VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 328: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 5 (NHÂM TUẤT, 1082)
Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 5 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Tân Tỵ, Kinh lược sứ Quảng Tây tâu: “Tri châu Nghi Châu là Vương Kỳ đánh nhau với giặc bị thua, quân giặc rút về giữ sông lớn ở Hồi Huyệt. Theo tin do thám, hơn một vạn người của Mông Thừa Tưởng ở Khê Động muốn đánh trại Tư Lập, đã ra lệnh cho Hòa Bân chiếm cứ nơi hiểm yếu để chống lại.” Chiếu rằng: “Sai ngay Tri châu Nguyên Châu, Tây thượng các môn sứ Tạ Lân lo việc kinh chế Khê Động Nghi Châu, quân Nghi Châu đang hành quân đều nghe theo sự điều khiển của Tạ Lân, ủy thác chọn quan tạm quyền lĩnh châu Nguyên.” (Cùng ngày 17, 19 tháng 6, và ngày 5 tháng 7). Ban đầu, Phí Vạn bị người Man tập kích, Kinh lược ty nhiều lần gửi văn thư trách Vương Kỳ, Kỳ không chịu nổi. Vài ngày sau, hơn một vạn quân giặc đánh trại Phổ Nghĩa, giao chiến với quân triều đình, Kỳ xuất quân rồi bị thua, còn vài trăm quân thân binh, có người khuyên Kỳ cưỡi ngựa bỏ chạy, Kỳ liền mắng rằng: “Đại trượng phu nên tận tiết để báo quốc.” Rồi chết tại trận.
[2] Kinh lược ty Quảng Tây lại tâu, người Trương Phiền ở Tây Nam đến cống, xin thêm đến 300 người. Chiếu bảo trình bày số lượng cần tăng để báo. Sau đó bản ty tâu, theo lệ cũ chỉ lấy 70 người làm mức, không thể tăng. Bèn bãi bỏ.
[3] Chiếu cho Tri châu Hoàn Châu, Tây thượng các môn sứ Trương Thủ Ước tại nhiệm.
[4] Ngày Nhâm Ngọ, lấy Chủ bạ tướng thứ 6 châu Diên là Thôi Thuận Tôn làm Thông trực lang, thưởng công theo quân.
[5] Thượng thư tỉnh tâu: “Từ ngày mùng một tháng 5 thi hành quan chế, suy xét ý nghĩa của pháp luật, mỗi việc đều nghiên cứu, dựa vào gốc rễ, thêm các chi tiết, cần phải tỉ mỉ đầy đủ, thì thi hành mới rõ ràng. Từ khi thi hành đến nay, đã hơn một tháng, những mệnh lệnh ban ra tiếp theo, giải thích điều lệ, tuy chưa đầy đủ, nhưng cũng tạm đủ đại lược. Lo rằng lúc mới thi hành, cần phải xem xét, nay biên soạn thành hai tập, xin ban cho xét lại.”
[6] Đô thủy giám tâu: “Nước sông lớn xói vào đê Linh Bình Tảo, đã theo chiếu chỉ trước, phá đê Đại Ngô Tảo, để nước chảy xuôi, giảm bớt nguy hiểm.”
(Ngày Canh Ngọ tháng 8 năm thứ 7, Lữ Hi Đạo bãi chức Tri châu Thiền Châu, có thể tham khảo.)
[7] Chiếu bãi việc quan Đại Lý tự đến Trung thư tỉnh xét án, từ nay mỗi năm một lần, bản tự phải xử xong hết các án hiện có, rồi tâu lên Trung thư xin chỉ dụ.
[8] Vua bàn về hình phạt rằng: “Hình phạt xưa của tiên vương, không thể bỏ được. Người ta nhận hình thể từ trời, dùng pháp luật làm hư hỏng nó, nên gọi là nhục hình. Dương Tử nói: ‘Nhục hình là hình phạt.’ Chu Mục Vương dạy về hình phạt: lớn thì ngũ hình, kế là ngũ hựu, rồi đến chuộc tội, tổng cộng mười lăm bậc, nặng nhẹ có thứ tự. Đến Hán Văn Đế bãi bỏ. Nếu bỏ tệ của Tần, muốn dưỡng sức dân, thì được; nhưng xét theo phép của tiên vương, thì không thể nói là không sai. Thời Tam đại, dân có ruộng đất, phân biệt địa giới, rõ ràng thiện ác, người ta coi trọng việc di chuyển, nên lấy lưu đày làm nặng. Dân đời sau di chuyển không thường, lưu đày không đủ trị, nên dùng thêm dịch lưu; vẫn chưa đủ răn đe, nên có thích phối; vẫn chưa đủ đối phó, nên lại có phân biệt xa gần. Vì giáo hóa của tiên vương sáng suốt, tập tục đã thành, nên nhục hình không quá đáng.”
(Ngày Canh Dần, mùng 8 tháng 11 năm thứ 4, cần tham khảo.)
[9] Ngày Quý Mùi, chiếu rằng các huyện uý ở đất trọng pháp, đều sai sứ thần, nơi nào đương sai sứ thần giám sát, thì đối chiếu chọn người.
[10] Chiếu rằng Tam tỉnh, Xu mật viện tâu việc riêng, mỗi ngày không quá ba ban, gặp ngày Tam tỉnh cùng tâu việc riêng, việc Xu mật viện cần báo gấp, thì thêm một ban.
[11] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Tri Trấn Nhung quân Chủng Cổ chiêu nạp người đầu hàng từ phương Tây, xin ban thưởng. Bản ty trước theo chỉ triều đình, chiêu nạp năm trai tráng thì thưởng hai mươi tấm lụa, còn các bộ tộc do thám chiêu dụ, cùng sứ thần tiếp dẫn quản câu, chưa rõ phân chia thế nào.” Chiếu Kinh lược sứ căn cứ số lụa đáng cấp, lượng công sức người được sai, chia cấp nhiều ít.
[12] 1. Đề điểm hình ngục Phạm Thang của Hoài Nam Đông lộ tâu rằng ở Châu Túc có hơn bốn mươi tên giặc, xin được tuyển mộ binh lính ở Hoài Tây hoặc giới hạn phủ Khai Phong. Chiếu sai Bành Đạc đến Hoài Tây tuyển mộ ba trăm binh lính và ba mươi ngựa, ở huyện Trần Lưu không thuộc giới hạn tuyển mộ ba mươi binh lính và ba mươi ngựa để bắt giặc.
(Đạc là em của Tôn, đã được nhắc đến trước đây.)
[13] Ngày Giáp Thân, hoàng tử thứ chín ra đời, sai Giang Hạ quận vương Tông Huệ đến Thái Miếu báo cáo.
(Sách Cựu Kỷ chép: Ngày Giáp Thân, hoàng tử Tất ra đời. Sách Tân Kỷ không chép.)
[14] Thái phủ tự tâu: “Theo trạng của Đề cử thị dịch ty: Những khoản nợ của dân chúng do việc cho vay mua bán còn nhiều, đã được chỉ thị gia hạn ba năm để thu nợ. Trước đây có chỉ thị rằng sẽ tính toán số tiền thu được để truy thu và tưởng thưởng, xin đợi đến khi hết hạn ba năm mới thi hành.” Vua nói: “Triều đình đặt ra pháp thị dịch, vốn là để điều hòa giá cả hàng hóa, giống như chính sách tuyền phủ của nhà Chu. Quan lại không làm tròn chức trách, cho vay mua bán tràn lan, gây bất tiện cho cả công và tư. Tuy nói là có thu lãi, nhưng thực chất chỉ còn danh nghĩa. Nay đã đổi sang dùng vàng bạc, tiền giấy để mua bán, đó là phương pháp tốt nhất. Những quan lại trước đây thu nợ gây ra nợ nần, nay truy thu lại cũng là điều hợp lý.” Vì vậy, triều đình đồng ý.
[15] Chiếu phục chức cho người bị tước danh hiệu, cựu Như Kinh phó sứ Phí Vạn làm lại Như Kinh phó sứ. Kinh lược ty Quảng Nam tâu rằng Vạn đã chết. Trương Giáp không sớm lo liệu việc phòng bị giặc Man, khiến binh lính và tướng sĩ bị thất bại, lệnh cho chuyển vận ty điều tra tội trạng và tâu lên.
(Cùng ngày 17 tháng 6, lại ngày 2 tháng 7, và ngày 8 tháng 7.)
[16] Chiếu cho Lưu Thiệu Năng, Kiềm hạt kiêm Đệ tam phó tướng lộ Phu Diên, dời sang lộ Hoàn Khánh. (Ghi chép mật ngày 5 tháng 7.) Trước đó, Thiệu Năng bị Thẩm Quát và Chủng Ngạc vu cáo, đã sai Vũ Văn Xương Linh xét án, nên có mệnh lệnh này. Mười bảy ngày sau, chiếu cho Thiệu Năng trở lại lộ Phu Diên (Ghi chép mật ngày 22 tháng 7.) Năm sau, tháng giêng, ngày Kỷ Sửu, vụ án mới kết thúc.
