VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 324: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 5 (NHÂM TUẤT, 1082)
Bắt đầu từ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 5 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 3, ngày Ất Dậu (4/3), xuống chiếu: “Những người trước đây ứng mộ theo Vương Trung Chính xuất chinh, là các đại bảo trưởng của Khai Phong phủ, tuy chưa từng lập công, nhưng mỗi người đều được thăng một bậc, để khích lệ trăm họ, khiến ai nấy đều vui vẻ tham gia chiến đấu vì việc công.”
(Ngày Ất Dậu, 4 tháng 3.)
[2] Ty Kinh chế đô đại Lộ Hi Hà tâu: “Trước đây căn cứ theo báo cáo của Lý Hạo, có bộ lạc mới quy thuận là Ma Lăng (口夌) nói rằng: ‘Phía bắc sông Hoàng Hà có nhà thân gia của Ma Lăng (口夌) là Ông Lý Na Một Tang, gồm 15 người, đang kêu gọi, xin được thuyền qua sông.’ Lý Hạo liền sai Đông đầu cung phụng quan Tôn Hi đi đón tiếp, không ngờ quân Tây tặc dùng kế lừa gạt, bắt giữ Tôn Hi cùng hai binh sĩ hầu cận. Lý Hạo hành động khinh suất, không lo tính trước, mong được phép cho ty này điều tra xử lý.” Triều đình đồng ý.
(Ghi chép mật về sự việc ngày 4 tháng 3, có thể tham khảo thêm ngày 19 tháng 3 và 12 tháng 6.)
[3] Đề cử thường bình sự Lộ Giang Nam Tây Lộ Lưu Nghị tâu: “Nghe nói dân chúng dọc đường xôn xao, lấy việc bán muối làm điều lo ngại. Mong bí mật cử trung sứ đi thăm dò tình hình thực tế, thay đổi một chút pháp lệnh để thuận tiện cho dân.” Triều đình xuống chiếu cho Đề điểm hình ngục Lộ Giang Đông Phạm Tuân điều tra, đồng thời yêu cầu quan Đề cử việc muối là Tăng Kháng phân tích nguyên nhân khiến dân chúng bất tiện, cũng như việc các châu huyện vi phạm pháp luật, rồi tâu lên.
(Bản chí chép việc Phạm Tuân điều tra rất sơ lược, có lẽ vì che giấu điều gì đó, nay không lấy. Ngày Đinh Tỵ, 7 tháng 6, Phạm Tuân nói thêm…)
[4] Lưu Nghị lại dâng thư nói rằng:
[5] Từ thời Đường đến thời Ngũ Đại, các chính sách bạo ngược được thi hành. Ở hai vùng Quảng Đông và Quảng Tây, mỗi hộ phải nộp vài trăm tiền và một thạch gạo cho mỗi đinh; ở Giang Đông và Giang Tây, nếu được phép nấu rượu thì phải nộp tiền men; nếu được cấp muối thì phải nộp gạo muối; để cung cấp cho quân đội thì phải nộp tiền giày; khi nộp vào kho thì phải nộp tiền phát; ngoài thuế chính còn có tiền tô. Khi nhà Tống thống trị thiên hạ, thái bình kéo dài trăm năm, nhưng thuế đinh và gạo ở hai vùng Quảng vẫn không được bãi bỏ; ở Giang Nam, nhà nước độc quyền bán rượu và thu tiền men; dân không được mua muối mà phải nộp gạo, so với thời Ngũ Đại thì thuế má lại tăng thêm. Vào niên hiệu Gia Hựu, cho phép thương nhân buôn bán trà, rồi đặt ra tiền tô trà, lấy thuế làm gốc, so với đầu triều thì thuế lại tăng thêm.
[6] Tuy nhiên, dân chúng không phải chịu cảnh chiến tranh, yên ổn làm ruộng, dùng tài lực để phụng sự nhà nước, chưa từng kêu ca. Nhưng những người bàn luận cho rằng do không có chính sách tốt nên tài chính không đủ, khiến bệ hạ lo lắng, bèn dùng Vương An Thạch tham gia chính sự lớn, chẳng bao lâu lại phong làm tể tướng, lại dùng những người do Vương An Thạch tiến cử như Lữ Huệ Khanh, Tăng Bố, Lý Thừa Chi, trong triều thì bàn định chính lệnh, ngoài thì đi khảo sát, đổi mới toàn bộ pháp luật trong thiên hạ. Bệ hạ ngày đêm bận rộn, xử lý vạn việc, từ xưa đến nay, những vị Vua ham trị nước, chí thành tin tưởng, bác bỏ mọi nghị luận trong thiên hạ mà dùng Vương An Thạch, chưa từng có ai như bệ hạ. Còn Vương An Thạch, lấy thân mình gánh chịu mọi oán hận trong thiên hạ để báo đáp bệ hạ, cũng hiếm có ai sánh được. Lúc bấy giờ, triều đình và các quận huyện đều cải cách những tệ nạn cũ, trên dưới ngày đêm ra sức làm việc, nhưng lại cấm mọi lời bàn về sự bất tiện của các tân lệnh, vì thế pháp độ chưa hoàn thiện đã trở nên hủ bại. Pháp luật đã có tệ nạn, trí tuệ đủ để nhận ra, vậy mà không sửa đổi, là tại sao? Đó là lỗi của đại thần khi tạo ra pháp luật, và tội của quần thần không dám lên tiếng.
[7] Nghĩ rằng pháp luật mới mà bệ hạ ban hành vốn là vì dân. Vì dân có lãi suất gấp đôi nên cho họ vay tiền; vì dân có nguy cơ phá sản nên miễn dịch cho họ; vì dân không có trách nhiệm liên kết nên dạy họ bảo vệ lẫn nhau; vì dân có hàng hóa tích trữ không bán được nên lập chợ buôn bán: đều là những pháp luật tốt. Thực hiện được vài năm, thiên hạ kiện tụng, pháp luật hỏng mà dân khổ, đủ mọi thứ, nhất là pháp luật về dịch vụ, xin thử nói về điều nghiêm trọng nhất. Triều đình đặt ra một pháp luật khiến dân phải nộp tiền, mà có mười điều hại pháp, xin lần lượt trình bày.
[8] Nhà Đường bỏ phép tô dung điều mà đặt ra lưỡng thuế, sau đó mỗi nghìn tiền thuế lại tăng thêm hai trăm, đó là ngoài thuế dung còn thu thêm một lần; thời Ngũ Đại thuế khúc, muối, giày, chiếu, triều ta đều nhập vào lưỡng thuế, đó là ngoài thuế dung còn thu thêm hai lần; lại thu thêm thuế trà, đó là ngoài thuế dung còn thu thêm ba lần; lại thu thêm tiền dịch, đó là ngoài thuế dung còn thu thêm bốn lần; ngoài bốn lần thu thêm, lại thu thêm khoản dư, đó là ngoài thuế dung còn thu thêm năm lần. Đó gọi là không xét đến gốc ngọn nặng nhẹ của thuế má mà bắt dân nộp tiền, hại pháp thứ nhất.
