"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 321: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 4 (TÂN DẬU, 1081)

Bắt đầu từ tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 4 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 12, ngày Quý Sửu mùng một, chiếu rằng: “Cao Tuân Dụ từ sau ngày Đinh Dậu tháng trước đến nay chưa có tấu báo, không nghe tin tức về việc tiến quân đánh trận. Lệnh cho Đặng Kế Tuyên dùng nhiều vàng lụa chiêu mộ dũng sĩ mang thư đi đường tắt đến doanh trại lấy tin tức, đồng thời dò xét tình hình hiện tại và cách bố trí quân đội rồi báo về. Văn thư cũng gửi cho Phan Định, Lưu Cận, lệnh cho họ tuyển chọn người hoặc cử người đi dò la tin tức, tiếp nhận văn thư và chuyển về.”

[2] Cùng ngày, quân của Lâm Quảng đóng ở A Từ Trì.

(Sự việc này gộp vào ngày 27 tháng trước, và ngày 18 tháng này cũng nên gộp vào đây.)

[3] Ngày Giáp Dần, Tri gián viện Chu Phục tâu: “Thần thấy ở kinh đô, việc thi tiến sĩ ở Lễ bộ được chấm điểm theo thông lệ, lấy 10 phần làm chuẩn. Từ nay về sau, xin lấy nghĩa lý và văn từ làm tiêu chuẩn cao thấp để quyết định đỗ trượt, bỏ cách chia đều theo từng kinh.”

(Bản Chu bỏ đi, nói rằng không thi hành.)

[4] Chiếu rằng: “Quân đội hành dinh Hoàn Khánh, Kinh Nguyên rút về sắp vào ải, lệnh cho Lý Hiến, Miêu Thụ không cần đi nữa, cùng về địa phận được phân để ổn định.”

[5] Ngày Ất Mão, chiếu rằng: “Nguyên là Đề điểm hình ngục lộ Hoài Nam Đông, Kim bộ viên ngoại lang Phạm Bách Lộc, Thông phán Dương Châu, Thái tử trung xá Phó Ỷ, Thiêm thư phán quan Thiệu Quang, Lâm Đán, Trần Phụng Cổ, mỗi người gia hạn khảo xét thêm 2 năm; Hữu ban điện trực Trương Tuế Nhuận phạt 2 cân đồng. Tuế Nhuận giám thuế trấn Phiền Lương, huyện Cao Bưu, có thuyền chở tre gỗ của ty Thị dịch qua trấn, lại đánh thuế, Bách Lộc lại ủy cho Ỷ xét định, nói rằng nên đánh thuế đủ, đề cử ty Thị dịch Trương Thứ Nguyên nói rằng Bách Lộc có ý cản trở pháp Thị dịch.”

[6] Chiếu rằng: “Các lộ đại quân xuất giới, tuy đều có chém giặc, thu phục thành trại, nay đều rút quân về nhập ải[1], nhưng Hưng, Linh chưa hạ được, căn bản của giặc vẫn còn, đã qua đánh dẹp, giặc ắt mưu báo thù, cần phải lo trước để ngăn chặn sự xâm lấn của chúng và bàn kế sách phá diệt chúng về sau. Lệnh cho các lộ kinh lược sứ cùng các tướng xuất giới và quan chuyển vận ty, căn cứ vào những điều mắt thấy tai nghe khi vào địa giới giặc, cùng bàn kế sách công thủ lâu dài để tâu lên, không được che giấu hoặc chỉ nói suông, khiến triều đình không thấy được sự thật.”

[7] Lô Bỉnh tâu: “Trấn Nhung quân, Hi Ninh các trại tâu rằng, sông Linh Châu vây thành, quân ta cách thành một dặm chất bao đất thành đê cao khoảng hai trượng, thành Linh Châu cao ba trượng, đều được bọc bằng chiếu có tẩm nước. Quân ta hết lương, người người tản mát, quân Hán và Phiên đầu hàng Linh Châu rất nhiều.”

[8] Ngày Bính Thìn, Hình bộ tâu: “Chuyển vận sứ Phúc Kiến lộ là Giả Thanh, phán quan là Vương Tử Kinh, đề điểm hình ngục là Lư Khâu Hiếu Trực đã cử hặc lệnh huyện Sa là Thi Văn cùng những người khác phạm tội tham nhũng, giao cho thiêm phán Tuyền Châu là Phạm Bá Ngọc cùng tra xét. Thanh và những người khác tâu rằng Bá Ngọc đã thay đổi tình tiết của Thi Văn, nhẹ tay tha tội nhân ra ngoài[2], có dấu hiệu thông đồng, ý muốn tha tội cho những người này, đã bị cách chức trước. Nay Nam Kiếm Châu lại tra xét Bá Ngọc, đều không có tội trước.” Chiếu lệnh cho Giả Thanh và những người khác phân tích tâu lên. (Sau đó, Thanh và những người khác được miễn tội do đại xá, Bá Ngọc cũng được đổi làm sai thế.) Vua nói: “Giám ty là tai mắt của triều đình, việc tra xét quan lại cần phải cẩn thận. Mỗi vụ án lớn, liên lụy nhiều người, giữa đông hè, há không có oan sai? Nếu có điều không đúng, cũng không nên nhẹ tay, để có sự răn đe.”

[9] Xu mật viện tâu: “Gần đây nhiều lần nhận được tấu của Chủng Ngạc về việc chém được thủ cấp, nhưng số người báo cáo mỗi lần không nhiều, e rằng lấy thủ cấp của những người đào ngũ, bộ lạc và người chết trên đường làm số liệu để mong được ban thưởng.” Chiếu lệnh Chủng Ngạc chỉ huy các tướng nghiêm khắc quản thúc binh sĩ, ngoài việc tiêu diệt tàn đảng, không được chặt lấy thủ cấp của những người đào ngũ và người chết trên đường; và lệnh cho Chủng Ngạc, phàm có chém được thủ cấp, phải kiểm tra kỹ lưỡng.

[10] Chiếu: “Các đô bảo ở ba lộ, trên cờ mỗi đô bảo đều ghi tên châu, phủ, huyện, cùng các hình vẽ chim thú, có thể theo thứ tự đã quy định trước đó mà vẽ hình[3], lệnh cho Ty đề cử bảo giáp chế tạo.”

[11] Ngày Đinh Tỵ, chiếu: “Đại quân của Lý Hiến đã vào biên giới phía tây trở về, lương thảo có thể cấp từ các kho trạm trên đường, những người phu đi theo rõ ràng là vô dụng. Dân chúng vận chuyển lương thảo đã lâu, nếu không kịp thời cho họ nghỉ ngơi, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng sau này. Ngươi hãy nhanh chóng xem xét và thông báo cho Ty chuyển vận, ngoại trừ những người thực sự cần thiết, còn lại đều cho giải tán, để họ về nhà yên ổn.”

[12] Ngày Mậu Ngọ, chiếu: “Nghe nói ở các châu quân thuộc các lộ Thiểm Tây có rất nhiều binh sĩ đào ngũ từ biên giới, gồm quân sương, quân cấm, hán phiền cung tiễn thủ, phiền binh, nghĩa dũng, bảo giáp, nhân phu, tuy đã có lệnh bố cáo cho họ tự trình báo, nhưng vẫn lo rằng các nơi không thể truyền đạt hết ý chỉ của triều đình, khiến những người đào ngũ chưa dám ra trình diện. Lộ Vĩnh Hưng quân giao cho An phủ sứ Lã Đại Phòng[4], lộ Phu Diên giao cho Quyền Thiểm Tây lộ đô chuyển vận sứ Lý Thừa Chi, lộ Hoàn Khánh giao cho Quyền quản câu Thiểm Tây chuyển vận sứ Tiền Hiệp, lộ Kinh Nguyên giao cho Vĩnh Hưng, Tần Phượng đẳng lộ đề điểm hình ngục Lý Ninh, lộ Hi Hà, Tần Phượng giao cho Tần Phượng đẳng lộ đề điểm hình ngục Đỗ Thường, chỉ huy các châu quân thuộc quyền, mở rộng ý chỉ chiêu dụ, hạn trong một tháng cho phép họ tự thú để được miễn tội, quân sương, quân cấm lệnh nộp khí giáp và trở về doanh trại cũ, nghĩa dũng, bảo giáp, nhân phu được phép trở về nơi thuộc quyền.”

