VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 314: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)
Bắt đầu từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Đinh Hợi, Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Ngoài thành Nam Quan châu Diên có núi cao áp sát, giặc từ trên cao bắn tên đá xuống, trên thành và trong thành đều không thể đứng vững, huống chi trong thành vốn không có kho tàng, chỉ có hơn 500 ngôi nhà công tư và hơn 100 hộ dân. Nếu bất ngờ gặp giặc, xin cho tất cả dời vào thành lớn, thành Nam Quan sẽ không phòng thủ nữa.” Triều đình đồng ý.
(Xem《Lữ Huệ Khanh gia truyền》 để đối chiếu.)
[2] Chiếu cho Chuyển vận ty lộ Quỳ Châu, Bành Tôn đóng quân ở Nam Bình quân, sắp tiến quân, nhưng nghe nói lương thảo chưa chuẩn bị xong, hãy nhanh chóng sắp xếp.
(Ngày Canh Tý tháng 7 có thể gộp vào đây.)
[3] Chiếu rằng nếu Bành Tôn tiến đánh theo đường khác, quân mã dưới quyền nghe theo sự điều động; nếu hội hợp với Lâm Quảng, thì nghe theo sự điều động của Lâm Quảng.
[4] Chiếu rằng: “Lương thảo dự trữ ở ba nơi Hà Bắc, triều đình đã cử quan chuyên trách quản lý. Từ nay, Tam ty không cần tâu báo nữa, chỉ giao cho Kiển Chu Phụ mỗi quý báo cáo số lượng dự trữ theo định mức và số còn thiếu hiện tại.”
[5] Ngày Mậu Tý, Vua phê: “Trạm ngựa Thiểm Tây thiếu nhiều người và ngựa, trong lúc quân đội đang hoạt động, việc truyền tin và cử sứ giả là ưu tiên hàng đầu. Hãy lệnh cho các quan văn đề điểm hình ngục hai lộ kiểm tra và bổ sung đủ số lượng, tuân thủ quy định, phủ Khai Phong giao cho quan đề cử.”
[6] Chiếu rằng: “Quân mã tập trung ở vùng biên giới Thiểm Tây, việc vận chuyển lương thảo hoàn toàn dựa vào sự hợp lực của các quan thủ phủ. Trong số đó, nhiều người được bổ nhiệm theo quy chế thẩm quan, e rằng không đảm đương được nhiệm vụ hiện tại. Hãy lệnh cho Chuyển vận ty xem xét và cử người tâu lên, các quan lệnh tá ở địa phương trọng yếu cũng làm theo.”
[7] Ngày Kỷ Sửu, sao Thái Bạch xuất hiện ban ngày.
[8] Quyền phát khiển Quần mục phán quan Quách Mậu Tuấn tâu: “Theo chiếu chỉ, việc mua ngựa và lương thảo từ các bộ lạc ở Thiểm Tây, do sử dụng tiền và vật phẩm không thống nhất, không đáp ứng được nhu cầu của các bộ lạc, dẫn đến số lượng mua được không nhiều. Nay xin chuyên dùng trà để đổi lấy ngựa, dùng lụa vải để đổi lấy lương thóc, và hợp nhất việc quản lý trà và ngựa vào một cơ quan, xin bề tôi trình bày lợi hại lâu dài. Thần nghe nói trước đây cũng dùng trà để chiết khấu giá ngựa, tuy có dùng thêm vàng, lụa, nhưng cũng tùy theo sự thuận tiện. Từ khi việc quản lý bị chia tách[1], gần đây mới chuyên dùng bạc, lụa và tiền giấy. Hơn nữa, việc bán trà và mua ngựa vốn liên quan mật thiết, nay đề nghị để quan chức phụ trách mua ngựa kiêm quản lý trà trường, thực sự là phù hợp với chức trách.” Triều đình đồng ý. Vẫn để Mậu Tuấn chuyên trách việc mua ngựa và giám sát chăn nuôi, kiêm đồng đề cử trà trường[2]. Trà Danh Sơn ở Nhã Châu, lệnh chỉ dùng để đổi ngựa, đợi khi đủ số ngựa theo định mức hàng năm, mới được phép mua các thứ khác.
(Ngày 21 tháng 6 năm thứ 6 có thể tham khảo. Bản chí chép: Từ đó, ngựa từ các bộ lạc đến nhiều hơn.)
[9] Chiếu cho Chủng Ngạc nhanh chóng tiến cử một người có thể làm phó tướng xuất quân. Sau đó, lấy Hoàng thành sứ, Khang Châu thứ sử Hạ Nguyên Tượng làm Quyền Phu Diên lộ phó tổng quản.
[10] Ngày Canh Dần, ban chiếu: “Các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Hà Đông tiến quân vào địa giới, có thể lệnh theo chỉ huy thống nhất như sau. Một, khi quân hành quân có ngày, chủ tướng dùng thưởng phạt để khuyên răn tướng sĩ, nếu lập được đại công, tiêu diệt sào huyệt giặc, sẽ được thưởng gấp ba lần so với công trạng ở Hi Hà; nếu khi đối mặt với giặc mà không tuân lệnh, cả nhà sẽ bị giết; chiến lợi phẩm bất kể nhiều ít, đều được tự do phân chia, quan không kiểm soát. Một, nếu bắt được hoặc giết được tướng giặc chống lệnh, sẽ được phong chức từ Tiết độ sứ trở xuống đến các chức vụ khác tùy theo công trạng. Một, triều đình vốn coi họ Lý là phiên thần đời đời, một ngày kia bị đảng của mẹ nhân soán ngôi, xuất quân trừng trị kẻ có tội, những người trước đây ở bên cạnh quốc chủ, cùng các bộ tộc Ngôi Danh, và những người đồng lòng với chủ, đều không bị giết, hãy truyền đạt rộng rãi, cùng với quan quân hợp lực tiêu diệt quốc tặc, sẽ được phong tước tùy theo công trạng lớn nhỏ. Một, vàng bạc châu báu trong kho tàng của triều đình giặc, chủ tướng sẽ tự kiểm soát, chia đều cho quân sĩ có công. Một, nếu lương thảo thiếu, những người đầu hàng có thể có tích trữ[3], sẽ được vay mượn bằng văn tự, đợi khi sự việc ổn định sẽ trả lại giá trị.