(Ngày 3 tháng 4 năm thứ 5, ngày 1, 14, 22 tháng 6, ngày 5, 13, 22 tháng 7, ngày 18 tháng 12, ngày 13 tháng giêng năm thứ 6, đều có việc của Thiệu Năng, nay đặc biệt ghi lại tháng này.)
[17] Điện tiền ty tâu: “Có 1.205 điện thị từ khi bổ nhiệm đến nay chưa tham gia triều ban, xin giao cho các lộ Giám ty thu thập. Trừ những người thuộc dân tộc thiểu số, người Dao quy thuận được phép làm quan tại địa phương, và những người có quy định riêng được ở lại, cùng những người nhỏ tuổi hoặc bệnh tật, do quan ty xác minh cho giữ nguyên, còn lại đều phải trở về triều ban, và ấn định thời hạn.” Theo đó.
[18] Ngày Ất Dậu, ban cho Ty Chuyển vận Quảng Tây 2.000 độ điệp để cung cấp cho quân đội.
[19] Ngày Bính Tuất, chiếu cho các quan từ Suy, Phán quan phủ Khai Phong trở xuống đến Huyện thừa Khai Phong, Tường Phù, những người chưa thăng chức triều, so với các chức sự quan tại kinh, đều phải tham gia triều hội.
[20] Chiếu rằng: “Trước đây triều đình đại cử binh, vốn ý muốn thẳng đến Hưng, Linh, phá tan sào huyệt giặc, không phải là đánh cạn, chỉ lấy Hoành Sơn mà thôi. Xét theo địa hình, từ đường phía tây qua quân Bảo An, trại Thuận Ninh đến Hưng, Linh là gần nhất. Trước đây, Sùng Ngạc và các tướng ra khỏi biên giới, từ phía đông qua thành Tuy Đức, đến ngày 22 mới đến Bạch Trì, mà quân về chỉ 8 ngày đã vào cửa trại. Nếu không vì Vương Trung Chính và Sùng Ngạc ban đầu bàn kế tiến quân, sao lại bỏ đường thẳng mà đi đường vòng, hội quân ở Hạ Châu, chiếm dụng thời gian vô ích, làm quân sĩ và ngựa mệt mỏi, hao phí lương thảo, không thể thành công. Hãy trình bày rõ ràng để tâu lên.” Theo lời tấu của Từ Hi.
(Tháng 10 năm thứ 4, phê giao cho Thẩm Quát rằng, Sùng Ngạc thật không phải là kế hay. Cần xem xét lại.)
[21] Lúc đầu, Ngạc trở về Diên Châu, xin được vào chầu, dâng 11 chương sớ bàn việc, Vua nghe theo, nhưng Hi và Lý Thuấn Cử thực sự đến để bàn kế sách. Ngạc vào yết kiến, tâu rằng: “Hoành Sơn trải dài ngàn dặm, đất đai màu mỡ, dân cư mạnh mẽ, giỏi chiến đấu, nhiều ngựa, lại có lợi từ muối và sắt, người Hạ nhờ đó mà sinh sống; thành lũy của họ đều dựa vào nơi hiểm yếu, đủ để phòng thủ, nên khởi công từ Ngân Châu trước. Tiếp theo, dời Túc Châu đến Ô Diên, rồi tu sửa Hạ Châu, ba quận đứng vững như kiềng ba chân, thì đất Hoành Sơn đã nằm gọn trong tay. Lại tu sửa Diêm Châu, để chiếm lợi từ hai hồ muối[1], như vậy, binh lực hùng mạnh, chiến mã, lợi từ núi rừng của Hoành Sơn đều về tay Trung Quốc, thế lực từ trên cao nhìn xuống Hưng, Linh, có thể thẳng tiến phá hủy sào huyệt. Tiếp theo, xây dựng Lan Hội, để chiếm trọn đất Hoành Sơn.” Kế sách của Ngạc đại thể giống với Thẩm Quát, ngày Bính Ngọ tháng 5 (26 tháng 5), hai người từng dâng tấu chung. Khi Hi đến Diên Châu trước, xin gọi Ngạc về, trên đường đi thì Quát đã thay đổi ý kiến theo Hi, cho rằng thành cũ Ngân Châu không tiện, nên dời đến địa phận Vĩnh Lạc Đại cách phía đông nam hơn 10 dặm, lại bàn từ Vĩnh Lạc nối về phía tây đến Cư Diên, xây 12 thành lớn nhỏ, để chiếm giữ vùng núi, nhiều điểm khác với kế sách ban đầu của Ngạc. Đến lúc này, Hi lại hặc tội Ngạc làm lạc đường quân, và cả Trung Chính, thực ra là Hi không muốn Ngạc chia sẻ công lao.
(Hi tấu tội Ngạc và Trung Chính, theo truyện Cao Tuân Dụ. Hi xin xây thành Vĩnh Lạc, ghi rõ ngày Mậu Tý.)
[22] Đề cử Hi Hà đẳng lộ Cung tiễn thủ Doanh điền Phiền bộ ty là Khang Thức tâu: “Cùng với Kiêm đề cử Doanh điền là Trương Đại Ninh cùng bàn bạc lập pháp, xin ứng với những vùng đất mới thu phục, cử quan viên dùng chữ Thiên Tự Văn để phân chia ranh giới, chọn quân Sương biết việc nông nghiệp để cày cấy, mỗi người một khoảnh. Những người quản lý, tiết cấp và người được thuê giúp đỡ, việc thưởng phạt hàng năm đều áp dụng theo pháp quan trang của Hi Hà. Còn lại đều chiêu mộ Cung tiễn thủ, mỗi người cấp hai khoảnh, người có ngựa thêm năm mươi mẫu. Doanh điền cứ năm mươi khoảnh làm một doanh, cử một viên quan am hiểu nông nghiệp quản lý, cho phép ty này không theo thường chế mà cử người, sứ thần, xin cấp theo pháp Doanh điền ty của Thiểm Tây lộ. Nếu không đủ năm mươi khoảnh, giao cho quan thành trại gần đó kiêm quản, mỗi tháng cấp ba nghìn tiền ăn.” Được chấp thuận.
[23] Ngày Đinh Hợi, Triều tán lang, Tân trừ Công bộ Thị lang Hùng Bản được bổ nhiệm làm Long đồ các Đãi chế, Tri Quế châu. Hùng Bản từ Quảng châu được triệu về, chưa đến nơi, gặp lúc người Man ở Nghi châu quấy nhiễu biên giới, nên đổi mệnh lệnh này, thay thế Trương Giáp.
(Ngày 12 tháng 5 năm thứ 7, ban chiếu khen ngợi. Tháng này ngày Giáp Thân, hặc tội Trương Giáp.)
[24] Chiếu cho Triều phụng lang Vương Cạnh làm Tri Túc châu, nếu làm tốt chức vụ, dẹp trừ giặc cướp, sẽ được thăng chức.
(Tháng giêng năm thứ 6, bị giáng chức.)
[25] Ban cho Từ châu năm mươi độ điệp để tu sửa thành trì và quan xá. Theo lời thỉnh cầu của Tri châu Tôn Giác.
[26] Ty Huân tâu: “Ty Chuyển vận Tử châu lộ bảo đảm rằng các quan ở Lộ châu ứng phó quân kỳ, ra khỏi biên giới mạo hiểm, đến khi dẹp yên, thực sự có công lao.” Chiếu rằng: “Những người vào rừng sâu, mỗi cấp đều theo lệ của quân chủ bạ dưới quyền Lâm Quảng, ưu đẳng không tính hạn tuyển, thí giám bạ, theo đặc tấu danh đồng Tam lễ suy ân nhiếp quan. Ra khỏi biên giới so với vào rừng sâu giảm một cấp, cấp ba thăng nửa năm thứ tự, đầu biên giới mỗi cấp thăng một quý thứ tự, quân đại tướng đều được giảm năm khảo hạch, người bị lột chức đợi khi được dùng lại thì theo đó. Người vào rừng sâu chết trong địa giới Man, mỗi người được ban một trăm tấm lụa; vào rừng sâu rồi chết, sáu mươi tấm; ra khỏi biên giới rồi chết, bốn mươi tấm.”
[27] Chiếu rằng: “Chức Dịch kinh nhuận văn sứ và chức Đồng dịch kinh nhuận văn đều bãi bỏ, từ nay lệnh cho Lễ bộ Thượng thư kiêm quản việc này, hủy bỏ ấn của Ty Dịch kinh sứ.”
[28] Chiếu rằng: Các cơ quan có chữ “Thượng thư” trong tên, đều phải làm tờ trình, Môn hạ và Trung thư ngoại tỉnh cũng theo như thế.
