VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 318: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)
Bắt đầu từ ngày Bính Dần tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Dần, Lý Tắc, Chuyển vận sứ lộ Phu Diên, xin cấp áo gấm và đai bạc. Chiếu cho Tam ty cấp 2000 chiếc áo gấm, số đai bạc hiện có cấp hết; Tam ty phải tính toán rộng rãi, luôn chuẩn bị sẵn sàng.
[2] Chủng Ngạc tâu: “Bắt được Ma Nữ Khiết Đa Cách, quan Đô án Viện Xu mật giả của phương Tây, người này rất rõ đường đi và nơi chứa lương thực ở các châu Hưng, Linh, cùng số quân do 12 ty Giám quân quản lý. Đã bổ nhiệm làm Tá chức, sai khiến ở quân tiền.”
[3] Hôm đó, Vương Trung Chính dẫn quân vượt sông Vô Định, men theo dòng nước tiến quân, đất nhiều cát ẩm, người và ngựa thường bị lún không ra được. Chiều đến dịch trạm Thần Đôi dưới chân núi Hoành Sơn, Chủng Ngạc cũng dẫn quân đến, hai doanh trại cách nhau chỉ vài dặm. Trước đó, Ngạc tâu xin không chịu sự điều động của Trung Chính, nhân Ngạc có công ở Mật Chất, Vua đồng ý. Ngày hôm sau chiếu thư đến, (ngày hôm sau là ngày Đinh Mão, 14), Ngạc không gặp Trung Chính nữa, dẫn quân đi trước về phía Hạ Châu. Lúc đó, dân phu Hà Đông nghe dân phu Phu Diên nói từ đây đến thành Tuy Đức rất gần, trong hai ngày có hơn 2000 người bỏ trốn, các phán quan Trang Công Nhạc, Triệu Hàm chém giết cũng không ngăn được.
(Sách 《Ngự tập》 ngày 21 tháng 10 chép: Theo lời tấu của Vương Trung Chính, đại quân vào giờ Ngọ ngày 13 tháng 10 đã hội quân với quân Phu Diên ở bình nguyên Thất Lý, trấn Đức Tĩnh, lương thực đầy đủ, cách Hạ Châu 40 dặm, đang bàn việc tiến quân. Sách 《Ký văn》 chép là dịch trạm Thần Đôi, 《Ngự tập》 chép là trấn Đức Tĩnh, có lẽ là một địa điểm với hai tên gọi, cần khảo chứng thống nhất. 《Ký văn》 chép hơn 2000 dân phu bỏ trốn, 《Ngự tập》 ngày 1 tháng 11 chép khoảng 2 vạn, có lẽ 《Ngự tập》 nói đến số lượng khi vào ải.)
[4] Cao Tuân Dụ lúc đầu dẫn quân ra khỏi biên giới, theo đường trại Hồng Đức, châu Hoàn và Bạch Mã Xuyên tiến đánh.
(Theo sách 《Nam Thiên Lục》 của Trương Thuấn Dân, là ngày 13 tháng 10, Bính Dần.)
[5] Ngày Đinh Mão, Vua phê: “Hà Đông lộ do Chuyển vận ty bố trí không đúng cách, dân chúng đang lâm vào cảnh nguy khốn, sai Triệu Tiết vội vàng điều động.”
[6] Trước đó, Chuyển vận ty Lộ Tử Châu tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, xem xét việc Tri châu Tư Châu Vương Công Nghi tâu xin dời Kiềm hạt ty về bản châu, xin thăng quân ngạch, đặt chức Thông phán, lại tăng tiền công sứ như ở Tư Châu, thấy thuận tiện.” Vua đồng ý. Sau đó, Lâm Quảng tâu: “Kiềm hạt ty Lộ Tử Quỳ xin được y như cũ, chỉ đặt tại Tư Châu. Khi ở Nhung Châu, Lô Châu có tin báo về việc man di, gửi nhanh đến Chuyển vận ty và Kiềm hạt ty cùng bàn bạc xử lý. Nếu thế giặc lớn, Kiềm hạt sẽ dẫn quân đến ứng cứu gần đó.” Vua lại đồng ý.
(Việc Chuyển vận ty xin theo tấu của Vương Công Nghi là ngày 18 tháng 9, nay ghi chung vào đây.)
[7] Ty Tường định lễ văn tâu: “Kính xét sách 《Tuân Tử – Lễ luận》 nói: ‘Tế lễ dùng rượu huyền tôn mà uống rượu lễ, dùng canh lớn mà no với các món ngon, quý gốc mà gần dùng. Quý gốc gọi là văn, gần dùng gọi là lễ.’ Vì thế, xưa kia tế tự đều dâng cả đồ ăn thời thượng cổ, trung cổ và đương thời, để quý gốc mà gần dùng. 《Lễ vận》 nói: ‘Dùng rượu huyền để tế, dâng máu và lông, để sống trên mâm, nấu chín các món.’ Trịnh thị cho rằng đây là dâng đồ ăn thời thượng cổ và trung cổ. Lại nói: ‘Sau đó lui về hợp nấu, xẻ thịt chó, lợn, bò, dê, đầy đủ các đồ phủ, quỹ, mâm, đậu, canh hình.’ Trịnh thị cho rằng đây là dâng đồ ăn thời nay. Từ thời Tây Hán trở đi, viên tẩm dâng đồ ăn, đến năm Thiên Bảo thứ 5 đời Đường mới ban chiếu cho hưởng tế Thái miếu, mỗi phòng thêm một mâm thức ăn thường, cùng với các đồ biên, đậu, phủ, quỹ thời Tam đại cùng dâng, tuy cũng có ý quý gốc gần dùng, nhưng Vi Đồng, Bùi Kham bàn rằng đồ ăn yến tiệc riêng có thể dâng ở tẩm cung mà không thể dùng ở Thái miếu. Thần cho rằng, hưởng tế Thái miếu nên dùng theo chế độ cổ, xin bỏ việc dâng mâm thức ăn.” Vua đồng ý.
(Ngày 14 tháng 10 năm thứ 4.)
[8] Lại tâu rằng: “Tháng ba mùa xuân, ngày lành tế lễ Tiên Tàm. Lý Lâm Phủ chú giải trong 《Nguyệt Lệnh》 cho rằng Tiên Tàm là sao Thiên Tứ. Kính xét ý nghĩa của Tiên Tàm giống như Tiên Nông, Tiên Mục, Tiên Xuy, đều là người đầu tiên trong việc đó, nên lễ tế theo 《Khai Nguyên Lễ》 là chôn lễ vật ở phía Nhâm của đàn tế. 《Lễ Nghĩa La》 viết: ‘Nay lễ tế Tiên Tàm không có nghi thức đốt lửa, chứng tỏ không phải tế sao Thiên Tứ.’ Hiện nay tế Tiên Tàm, đàn tế ở phía đông ngoại thành, trong 《Hi Ninh Tự Nghi》 lại có đàn thiêu, như vậy là theo tục lệ của 《Đường Nguyệt Lệnh》 coi Tiên Tàm là Thiên Tứ, điều này sai lầm. 《Chu Lễ》 quy định tế Hậu Tàm ở phía bắc ngoại thành, lấy thuần âm làm tôn quý. Xin được lập đàn tế ở phía bắc ngoại thành để tế người đầu tiên nuôi tằm, vẫn theo 《Khai Nguyên Lễ》 không đặt đàn thiêu, chỉ chôn lễ vật để tế, các việc khác vẫn như cũ.” Được chấp thuận.
(Ngày 14 tháng 10 năm thứ 4.)
[9] Lại tâu rằng: “Xưa kia, khi đội mũ miện thì dùng dây hoành, đội mũ thì dùng dây anh. Nay trong 《Y Phục Lệnh》 quy định hoàng đế mặc áo Đại Cừu Miện, dùng dải tơ làm dây anh, màu sắc giống như dải thụ, mũ Cổn Miện dùng dải tơ đỏ làm dây anh. Mũ miện mà dùng dây anh là không hợp lễ, xin đổi thành dùng dải tơ đỏ làm dây hoành, đồng thời đổi mũ Bình Miện thành Huyền Miện, dùng loại vải màu đỏ hơi đen để may.” Lại vẽ riêng đồ hình dâng lên. Được chấp thuận.