Một, các lộ quân mã, nếu có thể hỗ trợ lẫn nhau, phải cùng nhau chi viện, nếu một lộ bị địch tấn công mà các lộ khác không đến cứu ngay, khi trở về chủ tướng sẽ bị xử trảm. Một, những bộ tộc đầu hàng và các bộ tộc biên giới, thanh niên trai tráng sẽ bị bắt đi lính, người già và trẻ nhỏ sẽ được đưa đến gần thành trại, cấp lương thực và an trí. Một, nếu tướng sĩ các lộ vì mưu công mà giết hại bộ tộc đầu hàng, chủ tướng sẽ lập tức xử trảm. Một, những quân dân phản bội trước sau, hãy tuyên bố rõ ràng, cho phép họ tự quay về quy thuận, nếu có người biết đường lối trong giặc mà dẫn đường cho quan quân lập công, sẽ được thưởng tùy theo mức độ. Một, những thủ lĩnh cấp cao biết họa phúc mà dẫn đầu quy thuận, sẽ được ban thưởng hậu hĩnh, đặt trong quân đội, thường xuyên kiểm soát. Một, khi đại quân đi qua, nơi nào có đường thông với Khiết Đan, hãy chọn địa điểm trọng yếu, phân binh phòng thủ, nghiêm khắc răn dạy tướng sĩ, không được để xâm phạm.
Một, chủ tướng nào dám lấy việc đánh chiếm đồn giặc gần biên giới làm mệnh lệnh, không truy đuổi tận cùng, tự ý bàn việc rút quân, sẽ bị xử theo quân pháp. Một, khi các lộ quân mã hội hợp, đến quận lớn của giặc, nếu có công cụ phòng thủ cần tấn công, hãy phân chia khu vực, không được tranh công với nhau. Một, nếu giặc cùng đường, hãy dùng kỵ binh tinh nhuệ phục kích ở đường trọng yếu. Một, nếu bắt được ấn tín, văn thư của giặc, hãy cất giữ trong trung quân. Một, các châu quận Hà Bắc, đợi khi ổn định sào huyệt giặc, sau đó phân binh tiêu diệt, hoặc chiêu dụ đầu hàng. Trên đây là các điều cần tuân thủ khi tiến quân, phải bố trí trinh sát xa, đặt nhiều kế hoạch kỳ lạ, không để giặc tập trung lực lượng chống lại quan quân, đồng thời phải chú ý bảo vệ đường lương, không để bị cản trở.
Những việc còn lại khi đối mặt với địch[4], không thể dự tính trước, hãy tùy cơ ứng biến, cẩn thận quyết đoán, không được hành động hấp tấp.”
(《Tân kỷ》: Ngày Canh Dần, vì người Hạ giam giữ chúa của họ là Bỉnh Thường, lệnh các lộ Thiểm Tây, Hà Đông xuất quân trừng trị. Xét theo 《Thực lục》, lúc đầu xuất quân chưa có chỉ huy này, có lẽ là ghi chép sau, nay không lấy. 《Cựu lục》 ghi: Ngày Canh Tuất, chiếu rằng người Hạ giam giữ chúa của họ là Bỉnh Thường, các lộ Thiểm Tây, Hà Đông xuất quân vào ngày Bính Ngọ tháng 9 để trừng trị, nay cũng không lấy.)
[11] Chiếu cho Kinh lược ty hai lộ Hoàn Khánh, Kinh Nguyên cấp 10 vạn quan tiền phong trang để chiêu nạp các bộ lạc người Phiên.
[12] Ngày Tân Mão, chiếu cho Tư pháp tham quân Quảng Châu là Tăng Tự được bổ nhiệm chức vụ tại triều đình, do An phủ sứ Quỳnh Quản là Chu Sơ Bình tâu rằng: “Bốn châu Quỳnh Quản từ trước đến nay, quan lại đều tham lam, chỉ có nguyên Tri châu Quỳnh Châu là Tăng Khải là liêm khiết, giữ mình trong sạch, không phạm lỗi nhỏ nào. Khải vốn xuất thân là nhiếp quan, từng giữ chức Phán quan Chuyển vận ty Quảng Tây, xin ghi nhận công lao của con ông ta.”
[13] Vua phê: “Lộ Phu Diên đã có chỉ dụ, bí mật sai người chiêu dụ các bộ lạc ở Hoành Sơn. Vì việc ở Hoàn Khánh cũng tương tự, lại nằm ngay giữa vùng núi, các tộc người càng đông đúc, nên lệnh cho Lý Tắc theo chỉ dụ đã ban cho Phu Diên mà thi hành. Lộ Kinh Nguyên cũng làm theo như vậy.”
(Lúc này Lý Tắc đang quyền giữ chức Suý sự lộ Hoàn Khánh.)
[14] Vua phê: “Bản đồ và lời giải thích về vùng biên giới đối diện với các lộ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Hi Hà của nước Hạ, giao cho Trung thư, Xu mật viện, để biết rõ địa hình phức tạp trong vùng giặc. Sau khi xem xong, lại đưa vào cung.”
[15] Tẩu mã thừa thụ của Kinh chế ty là Mạch Văn Bính tâu: “Xin cho các tướng từng tham gia chinh thảo đến Lô Châu bàn bạc với Lâm Quảng về thứ tự tiến quân. Và xin cho các phu nhân vào vùng man ở hai lộ Tử, Quỳ, lệnh cho Chuyển vận ty ghi tên họ vào sổ. Nếu các tướng bắt được thủ cấp, cử quan lại đến xem xét. Và xin khi tiến quân, cử hai sứ thần quản lý quân sĩ, những người bị bệnh dọc đường không thể theo kịp đội ngũ, thì tạm lưu lại nơi gần đó.” Chiếu cho các tướng bàn bạc với Lâm Quảng về thứ tự tiến quân, có thể làm theo lời tâu, còn lại giao cho Lâm Quảng và Chuyển vận ty xem xét kỹ rồi thi hành. Nếu có người vào vùng man giết phu nhân để lấy thủ cấp, thì chủ tướng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật triều đình.
