Tôn Xử Cữu. Do Thừa nghị lang Ngô Xử Hậu tâu rằng hai người này đã bảo toàn được đứa trẻ mồ côi họ Triệu, xin phong tước để tưởng nhớ. Sau đó, Chuyển vận ty tâu rằng mộ của Trình Anh và Công Tôn Xử Cữu nằm ở phía tây nam huyện Thái Bình, châu Ráng, trong khu mộ của Triệu đại phu, và tượng của họ được thờ trong miếu. Chiếu phong Trình Anh làm Thành Tín hầu, Công Tôn Xử Cữu làm Trung Trí hầu, cho lập miếu riêng bên cạnh mộ, đưa vào điển lễ thờ cúng.

(Ngô Xử Hậu dâng sớ xin, chỉ rõ việc liên quan đến hoàng tử, nên kiểm tra kèm theo. Cả sách mới và cũ đều ghi chép việc phong tước cho Trình Anh và Công Tôn Xử Cữu. 《Thần Tông bảo huấn》, thiên “Tưởng trung nghĩa” chép: “Năm thứ tư, Giám thuế trúc mộc bạc trường Kinh Đông Ngô Xử Hậu tấu: ‘Thần thường xem xét việc hưng phế của họ Triệu, chỉ có Trình Anh và Công Tôn Xử Cữu là hai người đã dốc hết sức chết để bảo vệ đứa trẻ mồ côi họ Triệu, là bậc trung nghĩa nhất. Xin cho tìm kiếm mộ và miếu thờ của hai người trong khu vực Tấn và Triệu, đặc biệt phong tước để tưởng nhớ, đưa vào điển lễ thờ cúng vĩnh viễn.’ Chiếu rằng việc tưởng nhớ công lao và truy xa là việc thiện giáo của triều đình, nên theo lời tấu. Sau đó tìm được mộ của hai người ở huyện Thái Bình, châu Ráng, chiếu phong Trình Anh làm Thành Tín hầu, Công Tôn Xử Cữu làm Trung Trí hầu, cho lập miếu, đưa vào điển lễ thờ cúng.”)

[74] Tri châu Hi Châu là Miêu Thụ tâu: “Nhận được văn thư của thủ lĩnh lớn ở biên giới phía tây là Vũ Tàng Hoa Ma nói rằng, mẹ con quốc chủ nước Hạ bất hòa, đã giết tể tướng của họ.” Chiếu cho Miêu Thụ sai người bí mật dụ dỗ Hoa Ma theo ý của bản ty rằng: “Từ tháng 3 trở lại đây, các nơi dò xét báo cáo về biến loạn ở nước Hạ, lời nói không thống nhất, ngươi hẳn biết rõ. Nay sông Hà Tân bị chia cắt nam bắc, tình hình nhân tâm ly tán, có thể bí mật nói với người đi và viết một văn thư làm tin.” Lại lệnh cho Kinh lược ty lấy những vật khó kiếm mà họ cần gấp làm tin, hậu tặng Hoa Ma[14].

[75] Ngày Kỷ Dậu, chiếu cho Thừa giám Nội thủy Bắc ngoại đô là Trần Hữu Phủ bị cách chức. Vì Ngự sử Mãn Trung Hành tâu rằng, Hữu Phủ cùng Tô Dịch đóng cửa sông Tiểu Ngô, bờ đê ở châu Thiền lại thuộc địa phận của Hữu Phủ, nay Dịch vì vỡ đê mà bị cách chức[15], không nên cùng tội mà hình phạt khác nhau.

[76] Trung thư tâu: “Phòng Hình xét lại kỳ thi quan pháp luật, người hạng nhất một người muốn bổ làm quan pháp luật, hạng nhì ba người muốn thăng một bậc, hạng ba mười người cho bổ nhiệm tại đường, hạng ba tám người cho miễn thi, lại thăng một bậc thứ tự, hạng ba mười hai người cho miễn thi.” Theo lời tâu.

[77] Ngày Canh Tuất, hoàng tử Thích mất. Thích là con thứ tám của Vua, mẹ là Hiền phi họ Hình. Thích sinh được bốn năm thì mất. Bãi triều năm ngày, lại không coi chính sự ba ngày, truy tặng tên, tặng Thái sư, Thượng thư lệnh, phong tước Vận vương, thụy là Xung Huệ.

(Sinh tháng 11 năm Nguyên niên, cả hai kỷ đều chép.)

[78] Ngày Quý Sửu, Ngự sử Mãn Trung Hành tâu: “Khai Phong phủ xử án Cái Tiệm, Tiệm có ruộng đất cầm cố cho Đô thừa chỉ Xu mật viện là Trương Thành Nhất. Việc cầm cố vừa không đủ giá trị ban đầu, lại không bồi thường đầy đủ, lại còn ước hẹn tương lai chuộc ruộng sẽ lấy giá cao, tham ô phạm pháp, khác gì cướp bóc? Mà lời đồn đại cho rằng cựu tri huyện Dương Trạch là Tôn Bôn chính là người đứng sau. Bôn khi tại chức có nhiều hành vi gian trá, trước đây vì gia sản của Cái Tiệm bị kiểm tra, Bôn đã vi phạm pháp luật, chuyển nhượng tài sản như của riêng, mua với giá gấp đôi, bồi thường nửa giá, dưới thì chiều chuộng thân thuộc, trên thì kết giao với quyền quý. Thành Nhất vì lợi mà bị mua chuộc, nên nhiều lần tiến cử Bôn lên triều đình. Xét Thành Nhất giữ chức vụ trong Xu phủ, là bề tôi thân cận của bệ hạ, lại ỷ thế quyền lực, tham ô giao thiệp bên ngoài, mượn công trả thù, lừa dối thánh thượng. Nay nghe nói quan lại điển ngục Khai Phong phủ đang truy bắt nhân chứng, nhưng Bôn lại không bị bắt.” Chiếu giao cho Khai Phong phủ xử lý.

