"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 313: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)

Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 6, ngày Bính Thìn mùng một, Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận sứ Tôn Khẩn[1] cùng các quan tâu rằng, xin tăng thêm 500 đến 700 quân đồn trú tại thành Hội Khê, châu Thần[2], dần dần chiêu dụ các bộ tộc người Man ở Thượng Khê, đồng thời cử Tri châu Thần Châu là Trương Lân Thần và Thông phán Liễu Khái lo việc này. Triều đình chấp thuận.

[2] Ty Chuyển vận lộ Quỳ Châu tâu rằng: Tuần kiểm giới Di châu Bá thuộc quân Nam Bình là Dương Quang Chấn xin bổ nhiệm La Cổn và những người khác làm tướng giữ chốt, cùng cấp lụa là để vỗ về La thị Quỷ chủ, không cho họ tiếp ứng Khất Đệ, và chiêu dụ các tộc Lý Ca Thuận, Man Châu. Vua phê: “Nên theo như lời xin. Có thể hạ lệnh cho Đô đại Kinh chế công sự dẹp giặc Man châu Lô và Ty Kiềm hạt lộ Tử Quỳ chỉ huy, cùng lệnh cho Bành Tôn tiếp ứng.”

[3] Lâm Quảng tâu: “Tri châu Tuyền Châu là Lý Man xử phạt quân lính phạm tội cấp bậc là Quách Lập không đúng, cũng không báo cáo. Lý Man trước đây làm Tri châu Lô, gây ra việc biên giới, nay lại không xét tình lý, dung túng quân sĩ phạm tội, e rằng sẽ sinh ra chuyện khác.” Chiếu cho Ty Chuyển vận hặc tội Lý Man, đồng thời đuổi ra khỏi địa giới Xuyên, vĩnh viễn không được bổ nhiệm ở vùng Xuyên Hạp. Từ nay, nếu binh lính thuộc quyền Lâm Quảng phạm quân pháp, đều phải báo cáo Lâm Quảng, các nơi không được tự ý thi hành.

[4] Ngày Mậu Ngọ, lấy quyền Phán Binh bộ, giáng thụ chức Thừa nghị lang, Thiên Chương các Đãi chế là Triệu Tiết làm quyền Phát khiển Tam ty sứ.

[5] Chiếu rằng: “Đường sông chảy về phía đông đã bị bồi lấp, không thể khôi phục được nữa, từ nay về sau không tu sửa hay đóng cửa sông Tiểu Ngô nữa, đợi khi thấy sông lớn quay về dòng cũ, nếu cần xây đê phòng thì giao cho Lý Lập chi lo liệu và tâu lên. Các châu huyện liên quan đến việc tu sửa đê bảo vệ thành trì đều nghe theo sự phân xử của Lý Lập.” Lúc đó, có người bàn muốn khôi phục dòng sông cũ thời Vũ, Vua nói: “Núi sông thay đổi, dù Vũ thần tái sinh cũng không thể bắt sông chảy theo dòng cũ được. Bản tính của nước là chảy xuống chỗ thấp, nay chỉ vì các châu huyện ngăn trở, chặn dòng nước, khiến nó không chảy theo bản tính, đó là việc trị thủy chứ không phải đạo trị thủy. Nếu xét theo đạo, thì nước chưa từng gây họa, mà chính các châu huyện là nguồn gốc gây hại cho nước.”

(Sách cũ chép: Ngày Mậu Ngọ, chiếu rằng sông vỡ đê chảy về phía bắc, thuận lợi không bị tắc.)

[6] Chiếu rằng các quận ở Hà Bắc nạn châu chấu ngày càng nghiêm trọng, giao cho Đề cử quan Đông lộ là Lý Nghi Chi đốc thúc việc bắt châu chấu.

[7] Đề điểm hình ngục Đông lộ Hà Bắc là Lưu Định tâu: “Một nhánh sông Vương Mãng từ địa giới Đại Danh chảy xuống hợp với dòng lớn đổ vào Ký Châu, cùng với hai nhánh sông từ chỗ vỡ đê ở Từ Điển, Ngự Hà thuộc Lâm Thanh và chỗ vỡ đê ở đập Triệu Thôn thuộc Ân Châu cũng đổ vào phía đông thành Ký Châu. Nếu hình thành sông mới, dòng lớn khó chảy về phía tây, hoàn toàn trái với luận bàn của Lý Thùy và Tôn Dân Tiên, mong sớm có biện pháp.” Chiếu giao cho Lý Lập chi.

[8] Ty Đô đại kinh chế man tặc Lô Châu tâu: “Đã gửi thư cho Tri quân Nam Bình là Ngụy Tòng Cách, đợi khi bản ty gửi thư thông báo ngày vào địa giới, sẽ theo sự chỉ huy của Bành Tôn, dẫn quân phối hợp tiêu diệt Khất Đệ.” Chiếu rằng Lâm Quảng và Bành Tôn khi vào địa giới man, phải thống nhất thời gian tiến quân, cốt sao đầu đuôi tương ứng, chia cắt thế giặc, nhất định phải tiêu diệt hoàn toàn.

[9] Ngày Kỷ Mùi, Quyền phát khiển Phó sứ Tam ty Độ chi là Kiển Chu Phụ làm Thể lượng an phủ lộ Hà Bắc, ngoài việc phòng chống lũ lụt do Lý Lập chi lo liệu, còn phải xem xét kỹ lưỡng và thực hiện việc cứu tế.

(Sách cũ chép: Chu Phụ thể lượng an phủ vùng lũ lụt Hà Bắc.)

[10] Chiếu giao cho Chuyển vận phó sứ lộ Quỳ Châu là Tiên Vu Sư Trung chuyên lo việc ứng chế quân nhu cho Lô Châu.

[11] Thượng phê: “Khai Phong phủ xử án của Cái Tiệm, giam giữ đã lâu, xét việc xử án này, trong dân gian chỉ là việc nhỏ. Phủ này kéo dài như vậy, ắt là do lời tâu của Ngự sử, dẫn đến việc suy xét ngoài ý muốn, trong tiết trời nóng nực, truy bức không ngừng, mong gán tội cho cận thần để bịt miệng người nói. Nên hạn trong trăm ngày kết thúc, không được kéo dài thêm.” Lại xuống chiếu cho Xu mật đô thừa chỉ kiêm Tường định quan chế Trương Thành Nhất, Khai Phong phủ xét việc kiện tụng ruộng đất, nếu có việc liên quan đến quan chế, thì bẩm báo với chấp chính để tạm miễn.

(Cùng ngày 27 tháng 5, 4 tháng 6, 13 tháng 6.)

[12] Chiếu: “Dân bị lụt ở Hà Bắc có người trẻ khỏe, chiêu mộ bổ sung vào số quân Sương các châu thiếu hụt, chỉ cấp một nửa lệ vật. Dân gian có nông cụ, tính giá trị để đổi lấy lương thóc Thường Bình, đợi khi nước rút sẽ thu hồi lại.”