[13] Cao Tuân Dụ tâu: “Đại quân thẳng tiến đến Linh Châu, hội hợp với hai đạo quân đến dưới thành, từ ngày Đinh Hợi cùng ra sức tấn công. Do thành Linh Châu rộng lớn, phòng thủ đầy đủ, quân giặc gần thành có đến hàng vạn, ngày đêm cùng các tướng chia nhau ra sức, vừa đánh vừa chiến, tuy nhiều lần chém được thủ cấp, nhưng thành vẫn chưa hạ được. Đến ngày Canh Tý (18 tháng 11), giặc quyết nước sông Hoàng Hà làm ngập doanh trại, khó ở lại được. Hai đạo chuyển vận ty dự tính chuẩn bị lương thảo cho một tháng, hợp với đại quân xuất chinh một tháng, vì người Khương ở Thanh Viễn quân, Vi Châu, Minh Sa Xuyên[5], Phong Hỏa Bình trở lại thường xuất quân chặn đánh đường vận lương, đường trạm không thông, quân của Bành Tôn hộ vệ lương thảo vận chuyển từ Kinh Nguyên bị giặc cướp bóc, các quân thiếu lương, quân sĩ có vẻ đói khát. Nay nếu không thống lĩnh đại quân trước tiên tiêu trừ giặc cướp bóc, làm thông suốt đường lộ, sau đó mới tấn công, e rằng quân ta sẽ mệt mỏi, thêm vào đó mùa đông ngày càng lạnh, sẽ sinh ra việc khác. Thần đã cùng các tổng quản, tướng phó hai đạo bàn định, thống lĩnh quân thông đường, đón tiếp lương thảo.”

[14] Chuyển vận ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng: “Quân hai lộ Kinh Nguyên và Hoàn Khánh tiến đánh Linh Châu không hạ được, gặp hai trận gió lớn đêm lạnh, binh sĩ chết cóng và bị thương không ít. Xung quanh thành Linh Châu vốn có ba con kênh lớn dẫn nước từ sông Hoàng Hà và các mương rãnh chằng chịt, nước tưới ruộng khoảng hai mươi dặm. Trước đây khi đại quân đi qua, các kênh đều khô cạn. Từ ngày Canh Tý, giặc phá nước sông, kênh dần đầy tràn, đất trại thấp, có nguy cơ bị ngập. Cao Tuân Dụ đã vào ngày Tân Sửu (19 tháng 11) dẫn đại quân rời khỏi chân thành, liền có quân giặc xuất hiện chặn đánh[6]. Đến giờ Ngọ, qua một con kênh, người ngựa phải lội nước; đến giờ Dậu, lại qua con kênh lớn, tuy có cầu nhỏ nhưng người ngựa chen lấn, cũng phải lội nước. Sau đó, quân Kinh Nguyên gặp đêm, dừng lại phía bắc kênh, cách trung quân một con kênh mà hạ trại. Ngày Nhâm Dần (20 tháng 11), giặc đuổi kịp hậu quân giao chiến, nước giữa hai kênh ngập và lạnh cóng, người ngựa chết khá nhiều. Đến giờ Thân, đến Nam Châu hạ trại. Tuân Dụ cho rằng quân Kinh Nguyên chở lương thảo, vàng lụa đến Nam Châu bị giặc cướp gần hết, Hoàn Khánh lại phái phu phen, lương thực đến biên giới, cũng vì đường sá khó khăn, vận chuyển không kịp, hiện đang dẫn toàn quân mở đường, tiếp ứng lương thảo.

(Theo tấu nghị của Phạm Thuần Túy, ngày 1 tháng 11, Thuần Túy đã theo chỉ triều đình đi lại tính toán việc vận chuyển lương thảo lộ Hoàn Khánh, Thuần Túy vốn đã từng theo quân vào biên giới. Tấu này hẳn là của Thuần Túy và Lý Sát cùng dâng lên, ghi chú vào ngày 11 tháng này.)

[15] Kinh lược ty hành dinh lộ Phu Diên tâu: “Ty thần đã thu phục được một dải châu trại ở Hoành Sơn, đã tùy việc vạch kế hoạch, cử quan tạm quản lý; binh mã cần thiết, hiện cũng căn cứ tình hình từng nơi mà điều phát.” Chiếu cho Thẩm Quát: “Theo lời tâu của quan thừa thụ tẩu mã ở quân tiền, kinh lược ty đã sai định binh mã người Hán và người Phiên đến Ngân Châu phòng thủ. Xét thấy châu này tuy gọi là châu, nhưng đồ phòng thủ trong thành không có gì, vừa không phải nơi có thể chế ngự giặc, lại không phải là bước tiến công sào huyệt của chúng, chỉ làm hao tổn quân mã, giữ lại để làm gì? Rõ ràng là hoàn toàn không tính toán được mất, lợi hại cụ thể, chỉ muốn thành tựu cái hư danh mở mang bờ cõi. Huống chi quân sĩ đã lâu chịu đói rét, lòng người chán nản mệt mỏi, càng nên nhân lúc này nghỉ ngơi, để đợi kế hoạch lớn dùng về sau. Có thể gấp gửi văn thư cho Chủng Ngạc, trừ những nơi như Mễ Chi, Tế Phù Đồ hoặc chiêu hàng được Ngô Bảo, Nghĩa Hợp là những nơi có đồ phòng thủ, cần sai người giữ lại, còn lại chưa được sai binh đi, chỉ theo mệnh lệnh gần đây, tất cả cho về các thành trại dễ kiếm lương thảo, đợi khao thưởng xong thì cho nghỉ ngơi.”

(Ngày 18 tháng 11, Canh Tý, cùng ngày 24 tháng này, Bính Tý, và ngày 6 tháng giêng năm sau, Mậu Tý, có thể xem xét.)

[16] Lý Hiến xin tạm về kinh bẩm báo kế hoạch đánh dẹp, chiếu rằng: “Nay quân sĩ sau khi chịu đói rét, dân lực sau khi mệt mỏi, nếu không nhân lúc này bồi dưỡng khí lực, kịp thời nghỉ ngơi, thì khi giặc giận dữ kéo đến, lấy gì chống đỡ? Ngươi nên an ủi, phủ dụ, bồi bổ toàn diện, để đợi dùng về sau. Những việc biên vụ cần bẩm báo, hãy gửi theo đường trạm trình bày chi tiết.”

[17] Ngày Kỷ Mùi, Ty Đô chuyển vận Hà Đông tâu: “Đã gửi thư cho Vương Trung Chính, đợi Trương Thế Củ đến bản lộ, sẽ bắt giam và giải về phủ Châu, giao cho Thông phán Phủ Châu là Tiền (Mục Nhuyễn) điều tra.” Vua phê: “Thế Củ đang chỉ huy quân, Ty Chuyển vận làm ồn ào như vậy, e rằng bản thân y lo sợ phản loạn, không tiện. Hãy nhanh chóng ban chỉ dụ rằng: Thế Củ tuy ngông cuồng trình bày, nhưng do trước đây có công lớn trong việc phá giặc ở Châu Hựu, đặc cách cho ngày sau lấy công chuộc tội, chỉ dụ trước đây không thi hành nữa.”

(Ngày 20 tháng 11, Thế Củ nói…)

[18] Vua phê: “Hành dinh của Cao Tuân Dụ đã đến biên giới, quân của Vương Trung Chính không cần đi nữa, hãy thu hồi mệnh lệnh gần đây, theo chiếu trước mà lần lượt trở về bản lộ. Chủng Ngạc cũng theo đó.”

[19] Ngày Canh Thân, chiếu cho Lô Bỉnh ở Kinh Nguyên: “Theo tấu của Hành dinh Hoàn Khánh, quân bản lộ đào ngũ không ít, gần như toàn quân tan rã, và binh lính đồn rằng: ‘Chúng tôi không ngại tiến đánh, chỉ lo chết đói.’ Đây là do thiếu lương thực trầm trọng. Lại nghe nói tướng quan, sứ thần bị thương cũng nhiều. Khanh hãy nhanh chóng sai người chiêu dụ, theo chỉ dụ triều đình tha tội, vẫn thu quản như cũ, lập tức cho trở lại doanh trại, và cho gia đình họ được yên ổn nghỉ ngơi, chưa được tập hợp lại. Mỗi người cấp một thạch gạo.”

[20] Đô đề cử Ty Thị dịch là Giả Thanh xin đặt bốn sở Để đương trong và ngoài thành mới cũ, cử quan chuyên trách, bãi bỏ các sở Để đương ở Thượng giới và các nơi khác của Ty Thị dịch, để tiện lợi cho dân trong ngoài. Theo lời xin.