(Cần tìm hiểu nguyên nhân vụ án Cái Tiệm, ghi chép trước. Ngày 6 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ nhất có thể tham khảo, ngày 13 tháng 6 cùng năm cũng có thể xem xét.)

[79] Đô đại kinh chế Lô Châu man tặc Lâm Quảng tâu: “Cử Tá chức Sử Lợi Ngôn mang văn thư giao cho Khất Đệ, nhằm tìm tung tích Vương Tuyên, đồng thời lấy danh nghĩa thuyết phục quân man, bí mật dò xét đường tiến quân, dũng cảm đáng khen.” Chiếu thăng Sử Lợi Ngôn một chức. Lại chiếu cho Quảng hỏi Lợi Ngôn về đường sá, hang ổ, hiểm trở, xa gần, cùng những điều mắt thấy tai nghe, lệnh vẽ bản đồ tường tận trình lên. Ban đầu, Lợi Ngôn đến hang ổ Khất Đệ, Khất Đệ sai nô tài là Sa Tự, A Nghĩa[16] đi theo, dâng 40 con ngựa và trả lại 7 binh sĩ bị bắt, lời lẽ rất khiêm tốn, nhưng Lợi Ngôn cho biết ý định đầu hàng của Khất Đệ vẫn chưa quyết. Lợi Ngôn vốn đi thuyền từ Nạp Khê, đường đi mà ông trình bày, đại quân tiến vào không đi theo hướng này.

(Sự việc ngày 27 tháng 5 năm Quý Sửu.)

[80] Ngày Giáp Dần, Lữ Công Nhụ, Tri thẩm quan đông viện, Thông nghị đại phu, kiêm quyền Phán đô thủy giám, thay thế Trương Đường Dân. Do Ngự sử Mãn Trung Hành tâu rằng: “Đường Dân vốn không có năng lực, lại già yếu, thường ngày lơ là, không để ý đến việc phòng chống lũ lụt, một khi có tai họa thì việc cứu hộ và kế hoạch đều do triều đình cử quan khác đảm nhiệm, Đường Dân chỉ an nhàn hưởng thụ, xử lý mọi việc một cách thờ ơ, e rằng không phải là ý nghĩa của việc chọn người làm quan.”

(Ngày 18 tháng giêng năm thứ 3, lấy Trương Đường Dân, Lang trung Binh bộ, và Lưu Định, Viên ngoại lang Đồn điền, quyền Phát khiển Hà Bắc lộ Đề điểm hình ngục, cùng quyền Phán đô thủy giám.)


  1. Chữ 'Thác' nguyên là 'Thác', căn cứ vào các bản, 《Tống Hội Yếu》 phần Phiên Di 5-87 và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 88 phần Thảo Mai Sơn Man sửa lại.
  2. Căn cứ vào chiếu hỏi Giả Thanh nguyên do thêm vào 'Căn cứ chiếu' nguyên bản là 'yếu kiến', căn cứ vào bản các đời sửa lại.
  3. 'Ấn' nguyên là 'Chú', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 24-21 sửa
  4. 'Tổn' nguyên là 'Quyên', theo các bản và bản hoạt tự sửa
  5. Chương thứ tám nói Quyên tuyển hưu thành thiên địa tịnh huống: Xét theo 《Hán thư》 quyển 22, 《Lễ nhạc chí》, 'Quyên tuyển hưu thành' thuộc chương thứ bảy của bài ca tế giao Duy Thái Nguyên.
  6. Lương tướng công, bản các làm 'hữu'.
  7. Trong bản gốc chữ 'quan' thừa chữ 'hộ', theo các bản khác và văn dưới mà bỏ.
  8. Chữ 'Kinh' và 'sứ' vốn thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 355, truyện Lý Nam Công bổ sung.
  9. 'Tái' nguyên là 'Trại', theo bản các sửa.
  10. Nguyên bản là 'Kỷ Dậu', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại.
  11. Nếu có thể điều động binh lính từ các đê phía đông bị lùi lại, 'đê' nguyên bản viết sai là 'dung', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 15/7 sửa lại.
  12. Nguyên văn 'phân tam quý' viết nhầm thành 'tam phân quý', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 37-30 sửa lại.
  13. Chữ 'Hà' trong 'Hà Bắc lộ' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Văn hiến thông khảo》 quyển 103, phần Tông miếu khảo bổ sung.
  14. Hậu tặng Hoa Ma, chữ 'tặng' nguyên là 'khiển', theo các bản sửa lại.
  15. Nay Dịch vì vỡ đê mà bị cách chức, chữ 'vì' nguyên ở dưới chữ 'chức', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại
  16. A Nghĩa, chữ 'A' nguyên bản là 'Hà', căn cứ vào các bản và quyển 311 năm Nguyên Phong thứ 4, tháng giêng, ngày Tân Mão sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.