VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 320: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)
Từ ngày Quý Mùi tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết ngày Canh Tý cùng tháng.
[1] Ngày Tân Sửu tháng 11, chiếu rằng: “Lâm Quảng nhiều lần tâu trình tiến binh, rất là chậm chạp. Nay đã vào đông sâu, nếu lại qua xuân, thời tiết dần ấm, khói lam chướng khí, mưa dầm, càng khó truy đuổi tận hang ổ. Nếu kéo dài chưa xong, thì hai xuyên không khỏi bị quấy nhiễu, hãy lệnh cho Lâm Quảng nên tiến binh nhanh chóng.” Lúc đó Lâm Quảng đóng quân ở Lạc Tuyết Cương đã bảy ngày, năm ngày sau khi Sa Thủ dẫn quân đến hàng mới xuất quân.
[2] Quỳnh Quản Ty tâu: “Đã bãi bỏ việc kinh chế ở Hải Nam, nếu có người Lê sinh sống quy phụ, xin lượng cấp tiền quan mua vật khao thưởng.” Chiếu rằng: “Theo lời tâu của Lưu Nghị xin chiêu dụ kinh chế, triều đình đã sao chép toàn bộ gửi cho Trương Giáp, Tri Quế Châu, nếu thực có người Lê sinh sống quy thuận, có thể xem xét thi hành rồi tâu lên, vật phẩm khao thưởng cần dùng, lấy ngay từ kho kinh phủ để ứng phó.”
(Trương Giáp nhậm chức Tri Quế Châu vào ngày 21 tháng 9 nhuận năm thứ 3.)
[3] Chiếu rằng: “Quân mã của Đô Đại Kinh Chế Ty ở Hi Hà Lộ ra khỏi biên giới, phơi mình lâu ngày, nay tuy đóng ở Kinh Nguyên gần biên, cũng lo không có chỗ nghỉ ngơi. Hãy lệnh cho Lý Hiến cùng bàn với Lô Bỉnh, phân phối đến các châu quân thành trại gần đó có lương thảo để nghỉ ngơi, chỉ huy tướng sĩ chăm sóc, nuôi dưỡng sĩ khí. Nếu Linh Châu chưa hạ, đợi khi có đủ phu lương, hãy nhanh chóng tiến binh hợp lực công chiếm; nếu Linh Châu đã hạ, theo lệnh đã ban, chiếm cứ đất đã phân chia để quét sạch cảnh giặc. Cũng hạ lệnh cho Lô Bỉnh, nếu quân sĩ thiếu thốn lạnh lẽo, hãy lập tức lo liệu ứng phó chăm sóc.”
[4] Lý Hạo tâu: “Châu Lan theo thứ tự chiêu mộ được Tây sứ Giám quân ty quản hạt, thuận theo bốn bộ tộc lớn của Tây Phiên nước Hạ là Diệm Mao Quỷ, Lư Nhĩ, Kim Tinh, La Thuật, cùng Phiền Kiềm hạt Ước Tô, hơn 230 hộ, hơn 2000 nhân khẩu. Sau khi ban thưởng, cấp phát vật phẩm theo thứ bậc, đều cho về bộ tộc, trong đó có hộ dân châu Hội, tạm cấp đất quan cho ở. Đã tâu lên Đô đại Kinh chế ty lộ Hi Hà, xin bổ nhiệm chức vụ theo thứ bậc[1].” Chiếu giao cho Đô đại Kinh chế ty lộ Hi Hà.
[5] Ty Chuyển vận lộ Kinh Tây tâu: “Theo chỉ triều đình, ở châu Quân, châu Đặng phát động tổng cộng 3 vạn phu, cứ 500 người thì cử một quan viên phụ trách, đưa đến lộ Phu Diên vận chuyển lương thực, cần dùng 60 quan viên. Lộ này thiếu quan, xin ở các huyện phát động phu cử Lệnh tá, cùng các châu huyện lân cận không theo thường lệ cử tổng cộng 20 viên, còn 40 viên xin triều đình cử quan.” Chiếu rằng: “3 vạn phu thuộc châu Quân, châu Đặng, từ ngày rời nhà và trên đường đi, ngoài việc cấp tiền gạo theo chỉ trước, lệnh Ty Chuyển vận tính từ khi vào địa giới Thiểm Tây đến châu Diên, mỗi ngày cấp 30 tiền gạo, 10 tiền củi rau, đều cấp trước một lần.”
[6] Ngày đó, quân Hoàn Khánh, Kinh Nguyên rời khỏi Linh Châu. Ban đầu, Cao Tuân Dụ vây đánh Linh Châu, 18 ngày không hạ được, đường vận lương gần như bị cắt đứt. Giặc đắp đập Thất Cấp Cừ để dẫn nước nhấn chìm quân ta. Khi nước dâng lên, Tuân Dụ chặt cầu pháo làm cầu để vượt qua, Lưu Xương Tộ đi sau, cầm kiếm ngồi trên mặt nước, đợi quân lính qua hết rồi mới đi. Kỵ binh giặc đuổi theo đánh úp, giao chiến nhiều ngày, đến Vi Châu, quân sĩ tranh nhau vào trại, không còn hàng ngũ, giặc thừa cơ đánh, quân ta tan vỡ, chết rất nhiều. Trước đó, có chiếu rằng ai tự ý rút quân sẽ bị tru di, thành lâu không hạ được, Kinh Nguyên Kiềm hạt Chủng Chẩn một mình viết thư cho Tuân Dụ, nói: “Dừng quân đánh thành kiên cố là điều tối kỵ trong binh pháp, mà lương thực sắp hết, doanh trại ta bố trí trên ruộng lúa, nếu giặc dẫn nước sông vào, ta sẽ thành cá. Xin rút về đóng quân ở Thanh Viễn, thông đường vận lương để nghe lệnh.” Tuân Dụ đưa thư cho mọi người xem, không ai dám hưởng ứng, Tuân Dụ bèn nói với Chẩn: “Nghe lời ông để cứu sống sinh linh hai lộ, dù có tội chết cũng không hối hận.” Bèn rút quân.
(Việc này căn cứ theo bài minh trên mộ Chủng Chẩn do Phạm Dục soạn và bản thực lục ngày 5 tháng 6 năm sau, tấu chương của Lô Bỉnh ngày 3 tháng 12, cùng tấu chương của Tuân Dụ và Ty Chuyển vận ngày 5 tháng 12. Bản kỷ mới chép việc rút quân vào ngày Tân Sửu, có lẽ là vì việc này. Bản kỷ cũ chép việc Tuân Dụ rút quân vào ngày Bính Ngọ.)
[7] Ngày Quý Mão, ban chiếu rằng các chức Thái trung đại phu, Đãi chế trở lên kiêm chức Tu soạn đều bãi bỏ.