[13] Chiếu: “Việc người Quy Minh giết hại lẫn nhau, giao cho quan ty thuộc lộ xem xét xử lý, không được xâm phạm lẫn nhau, nếu đã thi hành thì vẫn phải thông báo cho nhau biết.”

[14] Ngày Nhâm Tuất, Ty Chuyển vận Quỳ Châu lộ tâu: “Xin hạ lệnh cho Bành Tôn, nếu được ủy nhiệm từ đường Nam Bình quân tiến vào sào huyệt của Khất Đệ, thì cùng với ty này bàn bạc kỹ lưỡng việc vận chuyển lương thảo.” Chiếu: “Nghe nói từ Nam Bình quân đến sào huyệt của Khất Đệ đường xa, đường vận lương khó khăn, đã hạ lệnh cho Bành Tôn theo đường thuận tiện tiến đánh.”

[15] Tri Khánh châu, Thiên Chương các đãi chế Du Sung mất. Sung biết Vua có ý dùng binh, nhiều lần xin đánh Tây Hạ. Trước đó một tháng, lại tâu: “Giặc Tây Nhung ngang ngược đã lâu, từ đời Nhân Tông muốn dẹp yên, nhưng chưa có kế sách. Gần đây vâng chiếu dò xét sào huyệt giặc, việc của Bỉnh Thường, thần không ngừng sai người vào sâu do thám, nhưng chưa nắm được tình hình, có người nói Bỉnh Thường đã bị dân giết, có người nói vẫn còn sống, không tham gia chính sự, bị mẹ giam cầm.

Theo ý thần, việc Bỉnh Thường sống chết e không đáng kể, dù sống cũng chỉ là hư danh. Năm 21 tuổi mà chưa được tham gia việc nước, dù ở nước ngoài, nhưng là bề tôi được triều đình phong giữ đất, muốn theo lễ nhà Hán để thờ nước lớn, có tội gì? Mà mẹ hắn giận, bèn bị giam cầm, giết tả hữu, làm điều dâm loạn. Gia đạo như thế, người nước ghét, lòng dân ly tán, đây chính là lúc nên cất quân hỏi tội. Nếu Bỉnh Thường chết, kẻ hung ác sẽ nổi lên, gây họa biên giới để tự củng cố, thần lo lắng. Vì thế nói đi nói lại. Triều đình xuất quân, chỉ lo không có danh nghĩa, nay đã có danh nghĩa, trời diệt nước ấy, thần hiến kế sách, phá sào huyệt chúng dễ như chẻ tre, việc này không thể không làm. Lý Tĩnh từng nói: ‘Binh quý thần tốc, cơ hội không thể bỏ lỡ. Chỉ có sấm sét không kịp bịt tai, mới có thể thành công.’ Thần đoán những người bàn luận hiện nay, chỉ muốn chiêu dụ người Khương trước, kế sách này mà thi hành, cơ mưu ắt lộ, khiến giặc có thể phòng bị. Nếu giặc hành động trước, hại sẽ không nhỏ. Xe lật đời Khang Định, nay nên răn. Xưa Lý Tĩnh phá Đột Quyết, chỉ dùng ba nghìn quân tinh nhuệ, vì mưu kế đúng đắn, hành động quyết đoán, nên thắng.

Thần bình thời giữ biên, chỉ ngưỡng mộ Dương Hỗ và việc đánh nước của ông, chí hướng làm Lý Tĩnh mà thôi, đã lo liệu việc này ba năm nay. Mưu cầu vạn toàn, một trận mà khôi phục đất hai sông Hán, Đường, rửa nhục Bảo Nguyên, Khang Định, tạo lợi ích vạn đời cho quốc gia, chi phí chỉ bằng năm năm ban tứ cho Bỉnh Thường, thời gian cũng không lâu. Thần muốn xin được cưỡi ngựa trạm vào triều, tâu bày kế sách đánh dẹp, xin thánh thượng quyết đoán, không dám ở kinh sư lâu, đi gấp đường trường, đi về một tháng là đủ.”

Lại tâu: “Gần đây vâng chiếu đợi Vương Trung Chính đến ứng phó tiền bạc, nay Trung Chính ở Diên Châu, thần nếu đợi ông ấy đến mới bàn, thì thời gian chậm trễ, cơ mưu đã lộ, việc không thành, hối hận không kịp. Thần muốn xin vào tâu xong rồi họp với Trung Chính.” Chiếu rằng những việc biên giới Sung tâu, nếu không thể viết thành văn tự, thì cho ngựa trạm hoặc cơ nghi quan vào tâu. Sung chưa kịp tâu, hôm ấy, đột ngột qua đời tại châu.

(Năm Hi Ninh, Sung vì thi hành phép mới đắp ruộng thu lợi, hăng hái tiến thủ, từ chức nhỏ mấy năm lên đến thị tòng, một năm có khi thăng sáu bảy lần. Sau khi chết, quân Tây Hạ đại cử, thực ra từ Sung mà ra. Bản mực truyện Sung chép thế. Bản chu có thiêm thiếp rằng: Sung được tiên triều trọng dụng, không chỉ vì thi hành phép mới, mà việc dùng binh Tây Hạ cũng không hoàn toàn do Sung, sử quan trước bịa đặt lời này, nay xóa bỏ. Xét Sung nhanh chóng lên thị tòng, nhờ sức Vương Trung Chính, Vương Khuê; việc dấy binh Tây Hạ, phần lớn do Chủng Ngạc, Sung chỉ góp sức, không phải người chủ mưu. Nay chỉ xem sớ tâu của ông, Sung làm Tri Khánh châu ngày 11 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ nhất. 《Thiệu Bá Ôn văn kiến lục》 chép Sung đầu tiên bàn lấy Linh Vũ, đã chú đầy đủ ở đó, có thể tham khảo. Cứ 《Ngự tập》 ngày 16 tháng 6, Hoàn Khánh tẩu mã thừa thụ Lục Trung tâu: “Ngày 7 tháng này, Kinh lược sứ[3] Du Sung qua đời, xin nhanh chóng cử người thay.” Chiếu sai Triệu Tiết. Nay theo ngày 7 Giáp Tuất. Bản truyện nói Sung tháng 5 dâng sớ này, nay nói trước đó một tháng, để không mất sự thật.)

