VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 317: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)
Bắt đầu từ ngày Ất Mão tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết ngày Ất Sửu cùng tháng.
[1] Tháng 10 mùa đông, ngày Ất Mão, Thông trực lang, Tập hiền hiệu lý, Đồng tri Gián viện Thái Biện được bổ làm Sùng Chính điện thuyết thư, thôi chức Tri Gián viện.
[2] Xu mật viện tâu việc do thám ở Bắc giới từ Định châu, Vua nói: “Triều đình làm việc, chỉ cần lấy lợi thực, không nên theo đuổi hư danh. Như năm Khánh Lịch, các phụ thần muốn cấm Nguyên Hạo xưng là Ngột Tốt[1], tốn 20 vạn lạng vàng mỗi năm, đó là tranh hư danh mà mất lợi thực. Phú Bật cùng Khiết Đan đàm phán lại hiệp ước hòa hảo, tự hào vì trong quốc thư có thêm sáu chữ ‘Nam triều Bạch Câu sở quản’, cũng tăng thêm 20 vạn lạng vàng mỗi năm, nhưng sau đó Bạch Câu cũng không hoàn toàn thuộc về ta. Xưa Chu Thế Tông không khoe khoang công danh, chỉ lấy chí thực mà thu phục thiên hạ, nên trong hơn 10 năm không hề có chiếu cáo, nếu trời cho thêm tuổi thọ, sự nghiệp của ông có thể sánh với Hán Cao Tổ. Như Lý Cảnh muốn xưng đế, Thế Tông đồng ý, vì đã chiếm hết đất Hoài Nam của họ, không liên quan đến việc họ xưng đế hay không.”
[3] Ty Kinh chế đô đại Hi Hà lộ tâu: “Đóng quân ở Lan Châu, trước xin cấp tờ tuyên trống để điền thưởng cho những người Khương đầu hàng có công, nay số còn lại không nhiều, xin được cấp thêm.” Chiếu cấp 300 tờ tuyên trống và 100 cáo thân.
[4] Ty Kinh lược Phu Diên lộ tâu việc chiêu hàng trai tráng giặc Tây, xin được ban thưởng tương ứng. Chiếu rằng mỗi lần chiêu hàng được 5 trai tráng, ban thưởng 20 tấm lụa, các lộ khác đều theo đó.
[5] Chiếu: “Lý Tắc chỉ huy dân phu vận lương theo quân, lệnh cho Thẩm Quát điều 200 quân cấm làm thân binh.”
[6] Thượng phê phó Thẩm Quát: “Căn cứ theo tấu chương của Chủng Ngạc vào ngày Canh Tuất tháng chín, ngày Đinh Mùi đại quân đóng tại trại Mễ Chi, sai các tướng vây đánh, ngày Kỷ Dậu ngày đêm tiến công, và căn cứ theo tấu chương của Tẩu mã thừa thụ về số binh lính bị thương, tiếp tục báo cáo đầy đủ. Nay đại quân xuất cảnh chưa đầy trăm dặm, đã tấn công ngay thành kiên cố, tổn thất binh sĩ, làm suy yếu uy thế quân đội, đây không phải là kế sách tốt. Đây là lúc bắt đầu tiến quân, đã sai lầm trong việc cân nhắc kỹ lưỡng. Quân nên tránh thực đánh hư, bỏ chỗ cứng đánh chỗ yếu, nay lại làm ngược lại, rất đáng lo ngại. Khanh nên cân nhắc tình hình mà nghe được, thay đổi mệnh lệnh cho Chủng Ngạc, sớm có kế hoạch dài hạn, đừng để khi quân sĩ kiệt sức, bất ngờ gặp quân địch tập trung cứu viện, khó lòng giành được thắng lợi.”
(Ngày 7 tháng 7 năm thứ 5, chiếu hỏi Chủng Ngạc về việc bỏ đường thẳng chọn đường vòng, có thể tra cứu trong 《Thời chính ký》.)
[7] Cùng ngày, Vương Trung Chính bắt đầu từ Bạch Thảo Bình dẫn quân đi về phía tây 30 dặm, dừng lại ở Nga Chi Cốc, ngày Bính Thìn đến Hạo Hoạn, vì sương mù nên lại dừng lại thêm hai đêm.
[8] Cùng ngày, Lý Hiến để Lý Hạo ở lại giữ Lan Châu, dẫn đại quân tiến về phía đông.
[9] Ngày Đinh Tỵ, chiếu rằng: “Ty An phủ dọc biên giới Hà Đông có thể làm theo mệnh triều đình, vì thủ lĩnh nắm quyền nước Hạ đã làm loạn thường đạo, bắt giam và phế truất chủ của họ, lại không tuân theo lời thề và chiếu chỉ, để bộ lạc xâm phạm biên thành. Nay sai quân đi bắt tội nhân, vì việc điều động quân gần biên giới, lo ngại Bắc giới nghi ngờ, nên gửi văn thư đến Ty An phủ mặt Tây Nam của Bắc giới, để giải thích ý của triều đình.”
[10] Chủng Ngạc sau khi đánh bại quân tiếp viện Mễ Chi, rút lui rồi lại tấn công thành, tổng cộng năm ngày vây hãm thành Nhân. Tướng giữ thành là Đô Kiềm hạt Lệnh Giới Ngoa Ngộ dẫn hơn năm mươi tù trưởng đến xin hàng. Chủng Ngạc ra lệnh: “Vào thành mà dám giết người và ăn trộm sẽ bị chém.” Sau đó tiếp nhận đầu hàng. Thu nhận trong thành tổng cộng 10.421 người già trẻ[2], cấp phát quần áo và khăn, rồi lệnh cho Ngoa Ngộ và những người khác tiếp tục chỉ huy bộ hạ của mình để chống giặc.
(Ngày mồng 4 Đinh Tỵ tiếp nhận đầu hàng, ngày 12 Ất Sửu tấu trình đến. 《Cao Vĩnh Năng truyện》 chép: “Lúc đầu vây thành Mễ Chi, giặc đem mười vạn quân đến tiếp viện. Tiền phong tướng Cao Vĩnh Năng nói với em họ là Cao Vĩnh Hanh: ‘Quân giặc ồ ạt kéo đến, dễ dàng đánh bại quân ta. Doanh trại của ta nằm giữa sông lớn, bên phải là núi, bên trái là sông, nên lệnh cho tiền quân dàn trận nghiêm chỉnh đợi chúng đến, chọn kỵ binh tinh nhuệ mở cánh phải tấn công, có thể đánh bại chúng.’ Vĩnh Hanh nghe theo. Sáng hôm sau, sương mù dày đặc, quân giặc quả nhiên kéo đến, giao chiến với tiền quân một hồi lâu, kỳ binh từ cánh tiến lên, quân giặc tan vỡ, giẫm đạp lên nhau chết đuối ở sông Vô Định, nước sông không chảy được. Đại quân thừa thắng xông lên, từ giờ Dần đến giờ Thìn, chém được hàng ngàn thủ cấp, bắt được ba ngàn ngựa, lạc đà, trâu, dê hàng vạn, khí giới không đếm xuể. Thành vẫn chưa hạ được, Vĩnh Năng bí mật sai gián điệp dụ hàng tướng giữ tường đông, nói rõ họa phúc. Ngày hôm sau, họ đến hàng, Vĩnh Năng xin ban thưởng hậu hĩnh, mặc áo gấm, dẫn ra trước thành, dùng nhạc cổ dẫn đường, trong thành bèn dẫn Ngụy Kiềm hạt Lệnh Giới Ngoa Ngộ ra hàng.” Việc này cần xem xét thêm. Ngày 28 tháng 6 năm thứ 5, Cao Vĩnh Năng được thăng chức. 《Tân Kỷ》 chép ngày Đinh Tỵ, trại Mễ Chi đầu hàng, 《Cựu Kỷ》 chép ngày Giáp Tý, hạ được trại Mễ Chi.)
[11] Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu cho Tri huyện Diệm, Thừa phụng lang Tô Quynh bị cách chức, Đồng tu khởi cư chú Lục Điền bị phạt 8 cân đồng. Người huyện Diệm là Hoàng Dung vốn giàu có nổi tiếng trong làng, nhờ nộp thóc được thử làm chức Chủ bạ Tướng tác giám. Lục Điền từng gửi thư cho Tô Quynh, nói rằng Hoàng Dung là người thân trong làng, nhờ được che chở. Khi thư đến, gặp lúc Hoàng Dung có việc kiện tụng, huyện nhiều lần truy bắt nhưng không được, Tô Quynh tức giận, bất ngờ đến nhà bắt. Vợ của Hoàng Dung là Vương vội gọi gia nhân Diêm Sư cùng hơn mười người xông vào hò hét, cướp kiệu và lọng của Tô Quynh, dùng đá đánh bị thương người đi theo, Tô Quynh may mắn thoát được. Giám ty tâu rằng Vương và những người kia hung ác, xin trừng trị nặng. Vương và Diêm Sư bị đày đến các châu theo thứ tự cách xa nghìn dặm, Tô Quynh vì việc này bị bãi chức, Lục Điền vì gửi thư bị Tô Quynh tố cáo nên bị phạt.
[12] Xuống chiếu xử tử Tam ban phụng chức, tiền Giám quân Hoài An, huyện Kim Đường, chức Thương thuế Nhậm Quang Tú. Tội là theo quân đánh Khất Đệ để nhận thưởng và mua bán thủ cấp.
[13] Tường định lễ văn tâu rằng: “Đạo trời xa khó đạt được, tôn quý khó gần gũi. Vì xa khó đạt được nên thường dùng đạo thần để đạt; vì tôn quý khó gần gũi nên thường dùng việc người để gần. Kinh Dịch nói ‘Thánh nhân dùng hương thơm để tế Thượng đế’, đó là dùng việc người để gần. Lễ nói ‘Tế giao dùng huyết’, đó là dùng đạo thần để đạt. Lễ tế giao của triều ta, ngoài việc dâng chín không dùng huyết, thật là thiếu sót. Xin ở Nam Giao trước hết dâng huyết trước thần tọa, đựng trong đĩa, sau đó dâng sống, rồi dâng chín, Bắc Giao cũng theo đó, trước hết chôn để đạt thần.” Được chấp thuận.
(Ngày 5 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu, nay phụ vào ngày tháng này.)
[14] Lại tâu: “Xem xét tên gọi các lễ tế Từ, Dược, Thường, Chưng[3], mùa xuân hạ vật chưa thành nên lễ tế đơn giản, mùa thu đông vật đã thành nên lễ tế đầy đủ, vì thế Hứa Thận lấy ‘phẩm vật ít nhiều văn từ’ làm Từ[4]; còn Vương Bật cho rằng Dược là lễ tế đơn giản, Hà Hưu nói rằng lúa mùa thu chín không đồng đều, lúa nếp chín trước có thể dâng cúng, nên gọi là Thường, mùa đông vạn vật đều thành, vật dâng cúng nhiều, nên gọi là Chưng. Vì thế trong lễ gọi Thường là Đại Thường, trong 《Chu Lễ》 gọi Chưng là Đại Hưởng. Nay Thái Miếu bốn mùa tuy có dâng vật mới, nhưng trong lễ vật của lễ Mạnh Hưởng không có sự phân biệt Từ, Dược, Thường, Chưng, xin thêm vào mùa xuân hẹ, trứng, mùa hạ thêm lúa mạch, cá, mùa thu thêm lúa nếp, lợn, mùa đông thêm lúa gạo, chim nhạn, khi đến tiết vật chín thì dâng lên thần tọa. Các đồ đựng trong biên đậu ngoài số thường lệ thêm vật theo mùa để dâng, nhiều ít tùy theo thời, để hợp với lễ xưa.” Được chấp thuận.