[9] Bệ hạ thấy hộ hương nha tiền làm dân phá sản, nên những người có tên trong sổ thuế đều phải nộp tiền để giúp việc dịch, đó là pháp luật tốt. Nhưng việc sai dịch lấy sổ đinh làm gốc, sổ đinh lấy tiền thuế làm gốc, những người trốn tránh sai dịch hoặc giấu tiền thuế, dùng tên giả để được xếp vào hạng thấp. Lại nữa, thuế nặng nhẹ không tương xứng với đất tốt xấu, các quan bàn pháp chưa từng bàn đến điều này, xét sổ đinh không chính đáng trong thiên hạ, tất cả đều theo thuế mà nộp tiền, đó gọi là không làm chính đáng sổ đinh trong thiên hạ mà bắt dân nộp tiền, hại pháp thứ hai.
[10] Năm hạng người phải chịu sai dịch, một làng không quá mười người, thứ đến bảy tám người, người làm việc công ít mà người an cư nhiều. Các quan bàn pháp lúc đầu nói: “Người giúp việc lấy từ các hộ quan, đinh đơn, hộ nữ, tự quán, những người chưa từng phải đi làm dịch thì đóng tiền để giúp những người phải làm dịch nặng.” Sau đó thay đổi pháp luật, không kể giàu nghèo, lấy số tiền thuế làm mức để thu, gọi là miễn dịch. Phàm quân nhân thay làm dịch, thì lấy tiền đó để trả lại cho Tam ty, còn dân nghèo chưa từng phải làm dịch, thì lại thu tiền, sao vậy? Thần từng làm chức Thường bình ở Quảng Tây, ở Quảng Tây phàm ai đóng một đồng tiền thuế, thì phải đóng thêm bảy tám hoặc năm sáu đồng. Trong một năm, đóng năm sáu đồng, xem ra chưa làm hại dân; nhưng với số tiền năm sáu đồng đó, vào mùa hè thu khi nông dân đang bận rộn, hai lần đến quan phủ công sứ, chi phí lại tăng lên gấp bội. Người xưa nuôi dân, ban ngày đi cắt cỏ, ban đêm bện dây; còn dân nghèo ngày nay, vì năm sáu đồng mà mất thời gian, thật đáng thương! Vì vậy dân ở Nghi, Dung chạy vào động man, dân ở Liêm Châu đốt nhà mà trốn, cũng có thể thấy rõ. Đó gọi là hạ hộ đóng tiền, là điều hại pháp thứ ba.
[11] Triều đình cho rằng lại viên tham nhũng, xét lại chế độ người thường làm quan thời xưa mà ban cho bổng lộc hậu, dùng phép Hà thương để xử các vụ án hối lộ, có thể nói là ý tốt. Lúc mới lập pháp, nên xét xem công việc nhiều hay ít, án kiện nặng hay nhẹ, châu huyện lớn hay nhỏ, để định mức bổng lộc. Không phân biệt lớn nhỏ nặng nhẹ, nhiều thì đến bảy tám nghìn, châu huyện hai án Thường bình có khi đến sáu nghìn, nhiều thì đến tám nghìn; chức Bạ, Uý triều ta, huyện nhỏ cũng bảy tám nghìn, nay lại viên lại nhiều gấp mấy lần, chẳng phải là tiền lương quá hậu sao? Những khoản khác có thể có lãng phí, như chức Trướng ty trước đây đã bãi bỏ. Đó gọi là tiền lương quá hậu, lại có lãng phí, là điều hại pháp thứ tư.
[12] Tiền thuế phụ trợ đã nhiều, thì việc thu từ dân không thể không nhiều. Dân ở hai vùng Chiết, những hộ giàu có vượt bậc gọi là hộ vô tỷ, nhiều nhất là bảy tám trăm ngàn, kế đến là năm trăm ngàn. Thần trộm lấy phép cũ mà nói, việc dịch nặng nhất là hương hộ nha tiền, kế đến là diêm xứng tử, rồi đến tửu vụ. Khiến cho hộ thượng mười năm mới phải đi dịch một lần, tốn tiền một trăm vạn, tức là mỗi năm một trăm ngàn. Nay hộ thượng giàu phải nộp tám trăm ngàn, tức là gấp bảy lần trước kia; tính riêng một hộ, trong mười năm đã nộp tám trăm vạn. Như vậy, thì tiền của dân sao không kiệt quệ? Tài sản trong thiên hạ sao không hao hụt? Mà phép luật vốn để lợi dân, nay lại khiến dân phải nộp tiền quá nặng, đó là điều hại pháp thứ năm.
[13] Phép luật quy định số người đi dịch có định số, nhưng năm tháng có mùa màng tốt xấu, nên lập ra khoản khoan thặng để phòng năm mất mùa, và dùng vào việc bắt hổ khi cấp bách, đó là phép hay. Nhưng Ty nông lại muốn quy định khoản khoan thặng, không lập ra chính pháp, thi hành mấy năm, các châu huyện thu nộp khoan thặng, tiền giảm thuế không kịp, tiền đã mục nát, trong tiền dịch lại xuất ra khoản tạp chi khoan thặng, đó là lấy tiền với danh nghĩa gì? Đó là điều hại pháp thứ sáu.
[14] Đàn ông cày cấy, đàn bà dệt vải, không đủ tiền để nộp cho nhà nước, tình thế ắt không thể không nghèo khó. Nay không lo lắng, nếu chẳng may có hạn hán lũ lụt trên diện rộng hai ba ngàn dặm, thì sẽ lấy gì để cứu giúp? Bệ hạ hãy thử xem xét việc gần đây, trước đây trong chiếu xá tội ở Minh Đường, đã miễn trừ tất cả các khoản thuế má, tô dịch và nợ nần từ năm Nguyên Phong thứ nhất trở về trước. Giang Tây tuy nhỏ, nhưng cũng được miễn trừ hàng triệu. Một lộ như vậy, các nơi khác có thể suy ra. Thần cho rằng thuế má là lợi ích chính của triều đình, dù một tấc vải, một đấu gạo cũng không thể không đóng. Nay dân chúng trong thiên hạ liên tục nợ nần, chỉ mong được miễn trừ, một khi có nạn đói kém, lại trông cậy vào quan huyện, nguyên nhân là gì? Đó là vì tiền dịch và các khoản phụ thu nộp cho quan đã quá nhiều, dù năm được mùa cũng không có dư dả, nên thuế chính không thu được. Xưa kia, các bậc quân vương từng thay đổi pháp luật, nhưng quân thần chưa từng không cùng nhau từ đầu đến cuối. Trước đây, Bệ hạ thấy pháp luật trong thiên hạ có nhiều tệ nạn, nên đã cải cách để làm mới, vậy người thay đổi pháp luật là Bệ hạ, người tiếp thu ý chỉ và đặt ra pháp luật là Vương An Thạch, người trau chuốt và bàn luận là Lữ Huệ Khanh, Tăng Bố và những người khác.