[16] Đề cử Hà Bắc lộ Nghĩa dũng, Bảo giáp kiêm Đề điểm hình ngục Địch Tư tâu: “Các châu Hoài, Vệ, Thiền, Ân, Ký, Tương, Minh, Hình, Doanh, Triệu và Bắc Kinh đã huấn luyện võ nghệ cho các tiết cấp Nghĩa dũng, đại bảo trưởng Bảo giáp tại các giáo trường. Trước đã tâu xin được dẫn kiến vào tháng tám, chín, nay đến giáo trường châu Từ để khảo thí, đều đạt yêu cầu.” Chiếu chỉ cho dẫn trình trước các châu Thiền, Trạch, các châu khác đợi chỉ huy sau. Trong đó, châu Thiền khởi hành vào trung tuần tháng tám, lệnh cho Địch Tư và Lưu Định dẫn quân; châu Trạch khởi hành vào thượng tuần tháng chín, lệnh cho Vương Sùng Cực dẫn quân về kinh. Những người được huấn luyện, từ ngày rời giáo trường, mỗi người được cấp một trăm tiền ăn mỗi ngày.
[17] Ngày Nhâm Thìn, Hiệu thư Viện Sùng Văn Nguyên Kỳ Ninh được bổ làm Hiệu khám Quán các, câu đương Động Tiêu cung, lệnh theo hầu. Kỳ Ninh làm Hiệu thư chưa đầy hai năm, vì cha là Nguyên Giáng về hưu, được ban ân đặc biệt.
[18] Vua phê: “Lộ Lân Phủ là nơi trọng yếu trên đường giao thông giữa Khiết Đan và người Hạ. Nay đại binh tiến đánh, lo rằng giặc cùng đường sẽ sai sứ cầu viện. Nên chuẩn bị trước.” Bèn hạ chiếu cho Phó tướng thứ nhất Hà Đông là Trương Thế Củ đổi chỗ với Phó tướng thứ sáu là Cao Tuân Nhất; lại lệnh cho Thế Củ sau khi nhậm chức, cùng Phó tướng thứ bảy là Vương Mẫn chỉ huy quân mã Hán và Phiên của ba châu ngoài sông, trừ số người giữ thành, còn lại đều tập hợp, nghe theo sự điều động của Chủng Ngạc; quân nhu do Kinh lược Chuyển vận ty lo liệu.
[19] Nguyên chuyển vận phán quan Hà Bắc Lữ Đại Trung tâu: “Hai khoản thuế trong thiên hạ, các cơ quan kiểm tra thiên tai, giữ theo lệ cũ sai lầm, mỗi năm may mắn được miễn không dưới hai ba trăm vạn, còn lại các khoản miễn giảm do lũ lụt, hạn hán phần lớn không đúng sự thật. Dân đệ đơn tố cáo thiên tai, phần nhiều không theo quy định[5], các huyện không kiểm tra. Các quan được cử không theo thời hạn quy định trong biên sắc, viện cớ từ chối. Xin xem xét định ra luật.” Trung thư hộ phòng[6] tâu: “Biên sắc năm Hi Ninh quy định rất chi tiết, xin ban hành lại.” Theo đó.
(Bản Chu bỏ đi.)
[20] Ngày Quý Tỵ, chiếu rằng: “Địa hình Hi Hà nằm ở thượng du giặc, cả đường thủy lẫn đường bộ đều có thể tiến đánh, giao cho Lý Hiến đẳng chiêu mộ nhiều hướng đạo, bày nhiều kế lạ. Nay tuy ở giới hạn Hà Châu cùng Đổng Chiên đánh chiếm, nhưng vẫn phải xem xét đặt thuyền bè ở thượng lưu sông Thao, hoặc chở lương thảo, hoặc chở quân sĩ, hoặc dùng hỏa công. Gỗ dùng có thể lấy ở núi Mạt Bang. Thợ đóng thuyền nên lấy từ xưởng thuyền Phượng Tường phủ. Nếu binh mã đã chia ra không đủ, có thể điều thêm bốn tướng ở Tần Phượng lộ. Nếu việc bố trí đã xong, thì chọn ngày tiến đánh cùng Đổng Chiên, cùng đánh các thành trại mới xây trong đất Mạc Xuyên thuộc địa giới giặc. Nếu quân giặc đến cứu, thì tuân theo chỉ dụ gần đây, khích lệ tướng sĩ hợp sức đánh mạnh. Nếu đại quân không đến, thì xem xét thời cơ, dẫn quân xuống phía đông, thẳng đến sào huyệt, hoặc đánh lên phía bắc lấy Cam, Lương, đánh vào sau lưng giặc, cùng các đạo quân hợp lực đánh dẹp. Chỉ dụ gần đây về việc điều phái các dân tộc thiểu số cung tiễn thủ hỗ trợ Đổng Chiên không thi hành nữa. Còn lại đều theo chỉ dụ thống nhất của các lộ như Phu Diên.”
[21] Thông trực lang, Trực tập hiền viện kiêm Thị ngự sử tri tạp sự Hà Chính Thần làm Bảo văn các đãi chế, quyền phán Hình bộ, Thông trực lang, Quán các hiệu khám, quyền Giám sát ngự sử lí hành Mãn Trung Hành làm Trực tập hiền viện kiêm Thị ngự sử tri tạp sự.
[22] Giáp Ngọ, các lộ Phu Diên, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Hi Hà, Lân Phủ đều được ban thưởng 15 đai vàng, 700 đai bạc và áo gấm, 10.000 lượng khí cụ bạc, 50 bộ ghế giao, bình nước, ống khăn tay, nĩa nước, 20 bộ yên cương và dây cương, 30 mặt hốt ngà, đồng thời chuẩn bị xe nhẹ nhanh giao cho các lộ Kinh lược ty, riêng lộ Lân Phủ giao cho Vương Trung Chính.