(Ngày Ất Mão tháng 10 theo tấu.)
[15] Lại tâu: “Theo lệnh triều đình, vào tiết thu phân, tế thần Thọ tinh ở phía nam giao. Theo nghi thức tế lễ năm Hi Ninh: trên đàn tế đặt một vị Thọ tinh, hướng nam; lại ở phía nam bậc Mão dưới đàn đặt bảy sao Giác, Kháng, Chủy, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, hướng đông. Kính xét sách 《Nhĩ Nhã》 viết: ‘Thọ tinh là sao Giác, Kháng.’ Người giải thích rằng: số khởi đầu từ Giác, Kháng, là chòm sao đứng đầu, nên gọi là Thọ. Theo đó mà nói, Giác, Kháng vốn là chòm sao đứng đầu nên gọi là Thọ tinh, chứ không phải là Thọ tinh được tế vào tiết thu phân. Nay dưới đàn đặt vị trí Giác, Kháng, lại cùng tế với Chủy, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, càng không có danh nghĩa. Thần lại tra sách 《Tấn thư – Thiên văn chí》: ‘Sao Lão nhân một ngôi ở phía nam cung Hồ, còn gọi là Nam Cực, thường xuất hiện vào buổi sáng tiết thu phân ở phương Bính, lặn vào buổi tối tiết xuân phân ở phương Đinh, xuất hiện thì thiên hạ thái bình, chủ về tuổi thọ dài lâu, thường vào tiết thu phân đợi ở phía nam giao.’ Đời Hậu Hán ở phía nam giao kinh đô lập miếu thờ sao Lão nhân, thường tế vào tiết trọng thu, vậy Thọ tinh chính là sao Lão nhân. Kính xin theo Hậu Hán, trên đàn tế đặt một vị Thọ tinh, hướng nam, tế sao Lão nhân. Còn vị trí bảy sao phương đông dưới đàn, xin nên bỏ.” Vua nghe theo.
(Ngày 6 tháng 10 năm thứ 4.)
[16] Hôm đó, tin thắng trận của Chủng Ngạc phá quân tiếp viện Mễ Chất đến, Vua vui mừng lộ ra sắc mặt, quần thần chúc mừng. Sai trung sứ dụ Chủng Ngạc rằng: “Trước đây vì khanh nóng lòng diệt giặc, sợ có thể tiến quân bừa bãi, gây lo lắng cho một phương, nên bảo nghe theo sự điều khiển của Vương Trung Chính. Nay khanh đã dẹp được mũi nhọn của giặc, lập công trước các lộ, Trẫm rất khen ngợi. Lệnh điều khiển của Trung Chính không thi hành nữa. Binh sĩ tham gia chiến thắng đều được cấp tiền đặc chi, các tướng quan đều được truyền lời vỗ về hỏi han.”
(Ngày 18 tháng 8, lệnh Chủng Ngạc nghe theo sự điều khiển của Trung Chính.)
[17] Thẩm Quát nói: “Chủng Ngạc báo rằng quân ta đại thắng, binh sĩ chiến đấu rất hăng hái. Nếu không ban thưởng đặc biệt thì không đủ để đền đáp lòng trung dũng của họ.” Chiếu rằng: “Ngoài việc ban thưởng ân điển của triều đình cho quân sĩ Hán và Phiền đã chiến đấu vào ngày Tân Hợi tháng chín, gia quyến của binh sĩ đóng quân tại địa phương này có thể nhân dịp ban bố chiếu thư mà dùng tiền phong trang của Kinh lược ty để mua trâu rượu, tổ chức khao thưởng đều khắp, nhằm khích lệ tinh thần binh sĩ, giúp việc tiêu diệt ổ giặc được dễ dàng hơn.”
[18] Ngày Kỷ Mùi, chiếu rằng: “Gần đây đã ban chỉ dụ, lệnh cho Lý Hiến và các tướng phối hợp tiến sâu vào, tiêu diệt ổ giặc, hoặc dẫn quân vượt sông, đánh chiếm Lương Châu, phải cùng tiến quân, không được chỉ cử tướng phó. Nay nghe nói lương thảo không đủ, đã bắt trói Mã Thân và những người liên quan đưa vào ngục, lệnh cho Lý Hiến và các tướng tạm dừng tiến quân, đợi khi việc vận chuyển lương thảo được chuẩn bị xong thì theo chiếu trước mà hành động.” Lại ban chiếu cho Lý Hiến: “Trước đây vào các ngày Tân Sửu và Giáp Thìn tháng chín, triều đình liên tiếp thúc giục tiến quân không phải vì lý do gì khác, mà chỉ lo rằng tướng soái có thể mắc sai lầm khi không tiến quân đúng lúc, chỉ dừng lại ở việc xây dựng vài đồn lũy mà thôi. Nay nghe nói trong quân đội đang khổ sở vì thiếu lương thực, không đủ dùng trong mười ngày, vậy thì làm sao có thể tiến công sâu vào được? Các cơ quan chuyển vận lương thực đúng là đáng tội, triều đình đã cử sứ giả đến điều tra rồi[5]. Việc chuẩn bị cỏ lương không chu đáo, gây trở ngại cho việc tiến quân, đây không phải là trách nhiệm của tướng soái, nên không cần quá lo sợ, hãy yên tâm bố trí, đừng hoang mang, làm nhụt chí binh sĩ. Quân đội triều đình xuất chinh, chỉ cần tiến quân là thắng, sao có thể tự lo lắng về những điều có thể xảy ra mà cố gắng làm theo mệnh lệnh triều đình, hy vọng vào sự may mắn ngàn năm có một? Ngươi hãy suy nghĩ kỹ điều này.”
(Lại ban chiếu cho Lý Hiến, bản mới đã bỏ đi, nay khôi phục lại, có thể thấy Thần Tông cân nhắc địch tình để tiến thoái, chưa từng tùy tiện dùng binh, những lần tiến quân sâu mà thất bại đều là lỗi của bề tôi. Bản Chu nói rằng đoạn này được chuyển từ quyển 136 sang.)
[19] Thẩm Quát tâu rằng giặc phương Tây xâm phạm trại Đức Tĩnh. Chiếu rằng: “Sau khi Chủng Ngạc xuất biên giới, nếu có giặc xâm phạm thành trại, Kinh lược ty tự phải đối phó. Trại Đức Tĩnh có nhiều bộ lạc và cung thủ, nhưng hầu hết đều theo Chủng Ngạc xuất biên giới, sao có thể để giặc xâm nhiễu? Hơn nữa, Ngạc xuất biên giới từ phía đông, nay giặc vào từ phía tây, sao có thể bắt Ngạc chịu trách nhiệm? Giao cho Thẩm Quát nhanh chóng xử lý và chuẩn bị phòng bị.”
[20] Đô chuyển vận sứ Hà Đông là Trần An Thạch tâu: “Từ khi quân đội động binh, các khoản tiền của triều đình, các ty và Ty Đề Cử đều quy về bản ty, lo rằng khi cấp bách sẽ không đủ để sử dụng, xin được cấp thêm.” Vua phê: “Tiền bạc của các ty ở Hà Đông, đại quân chưa xuất biên giới mà Chuyển vận ty đã báo thiếu, đó là do quản lý chi tiêu không có phương pháp, làm hao tổn vô ích, nếu không thì là báo cáo quá đáng, gây khó cho triều đình. Trước hết hãy phân tích rõ, giao cho Lộ Xương Hoành báo cáo số lượng thực tế đã sử dụng.” Xương Hoành lúc đó là Kiểm chính trung thư hình phòng công sự, quyền quản câu Hà Đông chuyển vận ty sự.
[21] Nước Phất Lâm dâng sản vật địa phương, đại thủ lĩnh Nễ Tư Đô Lệnh Tư Mạnh Phán nói rằng, nước họ phía đông nam đến Diệt Lực Sa, phía bắc đến biển lớn, đều cách nhau bốn mươi ngày đường[6]. Lại phía đông đến Tây Đại Thạch và nơi ở của Vua Vu Điền là Tân Phúc Châu, tiếp đến Cựu Vu Điền, rồi đến Chước Xương thành[7], đó là biên giới Vu Điền, tiếp phía đông đến Hoàng Đầu Hồi Hột, lại phía đông đến Đạt Đát, tiếp đến Chủng Ôn, rồi đến nơi ở của Đổng Chiên, tiếp đến Lâm Cầm thành, lại phía đông đến Thanh Đường, rồi đến biên giới Vua Trung Quốc; phía tây đến biển lớn khoảng ba mươi ngày đường. Tên nước là Diệt Lực Y Linh Cải Triệt, đất nước rất lạnh, Vua mặc áo đỏ vàng, dùng vải dệt kim tuyến quấn đầu, mỗi năm vào tháng ba vào chùa đốt hương, ngồi trên giường đỏ, người khiêng đi. Các thủ lĩnh đều mặc y phục như Vua, hoặc xanh lục, đỏ trắng, hồng phấn, nâu tím, cũng đều quấn đầu cưỡi ngựa. Thành thị và đồng ruộng đều có thủ lĩnh cai quản. Mỗi năm chỉ vào mùa hạ và thu được lương bổng[8], được cấp vàng, bạc, lụa, gấm, lúa, vải, tùy theo việc lớn nhỏ mà có chênh lệch. Tội nhẹ thì đánh năm mươi đến bảy mươi trượng, tội nặng thì một trăm đến hai trăm trượng, tội lớn thì bỏ vào túi lông ném xuống biển.
Nhà đất không có ngói[9]. Sản xuất vàng, bạc, ngọc trai, lụa, gấm, trâu, dê, ngựa, lạc đà một bướu, mơ, lê, đường, táo ngàn năm, quả ba lãm, lúa mì lớn nhỏ, kê, vừng, dùng nho làm rượu. Âm nhạc gồm đàn hồ cầm, đàn không hầu, thổi sáo nhỏ, đánh trống nhỏ, hát ca vỗ tay nhảy múa. Không chú trọng chiến đấu, việc nhỏ chỉ dùng văn thư qua lại chất vấn, việc lớn cũng xuất quân. Dùng vàng bạc làm tiền, không có lỗ xuyên, mặt khắc tên Phật Di Lặc, lưng khắc tên Vua, cấm tư nhân đúc. Ngôn ngữ giống với Diệt Lực Sa. Đến đây dâng ngựa, yên, đao, kiếm, ngọc trai.
(Hai kỷ đều chép vào cuối năm, chính truyện Phất Lâm quyển 6, các đời không triều cống, đến nay đã hơn chín trăm năm.)