[16] Ngày Giáp Tí, Triều thỉnh đại phu, phán Đăng văn kiểm viện Vương Ngọc bị cách chức. Do Ngự sử Chu Phục tâu rằng: “Ngọc cùng con trai đồng lõa làm việc ác, hành vi như cầm thú, tuy được ân xá giảm tội, nhưng triều đình xét tình hình, cân nhắc pháp luật, vốn nên đày ra vùng hoang vu, suốt đời không được dùng. Nay các cơ quan tuy cho phép ông ta tiếp tục công vụ, nhưng Ngọc không chút hổ thẹn, vội xin vào triều yết kiến.” Ngọc bị kết tội cùng con trai là Trọng Phủ thông dâm với vợ của Đại Lý bình sự Thạch Sĩ Đoan là Vương thị, giao cho các cơ quan xét xử, sau đó có chiếu cho Ngọc về quê.

(Việc cho về quê vào ngày 22, nay ghi chung lại.)

[17] Có người dâng thư xin lựa chọn kỹ càng các chức Thủ, Lệnh, Vua nói với các quan phụ chính: “Trong thiên hạ có hơn một nghìn Thủ, Lệnh, tài năng và tính cách của họ khó mà biết hết được. Chỉ có thể đặt ra pháp luật ở triều đình, bắt họ tuân theo, nghe theo thì là đúng, trái lại thì là sai, dựa vào đó mà thăng giáng thì mới có tiêu chuẩn, đó gọi là triều đình có chính sách. Như Hoàng Bá đời Hán tự tiện đặt ra điều lệ để mưu cầu danh tiếng, đáng lẽ phải trị tội, nhưng lại được tăng lương, ban thưởng. Mỗi nhà tự đặt ra chính sách, mỗi người tự tạo ra phong tục, đó là điều mà các bậc tiên vương tất phải trừng trị; biến phong, biến nhã là điều mà các nhà thơ chê trách. Triều đình chỉ cần có một tiêu chuẩn thiện ác, quyết định việc nước, thì dù Thủ, Lệnh có nhiều, sau vài năm sàng lọc, tự nhiên sẽ có người tài.”

[18] Ra chiếu cho một người thi đỗ loại khá trong kỳ thi Xuân thuyên được bổ nhiệm một lần tại đường quan, 31 người thi đỗ loại trung được bổ nhiệm làm quan không theo thứ tự, 44 người thi đỗ loại dưới được bổ nhiệm làm quan.

[19] Ngày Bính Dần, ra chiếu cho Lý Hiến đến phủ Kinh chế ty Hi Hà lộ nhận chức vụ. Trước đó, Hiến ở lại kinh đô lâu ngày, sắp có việc dụng binh ở biên giới phía tây, nên cho trở về.

(Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》.)

[20] Ngày Đinh Mão, Ty Chuyển vận lộ Tử Châu xin rằng nếu việc vận chuyển lương thực bị thiếu hụt thì Ty này chịu trách nhiệm, nếu có cướp bóc thì Ty Kinh chế chịu trách nhiệm, và xin Ty Kinh chế điều quân bảo vệ việc đi lại. Chiếu rằng nếu việc cung cấp nhân công, lương thảo cho việc kinh chế man lộ Tử Châu có sai sót, tội thuộc về Ty Chuyển vận; nếu việc điều quân bảo vệ và quản lý có sơ suất, tội thuộc về Ty Kinh chế.

[21] Thượng phê: “Ruộng mùa hạ ở các quân châu lộ trung lộ Hà Bắc bị nước sông lớn tràn ngập, dân chúng ắt thiếu ăn, nên sai quan chiêu mộ rộng rãi quân cấm khuyết ngạch ở phủ Khai Phong và tại kinh.” Chiếu sai bốn viên tướng phó phủ giới, đợi đến tháng 7, phân phái đến các quân châu bị lụt ở Hà Bắc, chiêu mộ người thiếu ăn để bổ sung vào quân cấm khuyết ngạch dưới 500 tiền lương ở phủ giới và tại kinh.

[22] Ngày Mậu Thìn, Kiểm tường văn tự phòng Hộ, phòng Hình Xu mật viện Lương Đào dâng lên năm tập sách biên lục các văn kiện hiến nghị về An Nam.

[23] Chiếu rằng: “Nghe nói châu chấu bay ở Hà Bắc rất nhiều, đang dần lan về phía nam, hãy lệnh ngay cho Ty Đề cử phủ Khai Phong và Ty Chuyển vận lộ Kinh Đông Tây sai quan đốc thúc việc bắt, đồng thời bảo các châu huyện thu hoạch lúa chín sớm.”

(Cựu kỷ chép cuối năm có châu chấu ở Hà Bắc, Tân kỷ không chép.)

[24] Chiếu phạt Giám sát ngự sử lý hành Vương Tổ Đạo 10 cân đồng, Mãn Trung Hành 6 cân. Vì Phán Tư nông tự Thư Đản tâu: “Ty này còn 2.400 văn kiện chưa xử lý, hơn 7.000 khoản sổ sách chưa giải quyết, hơn 390.000 tiền phạt chưa thu, hơn 70.000 văn kiện chưa lưu trữ, triều đình đã giao cho Đại Lý tự điều tra. Vì việc thiết lập sáu sát, chính là để đốc thúc các quan ty chậm trễ, nay đều không tấu hặc.” Chiếu phạt Tổ Đạo, còn Trung Hành tự hặc vì từng quyền Hộ sát.

[25] Mãn Trung Hành tâu: “Gần đây bàn về việc Khai Phong phủ xử lý vụ Trương Thành Nhất cầm ruộng một cách sơ sài, chưa được chuyển giao cho cơ quan khác, tuy nghe nói phủ gần đây đã bắt giam Tôn Bôn, nhưng chỉ vài ngày sau lại thả ra cho đi theo cơ quan, mong xét sâu sự việc, đặc biệt ban chỉ dụ.” Lại tâu: “Gần đây đã dâng tấu chương về việc Tri châu Hồng Châu Vương Thiều công khai ra bảng cáo thị, tự mình nhận và loại bỏ những tơ lụa không đạt tiêu chuẩn, phá luật để cầu danh tiếng, lạm quyền để mua lòng dân, khiến lòng dân cả vùng đều xao động, nhưng chưa được xử lý.” Chiếu rằng Trương Thành Nhất đợi khi án xong, Vương Thiều đợi khi xét xong sẽ cùng xin chỉ dụ.

(Có thể xem thêm ngày 27 tháng 5, ngày 4 và 13 tháng 6. Không rõ án xong vào ngày nào, thực lục không ghi. Có thể tham khảo ngày 6 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ nhất.)

[26] Phán phủ Đại Danh Vương Củng Thần xin theo chỉ dụ triều đình, ngoài việc không đóng cửa đập, tu sửa lại sông cũ và đào lại dòng cũ Hoành Lũng, để sông lớn chia dòng, mỗi nhánh ba bốn phần. Cửa đập thì dùng đê quây lại, dẫn nước chảy thẳng. Phía đông chia hai sông, mỗi sông ba bốn phần, phía bắc tạo thành sông mới, nối tiếp với các sông Chương, Ngự, Hô Đà, theo dấu tích chín sông cũ đổ ra biển. Đại thế đã chia, mỗi sông chỉ nhận hai ba phần nước, đâu có lý nào nước chảy xiết và tràn bờ. Xin chọn quan gần gũi am hiểu thủy lợi, đi tuần tra xem xét. Không được chấp thuận.