Vì thế, đã tăng quyền cho Tư Nông để ban hành pháp luật, lại ra chiếu cho các quan kho để thi hành pháp luật, có thể nói là có trật tự. Tuy nhiên, những quan chức đặt ra pháp luật không hiểu ý tốt của Bệ hạ muốn ban ơn cho dân, mà chỉ lấy lợi ích làm gốc, nên những kẻ sợ mất quyền lợi tranh nhau khen ngợi sự tiện lợi của pháp luật mới, Tư Nông không hỏi đúng sai, tùy tiện đặt ra pháp luật, pháp luật chưa hoàn thiện, mà Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh đã có hiềm khích, Tăng Bố lần lượt bị cách chức, và pháp luật mới hoàn toàn do Tư Nông quyết định. Những người đứng đầu Tư Nông phần lớn chỉ đoán mò ý triều đình là chú trọng vào tài chính, nên chỉ biết chiều theo. Các đại thần làm theo lệ cũ, không dám bàn luận lợi hại, chỉ biết giữ nguyên và thi hành, sau vài năm, thiên hạ chịu nhiều tệ nạn. Đó gọi là pháp luật chưa hoàn thiện mà những người đặt ra pháp luật đã rời khỏi triều đình, là điều hại thứ bảy của pháp luật.
[15] Tuy nhiên, trên dưới nhìn nhau mà không nói, đó là bầy tôi giữ lộc nuôi giao hảo, phụ lòng bệ hạ. Mà ngày nay các quan định pháp lại không có lời nào cứu vãn tệ nạn, chỉ ban bố điều lệ, lấy việc giảm số người phục dịch ở Hoài, Chiết và giữ lại tiền trang làm lý do, bắt các lộ theo điều lệ làm thành sách, dời đông sang tây, giảm năm tăng mười, thực sự không có chút gì giúp ích cho triều đình. Những người gọi là đề cử thương quan lại không chịu bàn luận lợi hại, có ý muốn tiếp tục theo lối cũ, gấp rút làm thành sách, tổng hợp số liệu của thiên hạ, chỉ thấy trên văn bản suông, chiếm công của thiên hạ để mong được giàu sang. Đó gọi là Ty nông không xét pháp[1], thương quan không cứu vãn tệ nạn, là tệ hại thứ tám của pháp luật.
[16] Phép tắc của hai xứ Chiết, bắt đầu từ Lý Thừa Chi, tiếp theo là Thẩm Quát, rồi đến Ngô Ung, tổng cộng ba lần cử sứ, nhiều lần thay đổi pháp luật; nhưng dân chúng không biết pháp luật có lợi mà ngày càng nghèo đi, chỉ biết pháp luật thay đổi để thu tiền, chưa từng giảm tiền để có lợi cho dân. Đó gọi là giảm người phục dịch nhưng giữ lại tiền trang, là tệ hại thứ chín của pháp luật.
[17] Từ khi cải cách pháp luật, biến viên dung thành hòa thị, các cơ quan không tiếc cho bệ hạ, nên định giá nhẹ. Trên đốc thúc thì dưới gấp rút thực hiện, các huyện lệnh lại bắt dân mua một lần. Trước đây thần đi qua Hoài Nam, dân Hoài Nam bị bắt đóng tiền phu Hoàng Hà, mỗi phu là mười lăm nghìn, hộ giàu có đến sáu mươi phu. Ở Hồ Nam mua nỏ trang, quan định giá hai mươi, dân thực tế phải trả hai nghìn, có hộ đến hai mươi chiếc. Gần đây Giang Tây mua áo nạp quân nhu, quan định giá tám trăm, thực tế phải trả ba nghìn. Các thứ lông chim, tre tên đều tăng giá gấp mấy lần. Quan huyện khi cấp bách thì dựa vào dân, dân đóng góp phần dư giúp công việc triều đình, lý lẽ vốn là như vậy. Nhưng dân đã đóng tiền phục dịch, lại không tránh khỏi việc bị bắt mua, đó gọi là trăm thứ bắt mua, giá rẻ làm hại dân[2], là tệ hại thứ mười của pháp luật.
[18] Những tệ nạn này không xuất hiện ở trên mà xuất hiện ở dân chúng, tình cảm của dân bị bưng bít không thấu đến triều đình, thật đáng đau xót! Sách truyền có câu: “Biết cho đi là để nhận lại, đó là bí quyết của chính trị.” Nay các cơ quan chỉ biết thu thuế dân, thật vô nghĩa. Tuy nhiên, cứu vãn tệ nạn ngày nay, há có khó khăn gì? Bệ hạ xem xét những kẻ làm hại pháp luật và thay đổi hết, dân chúng sẽ được hưởng lợi lớn[3]. Kính mong Bệ hạ xem xét lời nói của thần không xuất phát từ tư lợi, nghe theo thì thật may mắn! Lưu Nghị lại tâu: “Đi tuần tra các châu Hồng, Quân, dựa theo đơn kiện của dân chúng, tố cáo rằng châu huyện ép buộc họ phải mở cửa hàng bán muối[4], đã gửi văn bản yêu cầu các cơ quan liên quan thi hành. Thần xem xét kỹ pháp luật về muối do Kiển Chu Phụ đề ra ban đầu, nhằm cứu giúp dân chúng thiếu muối, nhưng hiện nay muối tích trữ trong dân không bán được, dẫn đến oán than, việc bán hàng không thực hiện được, tiền thuế hàng tháng thiếu hụt, bị truy thu và trừng phạt, sắp lan khắp Giang Tây. Tình thế như vậy, dân chúng yên ổn sẽ biến thành giặc cướp, biết làm sao đây!” Hoàng đế phê: “Lưu Nghị chức trách là thi hành pháp luật, đã thấy vấn đề thì nên công khai trình bày. Dám tự tiện dâng thư lên, chỉ nêu một hai việc nhỏ không đáng kể, ý muốn phá hoại đại cục, công khai nói sai sự thật, làm hoang mang triều đình, lung lay dư luận bên ngoài, nên trừng phạt rõ ràng để cảnh cáo những người tại chức. Đặc cách cách chức.”
(Ngày Đinh Tỵ tháng 6, Phạm Tuân[5] có thể tham khảo. Sự tích của Lưu Nghị cần tra cứu thêm. Tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 7, được đặc cách phong làm Tuyên Nghĩa Lang; tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, được cử làm Quyền Phát Khiển Thiều Châu. Tăng Bố trong 《Chí Hòa Bân mộ》 viết: “Nghị muốn Bân đem quân đánh người Lê, Bân cho rằng xuất quân không có danh nghĩa ắt sẽ thất bại, quả nhiên sau đó đúng như vậy.” Cần tra cứu thêm.)
[19] Ngày Bính Tuất, truy tặng Tả Lĩnh Quân Vệ Đại Tướng Quân cho Hiến Khanh, chắt của Tư Đồ Quách Sùng Nhân, và gả Công chúa Kỵ Quốc Đại Trưởng cho ông.
[20] Chiếu cho quan chế sở kiểm tường văn tự Lưu Canh, Giả Chủng Dân đến quán bạn sứ Cao Ly để ứng đáp các câu hỏi về luật lệnh. Việc này theo lời thỉnh cầu của sứ thần Lý Tử Uy.
[21] Quyền tri Khai Phong phủ Vương An Lý tâu: “Những vụ án hình sự có nghi ngờ hoặc tình tiết đáng thương, xin cho bản phủ ghi chép tâu lên để xử lý; nếu được chỉ xử tử, thì mới giao cho Củ Sát ty thẩm vấn.” Được chấp thuận.