[29] Ngày Mậu Tý, Từ Hi và những người khác ở Phu Diên lộ bàn việc biên giới tâu rằng: “Thành cũ của Ngân châu địa thế không thuận tiện, nên dời đến xây dựng ở trên đập Vĩnh Lạc[2]. Bởi vì Ngân châu tuy nằm ở nơi hợp lưu của sông Minh Đường và sông Vô Định, nhưng phía đông nam thành đã bị nước sông xâm lấn, phía tây bắc lại bị ngăn cách bởi thiên hiểm, thực sự không bằng địa thế hiểm yếu của Vĩnh Lạc. Thần trộm nghĩ rằng ba châu Ngân, Hạ, Hựu đã bị mất hơn trăm năm, một ngày khôi phục lại, đối với công lao của tướng biên giới thực sự là vĩ đại, khí thế quân sĩ cũng đã tăng lên gấp trăm lần. Nhưng khi mới lập châu, chi phí rất lớn, có những việc không liên quan đến lợi hại phòng thủ mà chỉ tốn kém cung ứng. Thành kiên cố phòng thủ, thì giặc không dám tấn công; quân đông tướng mạnh, thì giặc không dám giao chiến, vốn không phải vì có châu thành hay quân trại mà phân biệt nặng nhẹ. Nay nếu chọn nơi hiểm yếu, xây dựng pháo đài và trại lính, tuy danh nghĩa không phải là châu, nhưng thực tế đã chiếm được đất đó. Các trại biên giới trước đây vốn nằm sâu trong nội địa, ngày sau lập châu cũng chưa muộn.
Đã cùng với Thẩm Quát và những người khác quyết định: Từ đập Vĩnh Lạc, Thanh Tháp Bình, Di Thị, Thạch Bảo, Ô Diên đến Trường Thành Lĩnh đặt sáu trại, từ Bối Võng Xuyên, Lương Khiết, Mạnh Khiết, La Vi, La Bạc Xuyên, Bố Nương Bảo đặt sáu pháo đài. Trại lớn thì chu vi thành 900 bước; trại nhỏ thì 500 bước. Một trại cần khoảng hơn 13 vạn công. Pháo đài lớn thì chu vi thành 200 bước, pháo đài nhỏ thì 100 bước. Một pháo đài cần khoảng 13 nghìn công. Chu vi thành của các pháo đài và trại lính phải chiếm hết địa thế, để làm nơi vững chắc lâu dài. Những chỗ mà trại 900 bước và pháo đài 200 bước không thể bao quát hết địa thế, thì tùy nghi mở rộng thêm. Cũng có những nơi bốn mặt là vách đá hiểm trở, có thể đẽo gọt làm thành, vật liệu xây dựng chỉ cần như ước tính là đủ.” Triều đình nghe theo.
(Thẩm Quát tự chép rằng: “Trước đây, triều đình ra chiếu cho các tướng bàn cách tiêu diệt người Hạ, Phu Diên xin xây thành Thạch Bảo để uy hiếp họ. Giặc dựa vào chướng ngại của Hạn Hải, thắng thì tiến, bại thì rút vào sa mạc, khiến quân ta tiến vào có chướng ngại của Thạch Bảo, thì không thể đóng quân ở phía nam sa mạc, sa mạc vốn là nơi giặc chiếm giữ, nay đã thành của ta. Triều đình sai Từ Hi, Lý Thuấn Cử đến bàn bạc, Hi muốn xây Vĩnh Lạc trước để đánh vào tim gan của chúng. Quát cho rằng Vĩnh Lạc là nơi giặc tất tranh, đường hiểm trở xa xôi, thắng không thể hỗ trợ nhau, bại không thể cứu nhau, không phải là nơi lợi hại để chiến đấu và phòng thủ. Nếu nhất định muốn xây Vĩnh Lạc, nên bắt đầu từ Thạch Bảo, tiếp đến La Bạc, La Vi, xây dựng từng bước về phía đông, nối liền các núi Chương, sau đó mới có thể xây Vĩnh Lạc, không thể hoàn thành trong vài năm. Bàn bạc ba tháng, các tướng đều muốn thành công nhanh chóng, cuối cùng nghe theo kế của Hi.” Xét: 《Chủng Ngạc truyền》 chép rằng Hi và Quát quyết định, thì Quát ban đầu không hề cho rằng xây Vĩnh Lạc là sai, sau khi thất bại mới nói như vậy, nay không chép. Ngày 26 tháng 5, lần đầu sai Hi và những người khác đi. 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Mậu Tý, xây thành Vĩnh Lạc. 《Tân kỷ》 đến ngày Giáp Tuất tháng 8 mới chép việc xây thành Vĩnh Lạc.)
[30] Chiếu cho Ngự sử trung thừa Thư Thiện cử mười viên quan có thể đảm nhiệm việc ngôn sự hoặc sát quan.
(Sách 《Tân kỷ》 chép việc này, sách 《Cựu kỷ》 không chép.)
[31] Chiếu cho Lý Sát sai đoàn kết ba vạn quân sương quân, lệnh cho quan đoàn kết áp giải đến Phu Diên lộ, nghe theo Lý Tắc phân công việc.
[32] Chiếu cho quân mã tu sửa trại ở Phu Diên lộ, theo lệ xuất giới ban thưởng tiền đặc chi[3].
[33] Ngày Kỷ Sửu, Mã quân đô ngu hậu, Vệ châu phòng ngự sứ, Hoàn Khánh lộ tổng quản Lâm Quảng mất. Quảng từ Lô Nam trở về, gặp lúc biên giới phía Tây có chiến sự, Quảng lại dâng sớ xin được đối đáp, trực tiếp trình bày phương lược, và nói: “Hàn Tồn Bảo tuy có tội, nhưng công lao cũng nhiều. Với các tướng của triều đình hiện nay, Tồn Bảo không đến mức phải chết.” Do đó, triều đình sai Quảng trở về nhiệm sở cũ, nhưng ông bị ung thư cổ và mất trên đường đi. Quảng là tướng cẩn trọng, giỏi điều khiển quân sĩ, binh lính đều vui lòng phục vụ dưới quyền. Tuy nhiên, khi ở Lô Nam, ông dùng chiếu thư chiêu dụ man tộc đầu hàng rồi giết họ, đến khi mất, cổ ông bị đứt, người đời cho rằng đó là báo ứng vì giết kẻ đầu hàng.
[34] Ngày Tân Mão, Khảo công viên ngoại lang Thái Kinh tâu: “Thần phụng chiếu biên soạn các chiếu thư ngự bút của trung thư, tổng cộng một nghìn ba trăm bốn mươi sáu việc, từ năm Trị Bình thứ tư đến năm Hi Ninh thứ mười, thành hai mươi mốt tập, xin ban giao cho Trung thư tỉnh.” Triều đình đồng ý.
(Ngày Tân Mão, tháng giêng, năm Nguyên Phong thứ nhất, Kinh lần đầu kiến nghị.)
[35] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Theo lời khai của bộ tộc phiên là Sách Mộc Đa Y Khắc bị bắt được, vốn là cung tiễn thủ, mười năm trước bị giặc Tây bắt, thuộc quyền của Nha đầu, Chi hậu điện trực Khuất Mai. Gần đây nghe nói Nha đầu đang tập hợp quân của mười hai giám quân ty, định đến Phu Diên.” Chiếu rằng: “Sách Mộc Đa Y Khắc có thể là thủ lĩnh của giới Tây, nhân bị bắt nên giả xưng thuộc quyền Khuất Mai. Lệnh cho Kinh lược ty điều tra sự thật, và hỏi rõ việc của giới Tây rồi tâu lên.”
[36] Ngày Nhâm Thìn, ban cho Ty đề cử Hà Bắc Đông lộ một nghìn độ điệp, đổi lấy tiền giao cho Ty đê phòng Hoàng Hà để ứng phó việc đào sông mới.
[37] Chiếu: “Hình bộ dựa theo lệ xử lý công án đều dùng tấu sao, còn các công án do Đại Lý tự trình lên, không cần lên điện, xử xong đều gửi về Hình bộ. Nếu lệ không thể áp dụng, hoặc tội không hợp pháp, nặng nhẹ cần xem xét, thì trình lên Trung thư tỉnh.”
[38] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Giám áp trại Ninh Phủ, Tam ban phụng chức Trương Thiên Dực theo Cao Tuân Dụ đánh Linh Châu tử trận, biên giới dò biết giặc Tây đã đưa Thiên Dực cho Khiết Đan.” Chiếu Vương Cư Khanh quản thúc gia quyến Thiên Dực, báo số người lên triều đình. Lại chiếu cho mượn 15 gian nhà của Điếm trạch vụ, giao Khai Phong phủ quản lý. Sau chiếu cho con ông được hưởng ân điển tử trận.