[21] Cao Tuân Dụ tâu: “Quân rút dần đến biên giới, tạm thời đóng quân ở vùng biên xa, để yên lòng những kẻ dao động. Mong bệ hạ khoan hồng tội thần, cho thần tạm thời vào triều bàn kế hoạch tấn công.” Chiếu cho Cao Tuân Dụ: “Hành dinh do quân mệt mỏi, lương thực cạn kiệt, biết khó lòng ở lâu, rút quân về nam, chưa phải là tội lớn. Hãy tạm thời tự trách, thu xếp ổn thỏa, an ủi quân sĩ để tính kế sau, chưa nên vào triều. Nếu có việc biên cấp, hãy dùng thư dịch tâu lên. Đợi khi quân mã chỉnh tề, có kế hoạch hành động, sẽ có lệnh triệu.”

[22] Chiếu cho quân hành dinh ở Hoàn Khánh, Kinh Nguyên lộ, vốn chưa được Vương Trung Chính ban thưởng, đều được cấp tiền đặc chi; những người trước đã đào ngũ, nếu được chiêu phủ trở về thì không được cấp.

[23] Ngày Tân Dậu, Ty Kinh lược Đô tổng quản hành dinh Hoàn Khánh lộ tâu: “Quân chính binh và Hán, Phiên cung tiễn thủ của Kinh Nguyên lộ xuất giới tổng cộng 51.060 người, 5.782 ngựa; ngoại trừ những người đào tán, hiện còn quản lý 13.048 người, 3.195 ngựa.”

[24] Cùng ngày, Lưu Xương Tộ, Diêu Lân, Diệp Khang Trực trở về đến Vị châu.

(Tâu ngày 17.)

[25] Ngày Quý Hợi, chiếu cho các án của Tam tỉnh đều gọi là phòng.

[26] Hoàn Khánh lộ Chuyển vận ty tâu rằng: “Đại quân đánh Linh Châu nửa tháng, thường xuyên gặp giá rét; từ khi rời Linh Châu, ngày nào cũng có quân giặc đuổi theo cướp phá, bị giặc giết hại hơn hai ba phần mười. Quân lính dám cướp đoạt của công của tư, đến nỗi lột cả quần áo của quan quân, chôn sống họ, lại tự cắt tóc, giả làm quân Phiên để cướp đoạt tài vật; khí giới và đồ dùng quân dụng vứt bỏ đầy đồng, nhiều người đốt mũ giáp để nấu cơm, cán giáo, cán nỏ, cán tên, trống bài[7] đều dùng làm củi, binh khí mang theo thì dùng để chặt củi, không còn gì là sắc bén. Những việc này đều thuộc về quân chính, bản ty không nên can thiệp, không dám tự tiện xử lý, nếu không tâu lên kín đáo, thì tội im lặng e khó tránh khỏi.” Lại tâu rằng: “Kính nghe triều đình sai Cao Tuân Dụ dẫn quân hai lộ Hoàn Khánh, Kinh Nguyên rút về biên giới, bàn định cách xử trí khác. Thần thấy Tuân Dụ kiến thức nông cạn, hành động thường mất cơ hội, vui giận bừa bãi, thưởng phạt sai lầm, những tướng tá có công phần nhiều bị chèn ép, lòng quân không phục. Trước kia vào sâu đất giặc, hoàn toàn không chịu đánh dẹp triệt để[8] lại còn khống chế tướng sĩ, khi gặp giặc giao chiến, hạn định số bước, không cho đuổi đánh, ai vượt quá hạn định liền bị sỉ nhục trước mặt, muốn thi hành quân pháp. Vì giặc Tây khi chiến đấu, thế quân hơi yếu liền rút lui, đã không cho thừa thắng đuổi đánh, thì lẽ nào có thể thắng lớn, khiến cho thế giặc ngày càng mạnh, hoàn toàn không có thành tích gì. Nay nếu lại giao cho Tuân Dụ bàn định cách xử trí khác, e rằng cuối cùng cũng không thể đáp ứng được ý trông đợi của triều đình.”

(Ngày mùng 6 tháng này, đã có tấu chương của Hoàn Khánh Chuyển vận ty. Án: Phó sứ Hoàn Khánh Chuyển vận ty là Lý Sát, Phán quan là Phạm Thuần Túy. Tháng này, vì tội theo quân vào đất giặc bị quân Tây cướp lương thảo, Sát bị giáng làm Thừa sự lang, Thuần Túy bị giáng làm Tuyên đức lang, đều tạm quyền quản câu Chuyển vận phán quan sự, Thuần Túy xin được xếp dưới Sát, có tấu chương để khảo cứu.)

[27] Ngày Giáp Tí, chiếu rằng quân Hán và quân Phiên ở Kinh Nguyên lộ hành dinh đã vào biên giới, nên lệnh cho Lưu Xương Tộ đem quân về bản lộ, phân bố đồn trú, nghỉ ngơi, sửa chữa khí giới, vá may quần áo, an dưỡng sĩ khí.

[28] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, chọn những binh sĩ chưa từng ra khỏi biên giới, giao hết cho Vương Trung Chính. Các thành trì phòng thủ hiện đang thiếu người, nếu có việc khẩn cấp, phải điều động nghĩa dũng, bảo giáp để giữ thành, nhưng lo rằng các châu huyện sẽ sai khiến, cho họ giải tán nghỉ ngơi, khi cần sẽ không kịp tập hợp. Xin lệnh cho các quan không được sai phái, thuê mướn, chiếm dụng, nếu vi phạm sẽ bị xử theo tội làm trở ngại việc quân.” Triều đình đồng ý.

[29] Ngày Ất Sửu, chiếu ban cho Tuyên Khánh sứ, Tuyên Châu quan sát sứ, Nhập nội phó đô tri Lý Hiến, vì có công xuất quân đánh giặc, thu phục đất đai, thưởng 2.000 lượng bạc và 2.000 tấm lụa, ban sắc khen ngợi, và sẽ có ân mệnh khác.

(Ngày 5 tháng 6 năm sau.)

[30] Trước đó, Tri Xu mật viện Tôn Cố xin bãi bỏ việc xuất quân phía Tây, sau đó quân đội xuất chinh không thành công, Vua bảo Tôn Cố: “Nếu nghe theo lời khanh, chắc chắn đã không đến nỗi này.” Tôn Cố lại tâu: “Theo binh pháp, người đến sau hẹn ước sẽ bị chém. Ban đầu bàn kế hoạch năm đường quân tiến đánh, hội quân ở Linh Châu, nhưng Lý Hiến không đến, lại tự mở cuộc hội ở Lan Hội để trốn tránh trách nhiệm, việc này không thể tha, xin xử tử.” Vua không nghe.

[31] Ngày Bính Dần, Long Đồ các trực học sĩ Tăng Bố nhậm chức Tri Khánh Châu.

(Ngày 14 tháng 6 năm thứ 4, từ Thái chuyển đến Thành Đức; tháng 10 năm thứ 5, để tang mẹ. Việc này không ghi vào 《Trường Biên》.)

[32] Chiếu rằng: “Thành Tây Sứ thuộc châu Lan, Hi Hà hiện đã tu sửa và phòng thủ, nếu có chỗ nào cần tăng thêm đồn trại, thông suốt đường sá, thì lệnh cho Kinh chế khảo sát rồi thi hành. Còn những vùng đất phía đông, chưa được mở rộng thêm. Trước đây đã giáng chỉ cho Ty Kinh lược thố trí hành dinh các lộ Phu Diên, Lân Phủ, căn cứ vào bản đồ phân chia địa giới, dẹp sạch phía nam sông. Nay châu Linh chưa hạ được, nên các mệnh lệnh đó đều chưa thi hành, hãy tạm cho quân sĩ nghỉ ngơi, chỉnh đốn binh mã, đợi chỉ dụ sau. Quân mã của Ty thố trí lộ Lân Phủ, giao cho Vương Trung Chính khảo sát, phân phái đến những nơi gần đó có lương thảo để đóng quân, phòng khi cần điều động.” Quân của Trung Chính phần nhiều chiêu mộ từ các vệ cấm quân ở kinh sư, không đặt tướng hiệu, kỷ luật rất kém, cũng không có chiến công, chỉ vào châu Hựu đốt phá; lại tự cao tự đại, khinh nhờn quan lại, không thương xót binh sĩ, nên số chết vì đói rét rất nhiều.

(Từ câu “Quân của Trung Chính phần nhiều chiêu mộ từ các vệ” trở xuống, bản Chu đều bỏ, nay theo bản mới mà giữ lại.)