[22] Chiếu rằng: “Túc Châu đoàn luyện sứ A Lý Cốt nghe nói ở trong vùng Khương, địa vị cao hơn Quỷ Chương, trong trận chiến ở Lan Châu, lại có thể dốc sức đốc thúc các tù trưởng Khương, kiên quyết không lui, có thể thăng làm bản châu phòng ngự sứ.”
[23] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho Kinh Nguyên lộ kinh lược ty: “Nghe nói Lưu Xương Tộ và những người khác khi ra khỏi biên giới trở về, đã bỏ lại ngoài biên giới các vật dụng như cờ trống, vàng bạc chiêu phủ, đồ dùng, đai hốt, thương bạc, áo chiến, v.v. Hãy tra xét thực tế và báo cáo số lượng cụ thể.”
[24] Ngày Canh Dần, chiếu cho Tiến sĩ Tịch Đán ở Hà Nam phủ được đặc cách tham gia thi đình. Tịch Đán là con của Tịch Nhữ Minh, đã dâng thư bàn việc hợp ý Vua.
(Việc này theo bia mộ của Tịch Đán được thêm vào, do Đặng Tuân Vũ soạn.)
[25] Ngày Nhâm Thìn, Vua ngự ở điện Tập Anh, ra đề thi cho các Tiến sĩ do Lễ bộ tiến cử.
(Cựu lục ghi đầy đủ các câu hỏi thi.)
[26] Chiếu cho Ty Nông thúc giục các lộ đề cử ty phát 500 vạn quan tiền tích lũy từ thường bình và phường trường, nộp vào kho Nguyên Phong.
[27] Chiếu cho các võ cử nhân thi cưỡi ngựa bắn cung trong ngày thi đình.
[28] Trùng tu biên sắc san định quan, Tuyên Đức lang Vương Hoàn được thăng làm Thông Trực lang, quyền Giám sát ngự sử lí hành.
[29] Ban cho Long Đồ các trực học sĩ, Tri Khánh châu Tăng Bố mẹ là Nhân Thọ quận thái quân Chu thị mũ áo. Việc này theo lời thỉnh cầu của Tăng Bố.
[30] Ngày Giáp Ngọ, thi đình cho các Tiến sĩ đặc cách, và thi võ cử nhân.
(Tân kỷ ghi việc thi võ cử, cựu kỷ không ghi.)
[31] Chiếu rằng: Đô đại kinh chế Lâm Quảng ở Lộ Châu và Phó sứ Chuyển vận Lộ Tử Châu là Miêu Thời Trung hãy xem xét kỹ lưỡng, đối với bốn trại mới xây dựng là Vũ Ninh, Đại Động, Khai Viễn, Bình Di trong vùng phúc lý, cùng năm thành mới xây dựng là Lạc Cộng, Giang Môn, Trấn Khê, Mai Lĩnh, Đại Châu, nếu có thể đối chiếu để phá bỏ thì các dụng cụ phòng thủ thành trì đều có thể di chuyển sử dụng, tạm thời lưu lại binh mã của tướng thứ tư ở Khai Phong phủ giới để phòng thủ; các nghĩa quân nỏ thủ đã theo quân lâu ngày, cùng với quân Hùng Lược ở Hồ Bắc cách xa đường, đều có thể cho về.
[32] Ngày Ất Mùi, chiếu tay cho Thẩm Quát: “Nghe nói đã sai Khúc Trân dẫn binh mã đi đánh bọn giặc đang tập trung gần biên giới, Trân là phó tướng của bản lộ, việc này rất quan trọng, nếu không phải là toàn quân xuất cảnh thì không thể dễ dàng phát binh. Hãy nhanh chóng ra lệnh ngăn lại, bảo ông ta chỉ huy các tướng lĩnh từ xa làm thanh viện ở biên giới, chỉ cho phó tướng xuất cảnh đánh dẹp, đồng thời dặn dò phải chọn thời cơ thuận lợi để giành thắng lợi an toàn, không được khinh địch, kẻo làm hỏng việc quốc gia.”
(Ngày 21 Nhâm Dần có thể gộp vào đây.)
[33] Chiếu cho các ty Kinh lược An phủ Kiềm hạt ở Kinh Hồ, Quảng Nam, Xuyên Hạp, Thiểm Tây, Hà Đông, hãy trình bày các quy tắc bổ nhiệm chức vụ và cấp bậc cho các bộ lạc man, dao, di, lão, cùng các hộ thục và phiên bộ quy thuận ngoài biên giới, cũng như các ân điển khác nhau trước sau khi bổ nhiệm chức vụ, để báo cáo lên, lập sổ sách ghi chép.
[34] Chiếu rằng: “Từ nay, khi bổ nhiệm lần đầu Đô tri và Áp ban vào Nội thị tỉnh, Trung thư và Xu mật phải cùng tiến trình.”
(Ngày Canh Tý tháng 7, lại có chiếu.)
[35] Chiếu cho Ty Đề điểm Hình ngục Lộ Hi Hà: “Quan lại ở Hà Châu thuê mướn nghĩa dũng và bảo giáp để tu sửa thành trì, đặc biệt miễn tra xét.”
[36] Chiếu tay cho Lý Hiến: “Dụ Lặc Tàng Khách Mộc gửi đến chữ phiên, trong văn bản có bày tỏ tình cảm, tỏ ra rất muốn quy thuận, nên nhân lúc này đóng quân phòng thủ, xây dựng đồn lũy thuận tiện, hãy nhanh chóng lập kế hoạch ứng phó.”
(Cùng ngày 19 Canh Tý.)
[37] An phủ sứ Chương Đôn của Định Châu lộ tấu rằng: “Xin cho trường tập luyện của bản lộ được tu sửa dần dần, hạn đến cuối tháng mười phải hoàn thành, nhưng chưa nhận được chỉ dụ của triều đình. Nay ty Bảo giáp định tu sửa trường tập luyện ở các châu quân chưa tập hợp huấn luyện ở vùng biên giới, yêu cầu thống nhất cách thức xây dựng, phải hoàn thành trước cuối tháng ba. Việc này có phần rầm rộ, cách xử lý không đúng, đúng là việc An phủ ty phải tuân thủ pháp luật và giữ chức trách, không phải là lấn quyền. Mong triều đình cho phép bản lộ tu sửa trường tập luyện của các châu quân chưa tập hợp huấn luyện, và hạn đến cuối tháng mười phải hoàn thành.” Vua phê: “Nên theo lời tấu của Đôn, chỉ ban chỉ dụ trực tiếp của triều đình, gấp rút thi hành.”
(Ngự tập 121, ngày 14 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 5).
[38] Ngày Đinh Dậu, Hữu thị cấm Trương Kỳ bị tước chức, đưa đến Giang Tây biên quản. Vì đã cấu kết với người giàu để bàn việc hôn nhân với Hữu giám môn vệ đại tướng quân Thế Xiển[6].
[39] Ngày Mậu Tuất, chiếu rằng: “Từ nay về sau, khi tế lễ ở Thái Miếu: người làm lễ sơ hiến ở miếu trước là thân vương, tông thất sứ tướng, tiết độ sứ, quận vương; người làm lễ sơ hiến ở miếu sau[7] là tông thất tiết độ quan sát sứ. Hàng năm theo thứ tự mà cử người, nếu không đến, phạt bổng một tháng. Các lễ tế khác, nếu có chỉ dụ cử người làm lễ thì cũng theo như vậy.”