[39] Ngày Quý Tỵ, Xu mật viện tâu: “Giặc ở Hoài Nam bắt dân lành, đi qua nhiều châu, Bành Đạc truy bắt chưa được. Xin hạ lệnh cho lộ này chiêu mộ người tố giác bắt giặc, bắt được thủ lĩnh thưởng 600 nghìn tiền, cho làm quan; thứ lĩnh 300 nghìn; đồng bọn tự bắt giết nhau cũng được thưởng như vậy.” Vua phê: “Phạm Thang tâu, ngày Mậu Tý tháng này, truy bắt giặc ở Phụ Gia Khúc, chém giết sạch sẽ, không cần chỉ huy nữa.”
(Ngày Mậu Tý tháng này là ngày 9 tháng 7.)
[40] Chiếu Vương Trung Chánh thôi chức Nhập nội phó đô tri kiêm Hoàng thành ty, làm Chiêu tuyên sứ, Kim Châu quan sát sứ, đề cử Tây Thái Nhất cung, được miễn tạ từ, tùy ý cư trú. Từ Hi tâu Trung Chánh hành quân tránh đường thẳng đi đường vòng, chiếu Trung Chánh giải trình, mà Trung Chánh cũng tự tâu bị bệnh mắt, xin thôi chức nội, nên có mệnh này.
[41] Chiếu: “Các việc giám sát đài đều do Thượng thư tỉnh lấy xét, việc nhỏ trước hẹn pháp gửi Trung thư tỉnh xin chỉ.”
[42] Chiếu: “Các quan đổi chức mà tên chức phải kiêng, thì dự định chức kế tiếp, tư cách phẩm hàm ân điển đều theo phép đổi chức hợp lệ.”
[43] Chiếu rằng: “Các công trình thành lũy ở Lan Châu chưa hoàn thành, nay đang vào thời điểm phòng thủ mùa thu, hãy sai Triệu Tế thuê mướn người xây dựng, hoàn thành vào tháng bảy[4].”
(Việc xây thành Lan Châu, ban đầu bàn định quy mô lớn, Vương An Lễ nói: “Giảm bớt công sức xây dựng, làm thành nhỏ mà kiên cố thì dễ phòng thủ.” Vua nói: “Khanh muốn bỏ Lan Châu chăng?” An Lễ đáp: “Lan Châu không thể bỏ. Thần cho rằng giảm bớt công việc thì dồn sức tập trung, kéo dài thời gian hao tổn nhân lực thì người Khương sẽ lợi dụng lúc ta sơ hở. Thành mà kiên cố, dù nhỏ cũng đáng dựa vào, nếu yếu kém thì dù lớn cũng có ích gì?” Không lâu sau, quan biên thần tâu xin giảm quy mô xây Lan Châu, quả nhiên như lời An Lễ. Việc này căn cứ theo hành trạng của An Lễ ghi chép thêm, cần xem xét thêm.)
[44] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng: “Cảnh Linh cung đã hoàn thành, lễ nghi triều bái và dâng cúng hàng năm, hãy sai quan Lễ bộ và Cáp môn tham khảo rồi dâng điều lệ lên.”
(Ngày Canh Thân tháng tám, dâng điều lệ lên.)
[45] Chiếu cho Ty An phủ Quảng Nam Tây Lộ sắp xếp việc ở Ty Khê Động Nghi Châu: “Đã sao chép và giao lại quy chế thưởng công hiện hành ở Thiểm Tây, căn cứ vào việc thăng thưởng cho các quan trước sau, và tâu lên những người cần ban sắc chỉ.”
[46] Các trại Gia Lô và Ngô Bảo mỗi nơi chiêu mộ 200 người Phiên Lạc.
[47] Quỳ Châu lộ Chuyển vận phán quan Tịch Nhữ Minh tâu: “Theo chỉ dụ triều đình: ‘Căn cứ việc Bành Tôn kết nạp Nghĩa quân Chỉ huy sứ Cúc Nãng Nhị, Cúc Nãng Đại, Bả Tiệt tướng Vương Dụng Tường đã bắt được và bắn chết người Lão là Ngụy Tòng Cách, Mộc Bát Ngôn, còn có những người Lão chưa bắt được là Mộc Cầm Đại, Mộc Cầm Nhị, Mộc Dao. Cúc Nãng Nhị và những người khác tự nguyện hiệu lực, chắc chắn sẽ bắt được. Lệnh cho Tịch Nhữ Minh ứng tiếp thi hành, liền sai sứ Phùng Chính Phù cùng Vương Dụng Tường thuyết dụ theo chỉ dụ triều đình, phong cho Cúc Nãng Nhị chức Tam Ban Tá chức.’ Nay theo việc Cúc Nãng Nhị chém được thủ cấp của Mộc Dao, Cúc Nãng Nhị và Cúc Nãng Đại tự nguyện đầu thuận, hướng theo giáo hóa, không màng đến nghịch đảng, dốc lòng bắt giặc, thực sự có công lao. Việc bắn chết bốn tên giặc Lão Ngụy Tòng Cách đã bắt được một nửa; sai sứ Phùng Chính Phù trước đây vì am hiểu tình hình người Di, được sai quyền làm Giám áp trại Quy Chính, liền lệnh cho đảm nhiệm chức Tướng thứ hai mươi bảy; lệnh cho bộ tộc của Cúc Nãng Nhị và những người khác cẩn thận làm việc, trước hết hãy xem xét kỹ lưỡng để ban ân.” Chiếu phong Cúc Nãng Nhị làm Hữu Ban Điện trực, Tuần kiểm giới Di quân Nam Bình, Cúc Nãng Đại và Vương Dụng Tường đều làm Nghĩa quân Chỉ huy sứ, Phùng Chính Phù thăng một bậc, làm Giám áp trại Quy Chính.
(Năm trước, tháng 8, ngày Tân Tỵ 27, lại tháng 12, ngày Giáp Tuất 22, lại năm sau, tháng nhuận 6, ngày Mậu Dần 4 có thể tra cứu.)
[48] Trước đây, khi dùng binh ở Lô Nam, Lâm Quảng làm thống soái, triều đình cử Bành Tôn tiếp quản, nhưng phải tuân lệnh của Lâm Quảng. Bành Tôn ghét việc phải phụ thuộc vào Lâm Quảng, bèn lừa dối rằng: “Sào huyệt của Khất Đệ ở phía tây nam Lô Nam, nếu từ Nam Bình tiến qua Bá Châu, sẽ đánh bất ngờ, chắc chắn sẽ thành công.” Triều đình nghe theo. Tri châu Nam Bình là Ngụy Tòng Cách nhận lệnh của Bành Tôn, dẫn quân sửa đường. Mộc Cầm và những người khác sợ hãi khi quân đến, nổi dậy giết quân Hán, bắn chết Ngụy Tòng Cách, cả vùng náo loạn. Các quan bàn rằng người Di giết tướng Hán, nên phát binh đánh dẹp. Riêng Nhữ Minh tâu lên triều đình: “Mộc Cầm không cùng phe với Khất Đệ, chỉ vì quân Hán đến bất ngờ nên gây ra sự việc này. Nếu quan quân ra quân đánh dẹp, thì sẽ sinh ra một Khất Đệ khác. Thần cho rằng nên chiêu mộ người khác để đối phó, thì không tốn nhiều mà vẫn bắt được tội nhân.” Triều đình cho là phải, giao phó việc này cho Nhữ Minh. Ông triệu tập thủ lĩnh của họ là Cúc Nãng vào trong phòng, cởi dây lưng, mời ăn uống, tỏ rõ ân tín. Chưa đầy vài tháng, Cúc Nãng chém đầu Mộc Cầm dâng lên. Vua khen ngợi, thăng chức cho Nhữ Minh một bậc.
(Theo bia mộ của Lã Đại Phòng, cần xem xét thêm, hoặc ghi chép khi Nhữ Minh được thăng chức.)
[49] Vua nói với các quan phụ chính: “Đường Minh Hoàng về già ham chơi, dẫn đến loạn lạc. Như triều ta không có những việc xa xỉ như xây cung điện riêng, du ngoạn như các triều trước, không phải vì không muốn làm, mà vì không có sức làm. Bởi phía bắc có kẻ địch mạnh, phía tây có Khương quỷ quyệt, triều đình bận rộn đối phó không ngơi. Nhưng thế lực của hai kẻ địch này khó đối phó vì họ vừa có thành trì, vừa có thể di chuyển. Từ xưa, các nước ngoài chỉ có thể di chuyển, nay họ lại có cả những thứ của Trung Quốc, so với thời Hán, Đường còn mạnh hơn.”
[50] Ngày Bính Thân, châu Thành tâu: “Trước đây phụng chỉ triều đình, lệnh cho các lộ Hoài Nam đưa 300 tội nhân đến. Sau đó chỉ đưa bốn quân sĩ, xin cho phép các lộ sương quân được đổi người.” Triều đình đồng ý.