[27] Ngày Kỷ Tỵ, quan nhập nội đông đầu cung phụng, kiêm chức câu đương ngự dược viện là Đậu Sĩ Tuyên tâu: “Chỗ đê vỡ ở Tiểu Ngô, từ đó chảy xuống đến cửa Phác Trang thuộc quân Can Ninh. Xem xét hiện tại, dòng sông từ cửa Phác Trang của quân Can Ninh trở xuống chưa hình thành được lòng sông rõ rệt; lại thêm sông chảy về hướng đông bắc, từ Tiểu Ngô[4] chảy xuống, hợp lưu với ba con sông là Ngự Hà, Hồ Lô và Hô Đà, rất lo ngại khi nước lên cao, đê điều khó mà ngăn chặn được. Xin lệnh cho Đô thủy giám xác định cách xây đê ngăn cách ba con sông này với Hoàng Hà, hoặc không hợp lưu với Hoàng Hà, thì ba con sông này sẽ chảy về đâu.” Chiếu chỉ giao cho Lý Lập Chi xem xét. Sau đó, Lý Lập Chi tâu: “Ba con sông này không có chỗ nào khác để chảy về, cần phải hợp lưu với Hoàng Hà.” Triều đình đồng ý.

[28] Quan phán ty Nông tự là Thư Thiện tâu: “Ty Nông tự trước sau tích tụ nhiều văn thư chưa xử lý, không chỉ bản tự mất đi sự đôn đốc, mà các lộ đề cử ty cũng phần nhiều làm việc qua loa. Đối với các quan đề cử, đã có điều lệ quy định cuối năm phân thành ba hạng để khảo sát. Xin từ nay về sau, các đề cử ty nhận văn thư của bản tự, cuối năm lấy mười phần làm chuẩn, tính toán số lượng văn thư đã xử lý xong.” Triều đình đồng ý. Thư Thiện lại tâu: “Phép dịch chưa được công bằng, trách nhiệm thuộc về các quan đề cử.” Vua nói: “Các quan đề cử chưa thể trách được. Gần đây có thần liêu từ Thiểm Hữu về, muốn miễn thuế hoàn toàn cho dân trung hạ, Trẫm cho là không đúng. Bởi vì dân đông thì dễ thi hành, trong thiên hạ dân trung hạ nhiều mà hộ thượng ít, nếu dân trung hạ được miễn hết mà chỉ thu đủ từ hộ thượng, thì sự bất công sẽ rất lớn. Xưa nay nói ‘công bằng thì không có nghèo đói’, triều đình lập pháp chỉ muốn công bằng mà thôi, khanh hãy tìm hiểu thêm rồi tâu lên.”

(Đoạn này căn cứ theo chiếu chỉ trong truyện của Thư Thiện, 《Huy Tông thực lục》 cũng theo đó. Chiếu chỉ phần lớn dựa vào mộ chí của Thư Thiện để viết truyện, lời lẽ chưa chắc đã đáng tin. Nếu không, lời Thần Tông nói “dân đông thì dễ thi hành” sao không thấy ghi trong 《Nguyên Phong thực lục》? Lại còn mâu thuẫn với lời Lý Định nói vào ngày Tân Dậu tháng 2 năm thứ 3. Cần xem xét thêm.)

[29] Tường định lễ văn tâu rằng: “Thần xem xét kỹ, thân thể Vua là tối tôn, nên trong lễ yến, Vua không làm chủ, mà lấy tể phu làm chủ, để tỏ rằng quần thần không dám ngang hàng với Vua; thân thể trời là tối tôn, nên trong lễ giao, trời không làm chủ, mà lấy mặt trời làm chủ, để tỏ rằng trăm thần không dám ngang hàng với trời. Sách ghi chép nói: Đại báo trời mà lấy mặt trời làm chủ, phối với mặt trăng. Lại nói: ‘Quét đất mà tế, chỉ cần giữ sự chất phác’ mà thôi. Đã bàn việc ‘quét đất mà tế’, khôi phục lễ chính cổ xưa, thì việc lấy mặt trời làm chủ, phối với mặt trăng, vị trí của trời cũng không thể không chính đáng. Trời là một vị, vạn vật đều bắt nguồn từ trời; tổ tiên là một vị, con người đều bắt nguồn từ tổ tiên; mặt trời, mặt trăng không thể xen vào. Đời sau báo đáp trời mà không lấy mặt trời làm chủ, là trái lễ. Kính xin tế trời, ngũ đế theo tế, ngoài việc phối với tổ tiên, nên đặt riêng vị trí chủ mặt trời, phối mặt trăng, theo cùng trăm thần.” Vua nghe theo.

(Theo lễ văn, ngày 14 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 4 theo tấu. Xét: Ngày 29 tháng 9 năm đó, Tường định sở xin thi hành ‘quét đất mà tế’, chiếu không nghe theo. Đây nói đã bàn ‘quét đất mà tế’, thì nên đặt vị trí chủ mặt trời, phối mặt trăng, nếu cuối cùng không theo nghị ‘quét đất mà tế’, thì vị trí chủ mặt trời, phối mặt trăng e cũng không nên đặt, nghi lễ văn có lỗi, nên xem xét kỹ.)

[30] Lại tâu rằng: “Các bậc vương giả thời xưa, lấy hiếu kính để phụng sự tổ tiên, nên những vật phụng thần, dù không dùng đến cũng không dám coi thường, đó là để mở rộng đạo hiếu kính yêu thương. Tăng Tử hỏi rằng: ‘Thu tiền và ngọc, cất giữ ở giữa hai bậc thềm, đó là quý mệnh vậy.’ Lễ tế trong 《Sính lễ》 ghi: ‘Cuộn tiền chôn ở phía đông bậc thềm phía tây’, đó là ý nghĩa của sự kính cẩn. Chế độ cũ của triều đình ta, tiền tế ở tông miếu thì đốt đi, như vậy là không đúng. Bởi lễ tông miếu không dùng khói để thần hưởng, nên không có lý do đốt lễ vật. Lại nữa, trong 《Đặc sinh quỹ thực lễ》, Ty cung quét sạch chỗ cúng giữa các đậu, chôn ở giữa hai bậc thềm, cũng là cùng loại. Kính xin tất cả tiền tế thần đều chôn ở phía đông bậc thềm phía tây, sách tế thì cất giữ trong tủ của quan chức.” Được chấp thuận.

(Ngày 14 tháng 6 theo tấu.)