[40] Ty Thiên giám tâu rằng, ngày mùng một tháng tư, sẽ có nhật thực vào giờ Dần. Chiếu rằng từ ngày Kỷ Hợi phải thay đổi y phục, tránh chính điện, giảm bớt bữa ăn thường ngày, ngày đó các cơ quan phải giữ chức trách.
[41] Tần Phượng đẳng lộ Đề cử Bảo giáp ty tâu: “Bản lộ nghĩa dũng đều đổi làm bảo giáp, trong đó có nhiều nhà có năm nam đinh trở lên, nếu xếp hai đinh hoặc ba đinh làm bảo đinh[8], thì khó mà bắt buộc lấy năm nhà làm một tiểu bảo. Xin lấy mỗi năm đinh làm một tiểu bảo.” Chiếu rằng: “Bảo giáp lấy nhà liên kết bảo, lấy đinh liên kết binh, tiểu bảo trưởng trở lên đều do binh mà đặt[9], lệnh cho ba lộ căn cứ chi tiết thi hành. Nếu có trở ngại với pháp cũ, thì vạch điều lệ tâu lên.”
(Tháng 6 ngày Mậu Ngọ vân vân.)
[42] Kinh lược ty Hi Hà tâu: “Đổng Chiên, A Lý Cốt sai người dùng chữ Phiên đến báo rằng: ‘Người Hạ muốn thông hảo, đã từ chối, và đang huấn luyện binh mã, chờ lệnh tiến đánh.'” Chiếu rằng: “Miêu Thụ, Lý Hiến đã định ngày xuất quân, hãy báo trước cho họ.”
[43] Ngày Kỷ Hợi, ban đức âm: giáng tội tử hình trong thiên hạ xuống một bậc, tội lưu đày trở xuống đều được tha. Vì sắp có nhật thực.
(Sách cũ chép: Chiếu rằng vì sắp có nhật thực vào tháng chính Dương, là điềm dị thường lớn. Từ ngày Kỷ Hợi tránh chính điện, giảm bớt ăn uống, tha tù trong thiên hạ một bậc, tội lưu đày trở xuống đều được tha. Sách mới chép: Vì sắp có nhật thực, tránh điện, giảm ăn, tha tù trong thiên hạ.)
[44] Thị ngự sử tri tạp sự Mãn Trung Hành tâu: “Trước đây vì Quyền tri Khai Phong phủ Vương An Lễ tùy tiện phá pháp, vượt quyền cầu danh, lừa dối thánh đức, xin trị tội theo pháp; lại lấy sổ sách cần tra xét, khéo léo giấu không giao, làm rối kỷ cương, khi có việc tâu xin, cậy ơn chúa, dùng lời lẽ đối phó người. Dưới chốn kinh đô, nên dùng người chính trực, mong xét tình hình bàn tội, xử đoán công minh.” Vua phê: “Lệnh cho An Lễ trình bày rõ lợi hại của việc tâu xin sửa pháp trước đây, cùng việc lấy sổ sách trước sau khác nhau để tâu lên.”
[45] Đề cử Tống Dụng Thần nói về đê sông Biện: “Vâng theo thánh chỉ, kênh thấu nước Kim Thủy gây trở ngại cho thuyền bè đi lại trên sông Biện, xin được xem xét và xử lý. Đã điều tra và thấy rằng có thể đào một con kênh từ bờ bắc sông Biện tại phường Siêu Tự, lấy nước vào trong, chảy thẳng đến cửa Hàm Phong hợp với sông Kim Thủy[10], từ cửa đá Bản Kiều phía đông sông Kim Thủy, sửa cửa đẩu, đào một con kênh dẫn nước đến vịnh Tam Gia Điếm phía tây bắc hồ Kim Minh, rồi chảy trở lại sông Biện. Kênh thấu nước cũ có thể bỏ đi.” Được chấp thuận.
(Ngày 28 tháng 6, Mậu Dần, ban tên là sông Thiên Nguyên.)
[46] Chiếu rằng: Hàng Châu lấy thu nhập từ ruộng đất huyện Lâm An của họ Tiền, hàng năm cấp 500 ngàn tiền cho Biểu Trung Quan để tu sửa phần mộ và đền thờ Ngô Việt Vương.
(《Tân kỷ》 chép: Chiếu Hàng Châu hàng năm tu sửa phần mộ và đền thờ Ngô Việt Vương. 《Cựu kỷ》 không chép.)
[47] Kinh Nguyên Lộ Kinh Lược Đô Tổng Quản Ty báo cáo về số lượng binh lính chính quy và cung thủ người Hán, người Phiên bị mất trong các cuộc xuất quân. Chiếu rằng: “Ngoài Lưu Xương Tộ, Diêu Lân đã bị giáng chức, Triệu Định, Cao Đống, Chủng Chẩn, Tôn Hàm Ninh, Đái Tự Lương, Cổ Biện, Lý Tường, Lưu Ngọc mỗi người bị truất một chức, Từ Trấn, Nhâm Đoan, Tang Thục, Giả Đức Dụng mỗi người bị truất hai chức, Câu Thiên, Lưu Tuân mỗi người bị truất bốn chức, Trương Miễn, Thành Cung mỗi người bị truất năm chức.”
[48] Ngày Canh Tý, chiếu rằng: “Những khoản tiền vật phong trang liên quan đến bảo giáp, nếu không có chỉ dụ của triều đình mà tự ý sử dụng, sẽ bị xử theo pháp luật về việc sử dụng tiền phong trang.”
[49] Lý Hiến tâu: “Theo lời Lý Hạo báo, Dụ Lặc Tàng Khách Mộc[11] ước hẹn vào ngày Tân Mão tháng ba đến Kiên Bác đầu hàng, tình hình này chắc chắn là giả vờ đầu hàng, không khác gì việc dụ dỗ Tôn Hi trước đây. Đã ra lệnh cho Lý Hạo không được tùy tiện điều động binh mã tiếp ứng.” Chiếu chỉ: “Binh pháp biến hóa trăm đường, khó có thể cứng nhắc một cách, điều quan trọng là phải nắm rõ tình hình địch, không bỏ lỡ cơ hội. Việc Tôn Hi bị bắt là do tự ý vượt sông, không phải do bị giặc dụ dỗ. Nay Dụ Lặc Tàng Khách Mộc xin đầu hàng và hẹn gặp ở Kiên Bác, nên xem xét tình hình thật giả, âm thầm phòng bị, cân nhắc việc chiêu hàng, sao có thể ngay lập tức cho rằng đó là mưu gian mà không tiếp ứng? Triều đình quản lý giặc phương Tây, chiêu hàng kẻ đầu hàng vốn là việc thường, nếu họ thực lòng đầu hàng mà lại nghi ngờ, sẽ khiến lòng người Khương càng hướng về phía giặc, thực sự gây hại cho biên phòng. Giao cho Lý Hiến xem xét kỹ và thi hành.”