[51] Thông trực lang Trương Nhiêu dâng tâu:
[52] Người Hạ chưa chịu khuất phục trước sự trừng phạt của trời, đã trải qua nhiều năm. Bệ hạ phát huy thần vũ, lại dấy lên quân đội nhà Vua, năm ngoái tiến quân đánh dẹp, phá thành đẩy lui quân địch, lợi ích từ việc công chiếm[5], đã có hình thái rõ ràng, dù Hưng Linh chưa hạ được, quân địch bị khốn đốn vì bị giày xéo, đây là việc nhân sự đã đạt được. Binh pháp không ghét mưu kế, thần xin nói về những sai lầm: lời hứa chiêu hàng không được thiết lập, vị trí then chốt không xây thành, kỷ luật trách nhiệm của quân đội chưa rõ ràng, ân huệ ban thưởng công lao đã quá hậu, quyền thống nhất chỉ huy không thống nhất, phương pháp cung cấp lương thảo chưa được bàn bạc.
[53] Xưa kia, để thu phục vùng đất xa xôi, không gì bằng ân tín. Nước Hạ phản loạn, lòng dân ly tán, tình thế hiện nay chính là lúc nên dùng ân tín để chiêu dụ. Thần thấy tướng biên cương xuất quân, thưởng cho việc chém đầu nhiều, thưởng cho việc chiêu hàng ít, nên những kẻ đầu hàng[6], đều chém đầu để tiến lên, nơi nào có lợi, tất sẽ đổ xô đến, nhưng đối với kế sách quốc gia, đó là sai lầm lớn. Thần muốn xin ban chỉ dụ rõ ràng, răn dạy tướng sĩ, người đầu hàng sống được hưởng thưởng ngang với việc chém đầu. Người đầu hàng được hưởng lợi ích an ủi, họ sẽ dắt già dẫn trẻ, quy thuận thánh hóa, nên thần nói “thiết lập lời hứa chiêu hàng”.
[54] Người Hạ trăm năm hùng mạnh, sức mạnh đủ để chống lại Trung Quốc, thế lực của họ nằm ở vùng núi. Vùng núi đất đai màu mỡ, dân cường tráng, có thể cày cấy và chiến đấu. Từ khi quân đội nhà Vua xuất chinh, người Hạ đã đuổi hết trai tráng ra ngoài sông để củng cố sào huyệt. Nay có thể đoán được những nơi họ khống chế, nhanh chóng xây dựng đồn lũy, sau đó xây dựng Ngân Châu, Hạ Châu, Hựu Châu cùng Hồng Châu, Diêm Châu, thu lợi từ muối và sắt, để làm giàu lương thực biên cương, thông đường Thanh Viễn, tu sửa Vi Xuyên[7], nhìn xuống đồng bằng, thành trì Linh Vũ có thể hạ được. Trước đây quân đội rút về, không tính đến việc này làm kế sách sau, nên thần nói “xây dựng vị trí then chốt”.
[55] Dùng trí phân tán thì mưu lược sẽ sơ hở, dùng sức phân tán thì khí thế sẽ suy yếu. Trước đây qua cảnh bị bắt giữ, tàn phá đã quá nhiều, thần cho rằng nên nhân lúc này, phân định ranh giới núi, giao cho các tướng, bàn định nơi có thể xây dựng thành trại, lần lượt khởi công, nghiêm ngặt đặt thời hạn, giao trách nhiệm hoàn thành, nhân cơ hội đánh vào chỗ yếu, nhiều đường cùng tiến, khiến địch không biết phải ứng phó thế nào. Hiện nay nghị luận của triều đình chưa quyết định, các nơi chưa biết hướng đi, nên thần nói “luật trách nhiệm của quân đội chưa rõ ràng”.
[56] Tướng sĩ ra trận liều mạng, thực sự là do ân thưởng hậu hĩnh của quốc gia khích lệ, nếu khiến họ luôn có điều mong đợi, thì sẽ tiến lên không ngừng. Đã thỏa mãn dục vọng của họ, họ sẽ mưu toàn. Thần cho rằng việc thưởng tướng súy, không nên lấy số đầu lâu làm tiêu chuẩn, mà phải chiếm được thành, lấy được đất, bắt được thủ lĩnh, hoặc đạt được đại thắng, mới nên ban thưởng quan chức hậu hĩ. Nếu không, chỉ tích lũy đầu lâu, rồi được phong chức lớn, đó là nguyên nhân khiến tướng biên thùy coi thường giặc, tự phong tước, là mối họa lớn, nên thần nói “ân thưởng công lao đã quá hậu”.
[57] Pháp lệnh không thống nhất, người ta sẽ không biết phải làm gì, huống chi là trong lúc hành quân nơi biên cương? Chỗ này nói có thể tiến, chỗ kia nói phải dừng; chỗ này nói có thể đầu hàng, chỗ kia nói phải giết. Quyết định hỗn loạn, không kịp trở tay, đối mặt kẻ địch mà hỏng kế hoạch, thần thầm tiếc cho bệ hạ. Nên thần bàn về quyền thống chế.
[58] Thần đã nói về việc tăng cường xây dựng ranh giới núi, dần chiếm giữ yếu điểm, để mưu đồ tiến đánh, thì việc các nơi tu sửa thành lũy, hiện nay là ưu tiên. Xây dựng theo thứ tự, thì khoảng cách không xa, phương pháp vận chuyển lương thực không cần chở từ xa, giá lương thực cũng tăng lên. Tính toán chi phí địa lý, thì thương nhân sẽ chạy đến biên giới, không cần thúc ép mà tự đến, so với việc trước đây chiêu mộ dân phu, lợi ích cách xa nhau. Nên thần bàn về phương pháp cung cấp lương thực.
[59] Sáu điều này là tình thế hiện nay ở biên giới phía tây, xin được tóm lược trình bày với bệ hạ. Tuy nhiên, thần còn muốn nói sâu hơn: Khi Triệu Đức Minh chết, Nguyên Hạo còn nhỏ tuổi. Triều đình chỉ chú trọng khoan dung, nuôi dưỡng đã thành thói quen, khiến họ ngang ngược khó kiểm soát, đó chính là trách nhiệm trăm năm không giải quyết dứt điểm. Hiện nay, người Hạ loạn lạc, ngày mất nước không xa, không thể kéo dài việc trừng phạt, nếu e ngại không hành động, trong vài năm nữa, họ sẽ lại gây họa biên giới, thì nỗi lo phía tây của quốc gia sẽ không bao giờ dứt, mong bệ hạ quyết tâm thực hiện. Mạnh Tử nói: “Dù có trí tuệ, không bằng biết nắm thời cơ; dù có công cụ, không bằng đợi thời điểm.” Thời cơ hiện nay, không thể bỏ lỡ. Trên phê duyệt gửi đến Trung thư tỉnh, bèn thăng Trương Nhiêu làm Thông phán châu Hoàn.
(Trương Nhiêu là người nào, cần tra cứu thêm. Ngày Tân Hợi tháng sáu đã thấy.)
[60] Ngày Đinh Dậu, Lý Hiến tâu: “Nơi quân giặc phương Tây đóng quân, chỉ có hai núi Thiết Mao, Thiên Đô và sông Một Yên, Hồ Lô, tập hợp không dưới vài vạn người. Để ứng phó hiện nay, cần lệnh cho Miêu Thụ, Lý Hạo đem quân đến thành Định Tây, Lan Châu ứng cứu, thần sẽ chỉ huy ba bốn đạo quân, hợp với quân Hi, Tần, thẳng tiến đánh núi Thiết Mao, Ngạc Cách Thập. Nếu quân giặc rút về giữ Thiên Đô, thì hợp binh tiến đánh. Việc xây dựng thành trại, đợi khi ra khỏi biên giới sẽ tùy cơ xử lý, nếu thuận lợi thì xây dựng, không thuận lợi thì rút quân. Nếu lời tâu này được chấp nhận, ngoài việc không điều động binh lính từ Phu Diên, Hoàn Khánh, còn lại xin vẫn thi hành như cũ, mới có thể thành công.” Chiếu rằng: “Kế hoạch của Lý Hiến quá nhỏ, việc xin triều đình hỗ trợ lại quá lớn. Hãy theo chiếu tháng sáu, bãi chức Kinh lược chế trí sứ lộ Kinh Nguyên, trả về cho Đô đại kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội, đợi qua mùa phòng thu sẽ về kinh.”
(Ngày 29 Kỷ Dậu, lệnh Lý Hiến tạm ở Kinh Nguyên.)