[31] Lại tâu rằng: “Kính nghĩ, các thất trong Thái miếu của triều đình ta, đế và hậu là một thể, nên trong lễ có câu: ‘Trải chiếu, đặt chung một ghế’, tế thì cùng lễ vật, cùng đồ cúng, cùng tế lễ, để tỏ rõ ý nghĩa trời đất hòa hợp. Thời xưa, chỉ khi chưa tốt lành thì không phối tế, vì nỗi đau chưa quên, chưa từng nghe việc tấu cáo và cầu báo mà không phối tế. Gần đây, mỗi khi tấu cáo và cầu báo, chỉ đưa ra bài vị của đế mà không đưa ra bài vị của hậu, như vậy khác với câu ‘cùng ghế’ trong lễ. Kính xin khi tấu cáo và cầu đảo báo tạ ở các thất miếu của Hi Tổ, Dực Tổ, Tuyên Tổ, Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, đều đưa ra bài vị của đế và hậu, để tỏ rõ ý nghĩa trời đất là một thể.” Tờ thiếp vàng viết: “Theo lễ, đế và hậu là một thể, cùng ghế, cùng chiếu, cùng lễ vật, cùng đồ cúng, cùng tế lễ. Nay xem xét kỹ, việc tấu cáo và cầu báo, ngoài việc dùng chung lễ vật tế thì hợp lệ đưa ra bài vị của hậu, còn lại không đưa ra.” Được chấp thuận.

(Ngày 14 tháng 6 theo tấu.)

[32] Ngày Tân Mùi, Thừa nghị lang Vương Đoan Thần được bổ nhiệm làm Đề cử Kinh Đông, Tây lộ thường bình đẳng sự. Trước đó, Đề cử thường bình đẳng sự Kinh Đông, Tây lộ là Thông trực lang Vương Cổ, vì tấu sự có nói pháp chế thường bình không tiện, nên chiếu sai quan thay thế Vương Cổ, và Vương Đoan được bổ nhiệm.

(Việc sai quan thay thế Vương Cổ là ngày Tân Tỵ tháng 4, nay ghi chung.)

[33] Tuyên đức lang, Tư nông tự chủ bạ Tôn Lãm được thăng làm Thông trực lang, đề cử Lợi châu lộ thường bình đẳng sự. Phán Tư nông tự Thư Đản tâu: “Lãm làm việc trễ nải, buông lỏng hơn các quan khác, không đủ năng lực đảm nhiệm công việc.” Chiếu chỉ đổi Lãm làm Tướng tác giám chủ bạ. Đản kiêm chức Tri gián viện, thích công kích, muốn lôi kéo Lãm để giúp mình, Lãm không nghe, Đản tức giận, bèn hặc tội Trướng ty chậm trễ, rồi sai Lãm đi sứ. Đản tiếp tục hặc tội Lãm, nên đổi mệnh lệnh.

[34] Lý Hiến tâu: “Theo chiếu chỉ, điều động Quảng dũng hữu hai mươi chỉ huy đóng quân ở Hi Hà, lệnh cho thần chỉ huy. Trước đây Quảng dũng mới thành lập, chưa từng xuất quân, xin điều một chỉ huy từ Tuyên Vũ, Thần Dũng, Điện tiền Hổ Dực làm thân binh của thần.” Chiếu chỉ đổi điều Điện tiền Hổ Dực hữu nhất sương bốn chỉ huy, còn việc xin thân binh nha đội, phải đợi đến khi quản quân mới cho phép, có thể viết trát cho Lý Hiến biết.

[35] Chiếu chỉ: “Giám Tân châu diêm thuế[5], Thừa sự lang Vương Củng nhiều lần phạm tội nặng, các giám ty bản lộ là Trần Thiến, Chu Sơ Bình dám tiến cử phục chức và thăng chức, mỗi người phạt mười cân đồng. Từ nay, những người bị triều đình đặc biệt giáng chức, nếu có ai dám tiến cử, lệnh cho Ngự sử đài đàn hặc.”

[36] Ngày Nhâm Thân, chiếu chỉ các lộ đề cử quan tán phát và thu hồi tiền lương thực từ kho thường bình, so sánh tăng giảm, lệnh cho Trung thư lập pháp tâu lên. Sau đó, Hộ phòng lập pháp, xin cuối năm lệnh cho Tư nông tự so sánh. Theo đó.

[37] Phán Tư nông tự Thư Đản tâu: “Thần thấy ngoài Trướng ty, ba cục gồm mười hai án, bốn viên Thừa, sáu viên Chủ bạ, việc các cục có nhiều có ít, nên giảm bớt quan lại. Xin chỉ đặt hai viên Thừa, mỗi cục đặt một viên Chủ bạ, còn lại đều bãi bỏ.” Theo đó, vẫn lệnh cho chủ phán quan bản tự chọn lưu lại trong số quan đương nhiệm, hoặc tiến cử người khác.

[38] Ngự sử Phong Tắc cùng các quan Quản câu thuộc Ty đề cử phủ giới Khai Phong là Đặng Trung Thần tâu rằng: “Ở thôn Đại Khoáng, hương Đặng Công, huyện Tường Phù có nguồn nước, dân gian uống vào phần nhiều khỏi bệnh, bèn lầm lấy tên là ‘Lý Thủy Tử’. Sĩ thứ trong ngoài kinh sư, con em quân doanh truyền nhau bảo rằng hôm nay thần hiện ở chỗ này, ngày mai thần giáng ở chỗ kia, làm lay động phong tục, kết thành bè đảng, thu góp tiền của, chạy đến hương Đặng Công, muốn lập miếu thờ thần. Kẻ tiểu nhân nhân đó dễ sinh lòng gian, thần và dân khác nghiệp, không thể không cấm.” Không được trả lời.

[39] Ngày Quý Dậu, chiếu cho quan Đề điểm các huyện trấn phủ giới Khai Phong là Diệp Ôn Tẩu cùng các quan Tri huyện, Huyện thừa, Chủ bạ, Úy, Giám dịch sứ thần[6] của các huyện Tường Phù, Trường Viên, Vi Thành gồm 14 người phạt đồng khác nhau, trong đó Chủ bạ huyện Tường Phù là Vương Dung, Chủ bạ huyện Vi Thành là Khương Tử Niên bị cách chức, các quan Nhập nội điện đầu là Ngô Tòng Lễ, Trương Chẩn, Sử Cách đều bị hoãn xét công trạng hai năm[7], đều vì tội sơ suất trong việc sắp xếp trạm dịch trên đường đi của sứ Liêu[8].

[40] Ngày Đinh Sửu, Vua phê: “Gần đây các lộ Hà Bắc báo cáo rằng, tháng bảy, chỉ huy trướng tiền của Bắc giới đã họp với các lưu thủ Ngũ Kinh cùng các quan chủ binh của Nam Bắc vương phủ và các chiêu thảo tại Trung Kinh để bàn việc, nhưng chưa rõ thực hư. Có thể lệnh cho Hùng Châu và Ty An phủ duyên biên Hà Bắc tuyển chọn người đáng tin cậy, chuẩn bị nhiều vàng lụa, nhanh chóng dò xét rồi báo cáo.” Sau đó đều nói không có việc này.