(Đổi dây anh thành dây hoành, ngày 14 tháng 10 năm thứ 4 theo tấu. Việc vẽ đồ hình không ghi ngày tháng, nay phụ chép vào đây.)
[10] Ngày Mậu Thìn, Tri châu Hạ Châu là Tác Cửu Tư bỏ trốn, Chủng Ngạc vào Hạ Châu.
(Ngày 26 Kỷ Mão tấu đến. 《Cựu Kỷ》 chép ngày Kỷ Tỵ vào Ngân Châu, 《Tân Kỷ》 chép ngày Mậu Thìn vào Hạ Châu, ngày Kỷ Tỵ vào Ngân Châu, cần khảo cứu ngày thực vào Ngân Châu. Lại có chiếu ngày Mậu Ngọ tháng 12 sai Thẩm Quát không giữ Ngân Châu, cần khảo cứu thêm. 《Cựu Kỷ》 và 《Tân Kỷ》 đều chép ngày Mậu Dần lại ghi Chủng Ngạc vào Hạ Châu, Mậu Dần là ngày 25. Hạ Châu hoặc chép nhầm thành Cống Châu, đó là lỗi chữ.)
[11] Triều đình không chấp nhận lời tâu của Lâm Quảng, thúc giục Quảng tiến quân. Quảng xuất phát từ Lô Châu, qua bốn ngày thì đến Giang An, đem theo các thủ lĩnh người Di đã đầu hàng và con tin của họ, lại ra lệnh cho các tù trưởng khác chiếm giữ các vùng đất cư trú, phòng thủ và bảo vệ đường tiếp tế, nhờ vậy khi vào vùng đất mới tránh được nạn cướp bóc.
(Ngày Mậu Thìn 15, đóng quân ở Giang An, theo 《Bình Man Lục》[1].)
[12] Thái Trung đại phu, Tập Hiền điện Tu soạn, Tri Duyện Châu là Trương Cảnh Hiến qua đời.
[13] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu cho các cơ quan: Lộ Quân Mã Lân Châu, Hành dinh Kinh lược ty Phu Diên Hoàn Khánh Lộ, Đô đại Kinh lược ty Hi Hà Lộ, Hành dinh Tổng quản Kinh Nguyên Lộ: “Sau khi quân quan bình định xong vùng đất Hà Nam, những quận cũ thuộc Hán, nếu thành lũy còn tương đối nguyên vẹn, địa thế hiểm yếu, hãy báo ngay, sẽ cử quan đến trấn giữ.”
[14] Cùng ngày (Kỷ Tỵ, ngày 16), Chủng Ngạc tiến vào Ngân Châu.
(Theo bản kỷ bổ sung, bản ghi mới cũng giống.)
[15] Ngày Canh Ngọ, Cao Tuân Dụ tâu: “Nước sông Hoàn Châu vốn mặn đắng, nhưng khi đại quân đến châu, nước sông đột nhiên trở nên ngọt, đây là điềm ứng thời giúp thuận, không phải do sức người làm được.”
(Từ “ứng thời” trở xuống, theo 《Hà Cừ Chí》 bổ sung.)
[16] Chiếu chỉ: “Gần đây đã ban chiếu cho các Lộ Chuyển vận ty Hà Đông, Thiểm Tây lo việc ứng phó quân sự, phải họp bàn hoặc thông qua công văn để thống nhất trước khi thi hành, không được tự ý quyết định vội vàng. Nếu việc thực sự khẩn cấp, không kịp bàn bạc, có thể tạm thi hành, nhưng phải thông báo cho nhau biết, không được để xảy ra mâu thuẫn, trùng lặp hoặc thiếu sót.”
[17] Ngày đó, Vương Trung Chánh đến Hạ Châu, lúc này Hạ Châu đã đầu hàng Chủng Ngạc, Ngạc liền rút quân đi. (Theo tờ tấu ngày 5 tháng 11, ngày Đinh Hợi.) Trung Chánh đóng quân ở phía đông thành, trong thành chỉ còn vài chục hộ dân. Trước đó, triều đình ra lệnh cấm quân lính vào địa phận giặc cướp bóc. Giặc cũng bỏ thành ấp, đều chạy sang phía bắc sông, quân sĩ không thu được gì, đều tỏ vẻ bất bình muốn giao chiến. Các tướng nói với Trung Chánh: “Quân Phu Diên trước đây lập được nhiều công lớn, quân ta ra khỏi biên giới gần hai mươi ngày, chỉ bắt được hơn ba mươi tên, làm sao báo cáo lại với triều đình? Hơn nữa lương thực đã hết, xin hãy tập kích chiếm Hựu Châu, tạm thời có cớ để báo cáo.” Trung Chánh nghe theo.
(Theo 《Ký Văn》.)
[18] Cao Tuân Dụ đi qua giếng Mạnh Tỉnh ở Hoành Sơn, dừng lại ở Thanh Viễn Quân cũ. (Theo tờ tấu ngày 26, ngày Mậu Dần. 《Nam Thiên Lục》 của Trương Thuấn Dân chép: Ngày 19, ngày Nhâm Thân, dừng lại ở Thanh Viễn Quân cũ. So với thực lục chênh lệch hai ngày, nay theo thực lục[2].) Kiềm hạt Phu Diên là Trương Thủ Ước báo với Tuân Dụ: “Từ đây đến Linh Châu không quá ba trăm dặm, xin cho tiền quân tiến ra trước, thẳng đến Linh Châu. Nay Hạ Châu dùng sức một phương ứng phó với năm đạo quân, giống như một cành cây chống lại cả thân cây, khó tránh khỏi sai sót. Lại nghe tin quân ta sẽ hợp binh với Kinh Nguyên tiến ra sông Hồ Lô, các bộ lạc phía nam sông đều đi ứng phó, Hoành Sơn không còn người, trong thành Linh Châu chỉ còn vài trăm tăng đạo, nếu mang theo lương thực mười ngày gấp rút tiến quân, không quá ba bốn ngày có thể đến dưới thành, đại quân sẽ không gặp chuyện gì. Hoặc cho rằng một vạn tám nghìn người là không nhiều, đi thì đáng lo, nhưng đại quân ở phía sau, chúng không biết được quân số nhiều ít, thực sự là đi theo hổ, không dám đến gần. Binh quý thần tốc, chính là như vậy.” Tuân Dụ không nghe theo.
(Theo bài minh trên mộ Trương Thủ Ước, cũng do Trương Thuấn Dân soạn. 《Tân Ký》 chép ngày Canh Ngọ, Kinh lược ty hành dinh Hoàn Khánh là Cao Tuân Dụ chiếm lại Thanh Viễn Quân, tiến vào Hoàn Châu. 《Cựu Kỷ》 chép việc Tuân Dụ vào Thanh Viễn Quân vào ngày Mậu Dần.)
[19] Ngày Tân Mùi, bộ phận xét định lễ văn tâu rằng: “Xưa kia, tông miếu có tế lễ theo mùa và tế lễ hàng tháng, nhưng không có tế lễ nửa tháng. Việc tế lễ nửa tháng là không phải lễ cổ. Sách 《Lễ ký》 chép: ‘Xuân tế, hạ tế, thu tế, đông tế.’ Lại chép: ‘Miếu xa gọi là Diêu, chỉ tế hưởng và tế thường.’ Đó gọi là tế lễ theo mùa. Lại chép: ‘Miếu của cha gọi là Vương khảo miếu, Hoàng khảo miếu, Hiển khảo miếu, Tổ khảo miếu, đều tế hàng tháng.’ Lại chép: ‘Chư hầu đội mũ bì biện, nghe lệnh sóc ở Thái miếu.’ Sách 《Tả truyện》 cũng chép: ‘Tháng nhuận không cáo sóc, vẫn triều yết ở miếu.’ Đó gọi là tế lễ hàng tháng. Đến như nghi lễ tế nửa tháng trong 《Nghi lễ》, từ đại phu trở lên mới có, đó là điều không phải lễ cổ. Tuy nhiên, năm miếu đều tế hàng tháng, mà hai Diêu chỉ tế hưởng và tế thường, là vì sao? Đó là vì đức nhân có thân sơ, lễ có cao thấp, nghĩa lý là như vậy. Việc chỉ tế hưởng mà không tế đông, lại càng giảm bớt hơn nữa. Từ thời Tần, Hán trở đi, mới xây lăng tẩm, mà việc dâng cúng vào ngày sóc vọng đã không phải lễ cổ. Đến cuối đời Đường Thiên Bảo, lại cử hành ở Thái miếu, thật là trái lễ quá mức.