[22] Tường định lễ văn tâu rằng: “Sách 《Lễ vận》 viết: ‘Đất giữ khí âm, phân bố ngũ hành trong bốn mùa.’ Ngũ hành là vật lớn nhất giữa trời đất, là nguồn gốc sinh thành vạn vật, nên có Đế làm chủ, có Thần làm phụ tá. Tế trời thì theo trời, nên tế Hạo Thiên Thượng Đế thì Ngũ Đế nên theo ở Nam Giao; tế đất thì theo đất[10], nên tế Địa Kỳ thì Ngũ Thần nên theo ở Bắc Giao. Ngũ Thần thuộc loại đất, nên nói ‘Đất giữ khí âm, phân bố ngũ hành trong bốn mùa.’ Lễ cũ của nhà Hán tế Ngũ Tự, là quan ngũ hành. Lương Vũ Đế nói: ‘Nam Giao và Bắc Giao đều tế thần ngũ hành.’ Nên Hứa Hanh cho rằng Ngũ Thần chủ ngũ hành, thuộc về đất là âm, vị trí tế ở Bắc Giao, là đúng. Gần đây lễ Đại Vu, nghênh khí năm mùa, lấy năm vị nhân thần phối tế, mà không thiết lập thần ngũ hành, là bỏ cái lớn mà lấy cái nhỏ. Xin tế Địa Kỳ thì theo thần ngũ hành, lấy năm vị nhân thần phối tế, dùng huyết tế.” Được chấp thuận.
(Lễ văn, ngày 6 tháng 6 năm thứ 4 theo tấu.)
[23] Lại tâu: “Kính xét chức vụ của người đánh trống trong 《Chu Lễ》 nói: ‘Dùng trống sấm để đánh khi tế thần, dùng trống linh để đánh khi tế xã.’ Lại có Đại Tông Bá nói: ‘Dùng lễ nhang tế Hạo Thiên Thượng Đế, dùng huyết tế để tế Xã Tắc và Ngũ Tự.’ Xã thường đối với thiên thần, mà không nói đến Địa Kỳ, vì Xã là đạo thần của đất, nói Xã thì đạo đất có thể biết, nên thần thuộc về đạo đất, tế đều là âm tế. Tuy nhiên, âm tế tất phải dùng huyết làm khởi đầu để thần hưởng, vì huyết là vật âm u, âm tế mà dùng vật âm u, tức là gốc ở đất thì gần dưới, mỗi thứ theo loại của nó, đó là ý nghĩa dùng loại để cầu thần. Nay nghi thức tế Xã Tắc không dùng huyết tế, đều trái với kinh lễ, xin tế Xã Tắc lấy việc chôn huyết làm khởi đầu.” Được chấp thuận.
(Ngày 6 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu, nay phụ theo đây.)
[24] Lại tâu rằng: “Xưa kia khi tế Xã, Vua quay mặt về hướng nam ở phía dưới bức tường phía bắc, để đáp lại âm. Nay trong khu vực tế Xã không xây tường phía bắc, mà khi quan lại thay mặt làm lễ, lại đặt vị trí quay mặt về hướng đông, như thế là không đúng lễ. Xin cho xây tường phía bắc trong khu vực tế Thái Xã, để chuẩn bị cho việc nhà Vua thân hành tế lễ, quay mặt về hướng nam đáp lại âm. Còn khi quan lại thay mặt làm lễ, nên đứng ở phía tây một chút dưới tường phía bắc.” Được chấp thuận.
(Ngày 6 tháng 10 năm thứ 4 theo lời tấu.)
[25] Lại tâu rằng: “Xét kỹ theo chức trách của Tiểu Tể trong 《Chu Lễ》, phàm khi tế tự thì giúp Vua làm lễ quán tướng; chức trách của Tiểu Tông Bá, phàm khi tế tự thì đúng lúc cầm toản làm lễ quán. Bởi vì người con hiếu cầu thần, có lúc cầu ở nơi âm, vì hình phách trở về với đất, nên cầu ở nơi âm, phàm lễ quán là như vậy. 《Lễ Ký》 viết: ‘Người Chu chuộng mùi thơm.’ Bởi vì trước hết làm lễ quán rồi sau mới tấu nhạc, đó là cầu ở hình phách vậy. Lễ tế tông miếu của triều ta phần nhiều theo nhà Chu, nên trước làm lễ quán rồi sau mới tấu nhạc.” Được chấp thuận.
(Ngày 6 tháng 10 theo lời tấu.)
[26] Lại nói: “Tông miếu có việc dùng rượu loã, hương sưởng, cỏ quy, cỏ tiêu, thì cùng với việc tế trời đốt củi, tế đất chôn huyết là đồng ý, vì các vị tiên vương cho rằng như vậy là thông đức hương thơm đến thần minh. Thời cận đại có chế độ dâng hương, khá là không hợp lễ. Xem sách 《Ngũ Lễ Tinh Nghĩa》 của Vi Đồng viết: ‘Tế tự dùng hương, lễ cổ kim đều không có văn này.’ 《Tùy Chí》 chép: ‘Thời Lương Thiên Giám đầu, Hà Đông Chi bàn rằng hương uất, rượu sưởng, cỏ tiêu, ánh sáng, là để thông đạt thần linh, cùng với việc dùng hương, ý nghĩa là một. Thời thượng cổ lễ còn đơn sơ, chưa có chế độ này, nay xin ở Nam Giao, Minh Đường dùng trầm hương, hương khí tự nhiên bay lên trời, tỏ lòng cung kính hợp với khí chất dương; ở Bắc Giao xin dùng thượng hòa hương, đạo đất gần gũi, dùng các loại hương thơm hỗn hợp cũng được.’ Bọn thần tra cứu, thấy không có căn cứ. Nay tạm thời tôn sùng việc tế tự ở Giao Miếu, Minh Đường, đồ dùng, y phục, sinh lễ, lễ vật đều theo cổ điển, còn việc dâng hương là theo nghị của Hà Đông Chi. Nếu nói dâng hương cũng giống như việc dùng rượu loã, cỏ quy, cỏ tiêu, thì nay đã dâng hương, lại còn dùng rượu loã, cỏ quy, xét theo nghĩa cổ đã là trùng lặp, huống chi lễ Khai Nguyên, Khai Bảo cũng không dùng.”
(Văn lễ không ghi tháng ngày, việc theo hay bỏ cần tra cứu, nay phụ vào sau mục tưới rượu trước rồi mới tấu nhạc.)
[27] Lại tâu rằng: “Xưa kia, các bề tôi phụ tế ở tế giao miếu, đều có thân sơ khác bậc, quý tiện khác chỗ, chủ khách khác nghi thức, di hạ khác chế độ, sau đó dung mạo lễ nghi không loạn, mà đạo làm Vua càng được tôn trọng. Cho nên trong nghi lễ đặc sinh quỹ thực, có chỗ ở ngoài cửa để xem xét công việc, có chỗ ở dưới thềm để thi hành lễ, người quý ở phía bắc, người tiện ở phía nam, người tôn ở phía trước, người thấp ở phía sau, chủ nhân ở phía đông, các khách ở phía tây. Còn vị trí của di địch ở minh đường đều ở ngoài cửa, vị trí của chư hầu đều ở trong cửa, đều không thể thay đổi được. Chế độ triều ta, thiên tử thân tế ở Nam Giao, á hiến, chung hiến và bách quan đều theo sau đức chí tôn, còn công khanh và các quan phụ tế chấp sự thì ở ngoài cửa đông nội duy. Lại nữa, ở Thái Miếu và Minh Đường, công khanh ở phía đông, tông thất ở phía tây, đều không có sự phân biệt thân sơ tôn ty. Xin thân tế ở Nam Giao, đặt vị trí của công khanh phụ tế ở phía nam á hiến, chung hiến, đặt vị trí của quan phụ hiến ở sau công khanh, người chấp sự lại ở sau nữa, mỗi bậc khác chỗ, đều xếp hàng dọc hướng tây, phía bắc là trên. Ở Thái Miếu, đặt vị trí á hiến, chung hiến ở phía đông thềm, đặt vị trí tông thất ở phía sau, đều hướng tây, phía bắc là trên; đặt vị trí công khanh phụ tế ở phía tây thềm, văn vũ bách quan ở phía sau, đều hướng đông, phía bắc là trên; đặt vị trí khách ở ngoài cửa, tùy theo phương quốc.” Thiếp hoàng nói: “Xét hội Khai Nguyên, Khai Bảo lễ, nghi chú triều ta, tế thân ở Viên Khâu, Minh Đường, thì không có vị trí lập ban của tông thất.” Chiếu cho Lễ viện đem bản đồ triều hội mới định và chỗ hành lễ tham khảo định rồi tâu lên.
(Lễ văn năm thứ tư, tháng mười, ngày mồng 6, Trung thư phê chỉ gửi Lễ viện, nay phụ vào ngày tháng này, rốt cuộc nên khảo.)
[28] Lại tâu rằng: “Thánh vương thờ phụng tông miếu, lễ nghi như khi còn sống, nên khi dọn cỗ thì dâng lên hòa khí bốn mùa cùng mỹ vị của bốn biển chín châu, khi cống nạp thì bày vàng, ngọc bích, mai rùa, lụa để tỏ rõ công đức đạt được, dù là những thứ nhỏ nhặt như son, sơn, tơ, bông, tre, tên đều phải đủ, để tỏ rõ cùng chia sẻ của cải trong thiên hạ; những thứ khác không thường xuyên, nhất định phải dâng những gì quốc gia có, để tỏ rõ không có vật gì xa xôi mà không dâng lên. Đúng là vì đất đai nhân dân đều do tổ tông tạo nên, nên lấy thành quả trị vì đạt được để quy công đẹp về tổ tông. Từ thời Tần, Hán trở lại đây, những người phụng thờ tông miếu đều không dựa vào kinh điển của tiên vương, các quan phụng hành chỉ làm cho đủ vị trí mà thôi, nên những vật cống nạp thường xuyên của thiên hạ vào vương phủ chưa từng được bày ở Thái Miếu, thật là thiếu sót. Xin được thân hành tế lễ Thái Miếu, và lệnh cho Hộ bộ bày những vật cống nạp hàng năm[11], để làm đầy đủ vật phẩm trong đình, vẫn lấy mai rùa đặt ở hàng đầu, vàng xếp sau, ngọc lụa lại xếp sau nữa, những thứ còn lại xếp ở cuối.” Được chấp thuận.
(Ngày 6 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu, nay phụ vào ngày tháng này.)
[29] Lại tâu rằng: “Quốc triều noi theo chế độ nhà Đường, lấy chức Thái úy đảm nhiệm việc thề giới. Thái úy là chức quan Tam công, tức là người ngồi bàn luận đạo lý, không phải là nhiệm vụ chủ trì việc thề giới. Xin mời khi tế tự, cử một viên Thượng thư Lại bộ chủ trì việc thề giới, và một viên Thượng thư Hình bộ giám sát.” Chiếu chỉ rằng việc chủ trì thề giới sẽ do Tả bộc xạ đảm nhiệm, nếu khuyết thì dùng Hữu bộc xạ. Lại tâu: “Năm Tường Phù thứ 8, bắt đầu cử hai viên Ty thiên giám phân hiến, sau đó lại cử quan khác thay quyền Ty thiên giám, nhưng nhật quan không phải là cơ quan chuyên lo việc lễ tế thần, lại mượn danh quan để hành lễ, e rằng không hợp lễ ý. Xin rằng những người được cử Ty thiên giám phân hiến, đều đổi sai quan Lễ bộ.” Lại tâu: “Theo 《Đường lục điển》, chức Thị trung tấu việc trung nghiêm ngoại biện và giải nghiêm. Xét kỹ chức Thị trung, chuyên lo việc xuất nạp mệnh lệnh của Vua, giúp Vua thống nhất chính sự lớn, cùng với Trung thư lệnh tham gia tổng quản mọi việc quân quốc. Từ đời Đường trở đi, Thị trung được coi là chân tể tướng, không còn là chức Thừa tướng đời Tần hay chức lo việc ngự vật đời Hán, Ngụy nữa. Xin rằng việc tấu trung nghiêm ngoại biện do Thị lang Lễ bộ đảm nhiệm, còn việc tấu giải nghiêm do Lang trung Lễ bộ đảm nhiệm.” Đều được chấp thuận.