[23] Ngự sử Chu Phục tâu: “Phán Hình bộ Trần Mục tiến cử Trình Bá Tôn làm Tường nghị quan, nhưng Bá Tôn không phải người đã thi đỗ về hình pháp, không nên được tiến cử theo chỉ dụ triều đình. Nghe nói nhà họ Trình giàu có, kết giao với Mục bằng của cải, lại là nhà thông gia, âm thầm nhờ vả. Trước đây, vụ án Chương Dũ tấu lên, Mục không tự mình xử lý pháp luật, chỉ bảo quan nghị là Mạc Quân Trần ký tên, đến khi vụ án Chương Đôn trình lên, lại bảo quan đoán là Lý Thế Nam thay ký. Hơn nữa, cha con Chương Đôn phạm tội theo pháp luật, cơ quan tự nhiên phải căn cứ vào văn bản để xử lý, nhưng Mục lại uốn éo tránh né như vậy, xin giao cho cơ quan điều tra tận gốc.” Chiếu chỉ rằng, ngoại trừ việc vụ án Chương Đôn đã lệnh cho quan đoán thay ký và thi hành, còn lại giao cho Đại Lý tự xử lý.
[24] Mậu Tuất, chiếu rằng từ nay nếu nước sông Biện dâng cao đến một trượng bốn thước trở lên, lập tức cho phép xem xét địa hình thấp ở hai bờ đê phía trên để tìm chỗ có thể xả nước mà quyết định.
[25] Kỷ Hợi, chiếu rằng các quan phụ trách vận chuyển quân nhu lương thảo ở các lộ Thiểm Tây nếu vi phạm thời hạn dẫn đến thiếu hụt, sẽ bị xử theo luật phạm quân hưng, Ty Chuyển vận và lộ Hi Hà cùng kinh chế mã giáp v.v. một mặt thi hành xong rồi tâu lên, binh phu cũng theo đó. Lại chiếu rằng trong tương lai khi vào biên giới, ngoại trừ những người đang làm nhiệm vụ và người tình nguyện, cho phép điều động Nghĩa dũng và Bảo giáp Thiểm Tây vận chuyển lương thảo, nếu không đủ thì điều động phu dịch.
[26] Đô chuyển vận sứ lộ Hà Đông là Trần An Thạch tâu: “Năm Nguyên Phong thứ nhất, tháng nhuận Chính, thần vâng chiếu lo việc muối của bản lộ. Từ khi nhậm chức, thần đã thi hành phép mới, việc thu thuế ở các trường quan đã được giải quyết, muối tư bị cấm, cùng với việc chiêu mộ thương nhân nộp tiền để xin mua muối tích trữ ở hai giám Vĩnh Lợi, đã thông suốt, mỗi năm đều có dư. Cùng với việc tăng thu thuế muối từ các hộ đun muối ở đất mặn châu Hãn và trì Mã Thành[7], thuế muối ở khe Kim châu Khúc Ốc, hang thiếc huyện Lăng Xuyên châu Trạch[8], đều đã sắp xếp xong. Nay xin bảo đảm rõ ràng các quan lại để tâu lên[9].” Chiếu giảm năm khảo khóa, thăng chức tùy theo mức độ: Yến Minh giảm 2 năm khảo khóa, Tôn Tể và Thái Lệ mỗi người được thăng một bậc, được bổ nhiệm chức vụ ở đường, Yến Phục giảm 1 năm khảo khóa.
[27] Ngày Canh Tý, Ty chuyển vận lộ Quỳ Châu tâu: “Bành Tôn không đi theo đường Nam Bình vào đất Man, đã chỉ huy sai phu dịch và trâu ngựa ở các châu Quy, Phù, Trung.” Vua phê: “Gần đây đã chỉ huy Bành Tôn, chỉ lệnh chọn đường tiện lợi để tiến đánh, đường Nam Bình có thể đánh úp giặc, cũng không trái với ý chỉ của chiếu. Chưa rõ Ty chuyển vận chưa thấy Bành Tôn chỉ định đường tiến quân, dựa vào đâu mà nói là không đi qua Nam Bình, lại tự ý cho phu vận lương về? Đủ thấy Tiên Vu Sư Trung nhút nhát tránh việc, trước hãy lệnh trình bày rõ để tâu lên.” Lại lệnh Ty chuyển vận, nếu Bành Tôn chỉ đi theo đường Nam Bình để tiến đánh, quân nhu có thiếu, sẽ xử theo tội làm trở ngại việc quân. Lúc đó, quân của Bành Tôn đều là quân Long Mãnh chỉ huy và đảng giặc hàng là Liêu Ân[10], đi đến đâu cũng nhiều việc phi pháp, Bành Tôn vừa vào địa giới Quỳ, liền bất hòa với Sư Trung.
(Ngày Đinh Hợi tháng 7 có thể gộp vào đây.)
[28] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng: “Đã lệnh các lộ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Hi Hà ước ngày xuất quân, các thủ lĩnh vùng biên nếu có ý quy thuận, nay từ chối không nhận, tất bị người Hạ bắt đi giam giữ, người thân có thể bị giết hại, quân lính sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung; nếu chiêu nạp ngay, lại lo người quy phụ đông, nước Hạ tất dẫn quân đuổi theo đòi, nhân đó xâm phạm biên giới. Lệnh Cao Tuân Dụ cân nhắc, nếu các lộ thêm quân chưa tập trung đủ, chỉ dựa vào quân bản lộ đủ chống đỡ và bảo vệ người quy phụ, không để họ bị giết hại, thì tùy cơ hội mà chiêu nạp.”
[29] Ngày Giáp Thìn, Triều phụng đại phu, Tập hiền hiệu lý Trịnh Mục được thăng làm Triều tán đại phu, nhậm chức Tri châu Việt. Trịnh Mục giữ chức Thị giảng ở phủ các vương được 12 năm, xin ra ngoài, đặc cách thăng chức.
[30] Thượng phê: “Ba lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông hiện đang huấn luyện đợt dân binh thứ nhất, ngoại trừ các châu Thiền, Trạch, Thiểm đã có chỉ huy, theo tấu của Địch Tư, đều đã huấn luyện xong. Nếu lâu không kiểm tra, không chỉ lãng phí tiền lương, mà còn cản trở việc khởi động đợt thứ hai ở các nơi khác[11], và việc ban bố phương pháp chuyển giáo cũng không thể thực hiện. Nên cử Thừa nghị lang, Thiên Chương các đãi chế, Phán Binh bộ Triệu Tiết, Văn Tư sứ, Văn Châu thứ sử, Nội thị áp ban Lý Thuấn Cử, theo quy cách đã dẫn kiến ở phủ giới Khai Phong, lần lượt kiểm tra và ban thưởng. Lại cử Nhập nội đông đầu cung phụng quan Tống Đỉnh Thần, Cao phẩm Lưu Hữu Đoan sung làm Thừa thụ kiêm Giám thị án duyệt.”