[8] Lại ban chiếu: “Các tỉnh, tào, tự, giám căn cứ vào số lượng cũ, tùy theo công việc nhiều hay ít và thứ bậc cao thấp mà thay đổi lẫn nhau. Thượng thư, Thị lang tâu việc, một viên Lang quan cùng lên điện. Các án đã phê duyệt ở Đại Lý tự Tả thính chuyển sang Môn hạ tỉnh.”
[9] Bãi chức Tuyên huy sứ, những người đang giữ chức Tuyên huy sứ vẫn giữ nguyên, từ nay không bổ nhiệm người mới.
[10] Thẩm Quát tâu: “Các nơi như trại Thuận Ninh báo rằng quân lính Hán và Phiên dưới quyền Chủng Ngạc đã tan rã, mỗi người chạy về các thành trại, không dám chặn hỏi.” Lại tâu: “Tên lính là Dương Thành nói rằng Chủng Ngạc đến bình Sách Gia ở châu Hạ, ba quân không có lương thực, đều khóc lóc không chịu tiến quân, đã mất hơn ba vạn người. Hiện chưa dám tự ý chiêu an.” Chiếu rằng: “Những việc Thẩm Quát tâu đều là việc cấp bách nơi biên phòng, không thể chậm trễ chút nào. Nếu quan coi biên phòng không coi đó là trách nhiệm của mình, tùy nghi xử lý, mà phải đợi chỉ dụ từ triều đình, thì lợi hại sẽ mất nhiều. Hãy nhanh chóng theo những chỉ huy đã ban ra, tùy nghi xử lý, sớm ổn định tình hình. Lại xét tình hình nhân tâm, nếu có thể khuyến khích họ làm việc, thì cho phép họ chém bắt giặc Khương cướp bóc nơi biên giới để chuộc tội, xin lương thực nghỉ ngơi. Những việc khác không có trong chỉ dụ, cứ tùy nghi xử lý, không cần báo cáo từng việc.”
(Sách Gia Bình có lẽ chính là Ma Gia Bình, nay ghi cả hai.)
[11] Lại có lộ Phu Diên tâu: “Quân lính dưới quyền Chủng Ngạc đã tan rã chạy vào các trại, không biết doanh trại hiện ở đâu. Nay xét tình thế của Chủng Ngạc, chắc chắn chưa thể tiến sâu được.” Chiếu rằng: “Chủng Ngạc hãy nhanh chóng dẫn quân về sát biên giới, tạm đóng quân ở nơi thuận tiện, đợi khi tinh thần quân sĩ ổn định, lương thực đầy đủ, thì thi hành theo chiếu ngày Giáp Thân.”
(Giáp Thân là ngày mồng 2 tháng 11.)
[12] Lại tiếp tục ban chiếu cho Thẩm Quát: “Ngày Nhâm Dần tháng này nhận được tấu của khanh ngày Đinh Dậu, nói rằng quân lính đã đào ngũ, tản mác trong lộ, vì lý do bất đắc dĩ, cần phải gấp chiêu an. Khanh hãy nhanh chóng soạn chiếu chỉ triều đình, dán bảng rằng: ‘Nghe nói quân lính chỉ vì không chịu nổi đói rét nên bỏ về nhà, hãy tùy nơi ở nộp khí giáp, xin cấp lương thực.’ Khanh hãy một mặt lệnh cho các thành trại an ủi, nhanh chóng theo bảng nhận nộp, cấp lương thực trong 10 ngày, cho về nơi thuộc quyền, lần lượt báo số lượng chiêu an.” Lại chiếu cho Thẩm Quát: Việc chiêu an quân đào ngũ, không được báo cáo lên quân tiền.
[13] Tường định lễ văn tâu rằng: “Xưa kia, tông miếu có chín lần dâng lễ, Vua và hoàng hậu mỗi người bốn lần, các quan một lần. Từ đời Hán trở đi chỉ còn ba lần dâng lễ, hoàng hậu không vào miếu, cứ thế kéo dài đến nay. Nếu là lễ thời hưởng thì có việc ở trong thất mà không có việc ở ngoài đường, lễ đế hợp thì có việc ở ngoài đường mà không có việc ở trong thất. Trong thất, vị thần không ở chỗ tối, ngoài đường, vị thần không ở chỗ che, có dâng thức ăn mà không có lễ triều tiễn. Đó là lý do chế độ xưa nay khác nhau. Tuy nhiên, cổ lễ có những điều không cần khôi phục, như việc thờ thần và hoàng hậu vào miếu; có những điều cần khôi phục thì lễ ý mới đầy đủ, như lễ loã tướng trong thất, lễ triều tiễn ngoài đường, lễ quỹ thực trong thất. Bởi lẽ, việc dâng lễ quan trọng hơn lễ loã, mà lễ triều tiễn dâng đồ sống là để tôn trọng gốc và chuẩn bị thức ăn thời thượng cổ, lấy đạo thần mà thờ; lễ quỹ thực dâng đồ chín là để gần gũi và chuẩn bị thức ăn thời hậu thế, lấy đạo người mà thờ. Ba việc này là đại tiết giao thần, nhất định phải do nhà Vua đích thân làm.” Bèn soạn định điển lễ khả thi để tâu lên.
Lại nói: “Đây gọi là xét việc nay mà chuẩn bị ý nghĩa chín lần dâng lễ xưa, việc trong thất và ngoài đường đều chu toàn, lễ tế tám miếu từ Hi Tổ trở xuống[2], có thể hoàn thành trong một ngày.” Lại tâu: “Thần đã bắt các quan lễ trực và lệnh nhạc cùng tập luyện, lại bắt quan khắc lậu của Ty Thiên giám ghi chép thời khắc, mỗi miếu chỉ tốn hai khắc, cộng thêm thời gian nhà Vua vào nghỉ ngơi ăn uống, các quan vào chầu, thêm hai khắc nữa, thì tám miếu hành lễ bốn mùa đều có thể hoàn thành. Lễ cũ bắt đầu từ giờ Sửu, đến cuối giờ Thìn thì xong.” Chiếu giao cho Lễ viện, đợi khi miếu chế hoàn thành sẽ lấy chỉ.
(Lễ văn ngày 22 tháng 11 năm thứ 4 giao Lễ viện, nay phụ vào ngày tháng này. Ngày Kỷ Sửu tháng 9 năm thứ nhất ban chiếu tường định điển lễ khả thi, bản Chu nói thế, cần tham khảo và tu chỉnh.)