(Chu bản thiêm thiếp chép: Sau này dò xét được là không có việc này, nên đã bỏ đi. Nay tu bổ vào.)

[41] Ngày Mậu Dần, phục chức Tây thượng các môn sứ, Vinh Châu thứ sử, Tri Đại Châu Cao Tuân Dụ làm Dân Châu đoàn luyện sứ, Tri Khánh Châu. Sau đó có chiếu thúc Tuân Dụ lên đường nhậm chức.

(Việc thúc nhậm chức, theo 《Ngự tập》, là vào ngày 27.)

[42] Kinh lược ty Quảng Nam Đông lộ tâu: “Bảo Thuận lang tướng Tằng Già Ni của nước Đại Thực Tằng Đàn xin chuẩn bị lễ vật đến cửa khuyết tạ ơn.” Vua phê: “Nên cấp nhiều thuyền, cho họ đến cửa khuyết.”

[43] Ngày Kỷ Mão, Hồng Châu tâu rằng Tri châu, Quan văn điện học sĩ, Chính nghị đại phu Vương Thiều mất, triều đình ngừng thiết triều, truy tặng Kim tử quang lộc đại phu, thụy là Tương Mẫn, bổ nhiệm làm quan cho sáu người con của ông, ban cho ba người con gái mũ áo, phong con gái lớn làm Thụy Xương huyện quân[9]. Thiều tính cách thô lỗ, nhưng dùng binh rất có mưu lược, mỗi lần triệu tập các tướng để truyền đạt mệnh lệnh, không cần hỏi lại, đi đến đâu đều thắng lợi. Ông thường nằm ngủ trong trướng quân, khi tiền quân gặp địch, tên đá bắn xuống dồn dập, tiếng hô vang dội núi non, những người hầu bên cạnh thường run sợ, nhưng Thiều vẫn ngáy ngủ tự nhiên. Tuy nhiên, những tấu chương từ Hi Hà phần lớn là dối trá, giết hại người già yếu trong bộ tộc Thổ Phồn không kể xiết. Quân lính lấy đầu người để lập công, Thiều thân thiết với nhiều người Sở, họ thường nhờ Thiều để cầu quan, Thiều phân bổ họ cho các tướng, các tướng nuôi dưỡng người Khương già yếu đầu hàng, hoặc giết đầu lĩnh của họ để báo công. Đến khi bệnh ung thư phát ra ở lưng, lộ cả ngũ tạng, cũng là quả báo vậy.

(Bản Chu đã bỏ hết bản Mực, viết lại thành truyện mới, và nói rằng: Thiều tính khoan hậu nhân từ, ít giết chóc, binh sĩ vì thế vui lòng theo phục. Nay không theo bản đó, chỉ dựa vào bản Mực.)

[44] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu chỉ: “Các quân mã Hán và Phiên của Hi Hà lộ cùng bốn tướng do triều đình phái đi, đều giao cho Đô đại kinh chế và Đồng kinh chế Lý Hiến, Miêu Thụ, theo phép cấp bậc mà thống lĩnh, phối hợp với Đổng Chiên xuất binh, đợi khi nhận được thời gian ước hẹn từ Phiên, cân nhắc cơ hội để điều động, đóng quân tùy nơi. Nếu Đổng Chiên muốn quân mã vượt biên giới cùng hợp lực đánh giặc, chọn quan chia quản bộ phận phiên cung tiễn thủ của bản lộ, tùy số người cần dùng mà điều động. Nếu mẹ của Hạ quốc tự đến, hoặc chỉ phái đại binh, thì đợi khi quân mã của Đổng Chiên giao chiến, quân Hạ có dấu hiệu thua lui, thấy cơ hội có thể lợi dụng, cân nhắc tình thế mà cùng các tướng bản lộ vượt biên giới, hợp lực tiêu diệt và đuổi đánh. Nếu Đổng Chiên vì Hạ nhân đang lo nội loạn, không có ý xâm lấn, dám trái lời thỉnh cầu trước, do dự không chịu xuất binh đúng hẹn, khiến triều đình điều động uổng công, thì cân nhắc tình thế mà dời quân đi đánh dẹp. Những việc lợi hại khi lâm trận, liên quan đến cơ mưu nhanh chóng, nếu báo cáo xin chỉ thị không kịp, thì tùy nghi xử lý thi hành. Tiền bạc, lương thảo, đều giao cho Kinh chế quản câu quan Mã Thân, Hồ Tông Triết tính toán cung ứng, trước dùng khoản chi kế án để bù; nếu không đủ, dùng tiền bạc và lương thảo của phong trang khuyết ngạch cấm quân để bù; nếu vẫn không đủ, dùng tiền lãi của Kinh chế ty để bù; lại không đủ, dùng tiền và lương thảo của Trà trường ty để bù.”

[45] Lại ban chiếu: “Nay các lộ Thiểm Tây tập hợp binh mã, việc hệ trọng không nhỏ, những việc Xu mật viện phái binh tướng, Trung thư điều vận quân lương, đều phải hội nghị thống nhất rồi mới tiến trình thi hành. Lại ở hai phủ, mỗi phòng chọn hai ba viên lại cẩn thận, nhanh nhẹn, chuyên trách việc thi hành, để có thể phối hợp xử lý trước sau, không để xảy ra sai sót.”

[46] Chiếu ban cho ba mươi vạn quan tiền mạt diêm cho Hà Đông chuyển vận ty, theo lệ cấp sao để đổi lấy, mua lương thảo.

[47] Quyền phán Hồ Nam lộ Chuyển vận phó sứ Chu Sơ Bình tâu: “Châu Huy, châu Thành quy minh đoàn động, trước khi chưa xây dựng thành trại, nếu có việc thù hận giết hại lẫn nhau hoặc các kiện tụng khác, đều cho phép xử lý theo luật cũ của người khê động. Xin từ nay, nếu có việc xâm phạm, đều phải trình báo lên quan, nếu dám tự ý giết hại lẫn nhau, sẽ xử theo luật pháp nhà Hán. Nếu có kẻ trốn tránh, quan phủ sẽ hợp lực bắt giữ, và tại địa phương sẽ thi hành việc bắt bớ.” Được chấp thuận.

[48] Tư chính điện học sĩ, Chính nghị đại phu kiêm Thị độc, Đề cử Trung Thái Nhất cung Nguyên Ráng được phong làm Thái tử Thiếu bảo, Tư chính điện học sĩ trí sĩ.

(Ngày 12 tháng 6 năm thứ 7 mất.)