(Cựu kỷ chép: Sai quan kiểm tra dân binh các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông.)
[31] Kinh lược ty các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh tấu, xin cử các đại tiểu sứ thần ứng phó việc quân. Chiếu rằng: Mỗi nơi chọn cử các sứ thần có vũ dũng và đại tướng quân một trăm người, nếu không đủ thì chọn thêm tán trực đi theo.
[32] Chiếu chém Tứ phương quán sứ, Trung Châu đoàn luyện sứ Hàn Tồn Bảo ở Lô Châu, Nhập nội đông đầu cung phụng quan Hàn Vĩnh Thức bị tước chức, đày ra Sa Môn Điểu {sơn}, Triều tán lang, Quản câu cơ nghi văn tự Ngụy Chương bị tước chức, đày ra Hạ Châu, Tử Châu lộ chuyển vận phó sứ Đổng Việt bị tước chức. Trước đây, Tồn Bảo kinh chế quân Lô Châu đánh giặc man không có công, mà Vĩnh Thức quản lý quân mã, thực tế cũng liên quan đến việc này. Triều đình sai Thị ngự sử tri tạp sự Hà Chính Thần tra xét Tồn Bảo và những người khác, thấy rằng khi đánh nhau với Khất Đệ, vì nhiều lần thua nên sợ hãi tránh né, chỉ sai tướng nhỏ ra chống địch, khiến tướng giặc chạy thoát, lại còn dụ hàng Khất Đệ, mong rút quân về; trong khi đó người man ở Yến Châu nổi loạn, vì muốn rút quân gấp nên không đánh; lại nghi ngờ các làng man ở Để Bồng Bao, Thượng Hạ Để Hành làm giặc, vì thấy họ không tập hợp đủ người, bèn khởi binh đánh dẹp, muốn lấy công này che lỗi trước; lại không tuân theo chỉ dụ của triều đình xây thành lũy. Các tội khác như tâu báo không đúng sự thật, Ngụy Chương là người theo. Vụ án đã xong, bấy giờ Hình bộ tâu rằng Tồn Bảo thực sự trì hoãn không đánh, xin theo chiếu thư ngày Canh Thìn thi hành quân pháp. Tri gián viện Thái Biện cũng tâu xin xử Tồn Bảo theo quân pháp, và trị tội Vĩnh Thức. Chính Thần lại tâu: “Đổng Việt đi theo quân, tận mắt thấy Tồn Bảo và những người khác làm việc sai trái, lừa dối trên, bất trung, lại dạy cách đề phòng người khác dò xét. Kiểm tra được biểu của Việt tâu về việc bắt giặc, vốn khen công lao của Tồn Bảo, sự lừa dối càng thêm nghiêm trọng. □[Hư Hòa án: Nguyên sách chỗ này một chữ bị lỗi] Tồn Bảo, Vĩnh Thức nên lập tức xử tử, còn Việt kết bè đảng dối trá, mong đặc biệt xử lý đày ải.”
Triều đình trừng phạt việc đánh An Nam không có công, lúc đó đang chuẩn bị đại quân đánh Hạ, nên giết Tồn Bảo để răn các tướng. Chủ bạ tùy quân Tiên Vu Trân, tướng thứ hai Lã Chân muốn chiều ý Tồn Bảo, làm giả tờ tâu, chiếu cho đề điểm hình ngục ty xét việc này.
(Chu bản thiêm thiếp nói rằng việc triều đình trừng phạt đánh An Nam không có công không có xuất xứ, lại nói việc Tiên Vu Trân, Lã Chân là nhỏ, nên bỏ đi. Nay vẫn giữ lại. Tồn Bảo bị xử tử vào ngày Bính Dần tháng 8[12]. Cựu kỷ chép Tồn Bảo đánh Khất Đệ thất luật bị xử tử, Tân kỷ chép Tồn Bảo vì tội trì hoãn bị xử tử, đều ghi là ngày Giáp Thìn tháng 7. Vì ngày 19 tháng 7 hạ chiếu, đến ngày 12 tháng 8 mới thi hành, nay theo đó.)
[33] Lục sự tham quân Nhung châu Tôn Mẫn Hành vốn được Việt yêu mến, Việt trước đó sai Mẫn Hành soạn biểu chúc mừng, Mẫn Hành nghiêm nghị ngăn lại, nói: “Hắn đã lừa dối bề trên, ngài lại theo đó mà xác nhận, ngài cũng sẽ bị liên lụy mà gặp họa.” Việt không nghe, cuối cùng sai quan khác soạn biểu. Mẫn Hành là người Mi Sơn.
[34] Ngày Bính Ngọ, Vua phê: “Hàn Tồn Bảo xuất quân do dự, gặp giặc không đánh, giết hại kẻ hàng phục, chiêu dụ kẻ cầm đầu, đã bị xử theo quân pháp. Có thể truyền lệnh cho các ty Kinh lược Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, và ty Kinh chế Hi Hà biết.”
[35] Vua phê: “Lô Bỉnh ở Kinh Nguyên lộ gần đây tấu báo hoàn toàn không đề cập đến quân sự, e rằng chưa hiểu ý cử động của triều đình, có thể truyền lệnh riêng cho Bỉnh nhanh chóng thi hành theo, nếu trễ nải thời cơ quân sự, tất sẽ bị xử theo quân pháp.”
[36] Chiếu rằng: “Hàng năm vào mùa thu, tại kinh sai quan kiểm tra và ban thưởng khí ngân cho quân đội, nên lấy số lượng dùng năm ngoái làm mức. Từ nay không cần sai sứ thần, chỉ giao cho các quan quản quân, lệnh trong năm tự thân kiểm tra và ban thưởng theo quy định. Số khí ngân chi ra, đều lấy từ kho phong trang của Quần mục ty[13]. Hủy bỏ khoản lương của quân Khoan y Thiên vũ và (Kim khuất) Trực, Tả xạ chỉ huy, trong đó số lượng lệnh cho Tam ty giữ lại, báo cho Quần mục ty biết.”