Triều ta theo tục cũ của Đường, chưa kịp sửa đổi, xin rằng từ nay tế lễ theo mùa của Dực Tổ, Tuyên Tổ chỉ cử hành vào mùa thu, ngoài tế lễ theo mùa của Hi Tổ, Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, Anh Tông, vẫn cử hành tế lễ ngày sóc ở miếu, mỗi lần dâng một con bò đực, nếu không thân hành tế lễ thì do Thái thường khanh đảm nhiệm, dùng dê làm lễ vật. 《Lễ ký chính nghĩa》 chép: ‘Theo sách 《Dương nhân》: Khi tế lễ dùng dê.’ Hùng thị nói: ‘Đó là tế lễ nhật nguyệt trở xuống.’ 《Tiểu tư đồ》 chép: ‘Phàm tế lễ nhỏ đều dâng bò.’ Như vậy, tế lễ của vương giả không gì là không dùng bò, còn tế lễ thường nhật nguyệt trở xuống thì dùng dê, nếu Vua thân hành tế lễ thì dùng bò. Lại xin bãi bỏ việc dâng cúng nửa tháng và việc do Tông chính thừa cử hành.”
Chiếu rằng việc tế Diêu đợi khi chế độ miếu hoàn thành sẽ xin chỉ, tám miếu đều tế hàng tháng dùng lễ vật, còn lại theo lời tâu.
[20] Lại tấu rằng: “Kính xét sách 《Lễ ký – Tế pháp》 viết: ‘Vua tự lập bảy đền thờ, gọi là Tư mệnh, Trung lựu, Quốc môn, Quốc hành, Thái lệ, Hộ, Xấm.’ Tháng giêng tế Hộ, tế lấy lá lách làm đầu; tháng tư tế Xấm, tế lấy phổi làm đầu; tháng sáu thuộc hành Thổ, tế Trung lựu, lấy tim làm đầu; tháng bảy tế Môn, lấy gan làm đầu; tháng mười tế Hành, lấy thận làm đầu. Lại có truyện viết: ‘Xuân tế Tư mệnh, thu tế Lệ.’ Đó là vị trí tế, thời gian tế và đồ tế dùng. Lại theo 《Chu lễ》, chức Ty phục coi việc mặc lễ phục của Vua, ‘tế các đền thờ nhỏ thì mặc áo huyền miện’. Chú thích: ‘Các đền thờ nhỏ là bảy đền thờ trong cung.’ Lại sách 《Lễ ký》 viết: ‘Dâng một tuần rượu chín.’ Chú thích: ‘Như các thần nhỏ trong cung, bảy đền thờ.’ Lại sách 《Chu lễ – Đại tông bá》 viết: ‘Nếu Vua không tham gia tế lễ, thì quan khác thay thế.’ Đó là lễ phục tế, lễ dâng và quan thay thế.
Từ khi 《Chu lễ》 bị bỏ, nhà Hán dấy lên, bắt đầu tế người trong họ, nấu trong cung, gọi là Xấm. Lại có Nam Sơn Vu tế Nam Sơn Tần Trung, gọi là Lệ. Đến nhà Đường, tế bảy đền thờ ở Thái miếu, bày chiếu ở phía tây trong sân, dẫn đến gần đây tế Đế Hợp đều tế cả. Việc tế bốn mùa riêng, lại tùy thời hưởng, do quan miếu hành lễ, mặc áo bảy tua, lấy thịt Thái miếu làm đồ tế, dâng một tuần rượu mà không dâng đồ chín, đều không đúng lễ chế. Bọn thần xét việc hiện nay, tham khảo nghĩa xưa, xin lập xuân tế Hộ ở phía tây ngoài cửa nhà miếu, tế Tư mệnh ở phía tây cửa miếu, bày lá lách làm đồ tế; lập hạ tế Xấm ở phía đông cửa miếu, bày phổi làm đồ tế; quý hạ ngày Thổ vương tế Trung lựu ở giữa sân miếu, bày tim làm đồ tế; lập thu tế Môn và Lệ ở phía tây ngoài cửa miếu, bày gan làm đồ tế; lập đông tế Hành ở phía tây ngoài cửa miếu, bày thận làm đồ tế. Đều dùng một con vật, không tùy thời hưởng tế riêng. Quan hữu ty thay làm việc, lấy Thái miếu lệnh thay làm quan lễ, mặc áo huyền miện, dâng đồ chín. Còn việc tế thân và hưởng săn, thì theo lễ cũ tế đều.” Vua theo lời tấu.
(Ngày 18 tháng 10 theo lời tấu.)
[21] Ngày Quý Dậu, Vương Trung Chánh đến châu Hựu, trong thành có hơn 500 hộ dân, bèn tàn sát hết. Chém đầu hơn 100 người, kẻ đầu hàng hơn chục người. Thu được 160 con ngựa và trâu, 1900 con dê. Đóng quân ở phía đông thành hai ngày, giết ngựa, trâu, dê thu được để làm lương thực.
(Theo《Ký văn》. 《Cựu kỷ》 và 《Tân kỷ》 chép việc Vương Trung Chánh vào châu Hựu đều vào ngày Tân Tỵ, nay không theo.)
[22] Cao Tuân Dụ đến châu Vi, cùng với Giám quân ty, ra lệnh cho tướng sĩ không được phá hủy chùa chiền và nhà dân, để tỏ lòng chiêu dụ.
(Tấu đến ngày mùng một tháng 11. 《Tân kỷ》 cũng chép việc vào châu Vi vào ngày Quý Dậu, 《Cựu kỷ》 chép vào ngày Nhâm Ngọ, nay không theo.)
[23] Ngày Giáp Tuất, Vương Trung Chánh sai tướng quan phủ Khai Phong là Trương Chân làm Tri châu Tề, Chiết Khắc Hành chia quân hơn 2000 người đi đào kho lương, gặp hơn 1000 kỵ binh giặc, đánh nhau và phá được, chém đầu hơn 900 người.
(Theo《Ký văn》. Ngày 28 Tân Tỵ, Trung Chánh tấu rằng ngày Giáp Tuất đóng quân ở đầm Tả Thôn phía tây bắc châu Hựu, đánh nhau với giặc. Hẳn là trận đánh lúc này.)
[24] Tường định lễ văn nói rằng: “Thần trộm xét sách 《Ký》 viết: ‘Lễ không phải vương thì không có đế, vương đế tổ tiên mình xuất phát từ đâu, lấy tổ tiên mình để phối hưởng.’ Lại nói: ‘Hữu Ngu thị đế Hoàng Đế mà giao Khốc, tổ Cao Dương mà tông Nghiêu. Hạ Hậu thị cũng đế Hoàng Đế mà giao Cổn, tổ Cao Dương mà tông Vũ. Người Thương đế Khốc mà giao Minh, tổ Khế mà tông Thang. Người Chu đế Khốc mà giao Tắc, tổ Văn Vương mà tông Vũ Vương.’ 《Nghi lễ》 nói: ‘Dân đô ấp thì biết tôn kính cha, đại phu và học sĩ thì biết tôn kính tổ tiên, chư hầu thì đến Thái Tổ, thiên tử thì đến Thủy Tổ mình xuất phát từ đâu.’ 《Chu lễ》 có truy hưởng, triều hưởng, người giải thích cho là đế, hợp vậy. Đế đến tổ tiên mình xuất phát từ đâu, nên gọi là truy hưởng; hợp là từ lúc lên ngôi bắt đầu triều miếu, nên gọi là triều hưởng. 《Thi》 trong 《Chu tụng – Ung》 là đế Thái Tổ; 《Thương tụng – Trường phát》 là đại đế. Nhà Chu không có đế bốn mùa, nên 《Ung》 xếp là đế Thái Tổ, nhà Thương có đế bốn mùa, nên 《Trường phát》 xếp là đại đế. Đế bốn mùa là nhỏ, còn đế tổ tiên mình xuất phát từ đâu là lớn. Do đó mà nói, đế là tế lễ tôn vinh tổ tiên xa xưa trong tông miếu, chỉ có vương mới được làm. Vương là tôn quý nhất, hưởng đến bảy đời, suy từ thân đến tổ, từ tổ đến Thủy Tổ, bốn mùa đều ở miếu mà tế, do đó có từ, dược, thường, chưng. Đã có từ, dược, thường, chưng rồi, mà chủ miếu bị hủy không được dự, vẫn cho là chưa đủ, vì lúc sống có ân hợp tộc cùng ăn, nên ở miếu Thủy Tổ hợp chủ miếu bị hủy và chủ miếu thân mà tế, do đó có hợp. Đã hợp rồi, mà tổ tiên xa không được dự, vẫn cho là chưa đủ, lại suy lên xét đế tổ tiên mình xuất phát từ đâu mà tế, do đó có đế. Đến đây thì nhân đã đến cùng, nghĩa đã hết vậy.