[49] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng: “Các vùng biên giới thuộc Thiểm Tây lộ nhiều lần báo cáo rằng Hạ quốc đang tập trung binh lực lớn, cần phải chuẩn bị rộng rãi. Lấy Đông thượng các môn sứ, Thứ sử Văn Châu là Chủng Ngạc làm Kinh lược An phủ phó sứ Phu Diên lộ, phụ trách các việc thuộc bản ty, cùng với Kinh lược An phủ sứ Thẩm Quát bàn bạc kỹ lưỡng để xử lý.” (Theo 《Ngự tập》 quyển 148, Ngạc đã vào triều bẩm báo vào ngày 28, hôm đó rời khỏi cửa.) Trước đó, lệnh cho Ngạc và Quát bí mật bàn bạc việc tập hợp binh lính, Ngạc bèn nói: “Sấm sét nhanh đến mức không kịp che tai, nay tình thế đã rõ ràng, không thể dùng binh nhẹ, phải thành lập quân đội để tiến đánh.” Do đó, vào triều tâu rằng: “Hạ quốc không có người tài, Bính Thường chỉ là đứa trẻ, thần sẽ nắm tay nó mà dẫn về.” Vua khen ngợi, quyết tâm xuất chinh phía Tây, lệnh cho Ngạc làm phó cho Quát, ban thưởng đai vàng, riêng ban một vạn lạng bạc để chiêu mộ. Mọi việc ở bản lộ và Lân Phủ đều do Ngạc quyết định.

Chiêu Tuyên sứ, Đoàn luyện sứ Quả Châu, Nhập nội Phó đô tri Vương Trung Chính cùng ký tên vào công văn của Kinh lược Tổng quản ty Kinh Nguyên lộ, nếu xuất quân, lệnh cho Vương Trung Chính và Tổng quản Kinh Nguyên lộ kiêm Tướng thứ nhất bản lộ là Lưu Xương Tộ cùng điều quân. Điều động quân mã từ Khai Phong phủ giới và các tướng ở Kinh Đông, Kinh Tây, chia cho Phu Diên và Hoàn Khánh hai lộ. Lấy Đông thượng các môn sứ, Thứ sử Anh Châu là Diêu Lân quyền Tổng quản Hoàn Khánh lộ, nếu xuất quân, lệnh cho Tri châu Khánh Châu là Cao Tuân Dụ cùng Diêu Lân điều quân. Chi phí chiêu mộ các bộ tộc ở Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên được phép sử dụng tiền từ kho Phong Trang. Kinh Nguyên lộ lệnh cho Vương Trung Chính sau khi sắp xếp xong quân mã bản lộ thì về kinh, tuyển mộ một vạn năm nghìn quân bộ và kỵ binh từ những người có lương dưới bảy trăm quan ở kinh thành, Khai Phong phủ giới và bản lộ cùng tuyển mộ một vạn nghĩa dũng và bảo giáp. Nếu Kinh Nguyên lộ không đủ năm nghìn người, thì tuyển mộ thêm từ Tần Phượng lộ.

[50] Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức dâng biểu nói: “Trước đây sai sứ thần Đào Tông Nguyên sang triều cống, bị Quảng Châu ngăn cấm, làm tắc nghẽn việc vận chuyển, không như trước. Nay sai Lễ tân phó sứ Lương Dụng Luật[10], Trứ tác lang Nguyễn Văn Bội đi đường thủy sang cống, xin ban chiếu chỉ, theo lệ cũ tiến cống.” Triều đình ban chiếu cho Quảng Châu tuân theo lệ cũ, không được ngăn trở. Sai một viên sứ thần trong cung đi hộ tống, trước hết ban chiếu dụ.

[51] Triều đình ban chiếu điều động 19 tướng quân đang đóng ở Khai Phong phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây đến Thiểm Tây tạm đóng quân. Trong đó, các tướng thứ nhất, thứ ba, thứ năm, thứ sáu của phủ giới, các tướng thứ nhất đến thứ năm của Kinh Đông, tướng thứ ba của Kinh Tây đến Phu Diên lộ; các tướng thứ bảy, thứ chín đến thứ mười một của phủ giới, các tướng thứ sáu đến thứ chín của Kinh Đông, tướng thứ sáu của Kinh Tây đến Hoàn Khánh lộ. Vua phê: “Lệnh Bảo An quân theo mệnh lệnh của Kinh lược ty gửi thư đến Hựu Châu, nói rằng: ‘Nước Hạ đời đời xưng phiên, triều đình hàng năm ban thưởng. Những năm gần đây, tuân theo lời thề trong chiếu chỉ, cẩn thận dâng cống, ân nghĩa rất đáng khen. Nay nghe nói quốc chủ bị cường thần khống chế trong nước, không thể chuyên quyền quốc sự, cũng không thể đoán được còn mất. Chẳng bao lâu nữa, triều đình sẽ sai sứ mang quốc thư đến ban thưởng sinh thần và trung đông, không biết đến lúc đó ai sẽ tiếp nhận, và hiện nay trong nước ai đang chủ trì, xin nhanh chóng báo cáo, để tâu lên triều đình, lệnh cho Trung thư, Xu mật viện xem xét kỹ rồi thi hành.’ Nhằm thăm dò ý phản ứng của giặc, đồng thời lời lẽ trong thư không có ý trách móc, không cần đợi quân tập hợp mới ban hành. Lại lệnh Phu Diên lộ gửi thư cho Bảo An quân, chưa giao lại lễ vật ban thưởng mừng tiết Đồng Thiên, đợi báo cáo về những việc hỏi trên, rồi nghe chỉ triều đình.”

(Ngày 21 tháng 8, không gửi thư nữa.)

[52] Đề cử Vĩnh Hưng, Tần Phượng đẳng lộ nghĩa dũng, bảo giáp kiêm Đề điểm hình ngục Địch Vịnh tâu: “Giáo đầu Khâu Giản, Trương Đán đã theo chiếu xử trảm. Nghĩa dũng Dương Giản được thụ chức Tam ban sai sứ, tráp tử đã trao trước mặt mọi người. Xin sai Dương Giản làm Đề cử nghĩa dũng, bảo giáp kiêm Đề điểm hình ngục ty chuẩn bị sai sứ.” Vua nghe theo. Khâu Giản và đồng bọn bị tội mưu sát giám giáo sứ thần, bị Dương Giản tố cáo.

[53] Ngày Quý Mùi, phong Kiến Hùng quân Tiết độ sứ Hàn Giáng làm Kim tử Quang lộc đại phu, Quan văn điện học sĩ, vẫn giữ chức Tây Thái Nhất cung sứ như trước.

[54] Chiếu sai Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự Dương Cảnh Lược, Đề cử Khai Phong phủ giới thường bình đẳng sự Vương Đắc Thần đi các huyện, chỉ đạo việc bắt châu chấu.