[33] Quyền Kinh lược ty sự lộ Hoàn Khánh là Hồ Tông Hồi tâu: “Trước đây điều động nghĩa dũng, bảo giáp bản lộ đến các nơi như châu Hoàn, châu Khánh để phòng thủ, nay đại quân đã về, xin cho họ được nghỉ ngơi.” Chiếu y theo lời tâu, lộ Kinh Nguyên cũng làm theo. Lại hạ lệnh cho hai Ty chuyển vận hai lộ, phàm dân phu phục dịch, khi nhận được chỉ dụ thì lập tức giải tán.

[34] Chiếu rằng: “Lý Hiến đang đảm nhiệm chức vụ, giao quyền lại cho Miêu Thụ, mang theo một số quan lại, nhanh chóng đi ngựa trạm, theo đường tắt đến lộ Hoàn Khánh, tham khảo ý kiến các tướng lại, trình bày rõ nguyên nhân được mất của việc đánh chiếm châu Linh trước đây, cùng phương lược chi tiết của việc thay đổi kế hoạch hiện nay, sắp xếp kế sách, khi đi qua lộ Kinh Nguyên, nếu có điều gì lợi hại, cũng nên tham khảo, rồi tự mình mang về kinh tâu lên.”

(Ngày 22, Hiến được tha tội.)

[35] Ngày Đinh Mão, xét duyệt tấu chương của các quân đoàn kết lộ Quảng Nam Đông, thể lượng biết châu Quảng là Trần Dịch sai khiến hơn 500 binh sĩ đoàn kết sửa chữa công thự, lại điều động các huyện thương thủ trong thành nạo vét sông đắp đê, mỗi ngày huy động nghìn người, việc này vừa không phải xây thành trì, lại không liên quan đến lợi ích công tư, giữa mùa đông giá rét mà khởi công, hặc tội tâu lên.

[36] Chiếu cho Đoàn luyện sứ châu Dân là Cao Tuân Dụ chỉ huy quân Kinh Nguyên, Hoàn Khánh đánh chiếm châu Linh không thành công, cùng với việc không thể tiêu diệt bè lũ giặc ngoại viện và kiểm soát Kinh Nguyên, khiến quân sĩ bỏ chạy tan rã, giáng làm Tây thượng các môn sứ, sai đi nhậm chức Tri châu Phường[9]. Tây thượng các môn sứ, Đoàn luyện sứ châu Quả là Lưu Xương Tộ, Đông thượng các môn sứ, Thứ sử châu Anh là Diêu Lân, do số lượng binh sĩ và cung thủ bỏ chạy quá nhiều, mỗi người bị giáng ba cấp, và đều được sai làm Kinh lược sứ lộ Vĩnh Hưng; Nội tàng khố sứ, Thứ sử châu Trung là Bành Tôn hộ tống lương thảo bị giặc cướp đoạt, không thể chống cự, khiến quân lính thiếu lương, được tha chết làm Đông đầu cung phụng quan, Chuẩn bị sai sứ lộ Hi Hà, sau đó thêm chức Giám đương châu Kim, lệnh cho lộ Kinh Nguyên cử người giám sát đưa đi.

(Theo mộ chí của Xương Tộ, ông làm Kinh lược sứ lộ Vĩnh Hưng, sau có chỉ dừng lại, lại làm Kinh lược sứ lộ Kinh Nguyên. Căn cứ theo 《Thời chính ký》 của Viện Mật, ngày 22 tháng giêng năm thứ 5, Xương Tộ và Diêu Lân đều đổi làm Kinh lược sứ lộ Kinh Nguyên.)

[37] Kinh lược phó sứ lộ Phu Diên là Chủng Ngạc tâu: “Khi quân trở về đến trại Tắc Môn, sai Sùng ban Tống Giới đôn đốc việc sửa chữa đã hoàn thành, tạm giao cho Thị cấm Giả Xương Vận và Đường Tông Thọ.” Y theo lời tâu, sai chờ đủ hai năm, lệnh cho Kinh lược ty bản lộ bảo đảm tâu lên, sẽ được thăng chức thưởng công; Tống Giới được giảm hai năm khảo hạch.

[38] Chiếu cho Thượng thư đô tỉnh đàn hặc các Ngự sử Lục sát xử lý không đúng việc.

[39] Ngày Mậu Thìn, ban cho Thừa nghị lang, Tri tướng tác giám thừa Ngô Xử Hậu bạc, lụa, cùng sứ thần, lại nhân bạc, lụa có sai biệt, vì đã hoàn thành việc nối cầu phao châu Hoạt. Vua nói với các phụ thần: “Sông gây tai họa đã lâu, đời sau dùng việc trị thủy nên thường gặp trở ngại. Nước chảy xuống là bản tính của nó. Dùng đạo trị thủy thì không trái với bản tính, là được. Nếu có thể thuận theo hướng nước chảy, dời thành ấp để tránh, còn lo gì nữa? Dù Thần Vũ sống lại, cũng chỉ như vậy thôi.

(Tháng chín ngày Bính Tuất, cầu phao bị hỏng.)

[40] Đông thượng các môn sứ, Văn Châu thứ sử, Phu Diên lộ kinh lược phó sứ, quyền phó tổng quản Chủng Ngạc được phong làm Phượng Châu đoàn luyện sứ, Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, sai trung sứ ban tặng một chiếc áo lông chồn, hai nghìn lượng bạc và lụa.

[41] Chủng Ngạc tâu: “Nhận được chỉ dụ phân chia địa phận, thành lũy đã cơ bản hoàn thiện, vốn thuộc quận Hán. Có các châu Ngân, Hạ, Hựu bao bọc dãy Hoành Sơn[10], nay đang tu sửa, lần lượt sắp xếp, cùng bản đồ, sai con là Hữu ban điện trực, thư tả cơ mật văn tự Phác đến kinh đô dâng lên.” Chiếu rằng Chủng Ngạc trước sau thu phục các thành trại gần biên giới, có đủ dụng cụ phòng thủ để bảo vệ, đều theo chỉ dụ đã ban, cho quân sĩ nghỉ ngơi, chờ mệnh lệnh khác. Phong Phác làm Các môn chi hậu, sai mang chiếu đi.

[42] Chiếu rằng quân mã các lộ Thiểm Tây, Hà Đông đã rút về biên giới, lo rằng giặc phương Tây sau khi quân ta rút xa, muốn nghỉ ngơi gấp, bất ngờ tấn công, thì kinh lược ty phải chịu trách nhiệm. Động tĩnh trong địa giới giặc và nơi tập trung quân mã cần phải thăm dò chính xác để phòng bị. Gần đây các lộ không có tin tức thăm dò, giao cho kinh lược ty các lộ chọn người giỏi việc thăm dò, ban nhiều vàng lụa, bắt phải thâm nhập sâu. Lại sắp xếp, đốc thúc các quan lớn nhỏ trấn giữ thành trại biên giới, từ trong đến phủ súy, ngày đêm chỉ huy binh mã, nghiêm ngặt phòng thủ, không được sơ suất, để giặc không lợi dụng được.

[43] Chiếu rằng Mã Thân, Hồ Tông Triết vì vận lương không kịp, cản trở việc tiến đánh, đã lệnh cho quyền phát khiển Tần Phượng đẳng lộ đề điểm hình ngục công sự Đỗ Thường theo chỉ dụ trước đó gông cổ tra xét, có thể theo lệ của Triệu Hàm, đặc cách miễn gông, chỉ cho tra xét bên ngoài, đồng thời bãi chức.

[44] Ngày Kỷ Tỵ, sứ thần Cao Ly là Thôi Tư Tề[11], phó sứ Lý Tử Uy cùng 135 người vào chầu, được ban tặng vật phẩm khác nhau.

[45] Triều tán đại phu Giả Thanh tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, xét tấu chương của Chu Sơ Bình, xin cho thần xem xét việc xây dựng mới châu Huy, châu Thành, chiêu nạp lại các vùng đất thuộc khe động trước đây, cùng các con đường, xa gần địa lý, đều ghi vào sổ đồ bản châu huyện, lệnh cho các huyện ấp, thành trại thường xuyên mở rộng, ở đất mới mua ruộng quan và cho phép dân chúng mua ruộng, những thứ thiếu như trâu cày, hạt giống, lương thực, cho phép kết bảo với nhau đến quan xin vay mượn. Xin đều theo như lời tâu của Sơ Bình.” Được chấp thuận.

[46] Chiếu rằng: “Các tướng súy hành dinh đều đã trở lại nhiệm sở, các chức vụ ở ty Kinh lược an phủ đô tổng quản đều giữ nguyên như cũ, không được tự ý thuyên chuyển. Quân mã các lộ đã trở về biên ải, những chức vụ tăng thêm do việc hành dinh đều giảm bỏ, nếu có việc cần thiết phải giữ lại thì tâu lên.”