[30] Ngày Canh Thân, Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty xin chỉ huy các lộ Kinh lược ty, mỗi khi xuất quân đánh giặc, có việc giết chóc, bắt sống thì báo cáo lẫn nhau. Được chấp thuận.
[31] Chiếu rằng: “Chủng Ngạc đánh trại Mễ Chi chưa hạ được, đại quân đóng lâu ngày, không chỉ tốn hao lương thực, mà còn lo lắng tổn thất nhiều. Giao cho Thẩm Quát cùng Ngạc bàn kín, nếu trong mười ngày chưa hạ được, thì xử trí thế nào phải tâu lên.”
[32] Chiếu rằng: “Thừa sự lang, Đại Lý tự thừa Vương Viện; Triều phụng lang, Tập hiền hiệu lý, Đại Lý thiếu khanh Chu Minh Chi; Thừa vụ lang Vương Phòng, mỗi người bị giáng một chức, cách chức; Chu Minh Chi bị cách chức; Tiền quyền Chương châu Quân sự phán quan Luyện Hanh Phủ bị tước danh hiệu, cách chức, biên quản ở Quân châu; Tri gián viện Thư Thiện, Đại Lý khanh Thôi Đài Phù, Thiếu khanh Dương Cấp, mỗi người bị phạt 20 cân đồng; Thông trực lang, Tập hiền hiệu lý Thái Kinh bị cách chức.”
[33] Trước đó, Đại Lý sự xét xử tội gian dâm của Vương Ngọc với vợ Thạch Sĩ Đoan là Vương thị, lời khai có liên quan đến con trai Vương Khuê là Trọng Đoan. Thiện tâu rằng việc của cha con Vương Ngọc liên quan đến Trọng Đoan rất rõ ràng, nhưng các quan lại vì thế mà do dự, không dám xử lý triệt để. Trọng Đoan cũng tự kêu oan. Vua sai nội thị Phùng Tông Đạo giám sát việc xét xử, và sự việc quả nhiên không đúng sự thật. Tông Đạo tâu mặt rằng nguyên cáo là Hứa Quý trốn tội, vu cáo hư vọng, nay đã kết án. Vua phê: “Ngục thừa Vương Viện nhận xét mà làm gian, không thể không trị tội.” Bèn sai Giám sát ngự sử lý hành Chu Phục, Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự Lộ Xương Hoành dời việc xét xử đến Đồng Văn quán, vẫn lấy Tông Đạo giám sát.
Vợ của Minh là cháu gái của Hàn lâm học sĩ Vương An Lễ, lại có thân thích với Tập hiền hiệu lý, Tri gián viện Thái Biện, biết An Lễ và các người khác có hiềm khích với Vương Khuê. Minh từng tiến cử Viện, bèn dụ chỉ cho Viện, bảo hặc Trọng Đoan có tội gian dâm, và đem lời khai của hai bên đối chất tâu lên Vua, rồi lại giả mạo lời Vua để nói với vợ mình. Do đó, con trai An Lễ là Phòng đem chuyện này nói với Hanh Phủ, Hanh Phủ lại nói với Thiện, Thiện tin mà tâu lên. Viện từng được An Lễ tiến cử, muốn hợp ý Minh, nên gán tội cho Trọng Đoan. Phòng truyền lời giả mạo của Minh cho Hanh Phủ, ý muốn truyền đạt cho người có chức trách tâu lên, xử lý triệt để Trọng Đoan thì việc sẽ liên lụy đến Vương Khuê. Hanh Phủ đem chuyện Trọng Đoan mà Phòng truyền lại nói với Thiện, ý muốn nhờ Thiện tiến cử, Thiện khen ngợi Hanh Phủ, hứa sẽ đem lời tâu lên Vua, lại tiết lộ lời tấu và lời dụ. Kinh từng ở triều đường nói chuyện Trọng Đoan với Minh, rằng thừa tướng nghi ngờ việc ngục án của chúng ta, cần phải cẩn thận. Đến khi lên đài xét hỏi lại, báo lên không đúng sự thật. Đài Phù, Cấp vì biết Viện làm gian mà không tố giác nên bị liên đới.
Vua dụ các phụ thần rằng: “Những người như Minh không chịu lấy lòng trung thực phụng sự trên, nhân tài thật khó được. Nếu trong ngoài lớn nhỏ các quan đều có lòng thành thực thương xót để phụng sự triều đình, thì chính sự sẽ được tu chỉnh, rợ phương xa biết sợ. Nay kẻ sĩ ra khỏi cửa công vào cửa tư, đều chỉ vì lợi mà thôi, như Lưu Hướng nói rằng làm việc nhơ bẩn mà giả vờ trị an, lòng riêng tư mà giả vờ công chính. Xưa Lý Tư làm tướng nước Tần, thống nhất thiên hạ, có thể nói là có công, đến khi Triệu Cao khuyên rằng nếu Phù Tô lên ngôi thì Mông Điềm được dùng, Mông Điềm được dùng thì không còn giữ ấn thông hầu, Tư đã có lòng tham lợi, lời khuyên của Cao mới lọt vào, không chỉ mất thân mà còn mất cả thiên hạ nhà Tần. Người trên không vì danh, dưới không vì lợi, giữa chỉ giữ nghĩa mà thôi, có thể gọi là người quân tử. Các quan cận thần cũng nên lấy đạo này mà răn dạy người tại chức.” Tể thần Vương Khuê và các người nói: “Đã nhiều lần nghe thánh huấn, thần đều cùng nhau răn dạy, khảo sát nhân tài, trong mấy năm gần đây đã loại bỏ và bồi dưỡng, ắt có người tài năng để đáp ứng thánh ý.”
(Ngày mùng 4 tháng 7 xét xử lại Vương Trọng Đoan, ngày 25 hặc Vương Viện, dời ngục Đại Lý đến Đồng Văn quán, nay gộp vào đây, không ghi lại ở chỗ khác.)
[34] Hôm đó, Lý Hiến dẫn quân đến Nhữ Già Cốc. Quân giặc có hàng vạn người, trâu dê lạc đà đầy khắp khe suối, đóng trại cách xa hai mươi dặm, phía trước dựa vào hai lớp khe lớn, phía sau dựa vào khe đá núi Nam. Quân giặc ra nghênh chiến, từ giờ Ngọ đến giờ Dậu, giặc rút về giữ khe lớn. Khe lớn sâu rộng, Lý Hiến lo có phục binh, không muốn truy kích, đêm đó đối diện với giặc bắn nhau, nửa đêm giặc bỏ chạy. Chém giết và bắt sống hơn sáu trăm tên, cướp được mấy trăm con ngựa.
(Ngày 23, Bính Tý, tấu đến, nay chuyển vào đây, không còn thấy ở chỗ kia nữa.)
[35] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu: “Lý Hiến đã thống lĩnh quân đi về phía đông, Tổng quản Kinh Nguyên Lưu Xương Tộ, Phó Tổng quản Diêu Lân hiện đang thống lĩnh quân ra khỏi biên giới, nếu như phía trước cách không xa, liền cùng quân của Lý Hiến hội hợp, kết thành một đại trận, nghe theo sự điều động của Lý Hiến.” Lại ban chiếu cho Triệu Tế và Hồ Tông Triết khẩn trương chuẩn bị quân nhu, theo lời thỉnh cầu của Lý Hiến.
[36] Sở Tường định lễ văn tâu: “Chiếu thư năm Bính Thân, mùa thu tế Anh Tông ở Minh Đường, để phối hưởng với Thượng đế, các thần từ tòng tự đều bãi bỏ. Thần xin suy theo loại đó, xin mùa xuân cầu mùa, mùa hạ đại vũ, chỉ tế Thượng đế, chỉ lấy Thái Tông phối hưởng, cũng bãi bỏ các thần từ tòng tự, để tỏ rõ việc thờ trời không hai. Lại theo lễ, đàn vũ nên ở phía nam nước, nay gửi ở Viên Khâu là không đúng, xin đổi xây.” Đều theo.
[37] Lại tâu rằng: “Các vị Vua xưa, khi đi thì nghiêm trang vệ sĩ, khi ở thì kín đáo cung cấm, để tỏ uy nghi và phòng bị bất trắc. Theo 《Chu Lễ》, khi Vua hội họp thì dựng cung duy, khi ăn nghỉ thì bày cung màn; nhà Hán tế ở Cam Tuyền thì có cung trúc; đến thời Giang Tả lại có điện ngói. Triều ta theo chế độ cũ, khi thân hành tế Nam Giao, hành cung chỉ dựng điện màn Thanh Thành, người túc trực lo lắng khi mưa gió, lại không có chỗ để hành lễ vọng tế. Hơn nữa, chi phí xây Thanh Thành mỗi năm lên đến hàng vạn, thần xin được theo mẫu Thanh Thành, xây dựng trai cung, một lần tốn công mà tiết kiệm được nhiều chi phí, hoặc khi gặp mưa gió cũng có thể hành lễ vọng tế.” Chiếu giao cho Lễ viện, đợi khi tu sửa xong Thượng thư tỉnh sẽ xin chỉ dụ.
(Theo 《Lễ Văn》, đây là thánh chỉ ngày 18 tháng 10 năm thứ 4, 《Thực Lục》 không chép, nay ghi chép đầy đủ. Trai cung thời Nguyên Phù xa xỉ quá mức, có lẽ bắt đầu từ đây.)
[38] Lại tâu rằng: “Xét 《Nghi Lễ》 viết: ‘Người kế tự dâng lễ.’ 《Lễ Ký》 cũng viết: ‘Dâng rượu tế, nhận chén, thì lấy người kế tự, đó là đạo tôn kính tổ tiên.’ Như vậy, người kế tự xưa vốn được tổ tiên phù hộ, nên phải hiển hiện cùng Vua, thành kính làm lễ để báo đáp thần linh, sau đó dâng lễ và uống rượu, để tỏ rõ trên nhận phúc lành vô bờ của tổ tiên, dưới thể hiện sự tôn sùng chính thống. Thần xem xét các đời trước tế tự tông miếu, tuy có nghi thức hoàng tử tham dự, nhưng chưa có lễ dâng rượu, xin từ nay khi thân hành tế Thái Miếu, sau khi làm lễ quán, Thái chúc dâng rượu ở phía nam đỉnh, đợi hoàng đế nhận phúc xong, cho hoàng tử dâng rượu, để tỏ rõ trên nhận phúc lành vô bờ của tổ tiên, dưới thể hiện sự tôn sùng chính thống.” Được chấp thuận.
(Ngày 9 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu, nay phụ vào ngày tháng này.)
[39] Lại tâu rằng: “Xưa có lễ đoạ tế, nay không còn, thật là thiếu sót, xin được tu bổ nghi thức, vẫn dùng cỏ mao trắng.” Được chấp thuận.