[61] Lý Hiến xin điều động dân chúng Quan Trung vận chuyển lương thực đến Lan Châu, dự trữ đủ dùng trong năm tháng, triều đình định nghe theo. Vương An Lễ nói: “Thần nghe rằng trong chiến dịch Linh Châu, phu dịch bị chém mà vẫn đứng thẳng không động. Họ vốn không sợ chết, sao lại dùng cái chết để uy hiếp họ? Nay vùng Quan Phụ về phía tây, thanh niên trai tráng di chuyển, giá cả leo thang, lại muốn điều động những người khó sử dụng, chở những vật quý giá, vượt qua vùng đất giặc, thần chưa thấy việc đó khả thi. Thần nghĩ rằng số quân đồn trú ở Lan Châu[8], số lượng chưa nhiều, nếu thực sự có thể phòng thủ, thì lương thực hiện có vẫn đủ dùng; nếu không, thì chỉ đủ làm mồi cho giặc[9]. Mong bệ hạ để Lý Hiến tự điều động.” Lý Hiến quả nhiên cho là khó, sau đó đổi dùng lính và phu, vận chuyển theo thời vụ.
(Việc này căn cứ theo 《An Lễ hành trạng》, cần xem xét thêm.)
[62] Tiếp tục cấp 100 tờ tuyên đầu không tên, giao cho Kinh lược ty lộ Hà Đông.
[63] Ngày Mậu Tuất, ban chiếu cho các cơ quan Đô đại kinh chế ty của các lộ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Hi Hà Lan Hội và Kinh lược chế trí ty của lộ Kinh Nguyên: “Theo những tin tức từ các lộ báo lên, quân giặc đóng nhiều ngựa gần biên giới, đồng thời lộ Phu Diên đang bàn việc tiến quân vào vùng núi, cần các lộ điều binh mã đến hỗ trợ. Lệnh cho lộ Kinh Nguyên đóng quân tại các trại Trấn Nhung, Định Xuyên, Hi Ninh, Cao Bình, mỗi nơi một đạo quân, giao cho Lưu Xương Tộ chỉ huy toàn bộ, cần hơn ba vạn binh mã; lộ Hoàn Khánh đóng quân tại các thành Đại Thuận, Lệ Nguyên, Nhu Viễn, An Cương, mỗi nơi một tướng, lệnh cho Kinh lược ty cử tướng lĩnh cao cấp chỉ huy toàn bộ, cần hơn hai vạn binh mã. Lộ Hi Hà từ Lan Châu về phía đông, trước đây dự định xây dựng các pháo đài, trong đó có ba nơi chưa khởi công, lệnh cho Đô đại kinh chế ty xem xét điều động binh lính của lộ này. Nhân dịp phòng thủ mùa thu này, có thể tận dụng quân Sương của lộ Phu Diên được điều đến để khởi công, chưa biết có thuận tiện không, và Chuyển vận sứ có thể hỗ trợ hay không, lệnh cho một mặt tính toán và thi hành xong rồi tâu lên.”
(Sách 《Mật ký》 chép “hơn hai vạn”, sau đó có đoạn này, nhưng 《Thực lục》 không có, nay phụ chép vào.)
[64] Ban chiếu lấy tháng sáu và tháng bảy năm nay, lệnh cho Trương Giáp điều tra Tri châu Quỳnh Châu Lưu Uy và bản tường trình của Uy, cùng với tấu chương của Quảng Tây Chuyển vận ty về công trạng của Uy, hai bản tấu của Uy về việc xây dựng trại muối, đều sao chép gửi cho Ngô Tiềm xem xét thực hư rồi tâu lên. Trước đó, Trương Giáp tấu rằng Uy gây chuyện với người Man, nên ban chiếu điều tra, nhưng Chuyển vận ty lại tấu xin ban thưởng; sau đó Uy lại tự tâu rằng việc xây dựng trại đã hoàn thành, thủ lĩnh động Phù Tiếp đều nhận tội xin hàng, không dám chiếm cứ đất đai, nên đổi mệnh cho Tiềm xem xét sự việc có khác biệt gì không.
(Ngày Nhâm Thân, Giáp Tuất tháng sáu, và ngày Tân Mão tháng chín.)
[65] Ngày Canh Tý, Thông trực lang, Khảo công viên ngoại lang Thái Kinh được bổ nhiệm làm Khởi cư lang, vẫn kiêm nhiệm Tường định quan chế. Trước đó, Thái Kinh làm chức Kiểm thảo văn tự ở Quan chế sở, nên Vua phê rằng: “Kinh đã lâu ở Quan chế sở, am hiểu việc sáng lập pháp chế. Em trai là Biện tuy hiện đang làm Tường định, nhưng vì là cơ quan tạm thời, chỉ xem xét văn tự, không liên quan đến chính sự, nên dù anh em cùng làm việc cũng không có gì trở ngại.”
[66] Cáp môn thông sự xá nhân Thôi Tượng Tiên, Chu Hựu đều được làm Lễ tân phó sứ, Đái ngự khí giới, Câu đương Hoàng thành ty, do có chỉ trên phê rằng “trước đây từng phục vụ ở Đông cung”.
(Tháng 10 ngày Giáp Tí bị hặc tội trì trệ, tháng 11 ngày Bính Thân[10] xin chỉ, sang năm tháng 2 ngày Canh Tuất xử đoán.)
[67] Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Cát Châu thứ sử, Nội thị phó đô tri Thạch Đắc Nhất được làm Nhập nội phó đô tri, Đông tác phường sứ, Gia Châu thứ sử, Đái ngự khí giới Lưu Hữu Phương[11] được làm Nội thị áp ban. Lại có chiếu rằng từ nay việc thăng bổ chức đô tri, áp ban đều do Tam tỉnh và Xu mật viện cùng xin chỉ.
(Tháng 3 ngày Ất Mùi đã có chiếu: “Từ nay Nhập nội nội thị tỉnh mới bổ nhiệm đô tri, áp ban, Trung thư, Xu mật cùng tiến trình.” Lại tháng 11 ngày Ất Mùi, việc bổ nhiệm đô tri, áp ban giao về Xu mật viện.)
[68] Chiếu rằng: “Sổ sách ghi chép việc tập luyện của bảo giáp ở trường tập binh đoàn thuộc phủ Khai Phong, giấy tờ và tiền công chưa biết lấy từ đâu, đề cử ty phải tường trình để báo lên.” Trước đây, chi phí tập luyện bảo giáp đều do quan cấp, chỉ riêng khoản này không rõ nguồn, Vua sợ gây phiền nhiễu nên dù nhỏ cũng ra lệnh xét xử.
[69] Quan lại ở Đại Lý tự xử đoán công án được ban tổng cộng 400 nghìn tiền, chia đều theo thứ bậc.
[70] Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Trước đây bỏ việc vận chuyển bằng đường sông Quảng Tế, chuyển sang từ sông Thanh Hà vào Hoài, Biện để nhập kinh. Thần mỗi lần gặp các quan ở Kinh Đông am hiểu lợi hại để hỏi ý kiến, đều cho rằng chưa tiện, như sông Quảng Tế dòng chảy êm ả đi lên, cùng với sông Thanh Hà ngược dòng vào Biện, xa gần hiểm trở dễ dàng rõ ràng có khác biệt. Mong xét lại.” Chiếu lệnh cho các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử liễn vận, so sánh lợi hại giữa việc vận chuyển bằng sông Quảng Tế cũ và sông Thanh Hà hiện nay[12].
(Ngày 10 tháng 2 năm thứ 5, bãi bỏ việc vận chuyển bằng sông Quảng Tế.)
[71] Ty Chuyển vận Quảng Tây tâu, người Man ở châu An Hóa làm giặc, xin tạm thời cấm họ vào đất tỉnh để buôn bán. Chiếu cho Ty Kinh lược An phủ lộ Quảng Nam Tây và Ty Khê Động châu Nghị xem xét rồi chỉ huy.
[72] Bổ nhiệm con của quân viên chỉ huy Ninh Hoài châu Từ là Bàng Đức làm Tam ban sai sứ, ban tên là Tự Trung. Vì Đức bắt giết cường đạo, bị giặc hại.
[73] Ty Kinh lược lộ Kinh Nguyên tâu, Tuần kiểm trại Tam Xuyên là Vương Quý khinh suất dẫn quân vượt hào, đánh nhau với giặc phương Tây, khiến bị thương tổn nhiều. Chiếu rằng những người bắt được giặc và bị thương tổn đều được thưởng theo quy định.
[74] Đô Chuyển vận sứ lộ Hà Bắc là Kiển Chu Phụ tâu: “Việc vận chuyển muối Quảng ở lộ Giang Nam Tây, thần trước đã tâu xin lập pháp. Nay châu Kiền, quân Nam An thực hiện mới được nửa năm, đã thu được 14 vạn quan tiền lãi, đó thực là hiệu quả đã thành.” Lại tâu việc sửa kho ở châu Định đã thấy công trạng. Vua phê: “Hiện nay quân phương Tây đang ở biên giới, việc quân sự phía Bắc cần phải giấu kín hình tích, để tránh sự nghi ngờ của họ. Lệnh cho Kiển Chu Phụ phải cẩn mật, không được phô trương, những quan được sai đi, thường phải lấy ý mình mà răn dạy họ.”