(Cùng ngày 14, Ất Mùi. Việc Tôn Hi xem ngày mùng 4 tháng ba, và ngày 12 tháng sáu.)
[50] Tri Khai Phong phủ Vương An Lễ tâu: “Ngoài việc nhà ngục Ty Lục đã trống, các án tại Tả Hữu Quân Tuần Viện cũng đã xử xong, chỉ còn tội nhân Đinh Hoài và những người khác đang bị giam, án đã tâu lên và đang ở Củ Sát Ty. Mong được giao thời hạn gần để xét lại và xử theo pháp luật, nhằm đạt được việc ba viện đều trống ngục.” Triều đình đồng ý.
[51] Hồ Bắc Đô Kiềm Hạt Ty tâu: “Theo chiếu chỉ, hỏi các Tri châu Long Tứ, Cổ, Giám và các quan lại, cùng những người có vai vế, đều không muốn bổ nhiệm vào ban hàng[12], vẫn tiếp tục tiến cống như cũ.” Triều đình đồng ý.
[52] Ngày Tân Sửu, Kinh Nguyên lộ Kinh lược Chế trí ty tâu: “Quân mã Phu Diên lộ chia làm năm quân, dùng tổng cộng 204 văn võ quan. Tuy đã tâu xin sai 100 sứ thần đến bản lộ để cùng tập hợp các quân, nhưng nếu sứ thần vẫn không đủ, xin tạm cho phép theo chỉ huy ngày 9 tháng 7 năm ngoái, không theo thường lệ mà trích sai bổ sung số người thiếu.” Chiếu cho Tam ban viện chọn sai 50 sứ thần ứng phó việc sai phái của Phu Diên lộ; nếu không đủ, thì sai tán trực.
(Ghi chép mật ngày 20. Chỉ huy ngày 9 tháng 7 năm ngoái chưa thấy.)
[53] Ngày Nhâm Dần, Triều tán đại phu Phạm Tử Nghi làm Chuyển vận phán quan Quảng Nam Tây lộ, Tân Chuyển vận phán quan Quảng Nam Tây lộ, Triều thỉnh lang Diệp Hi Tẩu làm Đề cử Giang Nam Tây lộ Đề cử Thường bình đẳng sự. Do có lời phê của Vua: “Hi Tẩu tinh thần tuy không suy, nhưng hình thể gầy yếu, e không nên sai đi vùng xa” nên có lệnh này.
[54] Phó Tổng quản Phu Diên lộ Khúc Trân tâu rằng, khi xuất biên giới đến Kim Thang gặp giặc (xuất biên giới đến Kim Thang gặp giặc [“đến”, bản các và 《Tống hội yếu》 binh 8-27 đều chép là “đến”, có lẽ đúng]), đốt phá 700 trướng bộ lạc, chém được 1.000 thủ cấp. Chiếu cho Kinh lược ty Phu Diên lộ thông báo cho các lộ Kinh lược ty và Lân Phủ lộ Quân mã ty, nhanh chóng trình bày công trạng để tâu lên.
(Cùng với sự kiện ngày 14 Ất Mùi, ngày 26 Đinh Mùi tháng này, và các ngày 8, 11, 13 tháng 4 cũng hợp lại đây. 《Thẩm Quát tự chí》 phụ lục ngày 13 tháng 4. 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Nhâm Dần, Phó Tổng quản Phu Diên lộ Khúc Trân đánh bại quân Hạ ở Kim Thang, chém được 1.000 thủ cấp. 《Tân kỷ》 không chép.)
[55] Tri Quế châu Trương Giáp tâu: “Quân Xương Hóa xét án Phù Phá Kết cùng 9 người phạm tội cầm gậy cướp giết người, tội đều đáng chết. Nhưng vì quan bắt giặc đã dụ dỗ họ bỏ cung đao, cấp rượu thịt, rồi mới bắt trói. Nếu theo pháp bắt giặc, e khiến người Lê sinh nghi ngờ sợ hãi, sau này không thể lấy lòng tin.” Chiếu tha cho họ.
[56] Quảng Tây đề hình ty tâu: “Người Lê ở quân Chu Nhai vốn hung dữ, từ năm Chí Hòa, do Phù Hộ mất nô tì, bắt Tuần kiểm Mộ Dung Doãn Tắc làm con tin, đường sắt phía tây bắc quân này đến nay vẫn không thông. Gần đây, các động Long Kiến, Phù Chích càng quá đáng. Nếu không trừng trị để răn đe, e rằng chúng sẽ ngang ngược không ngừng, dân không thể sống yên.” Chiếu cho Trương Giáp căn cứ theo mệnh lệnh gần đây thi hành.
(Việc Mộ Dung Doãn Tắc cần tra cứu thêm.)
[57] Chiếu: “Năm lộ Thiểm Tây từ khi đại quân vào ải, các trạm ngựa dọc đường rất lộn xộn, cản trở việc chuyển văn thư, cần cử quan chuyên trách chỉnh đốn. Thiểm Tây cử Hồ Tông Hồi, Vương Khâm Thần; Kinh Tây cử Lương Đào.”
[58] Ngày Quý Mão, quan mới nhận chức Tri Nhuận Châu, Triều phụng đại phu, Tập hiền điện tu soạn Lô Bỉnh vẫn giữ chức Triều thỉnh lang, làm Bảo văn các đãi chế, Tri Vị Châu quân sự, và nghe theo sự điều động của Lý Hiến. Do Chủng Ngạc tự nói rằng không hợp với thống soái, không thể cùng làm việc, nên cố xin miễn chức Vị Châu. Chiếu cho Ngạc trở lại nhiệm cũ ở Phu Diên.
(《Thời chính kỷ》 chép vào ngày 11 tháng Nhâm Thìn, nay theo 《Thực lục》.)
[59] Chiếu xuống các lộ, tạm thời không phân biệt cấp bậc, chọn người trẻ khỏe sung vào quân sương.
[60] Ngự sử Vương Tổ Đạo tâu: “Xu mật viện bổ nhiệm người trong viện làm lệnh sử, hỏi về việc tướng hiệu tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 3 bỏ trốn, đến tháng 10 bị bắt, theo biên sắc thì xử theo luật bỏ trốn khi tại chức, căn cứ luật tính ngày để định tội. Đã ghi là tháng 9 năm thứ 3, thì phải tính cả tháng nhuận, nhưng nay lại không tính tháng nhuận, mà tính tháng nhuận là sai, gọi là giả, pháp luật không tính tháng nhuận. Dư luận đồn rằng, việc khảo hạch Trung Tông Lễ đều do Thừa chỉ Trương Thành Nhất vì tư tình, xin giao cho hữu ty điều tra, để trừng trị bọn quan lại gian trá.” Chiếu giao Xu mật viện, Đại Lý tự điều tra rõ tình hình, và báo cáo nguồn gốc những lời tâu đó.