(Ngày 8 tháng 11 theo tấu, nay phụ vào ngày 9.)
[40] Lại tâu rằng: “Lễ tế tự, thần có tôn ti, nên lễ có hậu nhạt[12], đức có lớn nhỏ, nên vật có dày mỏng, chỉ cần tương xứng là được. Thiên thần tôn quý, nên dùng đạo thần để tiếp đãi, xã tắc và ngũ tự thấp kém hơn, nên dùng đạo người để tiếp đãi. Dùng đạo thần tiếp đãi, thì quý trọng vật từ xa, nên tế trời trước dâng huyết, sau dâng thịt sống, tiếp đến dâng thịt nướng, cuối cùng dâng thịt chín. Dùng đạo người tiếp đãi, thì quý trọng vật gần gũi, nên tế xã tắc và ngũ tự trước dâng thịt nướng, sau dâng thịt chín. Đến các lễ tế nhỏ, thì lại càng thấp kém hơn, nên chỉ dâng thịt chín mà thôi. 《Lễ ký》 viết: ‘Lễ gần với tình người, không phải là cao nhất, tế trời dùng huyết, đại tế dùng thịt sống, tam hiến dùng thịt nướng, nhất hiến dùng thịt chín, vì thế quân tử đối với lễ, không phải làm ra để tỏ lòng thành, mà là có nguyên do từ đầu.’ Lại nói: ‘Tế trời dùng huyết, đại tế dùng thịt sống, tam hiến dùng thịt nướng, nhất hiến dùng thịt chín, sự tôn kính cao nhất không quý ở hương vị mà quý ở khí vị.’ Đời gần đây, tế xã tắc và ngũ tự không dâng thịt chín, đều chưa hợp lễ. Kính xin tế xã tắc và ngũ tự trước dâng thịt nướng, sau dâng thịt chín; các lễ tế bốn phương trăm vật, bảy lễ tế trong cung, Ty trung, Ty mệnh, Phong sư, Vũ sư, chỉ dâng thịt chín.” Được chấp thuận.
(Ngày 9 tháng 10 năm thứ 4, theo lời tâu.)
[41] Lại nói: “Tế tự có nhạc là để bày tỏ với trời đất, mong cầu thần linh mà được như ý. Theo 《Chu Lễ》 chức Đại ty nhạc, phàm thiên thần, địa □[13], tứ vọng, sông núi, tổ tiên, đều phân chia nhạc mà sắp xếp theo thứ tự, xuống đến sông hồ, núi rừng, gò đồi, đầm lầy, đất đai, cũng đều có nhạc. Còn Phong sư, Vũ sư là những vị thần giúp sinh sôi vạn vật, Ty Trung, Ty Mệnh quản lý họa phúc của con người, công lao cũng lớn, há lại không có nhạc để mời gọi thần linh? Người giải thích nói ‘bèn tấu nhạc Cô Tẩy, hát Nam Lữ, múa Đại Thanh’ là vậy. Chức Nhạc sư nói: ‘Phàm việc nhỏ trong nước dùng nhạc, thì lệnh tấu chuông trống.’ Người giải thích nói: ‘Đó là tế tự nhỏ.’ Lại chức Vũ sư nói: ‘Tế tự nhỏ, không dùng múa.’ Người giải thích nói: ‘Bảy lễ tế trong cung, thì không có múa.’ Chức Tiểu sư nói: ‘Phàm tế tự nhỏ, đánh trống Dẫn.’ Cái gọi là tế tự nhỏ, chính là Ty Trung, Ty Mệnh, Phong sư, Vũ sư vậy. Đã tấu chuông trống, lại nói đánh trống Dẫn, thì rõ ràng là có nhạc. Xin đặc biệt ban chiếu cho các cơ quan, tế Ty Mệnh, Phong sư, Vũ sư dùng nhạc, lại soạn nhạc chương để làm tiết tấu mời thần.” Được chấp thuận.
(Ngày 9 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu.)
[42] Ngày Quý Hợi, Chủng Ngạc đến Thạch Châu, giặc bỏ lại các văn án, sổ sách, gông cùm tích lũy nhiều năm, cả đám bỏ chạy, quân ta dời quân chiếm giữ.
(Ngày 23 Bính Tý tấu đến. 《Tân Kỷ》 chép ngày Quý Hợi vào Thạch Châu, 《Cựu Kỷ》 chép là ngày Ất Hợi, sai vậy. Xét Thạch Châu thuộc Hà Đông, trước đây kiêm cả Lam Châu, Thấp Châu, tự thành một lộ, lại hợp ba châu đặt chức Đô tuần kiểm sứ. 《Tam Triều》, 《Lưỡng Triều Sử Địa Lý Chí》 và 《Vũ Kinh Biên Phòng》 đều không chép năm tháng giặc chiếm, không rõ vì sao giặc bỏ chạy, cần tra cứu thêm. Trong địa giới giặc tự có Thạch Châu Giám Quân Ty, chắc chắn đây không phải là Thạch Châu thuộc Hà Đông.)
[43] Ngày Giáp Tý, ban chiếu rằng: “Quân các lộ ra khỏi biên giới, phơi mình trong giá lạnh, giao cho các quan chủ binh thường xuyên xem xét, cấp tiền may áo hoặc đặc chi, không để họ lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng cũng không được quá nuông chiều.”
[44] Sử quán Tu soạn Tăng Củng tâu: “Thần may mắn được ơn trên giao phó việc biên soạn sử, lại được nghe lời dạy bảo về trách nhiệm. Thần ngu muội, không biết xử lý thế nào, nên ngày đêm hết lòng suy nghĩ. Chỉ nghĩ rằng công đức tích lũy của tổ tiên không thể diễn tả hết, huống chi thần kém cỏi, sao dám bàn luận mơ hồ. Sợ rằng không thể làm sáng tỏ công lao vĩ đại của các bậc tiên đế, để lưu truyền trong sách vở, khiến thần lo lắng. Thần nghĩ rằng, xưa nay việc tôn vinh công đức thường bắt đầu từ vị Vua khai quốc, để làm rõ nguồn gốc của vương triều. Như trong 《Thương tụng》 ghi chép từ Thang đến Khế, trong 《Chu thi》 như 《Sinh dân》, 《Thanh miếu》 đều bắt đầu từ Hậu Tắc, Văn Vương. Nhà Tống dấy nghiệp, Thái Tổ mở mang cơ đồ, tạo dựng nền móng, là vị đế vương đầu tiên. Bệ hạ giao cho thần nhiệm vụ tôn vinh công đức, chính là vì Thái Tổ có tài năng xuất chúng, là bậc minh quân hiếm có ngàn năm, là nguồn gốc của sự hưng thịnh quốc gia, công lao không tiền lệ, cần làm sáng tỏ để thức tỉnh muôn đời, lưu truyền mãi mãi. Thần đã dựa vào tư liệu cũ, trong vài tháng biên soạn lại hành trạng của Thái Tổ, suy xét ý nghĩa từ đầu đến cuối, viết thành bài, dám kính cẩn trình lên. Thần tự xét thấy lo sợ, trí tuệ không đủ để thấu hiểu sâu xa, văn chương không đủ để diễn đạt tinh tế, khiến công đức của tiên đế bị lu mờ, không thỏa lòng nhân hiếu kế thừa của bệ hạ, phụ ơn tri ngộ, không thể chuộc lỗi. Kính nghĩ bệ hạ thông minh anh minh, tài năng hiếm có, không phải bề tôi nào sánh được. Nếu được bệ hạ chỉnh sửa, cho thần được theo khuôn mẫu, sửa chữa sai sót, giữ lại phần có giá trị, đặt ở cuối phần bản kỷ Thái Tổ, làm phần mở đầu quốc sử, để đáp ứng một phần nhỏ trong chiếu chỉ.”
Chiếu rằng: “Tăng Củng nay soạn thể lệ biên soạn sử, nếu chỉ theo thể thức biên niên từ Tư Mã Thiên trở về sau, nên theo cách biên soạn của các sử đời trước; nếu muốn đặt ra quy tắc mới, thì trước tiên phải tâu trình.”
(Ngày 28 tháng 4 năm thứ 5, bãi bỏ việc biên soạn Ngũ triều sử.)
[45] Chiếu theo lời tâu của Tường định lễ văn: “Kính xét sách 《Chu Lễ》, chương Đại tông bá có viết: ‘Dùng lễ hiến tế bằng khói hương để tế Trời Thượng đế, dùng củi thật để tế Nhật Nguyệt Tinh Thần, dùng lửa đốt củi để tế Ty Trung, Ty Mệnh, Phong Sư, Vũ Sư.’ Đó là vì người Chu coi trọng mùi hương, dùng khói bay lên để báo với dương khí. Khói là khí của dương, tế lễ dương mà dùng khí dương để cầu xin, đó gọi là gốc từ trời mà gần với trên, cũng là mỗi loại theo loại của nó. Đời gần đây chỉ có khi nhà Vua thân hành tế Trời Thượng đế thì đốt củi bách, còn các lễ tế thiên thần khác chỉ đốt văn tế, thực là thiếu sót về lễ. Kính xin cho các lễ tế thiên thần đều đốt đầu con vật tế, các lễ tế Ngũ Đế, Nhật Nguyệt, Ty Trung, Ty Mệnh, Phong Sư, Vũ Sư, Linh Tinh, Thọ Tinh, đều xin dùng củi bách để đốt lên khói, làm khởi đầu cho việc thần hưởng.” Được chấp thuận.
(Ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 theo lời tâu, ngày Kỷ Hợi tháng giêng năm thứ 6 cần khảo cứu.)
[46] Lại tâu rằng: “Theo nghi lễ tế tự thời Hi Ninh, tháng giêng ngày Tân đầu tiên tế Cảm Sinh Đế, tháng mười tế Thần Châu Địa Kỳ, dùng dê và lợn làm lễ vật; ngày Xuân phân tế Cao Môi, dùng một con bê và một con dê, một con lợn; Xuân Thu cầu báo Xã Tắc, dùng hai con dê và hai con lợn. Kính xét sách 《Chu Lễ》 chép: ‘Tiểu Tư đồ phụng sự các lễ tế nhỏ, dùng bò làm lễ vật.’ Trịnh Huyền chú giải: ‘Lễ tế nhỏ, Vua đội mũ miện để tế.’ Như vậy, lễ tế của Vua không có lễ nào không dùng bò. Sách 《Ngũ Lễ Tinh Nghĩa》 của Đường Vi Đồng chép: ‘Năm Thiên Bảo thứ 2, chiếu giảm số lượng bê, tế phối hưởng không dùng bê. Năm Đại Lịch thứ 6, chiếu giảm dùng thiếu lao ở Phương Khâu.’ Sách 《Khai Bảo Thông Lễ》 chép: ‘Triều đại thánh triều, ngoài lễ tế trời đất, các lễ tế dùng thái lao đều thay bằng dê.’ Thần trộm nghĩ, Cảm Sinh Đế và Thần Châu Địa Kỳ là đại lễ tế trời đất được các đời tôn sùng, nay dùng Tuyên Tổ và Thái Tông phối hưởng, tuy là do quan lại thay mặt tế, nhưng nên dùng bê và bỏ dê, lợn.