[14] Lại nói: “Xem xét ngày trước lễ Nam Giao, buổi sáng tế Thái Miếu, lại có bốn mùa và lễ Lạp, đều đặt vị thần ở phía trong cửa phòng, hướng nam[3], thì bày 12 cái biên ở bên trái, 12 cái đậu ở bên phải, nha bàn bày ở phía trước; 3 cái hình ở phía nam nha bàn; 3 cái lung, một cái ở phía nam hình, một cái ở bên trái biên, một cái ở bên trái ngoài cửa; 3 cái trở, hai cái ở phía nam biên, một cái ở phía nam đậu; 4 cái quỹ phủ, ở giữa ba cái trở. Di tôn và lôi thì bày ở gian trước cột trên đền miếu, mỗi cái ở bên trái ngoài cửa phòng, hướng bắc, phía tây trên. Xem thứ tự trước sau, đều là người đời sau tùy ý làm, không hợp với lễ. Bề tôi xin suy xét lễ Đặc Sinh, Thiếu Lao, mà ước theo chế độ của thiên tử nhà Chu, vẽ riêng hai bản, tất cả các thứ như diên kỷ trong phòng, trên đền, cùng đậu, hình, trở, quỹ, phủ, biên, lung, xin căn cứ theo cổ để khảo chính. Những vật thực tuy đã ghi đủ trong biệt lục, nhưng sợ rằng ngày nay có thứ không thể chuẩn bị được, xin lấy vật phẩm cùng loại thay thế. Nếu là đại hợp, chủ các miếu họp ở tổ miếu, thì biên, đậu, trở, phủ rất nhiều, sợ trong phòng không đủ chứa, xin giảm bớt số lượng, dời ra ngoài cửa.” Chiếu giao cho Lễ viện, đợi khi miếu xong sẽ lấy chỉ. (Ngày 21 tháng 11 năm thứ 4).
[15] Lại tâu rằng: “Thần nghe rằng người hát ở trên, các nhạc khí như bầu và sáo ở dưới, là quý tiếng người; bầu và sáo ở trước, chuông trống ở sau, là quý khí người. Sách viết: ‘Gảy đàn cầm đàn sắt để hát’, đó là nhạc trên đường. Lại viết: ‘Dưới thổi sáo, đánh trống, hợp với chúc ngữ. Sáo và chuông xen kẽ.’ Đó là nhạc dưới đường. Nhạc trên đường tượng trưng cho sự trị vì của triều đình, nhạc dưới đường tượng trưng cho sự trị vì của vạn vật. Đời sau các quan mất đi truyền thống, người hát ở trên đường lại đặt thêm chuông khánh, giá nhạc ở sân lại đặt thêm đàn cầm đàn sắt, bầu và sáo dưới đường lại đặt trên giường, đều không đúng thứ tự. Xin rằng mỗi khi tế tự tông miếu, người hát ở trên đường không đặt thêm chuông khánh, giá nhạc ở sân không đặt thêm đàn cầm đàn sắt, bầu và sáo dưới đường không đặt trên giường. Nhạc trên dưới đàn giao cũng xin theo đó mà sửa lại, các quan lo việc tế tự cũng theo đó mà làm.”
(Trát tử của Trung thư ngày 21 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ theo lời tấu.)
[16] Lại tâu: “Thần xin kính cẩn xét theo chức vụ Tiểu tư trong 《Chu Lễ》 có ghi: ‘Vương dùng cung huyện, chư hầu dùng hiên huyện, khanh đại phu dùng phán huyện, sĩ dùng đặc huyện.’ Người giải thích nói: ‘Cung huyện bốn mặt, hiên huyện ba mặt, phán huyện hai mặt, đặc huyện một mặt.’ Lại nói: ‘Phàm treo chuông khánh, nửa là đổ, toàn là tứ.’ Người giải thích nói: ‘Một giá chuông, một giá khánh, gọi là tứ. Các khanh đại phu của chư hầu phía tây một giá chuông, phía đông một giá khánh, sĩ chỉ có một giá khánh mà thôi.’ Lại xét theo 《Nghi Lễ》 trong phần Đại xạ nghi có ghi: ‘Khánh sanh hướng tây, phía nam là chuông sanh, phía nam là bác, đều xếp hướng nam. Khánh tụng hướng đông, phía nam là chuông, phía nam là bác. Một cái kiến cổ ở phía đông nam bậc tây.’ Người giải thích nói: ‘Đây là chế độ của chư hầu.’ Chư hầu hướng tây một khánh, một chuông, một bác, thì ba mặt chuông, khánh, bác là chín mà thôi. Chư hầu có chín chuông, khánh, bác, thì thiên tử có mười hai giá chuông, khánh, bác, rõ ràng là cung huyện. Vì vậy, có người cho rằng phối hợp với mười hai thần, hoặc phối hợp với mười hai thứ, thì cũng không quá mười hai giá. Từ khi chế độ của tiên vương bị bãi bỏ, học giả không thể khảo cứu được số lượng, đến nỗi có người cho rằng cung huyện nên có hai mươi giá, thậm chí có người lại cho là ba mươi sáu giá, đây là từ thời Tùy, Đường trở lại đây, luận bàn không thống nhất. Vào thời thịnh trị của nhà Đường, các cơ quan lo việc tế lễ, nhạc đều dùng cung huyện. Sau niên hiệu Chí Đức, các nhạc công của Thái thường tản mát, mất mát, phàm tế lễ ở giao miếu chỉ có đăng ca mà không có cung giá, đời sau cứ theo đó không thay đổi. Nay xin đổi lại dùng cung giá mười hai giá cho các việc tế lễ ở giao miếu do các cơ quan đảm nhiệm.”
(Trát tử của Trung thư ngày 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, phụng thánh chỉ y theo tấu.)
[17] Lại tâu: “Thần xem xét thấy đức trời đất rất lớn, nên dùng vũ khúc văn để tế lễ. 《Chu Lễ》 nói: ‘Múa Vân Môn để tế thiên thần, múa Hàm Trì để tế địa thần.’ Lại nói: ‘Điệu múa Vân Môn, vào ngày đông chí, được diễn ở Viên Khâu trên mặt đất; điệu múa Hàm Trì, vào ngày hạ chí, được diễn ở Phương Khâu trong đầm.’ Vân Môn là nhạc của Hoàng Đế, Hàm Trì là nhạc của Nghiêu, đều là vũ khúc văn. Đối với đức trời đất, dùng điều này để cầu sự tương xứng. Gần đây, nhạc vũ ở Nam Giao và Bắc Giao đều dùng cả vũ khúc võ, tức là điệu múa can qua như sách ký chép, không phải là nhạc đầy đủ. Đã không phải là chế độ cổ xưa, lại không đủ để tương xứng với đức trời đất, xin ở Nam Giao và Bắc Giao chỉ dùng vũ khúc văn với lông chim và sáo, để hợp với ý nghĩa lễ nghi, đã tâu trình xong.”
(Văn lễ không ghi tháng ngày, nay phụ vào ngày 21 tháng 11.)
[18] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu tăng giảm quan lại, và cùng với Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnh cùng xin chỉ dụ.