[47] Tuyên khánh sứ, Tuyên Châu quan sát sứ, Nhập nội phó đô tri Lý Hiến được làm Cảnh Phúc điện sứ, Vũ Tín quân lưu hậu, nhưng việc ban thưởng bạc, lụa đều tạm ngưng. Hiến vì ổ giặc chưa dẹp xong, phong hỏa chưa yên, nên cố từ chối. Tháng 6 năm sau, ngày Ất Mão, mới ban chiếu.

(Việc Hiến từ chối ân mệnh, căn cứ theo 《Mật ký》 ghi ngày 5 tháng 6 năm thứ 5, nay phụ chép vào đây.)

[48] Mã quân đô ngu hậu, Xương Châu thứ sử Miêu Thụ làm Nghi Châu phòng ngự sứ, Điện tiền đô ngu hậu.

[49] Chiếu cho ty Kinh lược Kinh Nguyên lộ báo cáo số quân do Bành Tôn chỉ huy và số dân phu đi theo, cùng số thương vong, đào ngũ là bao nhiêu. Bành Tôn bị giáng chức, đợi báo cáo đầy đủ sẽ xin chỉ.

(Bành Tôn bị giáng chức ngày Đinh Mão.)

[50] Thái trung đại phu, Tập Hiền điện tu soạn, Đề cử Sùng Phúc cung Tôn Cấu[12] mất.

[51] Ngày Canh Ngọ, ban tiền đặc chi cho các quân hành dinh ở Lộ Châu.

[52] Chiếu cho ty Kinh lược Quảng Tây chỉ huy, từ nay nếu có chiếu mệnh ban cho An Nam, lệnh cho Khâm Châu báo cáo bản đạo, đợi khi người đến biên giới đón tiếp, mới được trao.

[53] Đại Tông chính ty tâu: “Tông thất có tên phạm lỗi, xin so sánh với quan ngoài mà xóa bỏ.” Chiếu cho phòng Lễ so sánh với thời hạn nặng nhẹ của quan ngoài mà lập pháp.

[54] Lâm Quảng đóng quân ở A Từ Trì, (ngày mùng một tháng 12), Khất Đệ sai người đem thư đến xin hàng, Quảng nhận lời. Khi quân đến đóng ở Lạc Bà Viễn, ba ngày sau, Quảng lại sai A Nghĩa và A Sinh, là những người man binh do Khất Đệ cử đến, cùng đi dụ Khất Đệ, Khất Đệ lại sai người đem thư xin hàng. Hôm sau, Khất Đệ lại sai chú là A Nhữ dâng 50 con ngựa, xin lui quân. Quảng theo lời A Nhữ, đánh trống lui bốn tướng về đóng doanh trại ở núi sau, nhưng thực chất là chặn đường về của giặc. Khất Đệ lại xin không cởi giáp, Quảng nghi có mưu khác, bèn dựng đàn cách trung quân 50 bước, và bố trí phục binh. Ngày Tân Mùi, Khất Đệ dẫn nghìn người đến xin hàng, Quảng dẫn mười mấy quân ra khỏi doanh trại để đón, Khất Đệ giấu nỏ dưới áo cừu, do dự không chịu tiến lên tạ ơn, Quảng liền cho phục binh xông ra đánh, giặc tan vỡ chạy tán loạn, chém A Nhữ và 28 tù trưởng, chặt đầu hơn 300 người[13], thu được ngựa, khí giới cùng các sắc lệnh ban cho cha con Khất Đệ, và ấn châu Quy Lai. Ở sông Nạp có hai cây cầu, em Khất Đệ là A Tự cưỡi ngựa của Khất Đệ qua cầu trên, Vương Quang Tổ cùng con đuổi theo, A Tự rơi xuống nước, bị chém. Quân sĩ tưởng là Khất Đệ, tranh nhau lấy xác, có người được vòng vàng đeo cổ[14], vì thế Khất Đệ mới có thể chạy thẳng xuống cầu dưới mà trốn thoát.

(《Tân Kỷ》 chép: “Ngày Tân Mùi, Quảng đánh bại Khất Đệ ở sông Nạp.” 《Cựu Kỷ》 không chép.)

[55] Ngày Quý Dậu, quan Thư Thiện đi xem xét và kiểm kê đê phòng sông Hoàng Hà tâu rằng: “Xét việc Lý Lập xin dùng vật liệu hiện có ở đoạn sông cũ phía dưới chỗ vỡ đê Tiểu Ngô, sai sứ thần tuần phòng cây du liễu, lại xin tăng thêm đập An Dương ở sông Chương thuộc Tương châu. Nay xét thấy đoạn sông cũ đã bỏ hoang, chiếm dụng sứ thần và binh lính vô ích, xin hạ lệnh cho chuyển vận ty chỉ đạo các phủ, châu, huyện để chờ đô thủy giám sử dụng; nếu địa phương xa xôi khó vận chuyển, giao cho chuyển vận ty bán đi, lấy tiền ứng phó việc phòng đê. Đập An Dương nên tăng thêm.” Đều được chấp thuận.

[56] Vua Cao Ly gửi thư cho thân vương và hai phủ. Chiếu rằng: “Thổ vật của thân vương và hai phủ[15], cho phép nhận nhưng không trả lời, chỉ dùng thư cảm tạ[16]. Các thần liêu trả lời thư Vua Cao Ly, sai Trứ tác lang Lâm Hi soạn thảo dâng lên, gửi đến Ngự thư viện, viết trên giấy tốt giao cho sứ giả mang về.”

[57] Châu Hoạt tâu rằng, dịch quán mới xây cho sứ Liêu đã đề tên là “Vũ Thành”, chiếu đổi thành “Thông Tân”.

[58] Ngày Giáp Tuất, chiếu rằng nay sắp xếp ty Địch tiện và ty Tu thương ở Hà Bắc, hạn trong ba năm phải hoàn thành.

(Có thể xem ngày 11 tháng 2.)

[59] Thị ngự sử tri tạp sự Mãn Trung Hành tấu: “Từ nay về sau, quan đương nhiệm không được xin phân ty; những người đã phân ty, đợi đủ hai năm, đều bắt buộc ngừng việc và bãi chức.” Chiếu rằng quan phân ty hiện tại ba năm thì bãi, từ nay về sau không được phân ty nữa.

(Theo chiếu ngày 3 tháng 3 năm Đại Quan thứ 2 thêm vào, thực lục ghi ngày Mậu Thìn. Ngày 22 tháng 5 năm Thiệu Thánh thứ 2, Quách Tri Chương lại tâu. Ngày 20 tháng 3 năm Đại Quan thứ 2, định thành luật.)

[60] Chuyển vận phán quan Quỳ Châu lộ là Tịch Nhữ Minh tâu rằng: Đã chiêu mộ được chỉ huy sứ nghĩa quân là Cúc Nãng Nhị, bắt được tên giặc Mộc Bát đã bắn chết Ngụy Tòng Cách, xin ban thưởng hậu hĩnh. Chiếu phong làm Tam ban tá chức, đợi khi bắt được Mộc Cầm Đại sẽ thăng làm Phụng chức, sung chức Tuần kiểm ở biên giới.

(Ngày 27 tháng 8, lại ngày 16 tháng 7 năm thứ 5, và ngày 4 tháng 6 nhuận năm thứ 6.)

[61] Kinh chế ty Đô đại Hi Hà lộ xin bổ nhiệm quan chức ở Lan Châu. Chiếu lấy Tứ phương quán sứ, Phó tổng quản Hi Hà lộ kiêm Tri Hà Châu là Lý Hạo làm Tri Lan Châu, đợi khi tu sửa xong Hội Châu sẽ bổ làm Phó sứ Kinh lược an phủ Lan Hội; Phụng nghị lang Tôn Lộ làm Thông phán Lan Châu; Lạc uyển sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân là Vương Văn Uất và Cung uyển sứ Miêu Lý làm Phân binh quan Hi Hà lộ. Thành Tây Sứ được ban tên là Định Tây thành; các nơi Củng Ca quan, Kham Cốc bảo, Sở Lũng thành đều đổi làm trại.

(《Thời chính kỷ》 chép: Củng Ca quan không được ban tên mới. Củng Ca cần xem xét lại. Năm Nguyên Phong thứ 6, đổi Củng Ca quan làm Đông Quan bảo.)