Sách 《Lễ Ký – Nguyệt Lệnh》 chép: ‘Tháng Trọng Xuân, ngày chim én đến, dùng thái lao tế Cao Môi.’ Người chép sách nói: ‘Lễ cầu con không giống lễ tế thường, nên không dùng bê.’ Nay tế Cao Môi dùng một con bê, một con dê và một con lợn, nên đổi bê thành bò nhỏ. Sách 《Vương Chế》 chép: ‘Thiên tử tế Xã Tắc dùng thái lao, chư hầu tế Xã Tắc dùng thiếu lao.’ Sách 《Bạch Hổ Thông》 chép: ‘Người không có đất thì không sinh, không có lúa thì không ăn, tế Xã Tắc dùng tam sinh là để trọng công.’ Thái Xã là để báo công thiên hạ, thời Hậu Hán, các quận huyện tế Xã Tắc, thái thú, lệnh trưởng thay mặt tế, dùng dê và lợn. Thời Đường, lễ tế Xã Tắc dùng thái lao, năm Đại Lịch giảm dùng thiếu lao, năm Trinh Nguyên thứ 5, Bao Cát tấu xin tế Xã Tắc theo chính lễ dùng thái lao. Nay từ Xã Tắc xuống đến các quận huyện đều dùng thiếu lao để tế, thật không hợp lễ. Tế báo công cho một quận ấp nên dùng thiếu lao, tế báo công cho thiên hạ nên dùng thái lao, vì vậy lễ Xuân Thu cầu báo Thái Xã, Thái Tắc nên thêm hai con bò nhỏ ngoài dê và lợn.” Được chấp thuận.
(Ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 theo tấu.)
[47] Lại nói: “Theo chức trách của Tiểu tông bá trong 《Chu Lễ》, lập đàn tế Ngũ đế ở bốn phía ngoại thành, tứ loại cũng như vậy[14]. Theo nghi thức tế lễ thời Hi Ninh: ‘Lập đàn tế mặt trời ở phía đông ngoại thành, lập đàn tế mặt trăng ở phía tây ngoại thành.’ Đó là dựa vào loại khí để định vị trí. Còn việc lập đàn tế Phong sư ở phía đông bắc thành, tế Vũ sư ở phía nam thành, tế Ty Trung, Ty Mệnh ở phía tây bắc thành, đất Hợi, thì đó là theo vị trí của các sao, chứ không dựa vào loại khí, không phải là tứ loại, mà là từ thời Tùy trở đi đã sai lệch. Nên căn cứ vào nghĩa tứ loại trong lễ cũ, lập đàn tế Phong sư ở phía tây ngoại thành, tế vào ngày Sửu sau lập xuân; lập đàn tế Vũ sư ở phía bắc ngoại thành, tế vào ngày Thân sau lập hạ; lập đàn tế Ty Trung, Ty Mệnh, Ty Lộc ở phía nam ngoại thành, tế vào ngày Hợi sau lập đông. Vị trí đàn tế thì theo loại khí, ngày tế thì theo vị trí sao. Vẫn theo nghi thức tế lễ thời Hi Ninh, để Lôi sư theo vị trí của Vũ sư, Ty Dân theo vị trí của Ty Trung, Ty Lộc. Còn Vũ sư, Lôi sư thì làm hai đàn chung một nền, Ty Trung, Ty Mệnh, Ty Dân, Ty Lộc thì làm bốn đàn riêng chung một nền, quy chế đàn tế cao rộng vẫn như cũ.” Được chấp thuận.
(Ngày 11 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu.)
[48] Lại nói: “Xưa tế Ty Hàn chỉ vào ngày cất băng và mở băng. Theo nghi thức tế lễ thời Hi Ninh, chọn ngày lành tháng 10 tế Ty Hàn, nên bãi bỏ. Còn việc cất băng vào tháng 12, thì tế Ty Hàn ở Băng tỉnh vụ, dùng dê đen làm lễ vật, gạo dùng thứ kê đen; mở băng vào tháng 2, thì chỉ dùng cừu non mà thôi. Lại nữa, mở băng để dâng lên bậc tôn quý, nên có cung đào, tên gai để trừ tà khí, nhưng vì những thứ đó không phải là vật phẩm lễ nghi, không nên đặt ở nơi thần ngự, nên theo lời Khổng Dĩnh Đạt, khi lấy băng ra thì đặt cung tên đó ở cửa nhà băng.” Được chấp thuận.
(Ngày 12 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu.)
[49] Lại nói: “Tế khí ở giao miếu của triều đình hiện nay, việc bày biện đã không theo phép tắc, đến sáng ngày tế, những người đặt đồ vào biên, đậu, phủ, quỹ đều là những viên chức thấp kém, bày biện lộn xộn, không còn đúng lễ chế. Riêng mâm tam sinh, chỉ do một mình quan Tư đồ dâng lên mà không dọn đi; còn việc dâng biên, đậu, phủ, quỹ đều không thuộc về Đại tông bá, và cũng không dọn đi. Xin rằng một ngày trước khi tế, quan coi tôn di giám sát tế khí sung chức, dẫn thuộc hạ bày tế khí theo phép ở phía đông đường, (phép bày biện được vẽ rõ trong đồ). Bộc xạ, Thượng thư Lễ bộ xem việc rửa dọn và báo là sạch sẽ. Sáng ngày tế, Quang lộc khanh dẫn thuộc hạ lấy biên, đậu, phủ, quỹ đặt đồ vào, xong việc thì trở về vị trí. Khi bắt đầu dâng đồ sống, Thượng thư Lễ bộ dẫn thuộc hạ dâng biên, đậu, phủ, quỹ, Thượng thư Hộ bộ, Thượng thư Binh bộ, Thượng thư Công bộ dâng mâm tam sinh đồ sống, rồi lại dâng mâm đồ chín. Lễ xong, Thượng thư Lễ bộ dọn biên, đậu, Thượng thư Hộ bộ, Thượng thư Binh bộ, Thượng thư Công bộ dọn mâm tam sinh, đều do các viên chức nhận đem đi.”
(Trát tử của Trung thư ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ y theo tấu.)
[50] Lại nói: “Lễ tế giao miếu và minh đường của triều đình, do lệnh Giao xã bày ngọc tệ, Thái chúc lấy ngọc tệ trao cho Môn hạ thị lang dâng lên hoàng đế, Môn hạ thị lang lấy chén dâng lên hoàng đế để đặt chén, đều chưa hợp lễ. Xin rằng trong lễ tế giao miếu và minh đường, một viên Lại bộ thượng thư cầm chén, theo thứ tự đi theo hoàng đế đến trước tòa thần; Tả bộc xạ (nếu khuyết thì Hữu bộc xạ) dâng ngọc tệ lên hoàng đế, đặt xuống đất; đến lúc rót rượu, Thượng thư tả thừa (nếu khuyết thì Hữu thừa[15]) trao chén cho Bộc xạ, dâng chén; hoàng đế rót rượu dâng lễ xong, Thị lang nhận ngọc tệ và chén[16] để tán việc uống rượu phúc và đốt lễ vật bên ngoài, trong tông miếu vẫn do Thượng thư bày ngọc kỷ.”
(Trát tử của Trung thư ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ theo tấu.)
[51] Lại nói: “Lễ tế thân miếu của triều đình, Môn hạ thị lang lấy chén ngọc từ rổ dâng lên hoàng đế, Thị trung rót rượu thơm dâng chén, hoàng đế đổ rượu xuống đất rồi đặt chén, đều chưa hợp lễ. Xin rằng trong lễ tế thân miếu, sai một viên Lễ bộ thượng thư cầm chén ngọc đến chỗ rượu thơm, Lễ bộ thị lang cầm khay theo thứ tự dâng lên, hoàng đế rót rượu thơm đổ xuống đất xong, Thị lang nhận chén ngọc và khay rồi lui.”
(Trát tử của Trung thư ngày 12 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ theo tấu.)
[52] Lại tâu: “Xét nghi thức tế lễ Nam Giao và Thái Miếu của triều đình, tuy có quy định về việc Thái thường khanh và Tông chính khanh kiểm tra vật tế, nhưng thực tế chưa từng thực hiện. Đến tế lễ Minh Đường lại không có quan chức kiểm tra vật tế, chỉ có Thái chúc tuần tra vật tế mà thôi. Việc kiểm tra nồi nấu thì do Quang lộc khanh đảm nhiệm, nhưng cũng chưa từng xem xét việc sống chín. Xin rằng một ngày trước khi tế lễ, Lễ bộ Thượng thư và Lễ bộ Thị lang kiểm tra vật tế, Quang lộc khanh dâng vật tế, báo cáo đầy đủ và chuẩn bị xong, Lễ bộ Thượng thư kiểm tra nồi nấu; vào ngày tế lễ, Lễ bộ Thị lang xem xét việc sống chín.” Đều được chấp thuận.
(Trích từ trát tử của Trung thư ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng theo thánh chỉ y theo tấu.)
[53] Ngày Ất Sửu, Chủng Ngạc tâu: “Trại Mễ Chi đã đầu hàng, trại này nằm ở vị trí trọng yếu, phía nam thông thẳng đến Tuy Đức, phía bắc bảo vệ Ngân Châu và Hạ Châu, lương thực và khí giới dự trữ rất nhiều, cần phải có quan chức có năng lực bảo vệ. Xin bổ nhiệm Đông đầu cung phụng quan Giải Tông Đạo làm Trại chủ, Hữu thị cấm Mao Tư Tề làm Giám áp, và Tiền Hán Châu Tư pháp tham quân Trịnh Huy làm Chủ bạ.” Chiếu chỉ cho Giải Tông Đạo và những người khác tạm quyền, đợi đến ngày bình định sẽ tâu xin chỉ huy.
[54] Triệu Tiết, người phụ trách việc kiểm tra và huấn luyện nghĩa dũng bảo giáp ở ba lộ, tâu: “Thần gần đây từ Tấn Châu, Giáng Châu đến Lộ Châu để kiểm tra, thấy rằng Lộ Châu trước đây do Chuyển vận ty điều động 11.000 phu theo quân, hộ giàu có ở phường quách có người phải cung cấp đến 400 phu, những hộ kế tiếp phải cung cấp một đến hai trăm phu. Những người muốn cung cấp lừa thì cứ ba con lừa đổi lấy năm phu, cứ năm con lừa lại phải cung cấp thêm một phu để điều khiển. Một phu tốn khoảng hơn 30.000 tiền, một con lừa tốn khoảng 8.000 tiền, cộng thêm việc thúc giục gấp gáp, sức dân thực sự không chịu nổi.” Lại tâu: “Việc điều động quân nhu phiền nhiễu, chỉ là những thứ không cần thiết, như Giáng Châu vận chuyển 1.000 thạch táo đến Lân Phủ, mỗi thạch chỉ đáng giá 400 tiền, nhưng chi phí thuê phu lại tốn khoảng 30.000 tiền. Ở Thiểm Tây mua da thú để cung cấp cho công việc, cũng không phải là việc cấp thiết. Những việc như vậy, xin đặc biệt giảm bớt.”