[19] Xu mật viện đặt chức Tri viện, Đồng tri viện, còn lại đều bãi bỏ. Lúc đó, đại cải cách quan chế, có người bàn muốn bãi bỏ Xu mật viện, giao về Binh bộ. Vua nói: “Tổ tông không giao binh quyền cho các cơ quan, nên chuyên mệnh quan thống lĩnh, để hỗ trợ kiềm chế lẫn nhau, sao có thể bãi bỏ được?” Vua lại cho rằng Xu mật viện là chức vụ liên quan đến việc phụ tá, không phải là chức quan đi sứ, nên quyết định đặt chức Tri viện và Đồng tri viện hai người. Lúc đó có Tri viện sự Tôn Cố, Đồng tri viện sự Lữ Công Trước, Hàn Chẩn, tổng cộng ba người. Có người nói Vua muốn lấy lễ mà lui chức Công Trước, từ đó hơn năm tháng, Công Trước mới xin bổ nhiệm ra ngoài.
(Theo 《Chức quan chí》, chí ghi là năm năm, sai vậy. Việc định chế hai viên ở Xu mật viện, e rằng không phải sự thật, việc Vua muốn lấy lễ mà lui chức Công Trước, chắc là lời vu khống của sử quan. Công Trước đến tháng tư năm sau ngày Đinh Sửu bị bãi chức, tự là do bất đồng trong nghị luận. Tôn Cố vào tháng nhuận năm đầu ngày Nhâm Thìn được bổ làm Đồng tri, Lữ Công Trước vào tháng chín năm đầu ngày Ất Dậu cùng Tiết Hướng được bổ làm Đồng tri, đến tháng chín năm thứ ba ngày Quý Mùi cả ba người đều đổi làm Xu phó, ngày Bính Tuất Hướng bị bãi chức. Tháng giêng năm thứ tư ngày Tân Hợi, Cố đổi làm Tri viện, Công Trước làm Đồng tri, Hàn Chẩn mới được bổ làm Đồng tri. Chí viết: “Định đặt Tri viện, Đồng tri viện hai người, lúc đó có Tri viện sự Tôn Cố, Đồng tri viện sự Lữ Công Trước, Hàn Chẩn, tổng cộng ba người, quan chế đã thi hành, Vua muốn lấy lễ mà lui chức Công Trước, do dự mấy tháng, Công Trước mới xin bổ nhiệm ra ngoài, bèn lấy chức Tư chính điện học sĩ làm Tri châu Định.” Xét theo chí ghi việc định đặt Tri viện, Đồng tri viện hai người, với việc thực lục ngày hai mươi hai tháng mười một năm thứ tư ngày Giáp Thìn ghi “Xu mật viện đặt Tri viện, Đồng tri viện, còn lại đều bãi bỏ” khác nhau. Thực lục ban đầu không hạn chế số người, nghi rằng chí có sai sót, có lẽ là đặt Tri viện một người, Đồng tri viện hai người, mà chí lỡ bỏ sót chữ “một người”, nên đối với Công Trước mới thêm lời vu khống, không thì người làm chí sẽ lấy điều này để chê Công Trước. Nay lược bớt và chỉnh sửa lời văn, cần phải xem xét kỹ hơn.)
[20] Lại có chiếu rằng: “Đề cử Giang Tây, Quảng Đông diêm sự ty Kiển Chu Phụ đã được sai làm Hà Bắc đô chuyển vận sứ, không cần sai thêm quan đề cử diêm sự nữa. Lệnh cho Quảng Nam Đông lộ chuyển vận phán quan Trình Chi Thiệu, Giang Nam Tây lộ chuyển vận ty, đề cử diêm sự ty quan, cùng các nơi thuộc quyền, theo các điều ước đã ban, ra sức thi hành, không được để thiếu hụt thuế khoá hàng năm.”
[21] Chiếu rằng: “Lý Hiến hãy lập tức đưa quân về bản lộ, nuôi dưỡng sĩ khí, xếp hạng công trạng rồi tâu lên. Các tướng sĩ Hán, Phiên trong hành dinh, hãy chia làm nhiều đợt mà hậu đãi. Lại mở rộng ân tín, ra sức chiêu dụ các bộ tộc Khương mới quy phụ, cùng bí mật định chỗ đóng đồn, tính toán vật liệu xây dựng, đợi mùa xuân ấm áp thì khởi công.”
(Bản Chu chép: “Lại có chiếu cho Hiến rằng: Triều đình nghe ngoài biên ải rất lạnh, quân sĩ tay chân nứt nẻ, nên ban bố đồ án, bảo các đạo theo phân địa mà dẹp sạch Hà Nam, đông tây nối tiếp, nam bắc trông nhau, sửa chữa thành cũ, đặt đồn lũy, phân xử rất rõ. Chỉ đợi thu phục Linh Châu, thì các đạo tự sẽ tuân theo. Kế hoạch của khanh hiện nay, rất hợp với mệnh lệnh đã ban, rất tốt.” Lại có chiếu, là bản Chu thêm vào, bản Tân bỏ đi. Xét bản Chu có vẻ chuyên giúp Hiến, nên bỏ đi là đúng.)
[22] Ngày Ất Tỵ, Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Đặng Kế Tuyên tâu: “Được sai đề cử biên bài về việc bố trí trạm ngựa cấp tốc trên đường Hoàn Khánh. Thần thấy từ châu Vi đến quân Thanh Viễn, các tướng quan Phan Định, Lưu Thanh ngày ngày lùng sục núi, đường sá thông suốt, không có gì ngăn trở. Còn từ châu Nam đến châu Vi, các tướng quan Lưu Cận, Lạc Tiến tuy đã được sai nhưng chưa đến. Hiện nay từ châu Linh đến châu Vi, đường vận lương bị ngăn trở không thông. Xin sai các quan cấp cao, điều thêm cấm quân, từ Tân giới Sài Lăng Câu, cứ mỗi mười dặm đặt một trạm và xây dựng đồn trại để tiện vận lương và chuyển văn thư.” Chiếu rằng: “Lệnh cho Hồ Tông Hồi xem xét lời tâu của Kế Tuyên, chuyển lệnh cho Lưu Cận nhanh chóng đến khu vực được phân công để tuần tra thông đường. Lệnh cho Tông Hồi trình bày rõ việc hiện đang kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo bản lộ, việc vận lương bị ngăn trở, đường sá không thông, không có biện pháp xử lý, phải tâu lên.”
[23] Chiếu rằng: “Lệnh cho Bành Tôn đợi khi đưa phu lương đến quân tiền, hãy dẫn quân lính của mình đến châu Linh và trấn Nhung quân Hi Ninh trại, nơi hiện có giặc Tây tàng nấp cướp bóc, đường sá không thông, để tuần tra, bảo vệ việc vận chuyển lương thực và chuyển văn thư. Nếu sau này đường vận lương thông suốt, triều đình sẽ ban thưởng không kém gì việc công thành phá giặc. Vẫn phải nghe theo sự điều động của Lô Bỉnh.”