Tuy nhiên, tích đức có dày mỏng, lưu trạch có rộng hẹp, vì đại phu, học sĩ biết tôn kính tổ tiên, nên làm tế thời mà không làm hợp; chư hầu đến Thái Tổ, nên làm hợp mà không làm đế; thiên tử đến Thủy Tổ mình xuất phát từ đâu, nên đế tổ tiên mình xuất phát từ đâu, lấy tổ tiên mình để phối hưởng. Như Thuấn, Vũ tổ Cao Dương, Cao Dương thế hệ xuất phát từ Hoàng Đế, nên Ngu, Hạ đế Hoàng Đế lấy Cao Dương thị phối. Cao Tổ Khế xuất phát từ Đế Khốc, nên người Thương đế Khốc lấy Khế phối. Chu tổ Văn Vương cũng xuất phát từ Khốc, nên người Chu đế Khốc lấy Văn Vương phối. Bốn đời Ngu, Hạ, Thương, Chu đều đế, vì đế có thiên hạ, thế hệ xuất phát từ đâu rõ ràng, nên tế lễ truy tôn đến xa vậy.”
[25] Từ thời Hán, Ngụy trở về sau, thế hệ không rõ ràng, việc kế thừa không có ghi chép, thêm vào đó các tộc Khương làm loạn nhà Tấn, đất nước chia cắt Nam Bắc, trăm họ ly tán, kẻ sĩ bỏ mồ mả. Đến thời Tùy, Đường, sách phả đều bị bỏ phế, nói họ Lý đều xuất phát từ Lũng Tây, họ Lưu đều xuất phát từ Bành Thành, nguồn gốc họ tên không đủ để khảo cứu. Vì vậy, việc tế tổ của đời sau không thể thực hiện được. Nhà Hán từ trước Thái Thượng Hoàng không có ghi chép, nên từ Cao Đế trở lên chỉ thấy có một đời Thái Thượng Hoàng mà thôi. Nhà Ngụy từ Xử Sĩ Quân trở lên cũng không có ghi chép, nên đến thời Minh Đế Thái Hòa chỉ thờ năm đời từ cha của Cao Tổ là Xử Sĩ trở xuống mà thôi. Nhà Tấn từ Chinh Tây tướng quân trở lên không rõ thứ tự, nên Vũ Đế chỉ thờ ba chiêu ba mục sáu đời mà thôi. Tuy nhiên, họ Lưu xuất phát từ Lưu Lũy, nhưng nhà Hán không tế Vua Nghiêu; họ Tào xuất phát từ con của Lục Chung là An, là họ Tào, nhưng nhà Ngụy không tế Tướng quốc Tào Tham của nhà Hán; họ Tư Mã xuất phát từ Trình Bá Hưu Phụ, nhưng nhà Tấn không tế Tư Mã Cung; nhà Tống xuất phát từ Sở Nguyên Vương Giao, nhà Tề xuất phát từ Tướng quốc Tiêu Hà của nhà Hán, nhà Trần xuất phát từ Thái Khâu trưởng Trần Thực của nhà Hán, nhà Tùy xuất phát từ Thái úy Dương Chấn của nhà Hán, đều không tế tổ tiên của mình, vì sách phả không rõ ràng.
Lê Cán đời Đường nói rằng tế đế không phải là tế trời, làm mười cật vấn mười điều khó để chứng minh. Và nói rằng từ thời Ngu, Hạ, Thương, Chu trở về trước, việc tế tổ rất rõ ràng, nhưng từ thời Hán, Ngụy, Tấn trở về sau hơn nghìn năm, lễ này bị bỏ sót. Kính nghĩ rằng khi Nghệ Tổ nhận mệnh trời, mới có thiên hạ, noi theo chuyện cũ của nhà Hán, nhà Đường, tế bốn miếu thân[3], chỉ có từ Hi Tổ trở lên không rõ nguồn gốc, sách phả mất truyền, các quan vẫn theo thuyết cũ, ba năm một lần hợp tế, năm năm một lần đại tế. Tế đế và hợp tế đều hợp các chủ miếu lại để ăn uống với thủy tổ, tuy tên gọi tế đế và hợp tế khác nhau, nhưng lễ thực chất không khác, sai lầm này rất lớn.
Thần cho rằng nên suy xét ý nghĩa của việc lập tế đế của tiên vương, cho rằng thế hệ truyền thừa của quốc gia khác với thời Ngu, Hạ, Thương, Chu, đã không tìm được tổ tiên của mình, thì nên bỏ lễ tế đế, chỉ khi nào tìm được nguồn gốc tổ tiên mới có thể thực hiện. Xin Thánh thần xem xét quyết định.” Vua nghe theo.
(Theo 《Giao tự lễ văn》. Ngày Ất Hợi, 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 theo tấu chương. 《Thực lục》 không ghi chép việc này, nay ghi đầy đủ.)
[26] Lại nói: “Bậc vương giả làm việc gì, tất phải cáo với trời đất tổ tông, tỏ ra không dám chuyên quyền, như là nhận mệnh vậy, đó là lễ có cáo. Nhưng lễ không phải là hư động, tất phải có thành ý khí xú để làm thần minh vui lòng, đó là cáo có sinh tệ. Cho nên Tăng Tử hỏi rằng: ‘Phàm cáo tất phải dùng sinh tệ.’ Không có sự phân biệt giữa thân cáo và chúc cáo. Đời sau lễ thân cáo không còn được thực hiện, nên học giả mới có văn nói rằng thân cáo dùng sinh, sử cáo dùng tệ, lại nói: ‘Cát cáo dùng sinh, hung thì dùng tệ.’ Đều không phải là chế độ của kinh lễ. Hậu Ngụy Hiếu Văn năm Diên Hưng thứ hai có chiếu rằng: ‘Thần thông minh chính trực, hưởng đức và tín, hà tất phải dùng sinh?’ Bèn lệnh rằng ngoài việc tế trời đất, tông miếu, xã tắc, đều không dùng sinh. Các cuộc tế đều dùng rượu và thịt khô, bắt đầu từ đó. Kinh lễ nói rằng thịt khô và mắm đều không dâng riêng, nghi điện dùng thịt khô và mắm, ý nói không ăn lương thực. Đại phu dùng lễ sính với thịt khô và mắm, vì địa vị thấp mà lễ nhẹ. Lễ quan, hương ẩm tửu, hương xạ, yến tế dùng thịt khô và mắm, đều kèm theo sinh trở. Lễ không có văn nói về việc cáo dùng thịt khô và mắm, vì lễ nhỏ không đủ làm thần minh vui lòng. Xin rằng những việc cáo trời đất, tông miếu, xã tắc trong các cuộc tế thân, đều theo lệnh dùng sinh.” Được chấp thuận.
(Ngày 21 tháng 10 năm thứ 4.)