[62] Lý Hiến tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, phân tích việc chưa được xử lý xong đã vội về bản lộ, vì lương thảo cấp bách, không thể ở lại lâu, nên đã dần dần đón tiếp vận chuyển lương thảo, xin được khoan hồng.” Xu mật viện kiểm tra lại chỉ dụ đã ban, lệnh cho Lý Hiến đến Hoàn Khánh và Kinh Nguyên lộ tham khảo kế sách, bàn kỹ lợi hại, tự mình mang theo đến kinh đô. Chiếu cho Lý Hiến ra sức lập công để chuộc tội.

(Chỉ dụ đã ban là ngày 14 tháng này.)

[63] Lại có chiếu: “Quân các lộ đã vào biên giới nghỉ ngơi, tất cả những người quy thuận, chiêu hàng, bắt được từ bộ lạc phương Tây trước đây đều phân bố ở các thành trại gần đó, lo rằng trong số họ có kẻ gian trá, làm nội ứng, hoặc biết được cách bố trí lương thảo của quân ta, bỏ trốn làm hướng đạo cho giặc. Lệnh cho các lộ Kinh lược ty nghiêm khắc yêu cầu các sứ thần, phiên quan, thủ lĩnh ở thành trại thường xuyên kiểm soát, đề phòng. Những thủ lĩnh đã được bổ chức, khi có việc sai phái, phải tham khảo ý kiến của quan chức người Hán.”

[64] Ngày Ất Hợi, làm lễ đạm tế, các tể thần Vương Khuê dâng biểu xin được nghe nhạc, chiếu không cho phép. Từ đó dâng năm biểu, mới theo.

[65] Ngày Bính Tý, Vua phê: “Người họ Ngô ở nhà Thánh Từ Quang Hiến mặc tang phục theo con vào chầu, Tụng được làm Đồng phán Quân khí giám, Bình được làm Tri Thẩm quan Tây viện, Chí được làm Câu đương Hoàng thành ty, Dụ được làm Đề điểm Lễ Tuyền quán.”

[66] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Tuần kiểm Trương Xán nói: ‘Bên kia sông trong trại Ngô Bảo giới Tây gọi rằng: Tướng thứ tư Phu Diên là Cao Kiềm hạt đã thu phục trại Ngô Bảo, cần một hai chiếc thuyền để chuyển đệ văn thư.'”

Chiếu cho Chuyển vận ty Hà Đông tăng thêm nhiều để phòng việc qua sông.

[67] Chiếu rằng: “Sắp tới lại đánh giặc Tây, từ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh chọn đường tiện đến Linh Châu, nên ở hai bên đường quân đi, xây khoảng mười lăm tòa thành, đặt đồ phòng thủ, tích trữ lương thảo. Đã sai Lý Thừa Chi làm Đô chuyển vận sứ lộ Thiểm Tây kiêm Đề cử việc quân nhu các lộ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, lấy tiền vật các châu quân Thiểm Tây và vật phẩm xuất ra, cùng tiền vật các ty phân đến các lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng dùng vào việc xây dựng. Việc xây thành giao cho Diệp Khang Trực, Phạm Thuần Túy, Lý Sát mỗi người lo liệu nhanh chóng. Nếu dùng nhân phu, chưa được điều phát, phải tâu trước.”

[68] Ngày Đinh Sửu, tăng nước Đại Thiên Trúc Tây Thiên là Già La Già Đa xin tuyên lấy các bức họa danh sơn, bách hoa và ngựa ở các nơi đã đi qua. Chiếu cho nộp ở ty Nội Đông Môn.

[69] Vua phê: “Người họ Ngô ở ty Thiết trước kia hầu hạ Chương Huệ Hoàng thái hậu, từ đầu niên hiệu Cảnh Hữu, tiếp tục hầu hạ Thái hoàng thái hậu, đã gần năm mươi năm, có thể đặc cách thăng lên chức Thượng Lữ.”

[70] Ngày Mậu Dần, Vua Liêu sai Ninh Xương quân Tiết độ sứ Tiêu Phúc Toàn, Thái thường Thiếu khanh, Càn Văn các Đãi chế Trịnh Chuyên đến chúc mừng ngày Chính đán.

[71] Chiếu cho Thẩm Quát trình bày số lượng binh mã chính xác còn sống và chết khi vào biên giới[17]để tâu lên, không cho các tướng tăng giảm, làm sai lạc việc thưởng phạt của triều đình.

[72] Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu: “Hữu thị cấm Lỗ Phúc[18]theo Bành Tôn đến Minh Sa Xuyên gặp giặc, đánh ba trận, bị trọng thương, xin ban ơn đặc biệt.” Vua phê: “Phúc gặp nguy hiểm vẫn dũng cảm chiến đấu, bị trọng thương, trong hàng sứ thần thật hiếm có, có thể thụ chức Cáp môn chi hậu, ban trăm tấm lụa, để khích lệ sĩ khí.”

[73] Chiếu cho Lý Hiến: “Được xem sách lược biên phòng của khanh tâu lên, tốt không gì hơn. Khanh không cần đến Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, hãy mang sách lược này về kinh, đợi gặp mặt, sẽ dặn dò chi tiết.” Hiến tâu:

[74] Trước đây các lộ đều đem quân một đạo ra khỏi biên giới, thế quân đã phân tán, giặc đã biết rõ hư thực. Nếu sau này lại xuất quân, cần hợp binh các đạo, đánh vào chỗ giặc nhất định phải cứu, khiến chúng không thể lường trước. Nếu hợp binh một đạo, sẽ có nhiều lợi ích, nếu vẫn chia đường như cũ, thì lợi đều thành hại. Sách lược hiện nay, cần hợp binh ở Kinh Nguyên cùng tiến công, từ Hi Ninh Trại tiến lên đặt đồn lũy, thẳng đến Minh Sa Thành, làm nơi đóng quân. Như vậy, Linh Châu không đánh cũng tự hàng, sào huyệt giặc ngoài sông nhất định sẽ bị tiêu diệt.

[75] Vì Minh Sa Thành phía tây khống chế cửa Linh Châu, lại chiếm thượng du, phía bắc giáp sông lớn, đối diện với Linh Vũ. Thần xem đất cũ Hà Nam, chỉ từ Lan Hội đến Linh Châu là đồng bằng rộng rãi, đất đai màu mỡ. Nay kho lương của giặc ở Lan Châu đều bị quân ta khai thác, còn lại không nhiều. Nếu nay khống chế cửa sông, chiếm thượng du, cùng xuất quân tinh nhuệ tiêu diệt, khiến giặc không thể cày cấy thu hoạch, thì kho lương vùng Linh Châu đã cạn, lại không có mùa màng, bè lũ giặc tan rã, đó là lợi ích thứ nhất.

[76] Từ trại Hi Ninh đến thành Minh Sa khoảng hơn bốn trăm dặm, có thể đặt hơn mười đồn bảo, nhân thời cơ tiến hành xây dựng, thì từ Thiên Đô đến Hội Châu đều nằm trong vùng trọng yếu, các bộ lạc ở đó, đã có thế bảo hộ, tất sẽ đều quy phụ, đó là lợi ích thứ hai.

[77] Phía bắc đối diện với Linh Vũ, thẳng tiến đến sào huyệt giặc, khoảng cách không còn xa. Thêm vào đó, Hưng Châu vốn không có thành lũy, đợi đến mùa đông sâu, sông đóng băng, xem xét rõ hình thế giặc, liền xuất quân ở phía Linh Châu, chọn nơi có địa lợi, dụ giặc đến, hợp lực tiêu diệt, sau đó thừa thắng chia quân tiến lên phía bắc đến Linh Vũ, đó là lợi ích thứ ba.

[78] Thần xem xét việc Phu Diên tiến công, mỗi lần đến Cát Na, tuy nói là khắc phục, nhưng thực chất chỉ đến một lần rồi thôi. Bởi vì quan quân đã rút đi, bọn giặc lại theo dấu đến ở, với việc không tiêu diệt thì thực chất không khác gì. Nếu chưa chiếm được Hưng, Linh, thì những vùng đất đã khắc phục ở Hoàn Khánh, Phu Diên, dù có đình chướng bao quanh, phong hỏa bày khắp, cũng khó mà phòng thủ. Bởi vì hai nơi này đất nhiều cát, xưa gọi là biển khô, không thể trồng trọt, xây dựng thành lũy, phải vận chuyển từ trong ra. Triều đình đang muốn giảm bớt sức dân, nếu các lộ cùng xây dựng đồn bảo, không chỉ tài lực càng kiệt, mà còn sinh thêm loạn. Vì thế tính toán, trước hết tiến quân ở Kinh Nguyên, có thể làm khốn đốn giặc, đó là lợi ích thứ tư.