[24] Quân hai lộ Hoàn Khánh, Kinh Nguyên đã xuất phát, giặc châu Linh đuổi theo tập kích. Hôm đó, Lưu Xương Tộ gặp giặc ở ải khẩu, Cao Tuân Dụ sai Lục trạch sứ Dũ Tân dẫn quân ứng cứu, Tân cùng sứ thần Nhiệm Thành và hai người khác tử trận.
(Việc này căn cứ theo bản tấu của Hoàn Khánh hành dinh ngày 9 tháng 12, nay chép vào đây.)
[25] Ngày Bính Ngọ, chiếu lệnh cho Lưu Xương Tộ: “Nếu quân tiền có thể rút bớt, hãy tăng cường cho bộ hạ của Bành Tôn, đủ năm nghìn người, thì trên dưới cùng kinh lược lùng sục, giặc Khương tất không dám lưu lại dấu vết. Đợi khi thi hành xong phải báo cáo.”
[26] Lại chiếu cho Lô Bỉnh: “Nghe nói bản lộ trước đây sai hộ tống phu lương đến quân tiền, Bành Tôn bị giặc đuổi tan, chưa rõ hư thực, hãy khảo sát thực tế rồi tâu lên.”
[27] Lại có chiếu cho Bỉnh: “Nghe nói sau khi doanh trại của Lưu Xương Tộ tiến quân, quân giặc tập trung ngựa rất đông, những phu chuyển lương nhiều lần bị quấy nhiễu, từ nay về sau khanh nên cân nhắc kỹ rồi mới điều động.”
[28] Chiếu rằng: “Theo tấu của Chủng Ngạc, đã dời quân đến gần biên ải. Binh mã đã phơi nắng dãi sương lâu ngày, nên lệnh cho Chủng Ngạc dẫn quân trở về bản lộ, nuôi dưỡng sĩ khí, sửa chữa khí giáp, vá may quần áo, đợi khi gần đến mùa xuân ấm áp sẽ xuất quân đánh dẹp. Binh sĩ bản lộ trở về các châu, quân, thành, trại nơi nguyên đóng quân, binh Phiên cùng binh cung nỏ Hán và Phiên chia nhau đóng ở các châu, quân gần trong có lương thảo, phu chuyển lương đều được giải tán, các tướng tá dưới quyền Chủng Ngạc theo quân nghỉ ngơi.”
[29] Chiếu cho Thẩm Quát: “Quân hành dinh của bản lộ từ khi xuất cảnh đến nay, gặp giặc đánh lớn nhỏ, chưa từng bị thương tổn, đến nay vẫn bảo toàn được con đường phía nam gần biên ải. Binh sĩ đang trong thời tiết giá lạnh, lại thường phải chịu đói khát, sự chăm chỉ trung thành đáng khen ngợi lắm. Nếu không cho họ nghỉ ngơi để chờ dùng về sau, thì khí lực tất sẽ suy yếu, làm tổn thương lòng dũng cảm. Huống chi việc biên cương hiện chưa có thời hạn, nơi trọng yếu dọc biên giới cần tích trữ cỏ lương, nên nhân thời cơ mà tiết kiệm. Khanh hãy nhanh chóng chia quân mã các tướng lần lượt đóng đồn, những nơi nguyên thuộc dọc biên giới thì lượng để lại phòng thủ, còn lại dời đến các châu, trại từ Vĩnh Bình trở xuống không phải nơi cấp bách để kiếm ăn. Đợi khi sứ giả đến, khao thưởng an ủi ban cấp xong, cho nghỉ ngơi rộng rãi. Đã sai Câu đương Ngự dược viện Lưu Duy Giản đi lại bản lộ truyền chỉ an ủi, ban cấp hộp bạc, trà thuốc cho tướng sĩ từ biên ải trở về, khao thưởng ban cấp. Khanh có thể giao cho quan Chuyển vận ty sắp xếp tiền, lụa, lĩnh mỗi thứ sáu bảy vạn quan, tấm trở lên, chuẩn bị ban thưởng.”
[30] Trước đó, có chiếu rằng quân sĩ bị bệnh trở về trước sẽ không được ban thưởng. Chỉ có Giản đến Khánh Châu, dâng sớ nói: “Quân lính xa cha mẹ vợ con, vào nơi nguy hiểm, không may gặp tướng thần vi phạm mệnh lệnh, không được yên ủi, lương thực không đủ, phải bỏ chạy về, tình cảnh đáng thương. Nay cùng đứng trong triều, thấy người khác được ban thưởng mà mình không được, kẻ tiểu nhân không hiểu, trong lúc vội vàng, e rằng khó kiểm soát.” Vua khen ngợi lời ấy, liền đồng ý ban thưởng đều.
(Ngày 25 mới sai Giản đi, ngày 12 tháng 8 Thẩm Quát tự ý thưởng quân trấn, cần xem xét.)
[31] Chiếu rằng: “Quân Hoàn Khánh, Kinh Nguyên đang đánh Linh Châu chưa hạ được, quân giặc vòng ra sau lưng đại quân, chặn đường lương, bản lộ không có viện binh, hiện đường sá bị cắt đứt, không thể không lo. Nay Vương Trung Chính đem quân bản bộ, trừ những người đã qua sông không đuổi về, ở Diên Châu chọn quân không theo Chủng Ngạc ra biên giới và quân Hà Đông, tổng cộng hơn ba vạn người, nhanh chóng từ Hoàn Châu, Hồng Đức Trại tiến vào, đến Vi Châu phía bắc, nếu đường thông suốt, quân giặc thua chạy, Linh Châu có thể hạ được, thì thay quân đã phục vụ lâu ở đó về, hoặc nếu lương thực thiếu thốn, thì ứng viện hai lộ quân, từ từ rút về, cốt giữ vững. Vẫn phải báo nhanh cho quân tiền. Quân của Trung Chính, trước ngày ra biên giới một ngày sẽ được ban tiền đặc chi.”
[32] Quyền Hi Hà Lan Hội Kinh lược phó sứ Lý Hạo tâu: “Lan Châu và Tây Sứ Thành giáp giới Hi Hà, Thông Viễn Quân mới thu phục, nhiều đất hoang, đã theo chiếu chỉ chiêu mộ cung tiễn thủ. Lo rằng khó đủ số ngay, xin tạm cho người khai khẩn, đợi chiêu mộ cung tiễn thủ xong thì cấp lại. Mong được nhiều lương thảo, làm giàu biên giới.” Chiếu cho Hi Hà Lộ Đô Đại Kinh chế ty xem xét thi hành.