[27] Lại nói: “Lễ Đặc sinh quỹ thực chép: ‘Chúc bày chiếu và bàn ở giữa nhà, hướng về phía đông.’ Lễ Thiếu lao quỹ thực chép: ‘Ty cung bày chiếu ở góc tây nam, chủ nhân đứng trong cửa, hướng về phía tây.’ Người giải thích nói rằng, nhà cổ đại, cửa không ở giữa mà gần phía đông, nên góc tây nam là nơi sâu kín nhất, vì vậy khi tế tự và tôn giả thường ở đó. Sách 《Nhĩ Nhã》 chép: ‘Góc tây nam gọi là Áo, góc tây bắc gọi là Ốc lậu.’ Vì vậy, khi tế tự ở tông miếu, lúc mới bắt đầu là âm, yếm ở góc tây nam của nhà, lúc tế xong là dương, yếm ở góc tây bắc của nhà. Thuyết 《Công Dương》 nói rằng, chủ tể được cất giữ trong hộp đá, lại đặt ở tường phía tây, lấy nơi phía tây là chỗ trường thọ, đó là nơi thần vị ở. Đại phu và sĩ chỉ dâng thức ăn chín trong nhà, nên trên đường không có vị trí cho việc triều sự.
Nếu là thiên tử và chư hầu khi làm triều sự, đưa thi thể về phía tây nam của cửa, hướng về phía nam, bày chỗ ngồi của chủ tể về phía đông, đến khi dâng thức ăn chín thì lại đưa chủ tể về góc tây nam của nhà. Như vậy, thời cổ, thần vị trong nhà ở góc tây nam, thần vị trên đường ở phía tây ngoài cửa, vì vậy khi tế tự ở tông miếu, Vua mặc áo cổn, đội mũ miện đứng ở phía đông của nhà, rót rượu và đọc chúc, dâng thức ăn chín đều đứng trong cửa, hướng về phía tây. Lễ 《Khai Nguyên》 và 《Khai Bảo Thông Lễ》 cùng nghi thức triều hưởng ở Thái Miệu, thần vị ở các nhà đều đặt trong cửa, hướng về phía nam, hoàng đế khi tế tự thì đứng ngoài cửa, hướng về phía bắc mà lạy.
Nay nên đặt bản vị của hoàng đế ở phía đông, nhưng thần vị trong nhà không ở góc tây nam, trái với nghĩa cổ. Xin hãy bày thần vị ở góc tây nam của nhà, hướng về phía đông, khi hành lễ, hoàng đế đứng trong cửa, hướng về phía tây, lạy trong cửa. Khi quan lại thay mặt làm lễ, lúc dâng rượu và thức ăn chín cũng đứng trong cửa, hướng về phía tây[4], không ra khỏi cửa mà lạy. Khi dâng thức ăn sống trên đường, thì đặt thần vị ở phía trước bình phong, hướng về phía nam. Thời cổ, khi làm đại hợp, lúc làm triều sự, từ cửa đến đường, Thái Tổ hướng về phía nam, Chiêu hướng về phía tây, Mục hướng về phía đông, chủ khách ở bên phải. Nếu là tế tự thường, thì đặt chỗ ngồi của thi thể ở phía tây nam của cửa, hướng về phía nam, bày chỗ ngồi của chủ tể về phía đông. Thi thể là tượng thần, nay không có thi thể, trên đường không thể để trống vị trí hướng về phía nam. Xin hãy đặt thần vị ở phía trước bình phong, hướng về phía nam, hoàng đế đứng ở giữa đường, hướng về phía bắc, quan lại thay mặt làm lễ cũng như vậy.” Chiếu gửi đến Lễ viện, đợi khi miếu chế hoàn thành sẽ lấy chỉ dụ.
(Ngày 21 tháng 11 năm thứ 4.)
[28] Lại nói: “Xét theo 《Chu Lễ》, chức Thủ Diêu coi giữ miếu thờ tiên vương, tiên công, chức Lệ Bộc coi việc quét dọn năm tẩm, đều là để quản lý tông thạch, kính cẩn phụng thờ thần linh. Từ thời Hán, Tấn trở lại đây, miếu đều có lệnh, thừa, cũng là theo lệ đó. Đến thời Tùy, Đường lại đặt chức Cung Vi Lệnh, đều dùng hoạn quan để xuất nạp hậu chủ, giống như tám người hoạn quan coi giữ miếu thờ tiên vương theo 《Chu Lễ》. Từ giữa niên hiệu Khai Nguyên nhà Đường bỏ chức Cục Lệnh, dùng một viên Thái Thường Thiếu Khanh coi việc Thái Miếu, vì chức Thái Thường vốn phụng sự tông miếu. Gần đây, chức vụ Thái Miếu đã giao về Tông Chính, mỗi khi có việc tế tự do hoàng đế thân hành hoặc do quan lại đảm nhiệm, lại sai quan khác thay quyền coi việc miếu khanh, thật là vô lý. Lại nữa, chức Cung Vi Lệnh coi việc cấm cửa trong cung và xuất nạp hậu chủ, nay lại tham gia việc tế tự vào ngày sóc vọng và tiến vật mới, càng thêm phi lễ. Thần xin theo chế độ đầu nhà Đường, đặt chức Thái Miếu Cục Lệnh, do Tông Chính Tự Thừa đảm nhiệm, còn Cung Vi Lệnh thì không tham gia việc tế tự.” Tờ hoàng thiếp nói: “Nay đặt chức Thái Miếu Lệnh, có thể chuyên lo việc tiến vật mới, còn việc tế tự do hoàng đế thân hành, tế đế, tế hợp, tế thường và tế bảy vị công thần, thì Thiếu Khanh coi miếu không cần thay quyền.” Đều theo lời tâu.
(Ngày 21 tháng 10 năm thứ 4, trát tử của Trung thư, phụng thánh chỉ theo lời tâu.)
[29] Lại tâu rằng: “Kính xét 《Quốc ngữ》 viết: ‘Xưa kia, chọn người thuộc dòng dõi tiên thánh, có công lao sáng chói, biết rõ danh hiệu núi sông, chủ tế của Cao tổ, việc tông miếu, thế thứ chiêu mục, nghi thức lễ tiết, quy tắc uy nghi, chất trung tín, áo sạch sẽ, và kính cẩn sáng suốt với thần linh để làm chức Chúc.’ Trẫm xét thấy chức Thái chúc gần đây chỉ còn danh mà mất thực, những người được bổ nhiệm đều nhận chức này. Đến khi tế lễ, tất cả đều dùng người không thông thạo nghi thức tạm thay thế. Khi tế lễ ở giao miếu, sai nội thần đặt ngọc lụa vào giỏ, hoàng đế uống rượu phúc, nhận thịt tế, rót rượu tạ, cầm đĩa, vốn dùng Thái chúc, nay đều thay bằng nội thần, chỉ cần họ quen thuộc mà thôi, như vậy danh cũng không còn. Xin thiết lập chức Chúc quan, chọn người tài thực như lời Quan Xạ Phụ trong 《Quốc ngữ》, tăng thêm tước lộc, theo lệ cũ nhà Hán, để họ chủ trì việc tế lễ, mong không mất ý nghĩa của lễ.” Được chấp thuận.
[30] Lại tâu rằng: “Kính xét 《Lễ ký》 viết: ‘Phàm tế lễ ở tông miếu, chó gọi là canh hiến, cá tươi gọi là đĩnh tế.’ Lại xét 《Chu lễ》, Đại tư khấu trong đại tế lễ dâng chó, Đại tư mã trong đại tế lễ dâng cá. Vì tế lễ của thiên tử có đủ các quan, và bốn biển đều theo chức phận mà đến tế, những thứ trời sinh đất dưỡng, mỹ vị của bốn biển chín châu đều có đủ. Quan đủ thì vật đủ, vật đủ thì thành đủ, thành đủ thì phúc đủ, đó là cách tiên vương thờ thần. Triều ta tế lễ ở Thái miếu, ngoài tam sinh, các lễ vật dâng lên chưa đủ, không xứng với ý nghĩa hiếu tư vô cùng. Xin đặt một viên Thượng thư Hình bộ để dâng chó, một viên Thượng thư Binh bộ để dâng cá, và phân biệt lễ vật sống chín.” Được chấp thuận.
(Trát tử của Trung thư ngày 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ y theo tấu.)