[79] Linh Châu dùng nước tưới ruộng, bốn phía đều ngập bùn, mùa xuân hè không thể tiến quân, đến giao mùa thu đông, đất đóng băng mới có thể đi lại, lại thêm thành trì kiên cố có phòng bị, rất khó công phá. Thần cho rằng muốn phá được Hưng Châu và Linh Châu, trước hết phải tính toán tiền bạc, cỏ khô và lương thực ở Kinh Nguyên, sau đó sai bốn lộ Hà Đông, Phu Diên, Hoàn Khánh, Hi Hà giả vờ tiến công, mỗi lộ chọn một hai vạn bộ binh, năm bảy ngàn kỵ binh, riêng Hi Hà chọn năm sáu ngàn phiên binh dũng mãnh, để phòng khi thay đổi hiệu lệnh và trang phục, đánh úp quân địch bất ngờ. Những binh mã không thuộc hành dinh cũng lệnh cho các lộ tập hợp lại, thường xuyên chuẩn bị chiến đấu, để thay phiên nghỉ ngơi và ứng cứu khi cần. Bốn lộ chọn binh, hợp với quân Kinh Nguyên thành mười vạn. Trước tiên từ trại Hi Ninh tiến công[19], xây đồn ở cửa Mộc Ngạnh để dụ địch, thần đoán quân Hạ thấy quân Kinh Nguyên và Hoàn Khánh không có công trạng gì, ắt sinh lòng khinh thường, nếu chia quân hợp kích, nhất định có thể dẹp yên. Sau đó tiến đến Thiên Đô xây đồn, tiếp cận thành Minh Sa, đợi sông đóng băng thì vượt sông về phía bắc, đánh vào sào huyệt của giặc. Như vậy, có thể vận chuyển qua lại, không cần huy động phu dịch các lộ, đường lương không lo bị cướp phá, đó là lợi ích thứ năm.

[80] Thần từ khi đến Thạch Môn, xem xét việc bố trí của hai lộ, thấy có nhiều sai lầm, biết chắc không có ích gì, nhưng xét tình hình binh lực của bản ty, lại khó có thể lập công, cân nhắc tình thế, cần phải tính toán việc tái cử, bèn dựa vào những điều mắt thấy tai nghe về lợi hại, vạch ra kế sách này. Văn từ không thể diễn đạt hết, xin cho thần được về kinh, tận mặt trình bày kế hoạch, và nói rõ những tác hại của việc tiến quân ở các đạo. Trước đây, Hiến đem quân Hi Hà, Tần Phượng đánh chiếm được Lan Châu và thành Tây Sứ, dâng tấu công lao của các tướng, xin xây Lan Châu làm thủ phủ, lấy Trấn Đao làm quận. Chiếu cho Hiến căn cứ vào tình hình quân sự hiện tại để tu sửa hoàn chỉnh, làm nơi đóng quân[20], cùng hợp lực với các quận ở Hà Nam. Nhưng Hiến đóng quân ở Lan Châu không tiến, nhiều lần viện cớ lương thảo không đủ, thuyền bè chưa chuẩn bị xong. Đến khi quân Kinh Nguyên, Hoàn Khánh mệt mỏi ở Linh Châu, thúc giục Hiến đến cứu viện, lại không thể đi. Sau đó, quân các lộ tan rã trở về, Vua thấy Hiến có công ở Lan Châu, tha tội không giết, sai tính toán việc tái cử. Hiến tự thấy mình là người duy nhất vi phạm lệnh cấm ngày Canh Dần tháng bảy, bèn dâng kế sách tái cử, hy vọng che lấp tội trước. Vua cho là phải, nên sai về kinh.

(Năm sau, ngày 5 tháng 6, 《Thực lục》 mới chép việc này, nói rằng Hiến dâng kế sách tái cử vào tháng 12 năm trước. Nay đưa vào sau chiếu cho Hiến về kinh[21]. Trương Thuấn Dân trong 《Chí Lưu Xương Tộ mộ》 viết: “Triều đình muốn tái cử, từ Trấn Nhung quân, Hồ Lô Hà xuyên xây 15 đồn, tiến đến Linh Vũ.” Ở đây nói từ trại Hi Ninh tiến xây[22], thẳng đến thành Minh Sa, địa danh khác nhau, cần xem xét. Trại Hi Ninh ở phía bắc Trấn Nhung quân 35 dặm.)

[81] Ngày Canh Thìn, chiếu cho các ban trực, tứ quân trên không được chọn người từng có tội đã cải tạo.

[82] Ngày Nhâm Ngọ, đặt trại Nghĩa Hợp ở Diên Châu.

[83] Mùa đông năm đó, quan phán phủ Hà Nam là Văn Ngạn Bác dâng sớ tâu rằng: “Thần nghe nói gần đây quân Tây tiến ra biên giới, giữa chừng dừng lại rồi rút về, tướng sĩ dưới quyền phần nhiều đói rét, tan rã, vì ngại đông người nên không thi hành quân pháp. Nay lại muốn xuất quân lần nữa, lấy gì để khích lệ quân sĩ? Lại nữa, việc vận chuyển lương thực đường xa, bị cướp bóc nhiều, quan lại và dân phu bị chết đuối không ít, e rằng tướng biên thù sợ tội, không dám tâu bày đầy đủ sự thật, các quan bàn luận cũng do dự, không dám tâu rõ ràng. Lão thần mang ơn sâu của bệ hạ, nếu lại không nói, ấy là phụ quốc, kính mong bệ hạ xét kỹ. Việc xuất quân của triều đình, ắt có tướng biên thù và mưu thần khởi xướng, không xem xét kỹ, để lầm đại kế, kính mong bệ hạ xét. Nếu không trách phạt nghiêm khắc, thì không thể khích lệ người sau.”

Lại tâu: “Thần nghe nói sau khi dùng binh ở Thiểm Tây, của cải công tư phần nhiều hao tổn, trai tráng vận lương theo quân, lúa mạch mùa hạ phần nhiều không gieo trồng. Đại quân tuy đã rút về, nhưng việc phòng bị biên giới không thể lơ là. Thần lo rằng về sau quân dân thiếu lương thực, khi cấp bách không có kế sách gì, nên xin bàn về chuyện cũ thời Hán, Đường, chuyển vận đường thủy bộ để phòng khi thiếu thốn. Thần giữ chức ở biên thùy, gần đây nghe nói giá lúa mạch ở Kỳ, Ung đã tăng cao, nếu đến sau xuân, ắt nhiều người bỏ trốn; lại nghe nói dân chúng Quan Thiểm trước đây bị điều động ứng phó quân sự, không tiếc sức lực, sau khi chết chóc, đã rất mệt mỏi, đều mong đợi ân điển. Nếu thuận theo mùa xuân, ban bố ân xá, miễn giảm thuế má, hoặc mở rộng đến các quận Hà Đông, ấy thực là việc làm đức lớn của bệ hạ. Lại mong bệ hạ sớm hạ chiếu cho các quận, nghiêm ngặt tuần tra, chuyên tâm phòng thủ, dưỡng uy luyện quân, cứu giúp dân chúng bị thương tật, việc cần làm hiện nay không gì hơn thế. Thần mang ơn sâu, lo nghĩ điều gì, không dám im lặng.”

Lại tâu: “Gần đây nghe quân Tây đã rút về, trong ngoài chỉ biết tạm thời nghỉ ngơi, mà chưa có chỉ dụ giải giáp phân đồn, lòng người lo lắng nghi ngờ, đều sợ quân triều đình ắt sẽ xuất quân lần nữa. Lão thần mang ơn nước sâu, nghĩa cùng vui buồn, tóc răng đã như thế, không còn mong cầu gì, chỉ có lòng thành muốn báo đáp, không thể im lặng, xin vì bệ hạ nói ra. Thần thấy từ khi bệ hạ lên ngôi, tuyển chọn tướng hiệu, huấn luyện quân sĩ, sửa chữa khí giới, dự trữ lương thực, đều là việc trí tuệ chúng nhân không nghĩ tới, đời gần đây chưa từng có. Gần đây người Hạ hôn loạn, tự chuốc lấy thiên thảo, bệ hạ uy nghiêm sai tướng xuất quân, đánh kẻ có tội. Quân đi đến đâu, tin thắng trận dâng lên liên tiếp, tuy chưa thể phá được sào huyệt, bắt sống Vua chúa, nhưng quân đi có kỷ luật, gặp địch là thắng, người Khương chạy trốn, không dám đối đầu với uy phong lẫm liệt. Uy trời thần vũ, làm chấn động bốn phương, chiến công nhiều, đời gần đây chưa từng có. Nhưng nhiều lộ tiến quân, động viên đại chúng, trải qua nhiều tháng, vận chuyển lương thực không ít, dân chúng các lộ mệt mỏi vì cung cấp, tướng sĩ hết lòng trung thành, vì triều đình không tiếc thân mình, chết chóc gian nan, chịu rét chịu khổ, cực nhọc vô cùng.