[55] Trước đó, chiếu cho Triệu Tiết và các quan rằng: “Nghe nói chuyển vận ty Hà Đông lo việc ứng phó quân sự, điều động dân phu, không xét đến sức dân mạnh yếu, khiến có người thực sự không chịu nổi, nhiều lần đến châu huyện kêu xin. Các khanh nên nhân việc đi xem xét mà hỏi han, nếu quả có việc bố trí sai trái, hãy gửi ngựa trạm báo về.” Vì thế Triệu Tiết mới có tờ tấu này. Chiếu rằng vì việc sai phu và vận chuyển lương thảo ở Hà Đông có sai trái, lệnh cho Triệu Tiết tạm quản lý đô vận ty, đợi khi việc xong, vẫn theo lệ cũ cho Tiết chọn quan ở Lộ Châu đặt ty, bắt giam Trần An Thạch, Hoàng Liêm để xét tội; Trang Công Nhạc, Triệu Hàm theo quân, đợi quân về sẽ xin chỉ; còn việc xem xét tập luyện nghĩa dũng, bảo giáp, chỉ lệnh cho Lý Thuấn Cử đi. Vua lại phê thêm: “Trần An Thạch, Hoàng Liêm có thể tạm giam ngục để xét tội.”
(Những việc trên đều theo 《Thực lục》.)
[56] Ban đầu, Vương Trung Chánh ở Hà Đông, lệnh cho chuyển vận ty bắt giam lại dịch để cùng với An Thạch tính toán lượng lương thảo dự trữ cho quân đội, và bảo họ ngồi xuống. Lại dịch nói: “Đô vận đang ở đây.” Trung Chánh quát: “Ở đây bàn gì đến Đô vận? Nếu việc xong thì ta sẽ tâu cho ngươi được thăng chức, còn không xong thì có kiếm đây.” An Thạch hỏi Trung Chánh dự tính dùng lương thảo trong bao nhiêu ngày, Trung Chánh báo là bốn mươi ngày. Sau đó, quân đội đóng ở Bạch Thảo Bình hơn mười ngày, An Thạch kinh ngạc nói: “Ban đầu dự tính dùng lương thảo trong bốn mươi ngày, nay đã hơn mười ngày mà không tiến quân, việc chưa thể biết được, nếu chẳng may quân đói mà tan rã, sẽ trách tôi là thiếu lương thảo cho quân đội.”
(Theo ghi chép, Vương Trung Chánh rời Lân Châu vào ngày 23 tháng 9, đóng quân ở Bạch Thảo Bình, đến ngày 2 tháng 10 mới từ Bạch Thảo Bình tiến về phía tây[17], ngày 13 mới vượt sông Vô Định. Truyện An Thạch nói quân đóng ở Bạch Thảo Bình hơn một tháng là sai, nên sửa thành hơn mười ngày. Lại nữa, từ khi rời Lân Châu đến khi gặp quân Chủng Ngạc ở Thần Đôi Dịch chỉ mới hai mươi ngày, nói là hơn một tháng là rõ ràng sai. Lại xét, Trung Chánh lệnh cho Trang Công Nhạc chuẩn bị lương thảo trong nửa tháng, Công Nhạc lại chuẩn bị thêm tám ngày, tổng cộng hai mươi ba ngày. Truyện An Thạch nói bốn mươi ngày, không biết đúng sai thế nào, cần xem xét thêm.)
Liền phát động dân chúng vận chuyển thêm, tăng thêm phân phối và thúc giục hoàn thành. Hoàng Liêm lấy chức Đề điểm hình ngục kiêm chuyển vận sự, nói với An Thạch: “Thiếu lương thảo cho quân đội dù chết cũng phải cân nhắc sao cho không thiếu, cần gì phải như vậy?” Lại khuyên Trung Chánh rằng sức dân đáng thương, nên nới lỏng một chút. Trung Chánh mang theo tiền công hàng vạn ra biên ải, phân phối không công bằng, Liêm lại can ngăn, Trung Chánh bắt đầu nổi giận. Trước đây, việc phân phối lương thảo thường giao cho huyện lệnh tá, An Thạch cho rằng văn lại nhút nhát, chỉ tuyển người dám làm, được hai trăm sứ thần, Trung Chánh lấy một nửa, còn lại đều theo Trang Công Nhạc và Triệu Hàm trong quân. Liêm từ trong biên giới tiếp tục vận chuyển, nhưng không có người để sai khiến, nhiều lần gửi văn thư không được trả lời, Liêm liền dẫn mấy chục kỵ binh ra khỏi biên giới hơn trăm dặm, đêm đuổi kịp, Trung Chánh và mọi người đều kinh ngạc, chia năm mươi sứ thần cho Liêm mang về. Liêm vội tâu: “Quân đội chắc chắn không thành công, và cũng chưa có cách gì để xử lý hậu sự, mong hoàng thượng nhanh chóng chiêu mộ dân chúng vận chuyển cỏ khô và lương thực đến biên giới, được bổ làm quan, xóa hết tội lỗi, để nới lỏng sức dân biên giới.”
Không lâu sau, có chiếu bãi chức kiêm chuyển vận sự của Liêm, gặp lúc Lý Thuấn Cử tâu rằng An Thạch không xin phép, tự ý phát động dân chúng vận chuyển thêm, mà Trung Chánh cũng đổ lỗi cho Liêm về việc vận chuyển không đúng cách, hoàng thượng liền sai Tiết điều tra sự thật, do đó có mệnh lệnh này. Ba ngày sau lại sai Phụng Nghị Lang, Tri Khai Phong Ty Lục Tham Quân Dụ Trắc đề cử việc câu đương ở Hà Đông lộ, vẫn không cản trở việc cử chức hặc tấu Trần An Thạch. (Theo 《Thực Lục》, đây là việc ngày 16, nay chép vào đây. Ngày 12 tháng này Hoàng Liêm tấu và ngày 21 tháng 2 năm thứ 5 Hoàng Liêm bị giáng một chức, đều liên quan đến việc này.) An Thạch từ Lân Châu đến bị bắt, chưa đến vài chục dặm, gặp lúc có tin từ nơi khác cũng báo thiếu lương thảo, chiếu cho An Thạch tiếp tục giữ chức như cũ.
(Theo truyện mới và cũ của An Thạch, Hoàng Liêm và 《Tư Mã Quang Ký Văn》 mà sửa chép. Truyện Liêm nói: “Quân Trung Chánh tan rã, đổ lỗi cho Liêm, bèn sai trung quý nhân đến tra hỏi, Liêm không biện bạch, bèn bị tống giam.” Xét việc giam cấp xảy ra ngày 12 tháng 10, lúc đó Trung Chánh chưa vượt sông Vô Định. Khoảng ngày 15, 16 sau khi gặp Chủng Ngạc, quân lính bắt đầu đào ngũ, mới bắt giam để hặc tấu Liêm, lúc đó quân Trung Chánh chưa tan rã. Việc hặc tấu Liêm vận chuyển không đúng cách, có lẽ xảy ra sau khi bắt giam, chưa thể biết, nay tạm chép vào đây, cần xem xét thêm. Việc Liêm bị bãi chức kiêm chuyển vận ty, căn cứ theo ngự trát ngày 29 tháng 9 thúc giục Liêm tấu bản đồ địa giới Đại Châu.)
Năm sau, ngày 21 tháng 2, Hoàng Liêm bị giáng một chức. 《Ký văn》 lại chép: “Chuyển vận ty vốn chuẩn bị lương thực đủ dùng trong 40 ngày, nhưng Vương Trung Chính chỉ lệnh chuẩn bị đủ dùng trong nửa tháng, Triệu Hàm và những người khác lại chỉ chuẩn bị đủ dùng trong 8 ngày.” Như vậy, việc 《An Thạch truyền》 chép rằng Trung Chính báo với An Thạch chuẩn bị lương thực đủ dùng trong 40 ngày là sai, còn 《Ký văn》 chép là đúng, cần phải sửa lại.
Hoàng Đình Kiên viết hành trạng của Hoàng Liêm có thể tham khảo, nhưng sự việc này cũng đã được ghi chép sơ lược. Hành trạng của Hoàng Liêm chép: “Hoàng Liêm làm Đề điểm hình ngục Hà Đông, kiêm Đề cử Nghĩa dũng và Bảo giáp. Tháng 8, quân đội Lân Phủ hưng binh, ông kiêm quyền Chuyển vận phán quan, lại được sai định địa giới ở Đại Châu. Hoàng Liêm trình bày chi tiết và dâng lên bản đồ 12 trại. Ông nói rằng người đề xuất ý kiến dùng đường phân thủy để vẽ địa giới, nhưng e rằng địa thế không hoàn toàn như vậy, sẽ khơi dậy lòng tham của kẻ địch, làm mất đi sự hiểm yếu của Trung Quốc. Sau đó, quả nhiên người Liêu đòi hỏi việc phân thủy, chiếm lấy hai vùng đất không canh tác, chiếm cứ địa thế hiểm yếu, áp sát Nhạn Môn, khiến dân chúng đến nay vẫn còn hận.
Khi Vương Trung Chính phát động quân đội, đều dùng một người mà điều động hai người, số lượng lên đến hàng ngàn vạn, có những thứ không cần gấp, hoặc không dùng đến. Chuyển vận sứ Trần An Thạch không biết phải làm sao, chỉ cố gắng thi hành, sợ không hoàn thành nhiệm vụ, nên lại tăng thêm điều động, khiến cả một vùng náo loạn, dân chúng bị bóc lột đến tận xương tủy. Hoàng Liêm nói rằng chủ tướng không phải là người thích hợp, thế nào cũng sẽ thất bại, việc thiếu hụt quân nhu dù là tội chết, nhưng cần phải cân nhắc tình hình để không bị thiếu hụt, sao lại nỡ tự làm kiệt quệ nguồn gốc? An Thạch tự nói với Hoàng Liêm rằng: ‘Di Trọng, An Thạch già rồi, bị bỏ rơi, ngày nay chỉ mong giữ được đầu mà về, sao còn có thể lo lắng cho Đãi chế.’ Trách nhiệm đối với đại kế quốc gia của ông là như vậy.
Hoàng Liêm thường nói với Trung Chính về đại thể triều đình, trọng trách với dân chúng, khen ngợi những điểm mạnh của ông ta, rồi dần dần khuyên răn. Ban đầu, Trung Chính nghe mà không cho là trái ý, nhưng đến khi sắp xuất quân, lấy hàng vạn quan tiền công để làm đặc cấp, Trung Chính và con trai tự lấy nhiều, còn lại thì chia đều cho những người trong quân. Hoàng Liêm nói rằng thu gom của cải thiên hạ để phụng sự một phương là việc bất đắc dĩ, mong rằng hãy thương xót cho quan lại triều đình. Trung Chính bắt đầu nổi giận. Lúc đó, có 200 viên sứ thần đi theo quân đội, phần nhiều nhờ vả may mắn để thành công, hoặc cha con anh em đều đi theo. Trung Chính đã lấy một nửa, Trang Công Nhạc và Triệu Hàm phụ trách việc vận chuyển lương thực theo quân, Hoàng Liêm ở trong biên giới chủ trì việc tiếp tế, muốn phân bổ sứ thần bảo vệ đường sá, nhưng những người còn lại mà Trung Chính lấy đều đi theo Công Nhạc và Hàm, không còn ai. Quân đội đã đi cách biên giới hơn 100 dặm, gửi văn thư đuổi theo, nhưng đều không có hồi âm.