[31] Lại nói: “Nghi thức tế tự, hoàng đế đến chỗ rửa tay, Thị trung quỳ lấy chậu múc nước, lại Thị trung quỳ dâng chậu hứng nước, hoàng đế cầm khuê rửa tay, Môn hạ Thị lang quỳ lấy khăn trong rổ dâng lên. Xét theo 《Chu Lễ》, Tiểu thần, Thượng sĩ bốn người, khi tế tự lớn thì múc nước cho Vua rửa tay; Ngự bộc, Hạ sĩ mười hai người, khi tế tự lớn thì giúp rửa tay rồi lên. Trịnh thị chú rằng: ‘Giúp rửa tay, tức là dâng chậu và trao khăn.’ Nay Thị trung, Môn hạ Thị lang đều là quan chấp chính, bảo họ múc nước, giúp rửa tay, đều không phải lẽ. Xin khi tế tự, dùng một viên nội thần của Ngự dược viện múc nước, một viên trao khăn.” Được chấp thuận.
(Lễ văn ngày 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4 theo tấu, nay phụ vào ngày tháng này.)
[32] Ngày Ất Hợi, sở Tường định lễ văn nói: “Khi tế Trời vào mùa đông và tế Hắc Đế, xin đều mặc áo cừu lớn, khoác áo cổn, còn lại những lễ không phải tế Trời vào mùa đông và tế đất vào Hạ chí, thì đều mặc áo cổn.” Được chấp thuận.
(Chi tiết xem ở lễ văn tế tự ở giao miếu, nay chỉ ghi lại những điểm chính.)
[33] Cùng ngày, Lý Hiến đến núi Khuất Ngô đánh bại giặc, Dụ Tàng Dĩnh Sấm Tát Lặc đến hàng.
(Việc này căn cứ theo tấu của Kinh chế ty ngày 5 tháng 11, Đinh Hợi, tóm lược ra, chi tiết vẫn ghi đủ ngày này.)
[34] Ngày Bính Tý, Chủng Ngạc nói: “Quan phiên là Tam ban Sai sứ Ma Dã Ngoa Thưởng, vào ngày Bính Dần tháng 10, ở trên núi Thất Lý Bình thuộc trấn Đức Tĩnh thuộc giới Tây, bắt được hơn trăm kho lương lớn nhỏ của người Tây, khoảng tám vạn thạch, chia cho Chuyển vận ty và Hà Đông Chuyển vận ty.”
(Bính Dần là ngày 13 tháng 10. Xét Vương Trung Chính vì không có lương của Phu Diên nên quân tan vỡ, e rằng Chủng Ngạc chưa chắc đã chịu chia lương cho, nên cần xét lại.)
[35] Chiếu rằng: “Quân Kinh Nguyên lộ thắng trận ở ải Ma Di, đều được cấp tiền đặc biệt, sai sứ đến thăm hỏi.” Lưu Xương Tộ, Diêu Lân và các tướng quan dâng thư báo thắng trận.
[36] Chủng Ngạc dâng tấu bắt được châu Thạch.
(Ngày Quý Hợi cần xét lại.)
[37] Vua phê: “Quân mã của Kinh lược ty hành dinh Phu Diên lộ đã có chiếu chỉ không thuộc quyền tiết chế của Ty thố trí quân mã Lân Phủ lộ. Nay hai lộ quân cách nhau không xa, hãy lệnh cho Vương Trung Chánh và Chủng Ngạc nếu hành dinh gần nhau thì cùng bàn bạc việc tiến quân, chọn chỗ có lợi mà tiến.”
[38] Hôm đó, Vương Trung Chánh đến Ngưu Tâm Đình, lương thực hết. Ngày Đinh Sửu, đến Nại Vương Tỉnh, gặp Cảnh Tư Nghị, chưởng cơ nghi Phu Diên lộ, nhận được lương thực, bèn dẫn quân tiến đến Thuận Ninh Trại thuộc Bảo An quân.
[39] Chiếu chỉ cho Lô Bỉnh, Kinh Nguyên lộ: “Các đạo quân vốn đã bàn cùng tiến, đến Hưng châu, Linh châu hội hợp. Nay không chỉ trước sau đã sai lệch với ước định ban đầu, mà quân Hoàn Khánh còn chậm hai tuần chưa xuất phát. Quân bản lộ tuy đã lên đường, nhưng còn dừng lại ở biên giới, chưa tiến sâu vào, chỉ có quân Phu Diên và Lân Phủ đã tiến xa. Tình hình tiến thoái không đồng đều như vậy, thật đáng lo ngại cho việc hoàn thành đại sự. Khanh hãy nhanh chóng ban chiếu chỉ cho Lưu Xương Tộ đừng chần chừ, tự chuốc lấy hối hận.”
[40] Lại chiếu cho Bỉnh: “Nghe nói giặc Tây đang tụ tập ở vùng nước nông, rất gần với Tĩnh Biên, Long Đức của bản lộ. Chúng hẳn là thấy tháng trước vào cướp được lợi nên lại muốn xông lên cướp phá. Khanh hãy bí mật ra hịch cho Lưu Xương Tộ dò xét việc này, thu gom người già trẻ em, trâu bò vào bảo vệ thành trại, cử binh tướng mai phục ở nơi hiểm yếu để đánh úp.”
[41] Hôm đó, Khúc Trân, Kiềm hạt Phu Diên lộ phá giặc ở Bồ Đào Sơn.
(Ngày mồng 3 tháng 11, Lý Tắc tâu, nay lược ghi ở đây, chi tiết xem ở chỗ khác.)
[42] Cao Tuân Dụ đóng quân ở Hạn Hải. (Theo 《Nam Thiên Lục》 của Trương Thuấn Dân.) Trước đó, Lý Sát xin dùng lừa thay phu vận lương, lừa làm tắc đường, lương thực không tiếp tế kịp, quân lính mệt mỏi.
[43] Ngày Mậu Dần, chiếu chỉ cho Tổng quản ty hành dinh Kinh Nguyên lộ: “Đã ba ngày kể từ khi thắng trận ở ải Ma (Khẩu Di), nhưng vẫn chưa tiến quân, lương thảo theo quân có hạn, hãy lệnh cho Lưu Xương Tộ đẩy nhanh tiến quân, tiến sâu đánh Hưng châu, Linh châu.”
[44] Lại có chiếu cho Kinh lược ty của Hoàn Khánh lộ hành dinh: “Ra khỏi biên giới chưa được trăm dặm, đã muốn lưu lại quân mã ở Thanh Viễn quân, làm kế hoãn binh, chính là phạm vào quy ước đã định. Hãy lệnh cho Cao Tuân Dụ nhanh chóng bố trí các tướng tiến quân, cùng với các lộ hội hợp, tấn công Hưng châu, Linh châu.”
(Sách 《Tân ký》 và 《Cựu ký》 đều chép vào ngày Mậu Dần việc Chủng Ngạc vào Hạ châu, nay không lấy, đã chú rõ vào ngày 15 Mậu Thìn.)
[45] Hôm đó, quân của Lâm Quảng đóng ở núi Thổ Thành, đối diện với doanh trại cũ của Hàn Tồn Bảo. Tồn Bảo từ cửa Di Lao vào biên giới được 57 ngày, dời doanh trại bảy lần, mới đến đây, rồi rút quân. Quảng từ ngày Mậu Thìn xuất phát từ Giang An, đến nay mới được mười ngày. Ban đầu, quân có hai đường để tiến, từ cửa Di Lao ở Nạp Khê đến Giang Môn thì gần mà hiểm, từ Ninh Viễn đến bãi Lạc Cộng thì xa mà bằng phẳng. Giặc cho rằng quân triều đình tất sẽ ra Giang Môn, nên đặt nhiều quân chặn nơi hiểm yếu, nhưng Quảng thực sự tiến đến Lạc Cộng, quân giặc không chống cự nổi, đều bỏ chạy.