[55] Chiếu rằng: “Đã điều 23 tướng quân mã đến Phu Diên, Hoàn Khánh, Hi Hà, lại tuyển mộ 25.000 người đến Kinh Nguyên, lệnh cho Kinh lược ty báo cáo số lượng thiếu hụt quân khí, vật dụng.” Lại chiếu: “Quân khí, vật dụng có thể dùng thuyền chở đến giới Tây Kinh, lệnh cho Thiểm Tây, Kinh Tây chuyển vận sứ tăng cường người và xe ở các trạm dịch để vận chuyển.”

(Việc dùng thuyền chở quân nhu, bản Chu còn ghi vào ngày Giáp Ngọ tháng 7, nay chỉ giữ lại đoạn này.)

[56] Chiếu rằng: “Từ nay, Trung thư phải lập sổ sách ghi chép và đốc thúc việc tương độ, định đoạt, phân tích, thể lượng, khám hội, khu ma, điểm kiểm, giao cho Kiểm chính quan căn cứ mức độ khẩn cấp mà ấn định thời hạn.”[11]

[57] Ngày Giáp Thân, chiếu rằng các quân xuất phát được cấp tiền trang bị, cấm quân theo quy định hiện nay, sương quân thặng viên giảm một bậc, nếu không đủ 500 thì cũng cấp theo số đó.

[58] Hàn Giáng tâu: “Chuyển vận sứ và phó sứ ở Hà Bắc đều kiêm chức Đô đại chế trí đồn điền sứ. Nay đã lệnh cho An phủ sứ lộ Định Châu kiêm chức Đô đại chế trí đồn điền sứ, tức là cùng một cơ quan với Chuyển vận sứ và phó sứ, xin bãi bỏ chức kiêm nhiệm hư danh của Chuyển vận sứ và phó sứ.” Vua đồng ý. Lệnh cho Tri châu Hùng Châu và Bảo Châu đều kiêm chức Đồn điền sứ; Thông phán Đông lộ Hùng Châu và Tây lộ Bảo Châu đều kiêm chức Đồn điền phán quan; Phó sứ và Đô giám An phủ duyên biên Hà Bắc cùng các nội thần chuyên quản đồn điền, tùy theo chức vụ đều được bổ nhiệm làm Phó sứ hoặc Đô giám, đồng thời quản lý chung cả hai lộ. Vua phê: “Thông phán Hùng Châu và Bảo Châu đột nhiên nhận chức vụ này vào hàm, khi trao đổi công văn với phương Bắc, cần phải ghi rõ, e rằng người phương Bắc nghi ngờ sinh sự, vì theo thệ thư không được mở rộng đầm hồ. Hãy lệnh cho Hùng Châu và Bảo Châu trình bày cách thức kết hàm trong công điệp trao đổi với phương Bắc của Tri châu và Thông phán từ trước đến nay để báo cáo.”

[59] Ban đầu, Vua bàn việc đánh phía tây, Tôn Cố, Tri Xu mật viện, nói: “Dấy binh thì dễ, giải họa mới khó.” Trước sau ông bàn luận rất khẩn thiết. Vua đã quyết ý, Tôn Cố nói: “Nếu bất đắc dĩ, xin hãy nêu rõ tội của họ, đánh nhẹ, chia cắt đất đai, để tù trưởng của họ tự giữ lấy.” Vua cười nói: “Đây là lời nói thẳng của Lịch Sinh.” Lúc đó, có người trong chính quyền xin thẳng qua sông, ý Vua càng kiên quyết. Tôn Cố nói: “Vậy thì ai sẽ là người đảm nhận việc này cho bệ hạ?” Vua nói: “Ta giao cho Lý Hiến.” Tôn Cố nói: “Việc đánh nước là đại sự, mà lại để hoạn quan làm, sĩ đại phu ai chịu phục tùng?” Vua không vui, Tôn Cố xin từ chức, nhưng Vua không cho. Một hôm khác, ông lại tâu: “Nay dấy trọng binh, năm đường cùng tiến, mà không có đại tướng, dù có thành công, quân lính ắt sẽ loạn.” Tôn Cố nhiều lần nói về việc đại tướng, Vua bảo là không có người. Lữ Công Trước, Đồng tri Xu mật viện, tâu rằng: “Đã không có người, chi bằng tạm dừng.” Tôn Cố nói: “Lời Công Trước nói đúng.”

(Ngày Nhâm Tuất tháng này, Dũ Sung dâng tấu sớ, cùng ngày Nhâm Tý tháng 8 năm Nguyên Phong thứ nhất, Sung mới được bổ làm Khánh suý, sách 《Văn kiến lục》 của Thiệu Bá Ôn và 《Long Xuyên biệt chí》 của Tô Triệt đều có ghi chép, đã chú thích đầy đủ ở đó, nên tham khảo thêm.)


  1. Chuyển vận sứ Tôn Khẩn, chữ 'Khẩn' nguyên bản là 'Thuận', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5-87 sửa lại.
  2. Châu Thần, chữ 'Thần' nguyên bản là 'Thần', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5-87, 《Tống sử》 quyển 88 phần Địa lý chí sửa lại.
  3. Kinh lược sứ 'sứ' nguyên là 'ty', theo các bản sửa.
  4. Chữ 'Tiểu' trong 'Tiểu Ngô' nguyên bản viết là 'hạ', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phương vực 17/9 mà sửa lại.
  5. Giám Tân châu diêm thuế, chữ 'diêm' nguyên bản là 'giám', căn cứ theo quyển 301, năm Nguyên Phong thứ hai, tháng 12, ngày Canh Thân trong sách này và Tống hội yếu chức quan 66/10 sửa lại.
  6. Ở chữ 'giám' trên nguyên có chữ 'kiêm', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66/15, phương vực 10/15 mà bỏ. Ở dưới chữ 'giám' nguyên có chữ 'diêm', theo bản các các và sách trên mà bỏ.
  7. Ở 《Tống hội yếu》 chức quan 66/15, 'Trương Chẩn' chép là 'Trương Tích', 'Sử Cách' chép là 'Sử Hoa', 'hai năm' chép là 'ba năm'.
  8. Ở trên chữ 'lộ' nguyên có hai chữ 'quốc tín', theo sách trên và 《Tống hội yếu》 phương vực 10/15 mà bỏ.
  9. Phong con gái lớn làm Thụy Xương huyện quân, chữ 'Thụy' nguyên bản viết là 'Đoan', theo bản khác sửa lại. Xét: Nhà Tống không có huyện 'Đoan Xương', Thụy Xương huyện thuộc Giang Nam Tây lộ, Giang Châu, xem 《Tống sử》 quyển 88, phần Địa lý chí.
  10. 'Lễ tân phó sứ Lương Dụng Luật': chữ 'tân' nguyên bản viết là 'quảng', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 7-36 mà sửa.
  11. Chữ 'thôi' nguyên bản viết là 'giác', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 chức quan 3-46 mà sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.