[33] Chiếu cho Cao Tuân Dụ: “Quân lớn ở Hoàn Khánh, Phu Diên đã lâu đóng ở dưới thành Linh Châu, đường vận lương khó khăn. Lệnh cho Cao Tuân Dụ nếu đã thu phục được Linh Châu thì lập tức chia quân mở thông đường đi, nếu chưa thể phá được thì cùng với quân dân Kinh Nguyên từ đường Hoàn Châu dời doanh trại dọc theo biên giới, bàn bạc cách xử trí khác. Khi rút quân, phải sắp xếp nghiêm chỉnh, đối với quân giặc hai bên phải tiêu diệt triệt để. Đã lệnh cho Vương Trung Chính dẫn quân lớn tiếp ứng, cần phải xem xét tình hình mà thi hành.”
(Sách cũ chép ngày Bính Ngọ có chiếu cho Cao Tuân Dụ rút quân, chính là vì chiếu này.)
[34] Ngày Đinh Mùi, Bảo Văn các đãi chế Hà Chính Thần tâu: “Thần thấy triều đình gần đây vì việc đón tiễn quan viên xa xôi vất vả, đặc biệt lập pháp bổ nhiệm ở tám lộ, tính trong tám lộ thì Thục là xa nhất, người làm quan ở quê mình so với các lộ khác là nhiều nhất. Nay từ quận thủ trở xuống đều được bổ nhiệm tại chỗ, mà trong một quận, người địa phương chiếm đa số, thuộc hạ cùng quê, lại thân thuộc với dân, khó mà công bằng, dễ kết bè đảng. Xin thu hồi các chức vụ thủ, lệnh về triều đình, còn các chức khác có thể kiêm dụng người địa phương thì cũng nên hạn chế số lượng, để lâu dài không thành tệ nạn. Lại nghe nói việc bổ nhiệm ở lộ này thường không công bằng, vì địa phương xa xôi, triều đình không thể kiểm soát hết, mà những gì Thẩm quan, Lại bộ thấy được chỉ là hình thức. Xin cho tám lộ khi có chức khuyết hoặc được chỉ định, đều phải thông báo cho Ty đề điểm hình ngục, nếu có tình trạng lạm dụng, cũng cho phép kiểm tra tâu lên.” Chiếu rằng: “Việc bổ nhiệm quan ở tám lộ từ nay giao cho Ty đề điểm hình ngục mỗi quý kiểm tra, nếu có vi phạm, tâu lên. Lại báo cho Trung thư bản phòng lập pháp.” Trung thư tâu: “Việc bổ nhiệm quan ở tám lộ đã cho phép các ty khác giám sát, không cần lập pháp riêng, nay xin ban hành rõ ràng.” Theo đó.
[35] Hán tự: Phu Diên tẩu mã thừa thụ Dương Nguyên Tôn tâu: “Gần đây, chuyển vận ty điều động phu phen đến An Định, Hắc Thủy bảo để vận chuyển quân lương, nhưng chưa đến nơi, số lượng vận chuyển cũng không nhiều. Tuy có thu được một ít lương thực từ kho của phiên bộ, nhưng số lượng không đủ lớn, khiến binh sĩ đói khát và bỏ trốn. Đại quân đã tiến đến Bạch Diêm Trì ở biên giới phía tây, cách Hoài Châu chỉ hơn trăm dặm. Chủng Ngạc theo chiếu chỉ đã định dẫn quân về, nhưng lo ngại rằng quân lương do chuyển vận ty cung cấp vẫn thiếu hụt như trước.” Vua phê: “Chuyển vận sứ Phu Diên lộ Lý Tắc lo việc cung ứng quân lương thiếu sót và sai trái, lại nhiều lần tâu báo hư vọng, khiến quân sĩ trong doanh trại thiếu lương thực và bỏ trốn. Nếu không cử người thay thế chức vụ của y và giao cho Lại bộ xét xử tội lỗi, thì việc quốc gia sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Có thể lệnh cho Trung thư, Xu mật viện cùng bàn việc này.” Chiếu chỉ: “Lý Tắc giáng hai cấp, làm chuyển vận phán quan, lệnh phải hết lòng làm việc. Nếu tiếp tục sai sót, sẽ áp dụng chiếu chỉ ngày Mậu Thân tháng chín. Tuyên đức lang Trương Á Chi vốn được Lý Tắc tiến cử, nay làm việc không hiệu quả, nên bãi chức chuyển vận phán quan, lệnh trở về nhiệm sở cũ.” Á Chi điều động phu phen rất tàn nhẫn, ra lệnh cho quân sĩ giết phu phen, nhưng quân sĩ không nỡ làm, nên Á Chi dụ dỗ phiên binh giết họ. Phong Phụng nghị lang Vương Khâm Thần làm chuyển vận phó sứ Phu Diên lộ.
(Chu bản chú thích: “Việc dụ phiên binh giết phu phen trước đây không có căn cứ[4], hơn nữa, truyện của Lý Tắc đã ghi chép đủ, nên xóa bỏ.” Nay vẫn giữ lại. Triệu Khởi viết trong 《Chủng Thái Úy truyền》: “Chủng Ngạc đến Bạch Trì vào ngày 13 tháng 11, theo chiếu chỉ rút quân.” Cần xem xét thêm.)
[36] Chủng Ngạc tâu: “Những người có công đánh bại giặc Tây ở sông Mễ Chi, gồm một viên Tổng binh quan, một viên Tẩu mã thừa thụ, bảy viên Cơ nghi quan, mười người Quân chủ bạ, cùng hơn bốn nghìn quân sĩ, Hán và Phiên cung tiễn thủ đã chém được thủ cấp giặc, xin được xét thưởng.” Lệnh cho Học sĩ viện ban chiếu: “Ban thưởng cho Chủng Ngạc hai nghìn lượng bạc và hai nghìn tấm lụa, việc thưởng công sẽ thực hiện sau khi sự việc kết thúc. Dương Nguyên Tôn được thăng hai bậc, vẫn giữ chức cũ. Mục Diễn và bảy viên khác mỗi người được thăng một bậc, những người được tuyển chọn sẽ được xét thưởng theo quy định. Cấp Quang và Từ Huân được ban áo mặc. Quân chủ bạ và các quân sĩ chém được thủ cấp giặc sẽ được thưởng theo quy định.”
[37] Sai Câu đương Ngự dược viện Lưu Duy Giản đến Diên Châu ban trà thuốc cho Kinh lược phó sứ dưới quyền hành dinh trở về, truyền lệnh vỗ về tướng sĩ Hán và Phiên, và ban thưởng theo thứ bậc: Đô chỉ huy sứ cấm quân được bảy nghìn tiền, bảy tấm lụa; Đô ngu hậu trở xuống được ban thưởng khác nhau; quân sĩ dưới quyền cũng được ban một tấm lụa hoặc lụa thô.
(Việc sai Lưu Duy Giản đã ghi ngày 24.)