Hoàng Liêm nói với Khổng Văn Trọng, người phụ trách công việc, rằng nên tự mình cưỡi ngựa đi đón họ, rồi đêm đó đặt tiệc rượu từ biệt Văn Trọng. Văn Trọng khóc nói: ‘Ông đi ra ngoài biên giới, việc không thể biết trước, sứ thần tự đi theo quân, không phải là trách nhiệm của ông.’ Hoàng Liêm nói: ‘Việc quốc gia phải tính đến thành bại, há chỉ là để tránh trách nhiệm sao?’ Rồi ông cùng mười mấy kỵ binh, ngày đêm đuổi theo đến quân đội, Trung Chính và mọi người đều rất kinh ngạc. Hoàng Liêm mắng Công Nhạc và Hàm, lấy lại hơn 50 sứ thần rồi trở về. Ông dâng sớ nói: ‘Đại quân chắc chắn sẽ không thành công, chưa có cách nào để giải quyết hậu quả, xin hãy chiêu mộ dân chúng đưa cỏ khô và lương thực đến biên giới, để họ được bổ làm quan và được miễn tội, giảm bớt gánh nặng cho dân chúng vùng biên đã kiệt quệ.’ Sau đó, đại quân tan vỡ trở về, Trung Chính đổ lỗi cho Chuyển vận ty ứng phó không đúng cách, và nói rằng Hoàng Liêm không chịu hợp tác. Vua sai Ngự dược Đậu Sĩ Tuyên tra xét 10 việc ứng phó sai lầm, Hoàng Liêm dâng thư nhận tội chết, đều là sự thật. Sau đó, Vua sai Khai Phong phủ Tư lục Dụ Trắc đến Lộ Châu mở án xét xử, An Thạch vì việc ứng phó vận chuyển lương thực nên được miễn không phải ra tòa, còn Hoàng Liêm một mình đối chất với quan lại hơn một tháng, chỉ bị kết tội tâu xin quá mức, bị giáng một chức, nhưng vẫn giữ nguyên chức vụ. Quân đội xuất chinh vào năm Nguyên Phong thứ 4, Hoàng Liêm bị giáng chức vào tháng 3 năm thứ 5.”
[57] Kiểm chính Trung thư hình phòng công sự, quyền quản câu Hà Đông chuyển vận ty công sự Lộ Xương Hoành tâu: “Xin ở các châu huyện gần biên giới phía bắc thuộc bản lộ, sai phái bốn vạn dân phu để vận chuyển quân nhu đến phủ Thái Nguyên.” Vua phê: “Trước đây vì quan chủ trì việc vận tải ở Hà Đông không làm tốt, nên sai Xương Hoành đến cứu giúp, mong cho dân chúng trong lộ được nhẹ bớt. Nay Xương Hoành lại tâu xin, càng thấy rõ sự lộng quyền và sai trái, muốn sai phái thêm cả các lộ khác. Huống chi Hà Đông chỉ cung ứng cho một đầu mối, binh mã không quá năm sáu vạn người và ngựa, sao lại tốn sức đến thế? Không biết đại cương đã xử lý thế nào. Như ở Thiểm Tây, lộ tuy lớn, nguyên không gấp đôi Hà Đông, mà cung ứng quân nhu cho bốn lộ khoảng ba mươi vạn người và ngựa, chưa từng nghe nói là không đủ. Rõ ràng là việc quy hoạch không có thứ tự, khiến nhân lực thiếu hụt như vậy. Vốn trong lộ này có hơn hai mươi mốt vạn dân đinh nghĩa dũng và bảo đinh, lẽ nào lại không đủ cung ứng cho một đạo quân như thế? Nếu không nghiêm khắc răn dạy, thì họa bên ngoài chưa trừ, mà sức dân đã kiệt, làm sao có thể kéo dài lâu được? Việc này đối với quốc kế và biên phòng rất đáng lo. Trung thư phụ trách việc quân lương, nên soạn rõ những điều cần răn dạy, và lệnh cho Hà Đông chuyển vận ty phân tích tâu lên.”
(Kết quả thế nào, sẽ kiểm tra kèm theo.)
[58] Cùng ngày, Tổng quản ty hành dinh lộ Kinh Nguyên đánh bại giặc ở ải Ma Tề.
(Sử chép là ải Ma Di, nay theo bài minh trên mộ Xương Tộ do Trương Thuấn Dân soạn.)
[59] Trước đó, triều đình ra chiếu cho quân Kinh Nguyên nghe theo sự điều động của Cao Tuân Dụ, lại lệnh cho quân Hoàn Khánh cùng Kinh Nguyên hợp binh chọn đường tiện lợi tiến đánh. Gián điệp của người Hạ cho rằng quân Hoàn Khánh bị chặn bởi dãy Hoành Sơn, tất sẽ từ Kinh Nguyên theo sông Hồ Lô đại xuyên tiến ra biên ải, nên dồn hết lực lượng phía nam sông để chống lại Kinh Nguyên. Sau đó, quân Hoàn Khánh không đến, Lưu Xương Tộ cùng Diêu Lân dẫn năm vạn quân bản bộ gồm cả người Hán và người Phiên tiến ra, cách địa giới giặc ở Kham Ca Bình mười lăm dặm, gặp hơn ba vạn quân giặc chặn ở cửa ải Ma Tề không thể tiến lên được. Các tướng muốn bỏ qua mà tiến về phía đông ra châu Vi hợp với quân Hoàn Khánh. Xương Tộ nói: “Gặp giặc mà không đánh, đi đường vòng để tự bảo toàn, đó là không có thứ tự. Hơn nữa, làm khách thì lợi ở chiến đấu nhanh chóng, đó là điều xưa nay vẫn nghe. Các ông bỏ chỗ này, tự lượng có thể thoát được không?” Bèn bàn chia quân vượt sông Hồ Lô chiếm ải, quân cầm khiên đi trước, quân cung Thần Tí theo sau, rồi đến quân nỏ[18], quân kỵ binh tinh nhuệ đi sau cùng.
Xương Tộ dụ quân rằng ai lập công sẽ được thưởng gấp ba lần quân Hi Hà, quân sĩ rất vui mừng, tiếng reo vang động núi non. Xương Tộ cầm hai tấm khiên đi trước, cung nỏ theo sau, đánh nhau với Lương Đại Vương, em trai của Thống quân Quốc mẫu nước Hạ, từ giờ Ngọ đến giờ Thân, quân giặc hơi lùi, quân ta thừa thế đánh, quân giặc đại bại, bị truy kích hai mươi dặm. Chém được đại thủ lĩnh Trá La Ngọa Sa, Giám quân sứ Lương Cách Ngôi cùng mười lăm người, hai trăm mười chín tiểu thủ lĩnh, bắt sống thủ lĩnh Thống quân cháu là Ngật Đa Lý cùng hai mươi hai người, chém hai nghìn bốn trăm sáu mươi thủ cấp, thu được một ấn đồng giả. Từ đó quân ta đi lại không bị ngăn trở. Chuyển vận phó sứ Diệp Khang Trực, Phán quan Trương Đại Ninh đều đi theo quân, nói với Xương Tộ rằng: “Xem ông lúc nguy hiểm vẫn giữ vững lập luận[19], khí độ không hề tức giận, có thể vào triều làm bề tôi tranh luận với thiên tử, không chỉ giỏi cầm quân mà thôi.”
(Đoạn này căn cứ theo bài minh trên mộ Lưu Xương Tộ do Trương Thuấn Dân soạn và bản truyện trong 《Thực Lục》 mà thêm vào. 《Tân Kỷ》 chép việc Tổng quản Kinh Nguyên Lưu Xương Tộ đại phá quân Hạ ở ải Ma Di vào ngày Kỷ Mão, 《Cựu Kỷ》 chép vào ngày Bính Tý việc Lưu Xương Tộ đánh bại quân Hạ ở ải Ma Di, chém hai trăm mười chín thủ lĩnh, bắt sống hai nghìn bảy trăm tù binh.)
- Ngột Tốt, chữ 'Ngột' nguyên bản là 'Nguyên', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 485 Hạ quốc truyện, 《Âu Dương Văn Trung công tập》 quyển 99 Luận Nguyên Hạo bất khả xưng Ngô Tổ trát tử ↵
- 10.421 người, chữ 'trăm' trong sách 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 15, Chủng Ngạc kiến nghị đại cử, viết là 'ngàn'. ↵
- Xem xét tên gọi các lễ tế Từ, Dược, Thường, Chưng: chữ 'khán' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản trong các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 78 phần Tường định giao miếu lễ văn bổ sung. ↵
- Vì thế Hứa Thận lấy 'phẩm vật ít nhiều văn từ' làm Từ: chữ 'Thận' nguyên bản viết là 'Cẩn', căn cứ vào sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'đã' trong câu 'triều đình đã cử sứ giả đến điều tra rồi' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các bộ sách mà bổ sung. ↵
- 'Bốn mươi ngày đường' nguyên văn là 'bốn mươi dặm', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 4-19 và 《Tống sử》 quyển 490, truyện Phất Lâm sửa lại. ↵
- Chước Xương thành trong 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 4-19 chép là 'Ước Xương thành'. ↵
- 'Mỗi năm chỉ vào mùa hạ và thu được lương bổng' nguyên văn là 'mỗi năm chỉ vào mùa hạ và thu được mưa', căn cứ theo bản các và sách trên, cùng 《Tống sử》 quyển 490, truyện Phất Lâm sửa lại. ↵
- 'Nhà đất không có ngói' nguyên văn là 'nhà trên không có ngói', căn cứ theo hai sách trên sửa lại. ↵
- tế đất thì theo đất, chữ 'đất' nguyên bản là 'tế', theo bản trong các kho sửa lại ↵
- lệnh cho Hộ bộ bày những vật cống nạp hàng năm, chữ 'lệnh' nguyên bản là 'hợp', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Lễ có hậu nhạt, chữ 'hậu' nguyên là 'giáng', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 78, phần 'Tường định giao miếu lễ văn' mà sửa. ↵
- chữ 'thần địa' nguyên bản đảo ngược, căn cứ sách trên sửa lại ↵
- Chữ 'diệc như chi' trong 'tứ loại diệc như chi' vốn bị thiếu, căn cứ vào bản trong các bản khác và 《Chu Lễ Tiểu tông bá》, cùng 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 79 về việc định rõ lễ văn tế giao miếu mà bổ sung. ↵
- Thượng thư tả thừa (nếu khuyết thì Hữu thừa) chữ 'tả' nguyên bản là 'hữu', chữ 'hữu' nguyên bản là 'tả', theo các bản và sách trên, cùng 《Tống hội yếu》 lễ nhất chi tam nhất sửa lại. ↵
- Thị lang nhận ngọc tệ và chén, hai chữ 'nhận chén' nguyên bản thiếu, theo hai sách trên bổ sung. ↵
- Ngày 2 tháng 10 mới từ Bạch Thảo Bình tiến về phía tây, chữ 'thập' dưới nguyên có thêm chữ 'nhị', căn cứ theo sách này và sách 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 15, phần Chủng Ngạc kiến nghị đại cử mà xóa. ↵
- Chữ 'nỏ' nguyên bản viết là 'nỗ', căn cứ theo bản trong các bộ sách mà sửa. ↵
- Chữ 'trì' nguyên bản viết là 'đặc', căn cứ theo bản trong các bộ sách và sách 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 15 phần Chủng Ngạc kiến nghị đại cử mà sửa. ↵