[75] Ngày Tân Sửu, châu Hồng tâu: “Từ khi thay đổi phép muối, số tiền muối mới thêm đều phải gửi về kinh, nhưng lo ngại việc chậm trễ. Xin cho phép bán trước số muối mới, sau đó mới thu nộp số cũ, để có thể kịp thời vận chuyển.” Vua phê: “Số muối mới của địa phương này đều do triều đình chỉ đạo, dùng làm vốn mua lương thực biên giới. Hàng năm phải hoàn thành đúng hạn, và phải kịp thời gửi về kinh để mua kịp thời.” Rồi theo lời tâu.
[76] Cơ quan Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu rằng, đã quản lý và áp giải bộ trưởng quy thuận là Ngoa Mạch cùng 25 người về kinh. Vì có lời phê của Vua: “Những người từng ra khỏi biên giới và chiêu nạp các bộ trưởng người Hạ cùng những người sai khiến của các hang ổ Khương, sau khi quy thuận có công, nên cho áp giải về kinh để dẫn kiến.” Sau đó, Ngoa Mạch được thăng làm Hoàng thành sứ, Tuần kiểm bản tộc, còn Mã Trì Đặc, A Hương đều được thăng chức, ban áo, hốt, đai bạc theo thứ bậc.
[77] Chiếu rằng từ nay các tấu chương của thần liêu lên điện đều phải trình lên để xin chỉ dụ. Trước đây, Tam tỉnh và Xu mật viện có khi không trình lên mà bỏ qua, nên có chiếu này.
[78] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng: “Lộ Phu Diên đang tu sửa sáu trại[13], phía tây trại Trường Thành Lĩnh, tiếp giáp với Kim Thang, Bạch Báo của lộ Hoàn Khánh, đã chỉ huy lộ Hoàn Khánh điều ba vạn người đến biên giới chiếu ứng[14]. Nếu có việc khác, sẽ làm hao tổn quân mã. Lệnh cho Từ Hi, Thẩm Quát bàn bạc về những nơi cần xây dựng thành trại, cùng Tăng Bố thảo luận rồi tâu lên.”
[79] Ban cho Ty chuyển vận lộ Quảng Nam Tây hai ngàn độ điệp để mua lương thực quân ở châu Nghi, châu Dung.
[80] Chiếu rằng công và tội của Bành Tôn ngang nhau, nên không thi hành thưởng phạt. Lúc đó, Tôn ra khỏi biên giới làm mất quân chính, đáng giáng hai chức, nhưng chém được thủ cấp, đáng thăng hai chức, nên lấy công chuộc tội.
[81] Hoàng thành sứ, Kinh Nguyên lộ Kiềm hạt Diêu Lân làm Tri quân Trấn Nhung.
[82] Chiếu cho các cửa lệnh Thương thuế viện thống hạt.
[83] Châu Lan đặt hai chỉ huy mã quân Quảng Nhuệ[15], hai chỉ huy bộ quân Bảo Tiệp, mỗi chỉ huy 500 người; hai chỉ huy Bảo Ninh, mỗi chỉ huy 400 người; một chỉ huy Lao thành. Lại cho phép các quân được đổi chỗ.
[84] Ban cho Ty Chuyển vận Thiểm Tây lộ 20 vạn lượng bạc, 20 vạn tấm lụa, 30 vạn quan tiền và tiền giấy, để ứng phó cho việc chi dùng của Ty Kế nghị biên sự Phu Diên lộ, theo lời xin của Phán quan Lý Tắc. Lúc đó, Ty Kế nghị biên sự lại xin 1 triệu quan tiền, 4.000 thợ[16], 5 vạn cân sắt sống và sắt chín, 10.000 tấm da trâu ngựa, 2.000 cỗ xe, 1 vạn người Nghĩa dũng và Bảo giáp, 100 con ngựa trạm, cũng đều được chấp thuận.
[85] Ngày Quý Mão, chiếu rằng: “Khất Đệ đã chạy trốn, đất của hắn đã ban cho La thị Quỷ chủ Bộc xạ, lệnh cho cai quản châu Quy Lai; và lệnh cho anh em Dương Quang Chấn cùng Sa Thủ Lạc Vụ Tẩu và các man khác hợp lực đánh úp, những hộ dân man bắt được, cho tự làm chủ. Nếu bắt được Khất Đệ, sẽ theo chỉ triều đình mà ban thưởng. Lệnh cho Ty An phủ Lô Nam thường xuyên thi hành.”
[86] Lại bộ tâu: “Đặt ra quy cách tuyển chọn quan lại, tùy theo chức vụ được nhậm, dựa vào công trạng khi nhập sĩ mà lập quy cách. Như tuyển chọn quan Tuần kiểm bắt trộm cướp, thì dùng những người đỗ Vũ cử, học sinh Vũ học, hoặc được thần liêu tiến cử vì có tài võ lược, hoặc tự trình bày binh lược mà được xuất thân, những trường hợp khác cũng theo đó mà làm.” Đều được chấp thuận.
[87] Chiếu rằng viện Ngự liễn chưa có nơi quản lý, nên cho phép tự quyết định. Lúc đó, Vua muốn sửa đổi công việc của tỉnh Điện trung, đặt sáu chức Thượng như chế độ cũ thời Đường, nhưng trong cung chưa có nơi đặt tỉnh, và cũng chưa kịp làm, nên có chiếu này.
(Theo 《Giáp Thân tạp ký》 của Vương Củng: Ban đầu, bàn về chế độ quan chức, Trương Thành Nhất muốn đổi tên chức Đô tri, Áp ban, đặt chức Điện trung giám[17]. Trương Thành Nhất lúc đó được Vua yêu quý, không ai dám phản đối. Sau đó, cùng với các chế độ của các giám khác làm tờ tấu trình lên[18], Thần Tông nhìn quanh thấy không có quan Nội thị tỉnh bên cạnh, lấy áo ngự che tay lắc đầu nói: “Không được.” Rồi cuốn tờ tấu về chức Điện trung giám lại, cất vào tay áo, liền xử lý việc khác, từ từ nhìn Tô Tụng Tử Dung và Thái Kinh Nguyên Trưởng nói: “Tên này không thể đổi tùy tiện, tổ tông có ý sâu xa.” Trần Chẩn ở Hình bộ từng tham gia cục Quan chế, lúc đó có mặt, đã nghe lời nói của Vua. Việc này cần xem xét, vì chưa đặt tỉnh Điện trung, nên tạm ghi lại.)
[88] Ngày Giáp Thìn, Vương Sư Ước, Phòng ngự sứ châu Nhữ, Phò mã đô úy, được bổ làm Quan sát sứ châu Tấn.
[89] Chiếu rằng: “Việc phục chức không phân biệt chức vụ cao thấp, đều thuộc về Thượng thư Hình bộ; những việc cần lấy chỉ dụ và chức vụ không thuộc Lại bộ, đều trình lên Trung thư tỉnh.”
[90] Ngày Bính Ngọ, chiếu cho An phủ chế trí ty sứ lộ Kinh Nguyên, bãi bỏ tất cả các quan chức được bổ nhiệm và các việc xin phép đã tấu trình.
[91] Chiếu rằng từ nay về sau, các quan đường hậu được bổ nhiệm từ bên ngoài, sau khi làm việc đủ năm kỳ, mới được ra khỏi chức vụ.
[92] Chiếu cho Tạ Lân ở Hồ Nam, Hồ Bắc mỗi nơi tuyển một nghìn quân, lệnh cho Vương Khắc Bình từ bản tướng chọn tướng lĩnh, đến châu Nghệ nghe theo sự điều động của Tạ Lân.
[93] Chiếu: “Bành Tôn quyền Kinh Nguyên lộ Kiềm hạt, sung Kinh chế Nghi châu Khê động ty Chuẩn bị tướng lĩnh. Sai Tri Khâm châu, Cung bị khố Phó sứ[19] Lý Thời Lượng Tri Quỳnh châu, thay thế Lưu Uy. Lại gửi tráp cho Lý Thời Lượng: Trước đây Lưu Uy tự ý đánh dẹp người Lê, gây ra việc biên giới, nên dùng tâm phủ dụ, sớm khiến yên ổn.”
(Tháng 7 ngày Tân Tỵ, hặc tội Lưu Uy, Tạ Lân Kinh chế; tháng 12 năm thứ 4 ngày Đinh Mão, Bành Tôn bị giáng làm Kim châu Giám, cần xét lại.)
[94] Ngày Đinh Mùi, vì sách 《Lưỡng triều quốc sử》 đã hoàn thành, mở yến tiệc ở điện Thùy Củng.
(Cả hai kỷ đều ghi việc yến tiệc các quan tu sử.)
[95] Ban cho Nam ngoại Đô thủy giám Thừa ty 60 độ điệp, để chuẩn bị cho việc tu sửa đê Quảng Vũ thượng và hạ.
[96] Chiếu: “Mẫu áo và lương thực dâng lên, trước đây thuộc về Tả tàng khố và kho lương. Từ nay mẫu áo giao về Thái phủ tự, mẫu lương giao về Tư nông tự.”