[61] Tổ Đạo lại tâu: “Ngự sử đàn hặc việc Lữ Huệ Khanh, nguyên là Tri châu Diên Châu, sai cấm quân chở vật phẩm công sứ cho Từ Hi, đã có chiếu chỉ tra xét tội, nhưng Huệ Khanh lại tâu bày, dẫn theo biên sắc rằng hai phủ phạm tội công tọa, sau đó mới xin chỉ, và Từ Hi vô tội không nên tra xét. Biên sắc rõ ràng có lệnh cấm chở rượu quá ba trăm dặm, nhưng Huệ Khanh lại nói rằng đổi sang vật phẩm khác thì rượu không vượt quá ba trăm dặm, không thuộc phạm vi cấm. Lợi dụng văn tự, coi thường pháp luật, tội trạng rất rõ ràng. Trước đây, Bệ hạ giảng võ ở biên giới phía tây, quy mô đều xuất phát từ thánh huấn, các quan biên thần chỉ tuân theo mà thôi. Huệ Khanh lại nói rằng việc làm hiện nay là nắm lấy cơ hội, giống như làm vội vàng. Thần thấy Huệ Khanh đang trong thời kỳ tang chế, không sợ danh tiết, chỉ muốn tránh khỏi những rắc rối nhỏ, tham công tự cho mình là hiền, ý định từ Diên An về kinh, mong mỏi Bệ hạ có ý định dùng lại, chỉ sợ sau khi hết tang, không thể lấy lại được chức vụ cũ. Gần đây, triều đình đã ban chỉ miễn tra xét, tuy điều này xuất phát từ ân điển của Bệ hạ đối với đại thần, nhưng thần cho rằng nếu sĩ đại phu không biết liêm sỉ, thì triều đình thi hành pháp luật nên bắt đầu từ những người quyền quý. Huệ Khanh vi phạm pháp luật chở vật phẩm, tuy đã được miễn tra xét, nhưng việc tâu bày hư vọng không thể không trừng trị.” Chiếu chỉ gửi cho Huệ Khanh. Sau đó, căn cứ vào việc Tổ Đạo tố cáo Trương Thành, do đài lại Lý Cảnh Nhân nhầm lẫn, việc hặc tội Huệ Khanh không đúng, đều được tha theo lệnh đại xá.
(Từ “sau đó” đến “tha theo lệnh đại xá”, bản Chu thêm vào, cần xem xét.)
[62] Ngày Giáp Thìn, Vương An Lễ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, các quan thần dâng tâu xin lấy sổ ghi chép tên trộm cướp để xét việc lừa dối, lệnh cho thần trình bày rõ các nguyên nhân khác nhau. Sau khi tra xét, bản phủ nhận được văn thư từ đài yêu cầu lấy sổ ghi chép tên trộm cướp, thần thấy văn thư yêu cầu lấy sổ nhiều lần, nên mỗi lần chỉ gửi một bản. Nhưng lại nhận được văn thư từ đài: các sổ ghi chép tên trộm cướp từ các sương đã gửi đến không phù hợp với yêu cầu của đài, lệnh gửi lại sổ ghi chép tên trộm cướp tái phạm theo quy định của biên sắc. Bản phủ đã báo lại: theo cùng một sắc lệnh, ở kinh thành và phủ giới, những kẻ phạm tội trộm cướp đều bị thích chữ trên người, có căn cứ này nên không cần lập sổ nữa. Hơn nữa, thần cũng đã từng tâu trình trực tiếp, không biết trước sau có gì khác biệt.” Chiếu chỉ cho Mã Trung Hành phân tích. An Lễ lại tâu: “Thần trí thức thấp kém, tài năng không có gì, vô tình được thánh thượng biết đến, giữ chức ở kinh thành, mọi việc thấy rõ đều có hại mà không có lợi. Như người tâu rằng thần tùy tiện phá luật, vượt quyền để cầu danh, lạm quyền tự ý, ngang ngược không kiêng nể, điều này đặc biệt đúng. Những gì thần đã tâu trình đều liên quan đến lợi hại, chỉ đến mức đó, nay không còn gì để phân tích thêm. Nếu triều đình đã biết người tâu không sai, xin sớm cách chức thần, trở lại dùng pháp luật cũ để thỏa lòng dân chúng.”
(Cùng ngày 18.)
[63] Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất tâu: “Từ nay về sau, các quân nhân nhờ công trạng hoặc bắt được trộm cướp mà được thăng chức đại tiểu sứ thần, cho phép giữ lại lương cũ.” Triều đình đồng ý.
[64] Chiếu chỉ cho Ty Nông tự từ kho công sứ của phủ Đại Danh cấp 1.000 quan tiền cho châu Tương, và từ kho công sứ của hai châu Ân, Ký mỗi nơi cấp 1.500 quan tiền cho ba châu Hình, Triệu, Từ, đợi khi sứ Liêu đi qua con đường cũ thì làm theo lệ cũ.
[65] Ngày Ất Tỵ, Vua ngự tại điện Tập Anh, ban cho tiến sĩ, minh kinh, các khoa Hoàng Thường trở xuống cùng đỗ đệ, xuất thân, đồng xuất thân tổng cộng 593 người. Thường là người châu Nam Kiếm.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Ất Tỵ, ban cho tiến sĩ, minh kinh, các khoa đỗ đệ và nhận chức tổng cộng 1.428 người. Sách 《Tân kỷ》 chép: Ban cho tiến sĩ, các khoa do Lễ bộ tấu danh cùng đỗ đệ, xuất thân tổng cộng 1.428 người.)
[66] Ngày Bính Ngọ, ban cho những người đỗ tiến sĩ, minh kinh, các khoa khác chức Giả thừa vụ lang, Văn học, Trợ giáo, Nhiếp trợ giáo, tổng cộng 836 người.
(Sách 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều chép ngày Bính Ngọ có mưa bụi, nay theo lệ không chép.)
[67] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu cho Thẩm Quát: “Quân mã của Khúc Trân đã ra khỏi biên giới và trở về phủ soái, nếu không có phương lược tốt do khanh chỉ dẫn và sự dũng cảm chiến đấu của Trân, thì sao có thể lập được công lớn như vậy! Binh sĩ sau khi trải qua nạn đói mùa đông năm ngoái, lúc nhân tình mới phấn chấn, nếu không kịp thời ban thưởng thì không đủ để đền đáp chí trung dũng xông pha trận mạc của họ. Hãy thúc giục Trân bảo đảm rõ ràng công trạng để tâu lên, đồng thời căn dặn đừng lạm dụng.”
(Ngày 14 Ất Mùi, ban chiếu tay cùng phái Trân; ngày 21 Nhâm Dần, Trân ra khỏi biên giới. Các ngày mùng 8, 11, 13 tháng 4 nên hợp lại với việc này.)
[68] Ngày Mậu Thân, các quan chấm thi sơ khảo gồm: Đại trung đại phu Tô Tụng, Tập hiền hiệu lí Vương Tử Thiều, Vương Trắc Thần, Thừa nghị lang Lưu Phụng Thế, Đồng tri lễ viện Dương Kiệt, Thông trực lang Thái Kinh; các quan chấm thi phúc khảo gồm: Long đồ các trực học sĩ An Đào, Tri chế cáo Vương Tồn, Sử quán tu soạn Trần Mục, Tăng Củng, Tập hiền hiệu lí Triệu Ngạn Nhược, Thái học bác sĩ Trương Sùng; các quan tường định gồm: Hàn lâm học sĩ Bồ Tông Mạnh, Bảo văn các đãi chế Hà Chính Thần, Tập hiền hiệu lí Lục Điền, đều bị phạt 30 cân đồng. Vì Tô Tụng và các quan khác xếp Hoàng Thường vào hạng thấp, nhưng Vua thân chấm lên hạng nhất, nên bị phạt.