[38] Ngày Mậu Thân, ban chiếu: “Lệnh cho Chuyển vận ty các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh nhanh chóng chỉ đạo các châu huyện thuộc quyền chuẩn bị đầy đủ lương thảo, chi phí, vật dụng, chỗ ở, không được gây náo động, quấy nhiễu.”
[39] Lại ban chiếu: “Từ nay bãi bỏ việc đường tuyển, đường chiếm. Những người được thăng chức do có công lao thì giảm một năm khảo hạch. Những người được tuyển chọn không được chiếm dụng chức vụ theo thứ tự danh sách và phân chia lộ.”
[40] Lại ban chiếu: “Các lại viên của Trung thư, Xu mật viện chỉ được phân vào ba tỉnh, không được điều sang Lục tào. Nếu có số dư thì lưu lại để bổ nhiệm, chuyển bổ, lương bổng và các ân điển vẫn như cũ.”
[41] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Kiềm hạt Khúc Trân tâu rằng, các dũng sĩ người Phiên và Hiệu dụng từ trước đến nay lập công, triều đình ban thưởng chỉ xếp vào hàng quân viên trong tộc. Vì các dũng sĩ người Phiên và Hiệu dụng phần nhiều là người từ phương Tây đến, có danh tiếng và mạnh mẽ, một khi lập công, lại được bổ vào hàng quân viên trong tộc cũ, lại không có ruộng đất, không phải là điều họ mong muốn. Xin từ nay, nếu các dũng sĩ người Phiên và Hiệu dụng lập công ở biên giới, thì theo thứ tự như các dũng sĩ người Hán, được ban ân đến hàng Ban hành, để khích lệ mọi người.” Chiếu chỉ y theo cấp bậc của dũng sĩ người Phiên và Hiệu dụng mà thăng chuyển.
[42] Chiếu rằng: “Quân hành dinh hai lộ Hoàn Khánh, Kinh Nguyên đóng ở dưới thành Linh Châu, chưa thấy công phá, đường sá bị chặn, lương thực không thông, thêm nữa Lý Hiến tâu rằng quân phu của Bành Tôn bị giặc Tây cướp bóc, gần đây không nhận được tin tức từ hai quân, tình hình rất nguy cấp. Lại Lý Hiến nhiều lần tâu muốn trở về Hi Hà lộ để lo việc biên giới, nay quân đóng ở Thạch Môn Tử nghỉ ngơi đã nhiều ngày, lương thảo của Quách Mậu Tuấn đã đến nơi, hãy cho Lý Hiến dẫn theo ba đến năm trăm kỵ binh, lấy đường gần nhất về lộ mình, lo việc ổn định vùng đất được phân. Lệnh cho Miêu Thụ nhanh chóng dẫn tướng tá và quân lính hiện có trong hành dinh, hộ tống phu lương, mở đường tiến đến Linh Châu, cùng Cao Tuân Dụ hợp lực thu phục. Nếu Cao Tuân Dụ xét thấy cần rút quân, thì tiếp ứng theo đường tiện lợi mà về. Trước khi xuất phát, hãy sai Tẩu mã thừa thụ Nhạc Sĩ Tuyên của lộ này ban thưởng tiền, lụa, theo lệ như Lưu Duy Giản từng ban thưởng quân hành dinh ở Diên Châu khi rút quân, lệnh cho Chuyển vận ty Kinh Nguyên lộ nhanh chóng cung ứng. Triệu Tế, Trương Thái Ninh mỗi người dẫn phu lương của lộ mình, theo quân tiến lên.”
[43] Kinh lược ty Tần Phượng lộ tâu, Thông phán Tần Châu là Trịnh Dân Chiêm đến thành Cam Cốc, chiêu hàng ngụy Kiềm hạt Nặc Nhĩ Đỉnh Tá và các thủ lĩnh người Tây giới, tổng cộng hai trăm năm mươi ba người.
[44] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu rằng: “Nghe rằng từ khi quân đội dấy binh đến nay, dân chúng trong vùng Quan Nội có nhiều nơi bị thiệt thòi, lòng người hoang mang sợ hãi, nhiều nhà bỏ trốn cả nhà. Theo chỉ dụ của triều đình hiện nay, những hộ đã bị điều động phu dịch thì không phải điều động nữa, nhưng lo rằng chưa có quan lớn nào truyền đạt rõ ràng chiếu chỉ ân điển này, khiến dân chúng hoảng sợ bất an. Nay lệnh cho Lý Thừa Chi nhanh chóng đến các lộ Thiểm Tây để an ủi và tuyên cáo, những việc dân chúng khổ sở vì điều động mà không phải là việc cấp bách của quân đội, đều được miễn trừ.”
[45] Chiếu cho Lý Hiến: “Nếu ở vùng đất được phân chia thuộc Hi Hà có việc cần thân chinh xử lý, không thể giao phó cho tướng tá, thì hãy lập tức thống lĩnh binh tướng từ Miêu Thụ trở xuống nhanh chóng đến đó. Thêm nữa, ngày hôm qua Cao Tuân Dụ tâu rằng, hiện đang tập trung lực lượng tấn công Linh Châu, một mặt chia quân tiếp chiến, tuy quân giặc phương Tây nhiều lần cứu viện và giao chiến, quân ta nhiều lần thắng trận, nhưng chỉ vì sau khi đại quân rút đi, quân giặc vẫn đóng đồn chưa giải tán, việc vận chuyển lương thảo chưa thông suốt, nên cần phải nhờ vào binh lực các lộ để hỗ trợ. Nên lệnh cho Lý Hiến và các người khác biết rõ.”
[46] Trung thư tâu: “Lục sự Mạnh Thuật Cổ biên soạn các văn thư trong các phòng, tìm được sáu văn kiện về việc chuyển chức quan của Anh Tông khi còn ở phủ đệ.” Chiếu đưa đến Thiên Chương các.
[47] Thị ngự sử tri tạp sự Mãn Trung Hành tâu: “Các quan ở hai tỉnh, đài quan, văn võ bách quan hằng ngày đến Văn Đức điện đứng đối diện hai phía đông tây, một viên tể thần dẫn đầu, nghe truyền không ngồi, rồi lạy hai lần mà lui, gọi là thường triều. Gặp ngày nghỉ liên tiếp ba ngày trở lên, các quan phải vào nội điện chầu, gọi là hoành hành. Từ tể thần, thân vương trở xuống, những người phải vào chầu, tạ ơn, từ biệt, đều phải đến Văn Đức điện trước, gọi là qua chính nha. Tuy nhiên, các quan đang làm việc ở kinh thành, theo lệ được miễn tham gia; việc tể thần dẫn đầu, những năm gần đây đã bãi bỏ[5]; mà ban võ xin bảo vệ, triều đình này lại không thường đặt, nên nay những người đến thường triều, chỉ có quan Ngự sử đài và quan Thẩm quan đợi thứ bậc mà thôi. Nay ở Thùy Củng nội điện, từ tể thần trở xuống đã hằng ngày vào chầu, mà thường triều ở Văn Đức điện vẫn không bỏ, sai lầm đảo ngược, không gì bằng. Đến như việc hoành hành tham gia ngày nghỉ và việc các quan vào chầu, tạ ơn, từ biệt phải qua chính nha trước, tuy theo lệ cũ đời Đường, nhưng phải đợi ngày thiên tử ngự điện mới làm được. Các cơ quan không xin chỉ thị, chưa thể sửa đổi, mong đặc biệt ban chỉ thị, trước hết bãi bỏ[6].”