[97] Ngày Mậu Thân, chiếu rằng: “Những ai xin cấp vật thưởng cho quân đội mà nhận hối lộ, sẽ bị xử như luật Hà thương, người cho cũng bị liên đới tội.”
[98] Chiếu: “Hà Bắc đô Chuyển vận ty mượn 5 vạn thạch lương quân phong trang ở Thiền châu, đặc cách miễn trừ. Từ nay lương quân phong trang ở ba châu Hà Bắc, nếu ai dám xin mượn, sẽ bị xử theo luật tự ý chiếm dụng tiền vật phong trang.”
[99] Chiếu: “Đã lập An phủ ty Lô Nam, các việc của Kiềm hạt ty Tuyền châu sẽ theo An phủ ty dời về Lô châu.”
(Cùng ngày 19 tháng 4. Ngày 8 tháng 6 năm Đại Quan thứ 3, An phủ ty Lô Nam tấu xin, chính là chỉ huy ngày 19 tháng 4.)
[100] Chiếu rằng từ nay Hi Hà lộ nếu không theo chiếu chỉ mà tự ý sai khiến quân lính, sẽ không được cấp ứng. Vì Lý Hạo tự ý sai quân khiêng gỗ đắp hào.
[101] Chiếu rằng các văn thư của các ty đều phải trình lên Lục bộ.
[102] Ngày Kỷ Dậu, Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Nhận được thư báo rằng phía Tây giới có mười hai ty Giám quân đang tập hợp quân mã, chuẩn bị lương thực đủ dùng trong năm tháng, tập trung tại sông Hồ Lô. Quốc mẫu và Tiểu đại vương sẽ vượt sông Hoàng Hà vào cuối tháng bảy, dự định vào tháng tám sẽ tiến đánh Đại Xuyên thuộc Trấn Nhung quân.” Chiếu chỉ: “Lưu Lý Hiến lại ở Kinh Nguyên để trông coi biên giới, nhanh chóng cử người đi thăm dò sâu. Nếu có tình hình thực tế, lập tức triệu tập các tướng lĩnh và binh mã đã tập hợp trước đó từ Tần Phượng, Hi Hà, cùng hai vạn quân kỵ từ Hoàn Khánh, giao cho Diêu Hủy thống lĩnh, hợp lực đánh đuổi, không để mất cơ hội. Cần nắm rõ tình hình then chốt mới có thể tiến quân. Lệnh cho Lan Châu nghiêm ngặt phòng bị.” Đồng thời chiếu chỉ cho các Kinh lược ty Hoàn Khánh, Tần Phượng, Hi Hà Lan Hội, nếu Lý Hiến triệu tập quân mà có ai dám cố tình giữ lại hoặc chậm trễ điều động, sẽ bị xử theo quân pháp. Trước đó, có tin tình báo nói Bỉnh Thường bị giam giữ lâu ngày, nay lại nói Quốc mẫu và Tiểu đại vương cùng vượt sông, nhưng lúc đó chưa rõ thực hư.
(Ngày Đinh Dậu, trước đó đã lệnh cho Hiến về kinh.)
[103] Đại Tông Chính ty tâu: “Trung Quốc phu nhân Phùng thị xin theo lệ năm Hi Ninh thứ hai, mùa xuân làm lễ tang cho Thừa Phạm, mùa đông làm lễ tang cho Doãn Bật, nay xin được làm lễ tang cho chồng là Tông Ngạc.” Thái Sử cục tâu: “Năm nay tháng năm đã làm lễ tang cho Thắng vương, nếu lại làm lễ tang cho Dự Chương quận vương, theo 《Địa Lý Tân Thư》, một năm không thể làm lễ tang hai lần.” Chiếu chỉ y theo lời Thái Sử cục.
[104] Thái thường tự tâu: “Chiếu thư năm Bính Thân, mùa thu tế Anh Tông ở Minh Đường, suy tôn để phối hưởng với Thượng đế, còn các thần khác theo tế đều bãi bỏ. Thần cho rằng suy xét theo loại, vẫn còn chưa hết. Kính xét: Chu tụng Y Hi nói ‘Xuân hạ cầu cốc với Thượng đế’, mà triều ta mở hội giao khi sấm động, rồng xuất hiện thì làm lễ cầu mưa[20]. Các quan vẫn theo chế độ gần đây, đều lấy các thần theo tế[21], e rằng không hợp với ý chiếu thư hiện nay. Thần xin từ nay về sau, lễ cầu mưa lớn tháng tư, chỉ tế Thượng đế, lấy Thái Tông phối hưởng, còn các thần khác theo tế đều bãi bỏ, để tỏ rõ việc thờ trời không hai.” Lại tâu: “Theo lễ, đàn cầu mưa ở phía nam kinh thành, nay tạm đặt ở Viên Khâu là không đúng, xin đổi xây.” Vua nghe theo.
(Cựu kỷ chép: Ngày Kỷ Dậu, bắt đầu xây đàn cầu mưa tế Thượng đế, lấy Thái Tông phối hưởng. Tân kỷ theo đó.)
- 'Hồ' nguyên bản là 'đất', theo bản các sửa lại. ↵
- Chữ 'dời' nguyên bản là 'chọn', căn cứ theo bản trong các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 về việc Từ Hi thất bại ở Vĩnh Lạc, 《Tống sử toàn văn》 quyển 12 hạ sửa lại ↵
- Theo lệ xuất giới ban thưởng tiền đặc chi, chữ 'tiền' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản các và bản hoạt tự bổ sung. ↵
- Tháng bảy hoàn thành, chữ 'nguyệt' nguyên là chữ 'nhật', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa lại ↵
- 'Công thủ chi lợi' nguyên văn là 'Công bại chi lợi', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Đầu qua tựu giáng chi khấu' nguyên văn là 'Bạt qua tựu giáng chi khấu', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Thông Thanh Viễn tu Vi Xuyên' nguyên văn là 'Thông Thỉnh Viễn tu Vi Xuyên', theo bản khác và 《Độc sử phương dư kỷ yếu》 quyển 62 sửa lại; 'Vi Xuyên' nghi là 'Vi Châu'. ↵
- Quân đồn trú Lan Châu, chữ 'thú' nguyên bản là 'nhung', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 86, phần 'Thủ Đào Hà Lan Hội' sửa lại. ↵
- Chỉ đủ làm mồi cho giặc, chữ 'thích' nguyên bản là 'biên', theo bản các các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 86, phần 'Thủ Đào Hà Lan Hội' sửa lại. ↵
- Tháng 11 ngày Bính Thân, chữ 'nguyệt' nguyên bản viết là 'nhật', căn cứ theo các bản và sách này quyển 330 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 10 ngày Giáp Tí điều chú thích của Lý Đào, quyển 331 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 11 ngày Bính Thân điều sửa lại. ↵
- Đông tác phường sứ Gia Châu thứ sử Đái ngự khí giới Lưu Hữu Phương, chữ 'sử' nguyên bản viết là 'lại', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 36/18 sửa lại. Chữ 'phương', cùng sách trên viết là 'vạn'. ↵
- So sánh lợi hại giữa việc vận chuyển bằng sông Quảng Tế cũ và sông Thanh Hà hiện nay, chữ 'nay' nguyên là 'lệnh', theo 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 43-3, 47-2 sửa lại. ↵
- Chữ 'Phu' ở trên nguyên có chữ 'Lục' thừa, căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 8.6, 19.8 mà bỏ. ↵
- Chữ 'tam' trong câu 'đã chỉ huy lộ Hoàn Khánh điều ba vạn người đến biên giới chiếu ứng', 《Tống hội yếu》 phương vực 8.6, 19.8 đều ghi là 'nhị'. ↵
- Hai chỉ huy Quảng Nhuệ, chữ 'Nhuệ' nguyên bản là 'Thuế', theo 《Tống sử》 quyển 188, chương Binh chí, mục Thị vệ ty Kị quân Quảng Nhuệ, năm Nguyên Phong thứ 5 đặt hai chỉ huy ở châu Lan, nay sửa lại. ↵
- 4.000 thợ, chữ 'Tứ' trong các bản khác là 'Tượng'. ↵
- chữ 'đặt' ban đầu bị thiếu, theo bản trong các bản khác bổ sung ↵
- chữ 'cùng' ban đầu viết là 'không', theo bản trong các bản khác sửa ↵
- Cung bị khố Phó sứ, chữ 'Khố' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Triều ta mở hội giao khi sấm động, rồng xuất hiện thì làm lễ cầu mưa 'mở hội giao rồng xuất hiện' bốn chữ nguyên thiếu, theo 《Tống hội yếu》 lễ 14-53 bổ sung. ↵
- Đều lấy các thần theo tế 'thần' nguyên là 'thần', theo sách trên và 《Tống sử》 quyển 100 Lễ chí sửa. ↵