Thần cho rằng uy quốc đã chấn, sức tướng sĩ cũng đã cạn, dân chúng cung cấp cũng đã kiệt, kế sách của bệ hạ hôm nay, chính là an ủi tướng sĩ, yên ủi dân chúng, xoa dịu nỗi đau, chữa lành vết thương, để họ được nghỉ ngơi, giữ gìn uy vũ, để giữ vững thắng lợi trước đây. Như thế, thì ngoài đủ để răn đe lân bang mạnh, trong đủ để yêu thương quân dân, ấy là phúc lớn vô cùng của xã tắc. Nay nếu quân sĩ tạm rút về rồi lại xuất quân, khí thế đã suy lại phải cổ vũ, sức dân đã kiệt lại phải điều động, các lộ tiến sâu mà vận chuyển lương thực càng xa, như thế, thì thắng bại của quân ta e chưa biết thế nào, mà công lao trước đây có thể mất, ấy là nỗi lo lớn của thiên hạ. Lại nữa, thần ở Lạc Trung, cung cấp quân nhu cho Thiểm Tây không ít, cũng nghe nói việc Thiểm Tây khá rõ, đều nói dân chúng đã lưu lạc, giá lúa đậu tăng cao[23], mùa đông năm nay lúa mạch phần nhiều không gieo trồng, sắp đến mùa xuân việc nông bắt đầu, lại phải điều động không ngừng, e rằng ứng phó không kịp, làm lỡ đại kế.

Thần không nói thì ai sẽ nói? Kính mong bệ hạ lấy thiên hạ làm mực thước, lấy dân chúng làm tâm, không nên lấy việc tiêu diệt hết kẻ thù rồi mới coi là công lao, hãy nhanh chóng ban chiếu rút quân, phân bố đóng quân ở các nơi, để triều đình vừa ban ân vừa thi hành uy quyền, quân dân hòa hợp, với tình hình rối loạn của tiểu Khương như thế này, có thể ngồi yên chờ chúng tự diệt vong, thần vô cùng mong mỏi! Lại nghe nói dân phu vận chuyển lương thực ở Thiểm Tây, Hà Đông, tuy tốn kém không ít, nhưng số người bỏ trốn rất nhiều, thậm chí có cả quan coi dân phu cũng bỏ trốn, e rằng không ai dám tâu bày rõ ràng. Sách binh pháp nói rằng người giỏi dùng binh thì không bắt dân phục dịch hai lần, lương thực không vận chuyển ba lần.

Thời Xuân Thu, Chiến Quốc, việc dùng binh phần lớn ở Trung Hạ, nên quân đội có thể dựa vào lương thực tại chỗ, không cần vận chuyển xa, khác với tình hình hiện nay là phải vận chuyển lương thực sâu vào vùng sa mạc ngoài biên ải. Kinh Dịch nói rằng Cao Tông đánh Quỷ Phương, ba năm mới thắng, tiểu nhân không nên dùng. Đến cả bậc thánh đế đánh Quỷ Phương còn phải ba năm mới thắng, lý lẽ là không thể vội vàng.”

Lại nói: “Quân chính trực, dùng người lớn tuổi thì tốt.” Người lớn tuổi là cách gọi nghiêm trang, dùng họ thì tốt; tiểu nhân không nên dùng, dùng thì không có công, không có công thì có tội. Kính mong bệ hạ chọn người cầm quân, nếu là kẻ liều lĩnh chỉ cầu may mắn để lập công, thì không nên dùng. Thần già yếu mắt mờ, cố gắng tự tay viết tờ tấu này, rất sợ không cẩn thận, kính mong bệ hạ thương xét xem xét. Thần cũng không dám gửi theo đường dịch trạm, sợ bị lộ không đến nơi, kính cẩn sai cháu trưởng của thần là Thừa sự lang Vĩnh Thế mang đến ty Thông tiến để dâng lên.”

(Chiếu đáp vào ngày 25 tháng 2 năm sau.)

[84] Năm đó, đặt huyện Cảm Ân thuộc quân Xương Hóa, trại Kham Cốc thuộc châu Lan[24], hai đồn Đông Quan và Cao Lan. Châu Tần mưa lớn, làm hư hỏng nhà cửa. Phủ Phượng Tường và các châu Phượng, Giai bị đói. Phía bắc sông Hoàng Hà bị lụt, triều đình cử quan đến cứu tế.

(《Thập triều cương yếu》: Năm đó, số lượng bảo đinh trong phủ giới và ba lộ lên đến sáu mươi chín vạn người.)


  1. Nay đều rút quân về nhập ải, 'ải' nguyên là 'trại'. Căn cứ vào đoạn văn trên trong quyển này, ngày Giáp Dần có ghi 'Hoàn Khánh, Kinh Nguyên hành dinh rút quân về nhập ải', nên chữ 'trại' ở đây rõ ràng là sai, nên sửa lại.
  2. Nhẹ tay tha tội nhân ra ngoài, 'nhân' nguyên là 'nhập', căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  3. Hình vẽ 'thức' nguyên bản là 'thuyết', theo bản trong các kho sách mà sửa.
  4. Lã Đại Phòng 'Lã' nguyên bản là 'Lý', theo bản trong các kho sách và 《Tống sử》 quyển 340, truyện Lã Đại Phòng mà sửa.
  5. Minh Sa Xuyên, chữ 'Xuyên' nguyên là 'Châu', theo các bản và 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 15, Chủng Ngạc kiến nghị đại cử sửa. Dưới đây cũng vậy.
  6. Tức có quân giặc xuất hiện chặn đánh, chữ 'chặn' nguyên là 'tập', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  7. 'Trống bài' nguyên văn là 'bành bài', căn cứ theo 《Thái Bình trị tích thống loại》 quyển 15, Chủng Ngạc kiến nghị đại cử sửa lại.
  8. 'Triệt để' nguyên văn là 'thống hành', căn cứ theo các bản khác và sách trên sửa lại.
  9. Châu Phường nguyên là 'Phòng', căn cứ theo quyển 322 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng giêng ngày Tân Sửu và sách trên sửa lại
  10. Châu Ngân, Hạ, Hựu, chữ 'Ngân' nguyên bản là 'Ninh', theo bản khác sửa lại.
  11. Thôi Tư Tề, chữ 'Tư' nguyên bản là 'Ân', theo bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 sửa lại.
  12. Tôn Cấu, nguyên bản chép là 'Tôn Giác', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 331, bản truyện sửa lại.
  13. Chặt đầu hơn 300 người, 'chặt đầu' nguyên bản là 'hặc', căn cứ theo 《Thái Bình Trị Tích Thống Loại》 quyển 17, Thần Tông bình Quy Lai Châu man Khất Đệ sửa lại.
  14. Được vòng vàng đeo cổ, 'cổ' nguyên bản là 'đỉnh', căn cứ theo các bản và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 88, Thảo Lô Châu man sửa lại.
  15. 'thổ' nguyên là 'thượng', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 sửa lại
  16. 'chỉ' nguyên là 'thả', theo các bản và 《Trưởng biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 sửa lại
  17. Số lượng binh mã chính xác còn sống và chết khi vào biên giới, chữ 'tắc' nguyên bản là 'trại', căn cứ theo các điều Giáp Dần, Giáp Tý, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Giáp Tuất trong quyển này sửa lại.
  18. Hữu thị cấm Lỗ Phúc, chữ 'Lỗ' nguyên bản là 'Lộ', căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 binh 18/9 sửa lại.
  19. Trước tiên từ trại Hi Ninh tiến công 'Tự' nguyên bản là 'Thị', căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 binh 28-26 sửa lại.
  20. nơi đóng quân 'đóng' nguyên là 'chủ', theo 《Tống hội yếu》 binh 28-25 sửa
  21. Nay đưa vào sau chiếu cho Hiến về kinh 'đưa' nguyên là 'nhiều', theo nghĩa văn sửa
  22. trại Hi Ninh 'Ninh' nguyên là 'Hà', theo văn trên sửa
  23. giá lúa đậu tăng cao 'Dũng' nguyên là 'Dũng', theo các bản và văn trên sửa lại.
  24. Trại Kham Cốc, chữ 'Trại' nguyên bản là 'Tắc', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 87, phần Địa lý chí sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.