[37] Lại chiếu: “Sai quân bị tại kinh, Tướng tác giám đang tu sửa doanh trại, quân Sương Tráng dịch, Tạp dịch, Hiệp hà Sùng Thắng, Phụng Hóa, tổng cộng một vạn người, cùng quân Hà Thanh từ Thiền châu trở xuống ở Hà Bắc, một vạn năm nghìn người, cùng các ty Chuyển vận Phu Diên, Hoàn Khánh, Hi Hà và đồng Kinh chế tài lợi Mã Giáp, lệnh một mặt phân chia bổ sung và các loại sai dịch.”
[38] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Gần đây theo chỉ triều đình, việc tu sửa thành Vị Châu và xây dựng pháo đài đã hoàn tất. Hiện chỉ có các loại nỏ lớn nhỏ như hợp thiền sàng tử để phòng thủ. Theo 《Vũ Kinh Tổng Yếu》, có loại nỏ sàng tử tam cung bát ngưu, bắn xa hơn hai trăm bước, dùng một mũi thương và ba mũi tên kiếm, là vũ khí lợi hại nhất, có thể dùng cả tấn công lẫn phòng thủ. Xin hạ lệnh cho Quân khí giám cấp ba bộ nỏ và tên, giao về lộ này để chế tạo theo mẫu, phòng khi cần dùng gấp.” Quân khí giám tâu: “Mỗi bộ nỏ nặng hơn mười cân, khó vận chuyển[14], xin vẽ hình mẫu giao về tác viện của lộ này.” Triều đình đồng ý.
[39] Ngày Đinh Mùi, Vua phê: “Lệnh cho Hi Hà lộ Đô đại Kinh chế ty dẫn quân thừa cơ theo đường tắt đánh vào sào huyệt giặc, hoặc tiến về phía bắc chiếm Lương Châu, hội quân với Đổng Chiêm. Việc xây dựng thành trại trước đây tạm dừng. Báo cho Đổng Chiêm biết.” Lại phê: “Sứ giả vào Tây Phiên là Miêu Lý tâu rằng đã hẹn với Đổng Chiêm tập hợp mười ba vạn quân sáu bộ tộc, vào giữa tháng tám, chia làm ba đường hội quân với quan quân. Giao cho Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Phu Diên lộ Kinh lược ty và Vương Trung Chính biết.”
[40] Ngày Mậu Thân, lệnh cho quyền phán Lại bộ, Tập Hiền viện học sĩ Tô Tụng cùng tham gia định ra chế độ quan chế, tạm miễn việc Lại bộ.
(《Thập Triều Cương Yếu》: Lại bộ Tô Tụng tâu xin đưa việc tuyển võ quan về Lại bộ, từ đó Lại bộ chia thành Tả, Hữu tào, lập ra phép tứ tuyển.)
[41] Vua phê: “Các quân xuất giới, cấp đặc biệt cho quân cấm một nghìn tiền, dân binh, sương quân, thặng viên giảm một bậc.”
[42] Chiếu cho Đô tuần kiểm sứ phủ Lân, Tri phủ châu Chiết Khắc Hành điểm binh ba nghìn, chọn những người con em có chức tước làm Đô áp, thuộc quyền Trương Thế Củ. Vì Cao Tuân tâu xin cho Khắc Hành lĩnh quân Phiên làm một đội riêng, nhưng triều đình cho rằng Khắc Hành đang giữ quận, không thể thực hiện được.
[43] Chiếu rằng: “Các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Hi Hà, Lân Phủ đều cấp sắc cáo từ chức Chư ty sứ đến Nội điện Sùng ban, từ Đông đầu Cung phụng quan đến Tam ban Phụng chức, Quân đầu hai trăm, riêng lộ Phu Diên cấp thêm tráp tử từ Tam ban Tá chức đến Điện thị, Quân đại tướng một trăm. Nếu ở quân tiền có người hiệu mệnh phấn lực, có thể khích lệ lòng quân, tùy theo công lớn nhỏ mà bổ chức, viết điền cấp phát.”
[44] Yến Đạt tâu rằng trong số thặng viên của Thần vệ có nhiều người dưới ba mươi lăm tuổi còn tráng kiện, xin từ kinh đô chọn một nghìn người chia cho các tướng, sung vào các việc như tiều phu, gánh nước. Chiếu đợi Vương Trung Chính tuyển mộ quân binh ở kinh đô xong thì chọn lựa.
[45] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu rằng: “Triều tán lang, Trực Long đồ các Tăng Củng vốn nổi tiếng về sử học trong giới sĩ phu, nay triều đình đang biên soạn điển chế lớn của hai triều, nên để ông tham gia bàn luận, nhằm lưu truyền học vấn của ông cho đời sau. Việc biên soạn quốc sử hai triều sắp hoàn thành, sẽ cùng thông tu với quốc sử ba triều thành một bộ sách. Nên bổ nhiệm Củng làm Tu soạn Sử quán, chuyên trách việc sử, trước hết xem xét kỹ lưỡng quốc sử ba triều, đợi khi quốc sử hai triều hoàn thành, sẽ cùng tu chỉnh thành một bộ.” Lại ban chiếu cho Củng quản lý Biên tu viện. Văn chương của Củng không theo một khuôn mẫu nhất định, tuy mở rộng phóng khoáng, ứng dụng vô cùng, nhưng lời gần mà ý xa, cốt yếu đều quy về nhân nghĩa. Còn về hành vi, ông không theo kịp văn chương của mình. Lữ Công Trước thường nhận xét về Củng, cho rằng làm người không bằng bàn luận, bàn luận không bằng văn chương.
(Điền Hoạ viết trong 《Vương An Lễ hành trạng》 rằng: Tăng Củng nổi tiếng về văn học trong thiên hạ, nhưng vào thời Hi Ninh, Nguyên Phong, gặp trở ngại không được trọng dụng. Vương An Lễ tiến cử lên Vua, nói: “Tài văn chương của Củng đủ để lưu truyền hậu thế, nay ông đã già, mong bệ hạ cho ông tu chỉnh văn chương đương thời, thành một nhà.” Vua nói: “Công Trước từng nói Củng hành nghĩa không bằng chính sự, chính sự không bằng văn học. Quả đúng như vậy, không đáng dùng.” An Lễ nói: “Nếu đúng như lời ấy, xin chọn phần ưu tú nhất của ông.” Vua bèn dùng Củng làm sử quan. Xét: An Lễ lúc này làm Nội hàn, tri Khai Phong, chưa nắm quyền chính.)