(Sách 《Truyền tín lục》 của Tiên Vu Xước chép: Thời tổ tông, trạng nguyên làm thông phán được ban áo tía, nên có câu “không mặc áo lam thì mặc áo tía”. Về sau ân điển giảm bớt, làm thiêm phán hoặc tri huyện chỉ được ban áo xanh. Năm Nguyên Phong, Hoàng Thường đỗ trạng nguyên, có câu “Hoàng Thường lại làm lục y lang”, lấy tên họ mà vịnh. Quan chấm thi vốn xếp Hoàng Thường vào hạng năm, Thần Tông từng xem bài văn của ông, nhớ được mấy câu. Đến khi xướng danh, sai tìm quyển của Hoàng Thường, chốc lát tìm được dâng lên, Thần Tông nói: “Đây mới là trạng nguyên.” Rồi xướng danh. Cùng lúc, có Lưu Khái, trước đó một khoa, Bồ Tông Mạnh làm chủ khảo tỉnh thí, thích bài văn của ông, xếp Lưu Khái đỗ thủ khoa. Nhưng vì trong bài sách có chữ “Tuế” phạm húy tên miếu và tên phủ đệ, đành phải đánh trượt. Ngày tuyên bố kết quả, Bồ Tông Mạnh nói với mọi người: “Ta xếp Lưu Khái đỗ thủ khoa”, từ đó Lưu Khái nổi tiếng, được sai làm học lục. Đến năm nay, lại đỗ thủ khoa, Thần Tông nghe danh. Ngày yết bảng, cũng xếp vào hạng năm, Thần Tông gọi đến trước hiên, hỏi: “Khanh làm học lục được mấy năm?” Lưu Khái đáp: “Thần làm học lục được ba năm.” Lại hỏi: “Thầy là ai?” Lưu Khái đáp: “Nhờ bệ hạ giáo dưỡng.” Thần Tông khen ngợi cách đối đáp, tuyên dụ: “Quan khảo thí chấm lầm, xếp khanh vào hạng năm, nay thăng lên hạng hai.” Khi ấy, các quan chấm thi Tri chế cáo Tăng Củng và các quan khác vì xếp bài thi của Hoàng Thường, Lưu Khái không đúng, đều bị phạt 30 cân đồng.)
[69] Chiếu rằng: “Ba huyện thuộc phủ Dĩnh Xương bị thiên tai, đặc biệt cấp ba vạn thạch gạo từ kho Thường Bình.”
[70] Ty Đề cử Hà Bắc Hoàng Hà Đê Phòng tâu: “Xem xét sông Ngự Hà chỗ hẹp, đê yếu, không thể thông nước từ sông lớn, thành trì châu Ân đáng lo; nếu nước chảy ngược vào sông lớn thì không tràn vào đầm. Việc vận chuyển trên sông Ngự Hà chỉ thông qua các châu Ân, Thương, Vĩnh Tĩnh, Can Ninh, có thể chuyển vào sông lớn, không phải đi xa. Đề nghị chặn dòng nước từ chỗ uốn khúc đổ vào sông lớn là tiện.” Triều đình nghe theo.
(Cùng ngày 21 tháng 2.)
[71] Chiếu rằng: “Hai người đỗ thượng đẳng trong kỳ thi Xuân thuyên được thăng một bậc; bảy mươi sáu người đỗ trung đẳng được bổ nhiệm làm quan không theo thứ tự; bốn mươi chín người đỗ hạ đẳng được bổ nhiệm làm quan.”
[72] Ngày Kỷ Dậu, Ty Đề cử Hà Bắc Lộ Bảo Giáp tâu: “Các huyện úy ngoài việc quản lý chung huyện sự, chỉ chủ trì bắt trộm cướp trong thành huyện và chợ, còn việc ở thôn quê giao cho tuần kiểm quản lý, binh lính tuần kiểm ở biên giới vẫn giữ nguyên. Các huyện Vọng Đô, Khúc Dương, Bắc Bình, Đường thuộc châu Định; huyện Bồ Âm thuộc châu Kỳ; huyện Bảo Tắc thuộc châu Bảo; huyện Toại Thành thuộc quân Quảng Tín; huyện An Túc thuộc quân An Túc; huyện Cao Dương thuộc quân Thuận An; huyện Bác Dã thuộc quân Vĩnh Ninh; huyện Thanh Trì thuộc châu Thương; huyện Văn An, Đại Thành thuộc châu Bá; huyện Nhậm Khâu thuộc châu Mạc; huyện Quy Tín, Dung Thành thuộc châu Hùng, gần biên giới, trước đây dùng sứ thần làm huyện úy, chức trách khác với nội địa, việc trộm cướp ở thôn quê e khó giao hết cho tuần kiểm. Xin cho các huyện úy vẫn theo quy định cũ, chỉ không can dự vào việc huấn luyện.” Triều đình nghe theo.
[73] Chiếu cho Thẩm Quát: “Từ khi xuất quân và tiếp tục chiêu dụ được dân, trong đó có thủ lĩnh và những người từng phục vụ trong hang ổ Khương, sau khi quy thuận, hết lòng hiệu lực, đánh giặc có công, hãy xếp hạng năng lực cao thấp, công trạng ưu liệt, lần lượt sai sứ thần áp giải vào triều yết kiến.”
- Đó gọi là Ty nông không xét pháp, chữ 'pháp' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 thực hóa 65-24, 66-44 bổ sung. ↵
- Giá rẻ làm hại dân, chữ 'rẻ' nguyên bản là 'tiền', căn cứ vào các bản và sách trên sửa lại. ↵
- Dân chúng được hưởng lợi lớn, chữ 'lớn' trong sách trên viết là 'mười'. ↵
- Ép buộc mở cửa hàng bán muối, chữ 'bán' nguyên bản là 'mở', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 76 và 《Biên niên cương mục》 quyển 21 sửa lại. ↵
- Phạm Tuân, chữ 'Tuân' nguyên bản là 'Tuân', căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 182 và đoạn văn trên sửa lại. ↵
- 'Nghị hôn' nguyên bản là 'nghị mẫn', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Hậu miếu sơ hiến' nguyên bản là 'hậu miếu sơ hiến', theo bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'đinh' trong 'bảo đinh' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 binh 2.22 bổ sung. ↵
- 'Tiểu bảo trưởng trở lên đều do binh mà đặt', chữ 'thượng' nguyên bản là 'ngũ', căn cứ theo bản các và sách trên, cùng quyển 327 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 6 ngày Mậu Ngọ sửa lại. ↵
- Chí Hàm Phong môn hợp Kim Thủy hà 'hợp' nguyên tác 'lệnh', theo các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 16-1. ↵
- Chữ 'Lặc' trong 'Dụ Lặc Tàng Khách Mộc' ban đầu bị thiếu, nay căn cứ văn cảnh bổ sung. ↵
- Chữ 'nguyện' ban đầu viết là 'cố', nay căn cứ 《Tống Hội Yếu》 sửa lại. ↵