Hạ lệnh cho sở Tường định quan chế, sở này tâu: “Nay thiên tử hằng ngày nghe chính sự ở Thùy Củng, để tiếp các quan chấp chính và các quan nội triều[7], mà lại ở điện khác tuyên sắc không ngồi, thực là sai lầm do thói quen. Lại có các quan có chức sự thăng triều quan năm ngày một lần vào chầu[8], mà những người không có chức sự lại hằng ngày vào chầu[9], sự khác biệt về mức độ, càng không đúng. Lại việc từ biệt, vào chầu, tạ ơn đã vào yết kiến thiên tử, thì việc lạy đối diện ở chính nha tiền điện chỉ là hình thức. Khi gặp ngày nghỉ liên tiếp, các quan tự vào đại khởi cư, không nên lại có việc hoành hành tham gia ngày nghỉ của Trung Hành. Xin bãi bỏ thường triều và chính nha, hoành hành là phải.” Theo lời tâu.
[48] Quyền phát khiển Quảng Nam Tây lộ Đề điểm hình ngục Bành Thứ Vân tâu: “Chu Nhai, Xương Hóa, Vạn An quân nằm ở hải đảo, vốn thuộc về sinh Lê, chưa từng khai thông, thần lo ngại rằng nếu Tri châu, Thông phán Quỳnh Châu đã đến các quân đó tuần tra, thần lại đến điểm kiểm, có thể khiến người Lê hoang mang nghi ngờ. Xin đợi đến Quỳnh Châu hội bàn với Tri châu, Thông phán rồi phân công đi điểm kiểm. Ngoài ra, ngoài các châu Hải Bắc đã tuần tra, còn sáu châu chưa đến, cùng việc kiểm tra bảo đinh các huyện Dung, Quế châu, xin theo lệ sai quan đi điểm kiểm.” Chiếu rằng: “Nếu đường đến Xương Hóa, Chu Nhai, Vạn An quân hiểm trở, khó tuần tra, thì theo lời tâu; nếu có thể thân hành đến, thì theo chỉ huy gần đây.”
[49] Lâm Quảng tiến quân đến Đặc Dung Bá, Lạc Thủy Đâu, người Man cùng nhau chiếm cứ nơi hiểm yếu chống lại quân ta. Ngày hôm đó, Quảng chia quân tấn công cả mặt trước và mặt sau, chém được hơn ba nghìn thủ cấp, bắt được ấn của Vương Tuyên, Vương Cẩn Ngôn[10] khi bị giặc bắt. Giặc rất kinh hãi, gọi quân Hán là quỷ sống từ trời giáng xuống, từ đó không dám chống cự nữa, bèn tiến quân đến A Từ Trì.
(Ngày 1 tháng 12, Quý Sửu, mới đến A Từ Trì, nay gộp lại viết.)
[50] Ngày Canh Tuất, Vua phê: “Việc xây dựng thành lũy ở Thiểm Tây lộ sắp tới cần rất nhiều vật dụng, những thứ cần điều động từ kinh sư và các lộ khác, nên lệnh cho các lộ Chuyển vận, Kinh lược ty nhanh chóng liệt kê số lượng tâu lên.”
[51] Chiếu cho Thẩm Quát: “Nghe nói giặc hội quân mười hai giám quân ty tập trung ở Linh Vũ, trong ngoài chống cự quân quan. Quân ở Khánh, Vị phơi nắng dãi sương đã lâu, người đói sức mỏi, cần được quân tươi từ ngoài đến giúp sức, giết đuổi quân cứu viện của giặc, thông đường lương, chưa bàn đến lợi hại của việc đánh thành, hãy bảo toàn quân hai lộ, chỉnh đốn đội ngũ trở về nam, đã là kế sách tốt nhất. Nay Chủng Ngạc đã rút quân về biên ải, chia các tướng đóng ở Bảo An quân và các thành trại dưới quyền để nghỉ ngơi, triều đình đã cử sứ thần ban thưởng hậu hĩnh, chắc chắn có thể khích lệ sĩ khí, sớm nghĩ đến việc sử dụng. Nên nhanh chóng dụ Ngạc đến Đức Tĩnh đóng quân, thúc giục các tướng cùng đến Tây lộ nghỉ ngơi, ăn no đủ, đợi sứ thần đến, khao thưởng xong, tiếp tục dẫn quân đi về phía tây đến đường Hồng Đức, Hoàn Châu để ứng tiếp hai đạo quân lớn, cùng sức giết đuổi quân giặc đang đóng.”
[52] Ngày Tân Hợi, đặt hai trại Tắc Môn và Phù Đồ ở Diên Châu.
[53] Tháng này, bãi bỏ Biên tu viện, nhập vào Sử quán. (Theo lời tâu của Thượng thư tỉnh ngày 13 tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 5.) Hiệu khám ký.
- Xin bổ nhiệm chức vụ theo thứ bậc 'Danh' nguyên là 'Các', theo 《Tống hội yếu》 Phiên di 6-16 sửa ↵
- tám miếu từ Hi Tổ trở xuống, chữ 'tám' nguyên là chữ 'nhập', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Đều đặt vị thần ở phía trong cửa phòng, hướng nam, chữ 'nam' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 lễ 15-9 bổ sung. ↵
- Dụ phiên binh giết phu phen trước đây không có căn cứ án: Câu này khó hiểu, nghi ngờ chữ 'tiên' là sai, nên sửa thành 'phu'. ↵
- 'năm' nguyên văn là 'ngôn', theo các bản và 《Tống hội yếu》 nghi chế 4-7 sửa. ↵
- 'bãi' nguyên văn là 'đặt', theo các bản và sách trên sửa. ↵
- 'chấp' nguyên văn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 nghi chế 4-8 bổ sung. ↵
- 'sự' nguyên văn là 'quan', theo sách trên sửa. ↵
- 'lại' nguyên văn là 'và', theo các bản và sách trên sửa. ↵
- Chữ 'Cẩn' trong 'Vương Cẩn Ngôn' vốn bị thiếu, theo các bản khác và quyển 303, tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 3, các điều Mậu Thân, Kỷ Mùi bổ sung. ↵