[46] Ngày Kỷ Mão, lệnh cho Bảo Văn các đãi chế, Tri Nhữ châu Lý Thừa Chi quyền quản câu công việc của Thiểm Tây đô chuyển vận ty, theo lời phê của Vua: “Nghe nói Thiểm Tây từ khi triều đình vì việc quân mà ở bốn lộ đều tạm đặt chức Chuyển vận sứ, mỗi người chỉ lo cấp bách điều động lương thực cho quân, số kim bạc họ thu được lại dựa vào số lượng triều đình phân phát, nên kinh phí hàng năm của bản lộ hoàn toàn không có quan chủ quản. Tiếp đó, các đạo Kinh lược, Chuyển vận ty bổ nhiệm không ít quan văn võ, các chức Tri huyện, Giám huyện phần nhiều là người tạm trú hoặc nha hiệu tạm quyền, hiện tại ở các nơi, thuế trà, muối, rượu thường khoá đều bị hao hụt. Triều đình tuy đã lệnh cho Tiền Hiệp tạm quản công việc cũ của Chuyển vận ty, nhưng Hiệp không có tài năng xuất chúng, e rằng không thể một mình đảm đương được. Huống chi trước đây quân đồn tuy đã giải tán, nhưng sửa chữa những chỗ hư hỏng, chi phí còn nhiều, nếu không từ nay chú ý kinh doanh, e rằng sau này sẽ phiền đến việc cung cấp của trung đô. Trung thư hãy nhanh chóng chọn quan thích hợp để giúp Hiệp.” Vì thế lệnh cho Thừa Chi. Việc mua gỗ kiêm ở Nhữ châu, lệnh cho Thừa Chi nhanh chóng cử quan tâu lên.
(Cần xem ngày tháng Tiền Hiệp nhận mệnh kiêm quản Thiểm Tào.)
[47] Chủng Ngạc tâu: “Những người quy thuận đã được xăm hai chữ ‘Quy Hán’, sợ rằng các lộ ở phía sau thần sẽ giết hết một loạt, xin ban lệnh ràng buộc.” Chiếu rằng: “Chủng Ngạc đi qua nơi nào thì chiêu nạp người quy thuận, lệnh cho Vương Trung Chính khi đi qua doanh trại, chỉ huy các tướng càng phải quan tâm vỗ về.”
[48] Lại tâu việc thu phục Hạ Châu.
(Sách 《Tân kỷ》, 《Cựu kỷ》 chép ngày Mậu Dần, Chủng Ngạc vào Hạ Châu, có lẽ là do tờ tấu này. Ngày Mậu Dần là ngày 25. Theo 《Mật viện thời chính ký》, Chủng Ngạc tâu vào tháng 10.)
[49] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Đã sai Quyền Tổng quản Lưu Duy Cát dẫn một số nghĩa dũng đến các trại Tĩnh Biên để tiếp nhận người đầu hàng.” Chiếu rằng: “Ở vùng biên giới phía tây, nếu quả có người muốn đến đầu hàng mà bị giặc khống chế, phải đưa nhiều quân đi đánh tan đám cường đạo, mới có thể tiếp nhận người quy thuận. Nay lộ này lại lệnh cho Lưu Duy Cát dẫn nghĩa dũng, bảo giáp cùng quân lính đến, e rằng không có ích gì, lệnh cho Lô Bỉnh xem xét kỹ rồi thi hành.”
[50] Phu Diên lộ Kinh lược ty tâu: “Trại Mễ Chi thu được 19.500 thạch lương chứa trong kho, 4.000 khí giới cung tên và đồ dùng. Thành chu vi 1.109 bước.” Chiếu đổi trại Mễ Chi thành thành Mễ Chi.
[51] Chiếu cho Kinh Nguyên Lô Bỉnh: “Nghe nói lương thực ở các trại ven biên giới không nhiều, lại thêm vật giá đắt đỏ, quân mã phòng thủ đóng đồn phải nhanh chóng xem xét, nếu giặc đã tan rã, thì cho người phiên về nơi tập trung[5], lần lượt rút bớt nghỉ ngơi.”
[52] Ngày hôm đó, Vương Trung Chính dẫn quân đóng ở chân núi Quy Nương, không dám vào trại, sai thuộc hạ chuyển lương đến trại Phúc Ninh, quân lính đói rét, ngã gục trên đường, chưa chết hẳn đã bị mọi người cắt thịt ăn.
(Việc này theo 《Ký văn》.)
[53] Ngày Canh Thìn, chiếu rằng: “Từ nay phong chức quan chức sự, đều căn cứ vào phẩm cấp của ký lộc quan. Phàm cao hơn một phẩm thì dùng chữ ‘hành’, thấp hơn một phẩm thì dùng chữ ‘thủ’, thấp hơn hai phẩm trở xuống thì dùng chữ ‘thí’, phẩm ngang nhau thì không dùng ‘hành’, ‘thủ’, ‘thí’.”
[54] Chiếu rằng: “Ấn của Tam tỉnh dùng bạc đúc, mạ vàng; ấn của Cấp sự trung là ấn của Môn hạ ngoại tỉnh; ấn của Xá nhân là ấn của Trung thư ngoại tỉnh.”
[55] Dương Nguyên Tôn, chức Tẩu mã thừa thụ ở Phu Diên lộ tâu rằng: “Đại quân đã qua Hạ châu, nghe nói dọc đường có bọn tàn quân giặc Tây tụ tập, giết hại và cướp bóc người qua lại, khiến đường sá bị ách tắc. Lo ngại việc tấu báo và đường vận lương bị ngăn trở, xin chỉ huy cho Kinh lược sứ sai binh mã tuần tra phòng ngự dọc đường.” Chiếu cho Thẩm Quát xem xét kỹ rồi thi hành.
[56] Cùng ngày, quân của Lâm Quảng đóng ở Lạc Cộng bá. Theo tin do thám, bọn giặc Khất vẫn chưa rời khỏi sào huyệt, bèn bàn việc đặt thành Lạc Cộng để đóng quân.
[57] Tường định lễ văn tâu rằng: “Xưa kia, thần và dân không lẫn lộn, lễ và hình có chế độ khác nhau, nên quan coi việc lễ thường được phụng sự thần linh. Như sách 《Tả truyện》 chép, sai con cháu của các danh gia theo cựu điển làm tông chủ, nên thần ban điềm lành, dân dâng lễ vật. Theo 《Chu lễ》, Vua và hoàng hậu không trực tiếp hành lễ tế, thì tông bá thay thế, đảm nhiệm việc này. Từ đời Hán trở đi, quan coi việc lễ và phụng sự thần không còn đúng chức trách, bắt đầu lẫn lộn với chức vụ khác, nên 《Hậu Hán chí》 chép Thái úy coi việc tế giao, đảm nhiệm á hiến, Quang lộc coi tam hiến. Thái úy vốn là chức dùng để coi việc binh thời Tần, Hán, nay là một trong tam công, ngồi bàn luận đạo lý. Quang lộc vốn coi việc cung điện, cửa ngõ, đều không phải là chức trách của quan tế tự. Xin rằng các việc tế tự cần thay thế Thái úy đều do Lễ bộ thượng thư đảm nhiệm, nếu chức chính khuyết thì tế Nam Giao, Bắc Giao do quan viên Trung thư thay thế, tế Thái miếu do tông thất thay thế, các việc khác và á hiến do Thái thường khanh cùng quan chủ, phán quan của Thái thường tự, Thái thường lễ viện thay thế; chức Quang lộc khanh đều bãi bỏ việc chung hiến, vẫn do Thái thường khanh hành lễ. Lại nữa, chức Bác sĩ vốn thông hiểu cổ kim, giúp việc tế tự, triều ta mới có danh hiệu Giám lễ, nay nếu để họ thay thế hành lễ tế tự, chính hợp với nghĩa xưa, vì đã có Ngự sử giám tế, nên bãi bỏ Giám lễ.”
Chiếu rằng: “Tế Nam Giao, Bắc Giao, sai Chấp chính quan làm sơ hiến, Lễ bộ thượng thư, thị lang làm á hiến, Thái thường thiếu khanh làm chung hiến; các việc tế khác, Lễ bộ thượng thư, thị lang, Thái thường khanh làm sơ hiến, Thái thường thiếu khanh, Lễ bộ, Từ bộ lang trung, viên ngoại lang làm á hiến, Thái thường bác sĩ làm chung hiến; tế tông miếu, Thân vương, Tông thất, Sứ tướng, Tiết độ sứ làm sơ hiến, chính nhiệm trở lên làm á hiến. Nếu các chức trên khuyết, thì lần lượt sai quan cấp dưới thay thế, đồng thời bãi bỏ Giám lễ.”