[46] Ban thưởng cho gia đình cố Đô quan viên ngoại lang, Thông phán Miên châu Phí Kỳ 200 lạng bạc. Kỳ trước đây điều động phu lương ở Lô châu ra biên giới, vì bệnh chướng khí mà chết.
[47] Đồng tri Gián viện Thái Biện tâu: “Giáo thụ Vũ học Thái Thạc gần đây được lưu lại tu chỉnh sắc lệnh Quân khí giám, đặt cục ở Xu mật viện. Thạc là em của chấp chính, lại kết thân với Thừa chỉ Trương Sơn Phủ, e rằng sẽ nương tựa lẫn nhau, được bổ nhiệm lại, lợi dụng thế lực mưu lợi riêng, dần dần không thể ngăn được, xin bãi miễn để hợp với công luận.” Chiếu cho Xu mật viện cử quan khác thay thế.
[48] Bảo chương chính Phùng Sĩ An, Ngụy Thành Tượng nói: “Nghe rằng triều đại tổ tông từng xây đê ở ba vị trí phía đông và tây lăng Vĩnh Hi để trấn đất, đã được linh ứng. Nay có thể ở lăng Vĩnh Hậu và vườn của Bộc An Ý Vương, tại ba vị Dần, Mão, Thần phía đông, dùng núi Thiên Trụ Thọ để thực hiện thuật trấn đất, xin được chôn các loại ngọc quý và đá quý hình thú ở các vị trí đê trấn đất, nên nhân việc chôn cất của Vận Vương mà tế cáo các lăng, vào ngày trảm thảo, khởi công xây dựng, sẽ không có gì kiêng kỵ.” Chiếu đưa cho Ty Thiên Giám tập hợp các quan để bàn định. Sau đó tấu rằng việc này theo sách âm dương và quốc âm đều không có gì trở ngại, nên theo. Việc trấn đất vẫn giao cho các quan bàn định rồi tâu lên Trung thư.
(Xem xét kỹ hơn, tham chiếu ngày Tân Dậu tháng 4.)
[49] Châu Thái tâu: “Ngày Giáp Ngọ tháng 7, gió biển nổi lên ban đêm, tiếp theo là mưa lớn, làm ngập thành châu, hư hại hàng nghìn căn nhà công và tư.” Chiếu cho Phó Chuyển vận sứ Lý Tông của lộ Hoài Nam đi xem xét rồi tâu lên.
(Cả sử mới và cũ đều chép vào cuối năm.)
[50] Ngày Canh Tuất, Tri gián viện Thư Đản nói: “Ngự sử đài đang xét xử Thái học sinh Thái Sư Tằng, xin lập thưởng lớn để khuyến khích tố giác và bắt giữ.” Chiếu lập thưởng 100 ngàn tiền.
(Bản Chu chú thích: Việc nhỏ nên bỏ đi.)
[51] Ty Chuyển vận lộ Quảng Nam Đông tâu: “Lộ Tây báo rằng người Giao Chỉ vào cống, xin cho đi theo đường Kinh Hồ.” Chiếu rằng: “Nếu người Giao Chỉ muốn đi đường thủy đến kinh đô, thì lệnh cho Kinh lược ty Quảng Tây chỉ huy, phải đi theo đường cũ, không được thay đổi.”
[52] Kinh lược sứ lộ Phu Diên Thẩm Quát tâu, đã cùng lộ Hoàn Khánh ước định ngày xuất quân, chiếu dùng ngày Bính Ngọ tháng 9. Lệnh trước thông báo cho lộ Hoàn Khánh và Kinh Nguyên, không được để lộ ra ngoài.
(Sử cũ chép: Ngày Canh Tuất, chiếu rằng người Hạ giam Vua của họ là Bính Thường, lộ Thiểm Tây và Hà Đông sẽ xuất quân đánh vào ngày Bính Ngọ tháng 9. Đây là chép sau, không phải sự thật, nên không lấy.)
[53] Miêu Lữ và những người khác tâu rằng: “Thủ lĩnh lớn của Tây Phiền là Kinh Sấm Y Đạt Mộc Lăng Tiết mang thư của A Lí Cốt Phiền đến, nói rằng vào ngày Mậu Tý tháng 7, tại thành Chước Long[15], quân Phiền đang canh giữ pháo đài ở phía nam tông, địa danh là Tây La Cốc, có quân Hạ Quốc gồm ba đầu mục mai phục, cướp bóc quân Phiền. Quân Hạ Quốc là giặc, đã chém được 300 thủ cấp, bắt sống 123 người.”
[54] Ngày Nhâm Tý, Phó Đô tri Nội đình, Đồng Thiêm thư Kinh Nguyên lộ Kinh lược An phủ Tổng quản ty Công sự Vương Trung Chính tâu: “Xin không tuyển chọn thêm Nghĩa dũng và Bảo giáp một vạn người, chỉ tuyển trong số các Đại, Tiểu Bảo trưởng của các huyện những người tình nguyện đi theo. Những người đã có chức quan thì tự theo quy định về ngựa trạm và giấy tờ của quan phủ, những người chưa có chức quan thì xin cấp tiền và gạo hàng ngày.” Được chấp thuận. Lúc đó, Trung Chính vừa từ Phu Diên, Hoàn Khánh kinh lý biên sự trở về, Vua liền lệnh Trung thư, Xu mật viện triệu Trung Chính đến hỏi về đại lược tiến quân.
(Theo 《Ngự tập》.)
[55] Quần mục Phán quan Quách Mậu Tuấn tâu: “Xin quy định rằng ngựa của các bộ Phiền vào đất Hán đều phải đưa đến trường mua ngựa, ngoại trừ quan trung, ngựa giá cao cho phép mọi người đến trường giao dịch, xin lập pháp.” Được chấp thuận.
[56] Tẩu mã Thừa thụ Quỳ Châu lộ Vương Chính Thần xin điều tướng Lã Chân Nhất đến hỗ trợ Bành Tôn.
[57] Chiếu lệnh điều tướng thứ tư của Khai Phong phủ giới đến Nam Bình quân làm viện binh. Nghe nói ở Lô Châu và Nam Bình quân vào tháng 7, tháng 8 khói độc rất mạnh, lệnh cho Lâm Quảng, Bành Tôn cân nhắc kỹ việc tiến quân.