(Thánh chỉ ngày 21 tháng 11 năm thứ 4, nay phụ theo ngày tháng này.)
[58] Ngày Tân Tỵ, Sử quán Tu soạn Tăng Củng tâu: “Thần tu định quốc sử năm triều, cần thấy các danh thần lương sĩ từ khi nhà Tống dựng nước, hoặc từng có danh vị, hoặc vốn ở nơi thôn dã, lời hay việc tốt, việc làm khi làm quan, công lao với quân quốc, hoặc dâng biểu chương, soạn văn tự. Bia ký, hành trạng, ký thuật của gia đình, hoặc truyện ký do người khác soạn, nay soạn quốc sử cần thu thập ghi chép. Sợ lúc đầu tìm kiếm sách cũ chưa đầy đủ, xin ở kinh kỳ giao cho Khai Phong tri phủ và các tri huyện ở kinh kỳ, ngoài kinh kỳ giao cho các lộ Giám ty, châu huyện trưởng lại, tìm kiếm rộng rãi, nếu có con cháu thì mời đến hỏi. Các sự tích hoặc văn tự, đều do quận phủ nộp lên Sử cục, để chuẩn bị biên soạn. Nếu văn tự hơi nhiều, nhà họ không có khả năng chép lại, thì quan phủ thuê người chép và hiệu đính. Các nhà từng giữ chức Lưỡng phủ, Lưỡng chế, Đài gián, đều đến hỏi, mỗi nhà hạn trong một tháng gửi lên Sử cục. Cùng với các văn tự các triều do Trung thư biên tập và văn tự cơ yếu của Xu mật viện, cùng các ngự trát, thủ chiếu bản sao các triều, đều gửi lên Sử cục để chuẩn bị thảo luận.” Được chấp thuận.
[59] Chiếu cho Thẩm Quát: “Theo tấu của Vương Trung Chính gửi từ giếng Nại Vương ở châu Hựu, nói bắt được bộ lạc phiên ở địa giới giặc, và ngày Giáp Tuất đóng quân ở đầm Tả Thôn phía tây bắc châu Hựu, đánh nhau với giặc, mới biết quân giặc đối diện với Khánh Châu đều tập trung bên cạnh châu Hựu, nếu không tính toán kỹ, cùng với quân tinh nhuệ ở Hoành Sơn, thế không thể coi thường. Khanh vừa cử Cảnh Tư Nghị dẫn hơn ba nghìn người đi trước, khanh lại muốn dần dần dẫn quân đi tiếp ứng, nhưng không thể dễ dàng, sợ Tư Nghị còn trẻ, lại không quen chiến đấu, nếu có sai lầm sẽ liên lụy đến đại quân. Khanh nên trấn an căn bản của phủ soái, để ổn định lòng dân trong nước. Quân lưu thủ ở bản lộ, lo rằng Trung Chính đến, có người đi lâu ngày mệt mỏi vì chinh chiến, có thể đổi người khác đi thay.”
[60] Trước đó, bộ tộc Phiền có mấy vạn người xâm phạm Thuận Ninh, mọi người muốn đóng cửa thành để phòng thủ, nhưng Quát cho rằng tỏ ra yếu hèn sẽ khiến giặc kiêu ngạo, không phải là kế sách hay, bèn sai tướng tiên phong Lý Đạt đem một nghìn quân ra khỏi Thuận Ninh, chuẩn bị lương thực cho mười vạn người, nói rằng Quát sẽ tự mình dẫn quân đi đánh. Trước đó, sai tướng dũng mãnh Cảnh Tư Nghị và Khuất Lý đem ba nghìn quân thử đánh, giặc kinh hãi tan vỡ, chiếm được trại Ma Nhai, bắt được một vạn nam nữ và ba vạn trâu dê rồi trở về.
(Việc này căn cứ theo tự chí của Quát, ghi chép thêm, cần xem xét thêm.)
[61] Quân Kinh Nguyên sau khi phá được ải Ma Tề, tiến đến cửa Thưởng Di, có hai đường: một đường phía bắc ra đèo Đại Đại, một đường tây bắc ra sông Minh Sa. Đường Minh Sa hơi vòng, các tướng muốn đi đường Đại Đại, Lưu Xương Tộ nói: “Khi rời khỏi Hán, Ty Vận vận chuyển lương thực đủ dùng trong một tháng, nay đã mười tám ngày, chưa đến Linh Châu, nếu lương thực không tiếp tục được, tình thế sẽ ra sao? Ta nghe nói ở Minh Sa có kho lương tích trữ, người Hạ gọi là Ngự Thương, có thể lấy mà ăn, Linh Châu dù lâu cũng không đáng lo.” Đến nơi, quả nhiên tìm được kho lúa chứa trong hầm đến một triệu hộc, bèn lưu lại hai đêm, chất đầy lương thực rồi tiến về Linh Châu. Ngày Nhâm Ngọ, quân đến dưới thành. Lúc đó quân Hoàn Khánh chưa đến, cổng thành chưa đóng, tiên phong chiếm cổng suýt vào được. Cao Tuân Dụ sai Lý Lâm, An Đỉnh mang thư đến, nói: “Đã sai Vương Vĩnh Xương vào thành chiêu an, không nên giết người.” Một lát sau cổng thành đóng lại, quân giữ thành. Chém được bốn trăm năm mươi thủ cấp, thu được hơn nghìn ngựa chiến, trâu bò. Xương Tộ nói: “Thành không khó hạ, chỉ ngại Hoàn Khánh mà thôi, triều đình ở xa, ắt cho là hai đạo tranh công.” Bèn dừng quân.
(Ngày mùng một tháng 11, quân Kinh Nguyên đến dưới thành Linh Châu, đây là lời ghi trong mộ chí của Lưu Xương Tộ do Trương Thuấn Dân soạn. Theo thực lục, ngày 21 tháng 11 tấu rằng ngày Nhâm Ngọ tiến đến dưới thành Linh Châu, tiên phong thắng trận. Nhâm Ngọ là ngày 29 tháng 10. Nay theo thực lục. Thực lục ngày 17 tháng 11 năm Kỷ Hợi, Ty Tổng quản hành dinh lộ Kinh Nguyên tâu: “Đại quân đến sông Minh Sa, chia quân tìm được kho lúa và cỏ khô chứa trong hầm hơn ba mươi ba nghìn hộc và bó, hơn vạn trâu bò, đã khao thưởng sứ thần, tướng sĩ.” Ngày 21 tháng 12 năm Quý Mão, Ty Tổng quản hành dinh lộ Kinh Nguyên tâu: “Ngày Đinh Sửu tháng 10, đóng trại ngoài thành Minh Sa, tìm được hơn mười tám nghìn hộc lúa chứa trong hầm. Ngày Nhâm Ngọ, tiến đến dưới thành Linh Châu, tiên phong gặp giặc giao chiến, chém được hai trăm bảy mươi hai thủ cấp, bắt sống bốn mươi ba người, bắt được hai trăm già trẻ phụ nữ, thu được hơn vạn ngựa, trâu bò, lạc đà, lương thảo hơn năm vạn.” Nay gộp vào đây. Số liệu khác nhau, cần xem xét.)
[62] Bãi bỏ trại Đại Động ở Lô Châu. Sách 《Hiệu khám ký》.
- Theo 《Bình Man Lục》, chữ 'Thử' nguyên là 'Phê', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- 'Thực lục' nguyên bản viết là 'Nhật lục', căn cứ theo văn trên và bản các các, sửa lại. ↵
- tế bốn miếu thân 'thân' nguyên là 'thời', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 79 《Tường định giao miếu lễ văn》, 《Tống sử》 quyển 107 《Lễ chí》 sửa. ↵
- Lúc dâng rượu và thức ăn chín cũng đứng trong cửa, hướng về phía tây, chữ 'loã' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Chữ 'phiên' nguyên bản là 'thẩm', theo bản trong các các mà sửa. ↵