[58] Quốc tử giám tâu: “Học sinh nhập học, xin quy định rằng năm người cùng huyện trở lên phải bảo lãnh cho nhau, nếu phạm tội thuộc loại phạt nặng nhất mà không phát hiện thì cùng chịu tội. Cho phép người tố cáo, thưởng 300 quan tiền. Những vi phạm trước khi nhập học cũng áp dụng theo luật cống cử.” Được chấp thuận.
[59] Ngày Quý Sửu, chiếu lệnh bãi bỏ việc các cơ quan trong ngoài tiến cử quan lại, lệnh Đại Lý khanh Thôi Đài Phù cùng Lại bộ, Thẩm quan Đông Tây, Tam ban viện bàn về quy chế tuyển chọn.
[60] Lâm Quảng tâu: “A Sinh đem tờ khai xin hàng của Khất Đệ, nhưng chưa chịu đến Lô Châu.” Triều đình hạ chiếu cho Trung thư ban sắc, cho phép đầu hàng, tha tội chết, nhưng bí mật chỉ huy Lâm Quảng đợi ngày Khất Đệ đầu hàng thì áp giải về kinh.
[61] Chiếu cho Trương Thế Củ và những người khác đều thuộc quyền Vương Trung Chính, trước đây thuộc quyền chỉ huy của Chủng Ngạc thì không thi hành nữa. Lại chiếu cho Vương Trung Chính bố trí binh mã ở Lân Phủ, kiêm quản ba lộ quân mã Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, và hạ lệnh cho các quan tổng binh các lộ vào địa giới phải bàn bạc kỹ với Vương Trung Chính rồi mới được tiến quân.
[62] Vu Điền sai bộ tộc A Tân dâng biểu, xưng là “Vu Điền quốc Lâu La, có phúc lực lượng, biết văn pháp, Hắc Hãn vương, gửi thư đến đại thế giới nơi mặt trời mọc, chủ đất ruộng, nhà Hán, cậu lớn của đại quan gia.” Đại ý nói đường xa, lòng thành hướng về, trước đây ba lần sai người đến cống, chưa về nước, lặp lại mấy trăm lời. Đổng Chiên sai người dẫn A Tân đến Hi Châu, dịch thư ấy tâu lên. Triều đình hạ chiếu rằng ba đoàn sứ giả Vu Điền đều đã đến kinh triều kiến, được đãi ngộ rất hậu, ban thưởng rồi cho về, đã về nước, có thể ban sắc thư dụ bảo.
(Hai kỷ đều chép phụ vào cuối năm.)
- Từ khi việc quản lý bị chia tách, 'sự' nguyên là 'thị', theo 《Tống sử》 quyển 198, 《Binh chí》, 《Thông khảo》 quyển 160, 《Binh khảo》 sửa lại. ↵
- Vẫn để Mậu Tuấn chuyên trách việc mua ngựa và giám sát chăn nuôi, kiêm đồng đề cử trà trường, 'mục' nguyên là 'thu', theo sách này quyển 315, năm Nguyên Phong thứ 4, tháng 8, ngày Đinh Tỵ, và 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- những người đầu hàng có thể có tích trữ 'chúng', các bản khác ghi là 'gia'. ↵
- những việc còn lại khi đối mặt với địch 'trí' nguyên văn là 'thắng', theo 《Tống hội yếu》 binh bát chi nhị tam sửa lại. ↵
- 'Quy định' dưới nguyên có thêm chữ 'lệnh', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 61-72 bỏ. ↵
- 'Hộ' nguyên thiếu, theo sách trên bổ sung. ↵
- Mã Thành trì, chữ 'thành' nguyên bản là 'địa', theo 《Tống sử》 quyển 183 《Thực hóa chí》, 《Tống hội yếu》 Thực hóa 24-21 mà sửa. ↵
- Hang thiếc huyện Lăng Xuyên châu Trạch, chữ 'xuyên' nguyên bản là 'châu'. Xét 《Tống sử》 quyển 86 《Địa lý chí》 và 《Nguyên Phong cửu vực chí》 quyển 4, lộ Hà Đông không có 'Lăng châu', mà châu Trạch có huyện Lăng Xuyên. Căn cứ vào câu trên 'châu Khúc Ốc', chữ 'châu' rõ ràng là sai, nên sửa. ↵
- Nay xin bảo đảm rõ ràng các quan lại để tâu lên, chữ 'nay' nguyên bản là 'lệnh', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 24-21 mà sửa. ↵
- Liêu Ân, chữ 'Liêu' nguyên bản viết là 'Liêu', căn cứ theo quyển 284, ngày Kỷ Hợi tháng 8 năm Hi Ninh thứ 10, quyển 285, ngày Bính Tuất tháng 10 năm Hi Ninh thứ 10 và 《Tống hội yếu》 binh 12-4 sửa lại. ↵
- Theo ý văn, nghi ngờ chữ 'phòng' nên là 'phương'. ↵
- Ngày Bính Dần tháng 8 '12' nguyên bản là '11', căn cứ vào các bản và văn dưới sửa lại. ↵
- Chữ 'chi' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 18-6 bổ sung ↵
- Mỗi bộ nỏ nặng hơn mười cân khó vận chuyển, xét: Nặng hơn mười cân mà đã khó vận chuyển thì không hợp lý. Theo 《Vũ Kinh Tổng Yếu》 tiền tập có ghi hình vẽ nỏ sàng tử tam cung, hình dáng rất lớn, chú thích rằng: 'Nỏ sàng tử tam cung: hai cung phía trước, một cung phía sau, còn gọi là 'bát ngưu nỗ', khi giương cung cần hơn trăm người... loại nhỏ hơn cần năm mươi đến bảy mươi người.' Lại nói: 'Dùng bảy mươi người giương, bắn một mũi thương và ba mũi tên kiếm, bắn xa ba trăm bước.' Theo đó, nghi ngờ chữ 'thập' là sai, nên là 'thiên'. ↵
- Thành Chước Long, chữ 'Chước' nguyên bản là 'Nghiên', căn cứ theo bản trong các và 《Tống sử》 quyển 492, truyện Thổ Phiền sửa lại. ↵