VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 329: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 5 (NHÂM TUẤT, 1082)
Bắt đầu từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 5 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 8, ngày Canh Tuất (mùng 1), xuống chiếu cho Công bộ lang trung là Phạm Tử Kỳ cùng với Đô thủy giám cùng xem xét đê Thiên Đài ở Hoạt Châu và đê Tề Cổ Thượng ở Vệ Châu. Nếu cầu phao làm cản trở dòng nước, tạm thời tháo dỡ rồi tâu lên. Bộ Công tâu rằng hai đoạn đê này đang trong tình trạng nguy cấp.
[2] Phong ngự thị Vũ thị làm Tài nhân.
[3] Xuống chiếu cho Lại bộ trong vòng ba ngày phải tuyển chọn và cử 19 người làm Tuần kiểm đoàn giáo bảo giáp và Sứ thần tuần giáo đến lộ Vĩnh Hưng Quân.
[4] Cơ quan Tường định quan chế tâu rằng: “Thượng thư tỉnh thi hành chính lệnh, phân chia việc cho sáu bộ, Đô tỉnh tổng quản. Nếu có việc chậm trễ, phải xem xét và chịu trách nhiệm. Nay đề nghị lập pháp: Nếu sáu bộ có việc chậm trễ mà không xem xét, sẽ xử theo luật về việc quan trên không phát hiện. Lệnh, Bộc, Thừa là một bậc, Tả Hữu ty là một bậc, Đô sự[1], Chủ sự là một bậc, Lệnh sử trở xuống là một bậc.” Được chấp thuận.
(Bản Chu ghi: Không thi hành, nên bỏ. Nay vẫn giữ lại.)
[5] Ngày Tân Hợi (mùng 2), xuống chiếu cho các hộ hạng dưới trong nghề rượu bị phạt gấp đôi tiền khúc[2], trừ một phần trong ba phần đã đổi, miễn thêm một phần.
[6] Ty chuyển vận Hà Bắc tâu: “Theo chỉ triều đình, lệnh Binh bộ lấy ba lộ tự lập bảo giáp, đợi năm dạy xong tính số tiền lương thực chi[3], gom lấy số một năm, làm mức phong trang từ nay, để chi phí cho bảo giáp. Xét lại tiền lương dạy đông của bảo giáp, triều đình đã không phong trang, nay đều lệnh ty này nhận, sợ lâu dài không thể cung ứng đủ.” Chiếu từ năm Nguyên Phong thứ 4 sau khi ban chỉ huy thì phong trang, Thiểm Tây, Hà Đông theo đó.
[7] Ty kinh lược Hà Đông tâu: “Ở bảo Thần Mộc châu Lân đánh nhau với giặc Tây, giám áp Cổ Mặc đem quân rút lui trước, khiến giặc giết tuần kiểm Cao Tố.” Chiếu Ty chuyển vận Hà Đông xét tội.
(《Cựu kỷ》 chép: Ngày Tân Hợi, người Hạ cướp bảo Thần Mộc châu Lân, tuần kiểm Cao Tố chết vì việc đó. 《Tân kỷ》 không chép.)
[8] Tân quyền phát khiển phó sứ Ty chuyển vận Quảng Nam Tây lộ Ngô Tiềm xin điều năm trăm đến bảy trăm kỵ binh lộ Thiểm Tây đến trú ở Quế Lâm, chiếu sai hai chỉ huy mã quân ở kinh.
[9] Kinh Nguyên lộ chế trí ty hành doanh Tổng quản Lưu Xương Tộ tâu: “Trước đây, quân bản lộ xuất giới đến ải Ma Di, quân giặc dựa vào thế hiểm để chống cự, bắt được thủ lĩnh của chúng, chém được ba nghìn thủ cấp, bắt được một vạn người và gia súc. Mỗi khi gặp đại địch, thường giành được toàn thắng. Sau đó, các tướng nghe theo sự điều động của Cao Tuân Dụ, chỉ tập trung thành một quân, không đi viện trợ bên ngoài, quân mệt mỏi phải rút về, thần được ơn nhẹ trách[4], liên lụy đến các tướng. Thực ra mỗi người đều có số tổn thất riêng, trong đó có nhiều người bị thương vì đánh thành, chết đói và bị bỏ lại phía sau, không phải do thua trận mà tổn thất. Kính mong xét rõ các tướng đã dẫn quân sâu vào đất địch, nhiều lần giành thắng lợi, xin lượng tình ban thưởng ân điển.” Chiếu rằng: “Các tướng, phó tướng lập công ở ải Ma Di, triều đình sẽ đặc cách gia tăng thưởng; số quân bị tổn thất, căn cứ vào sổ sách kế toán, phân cấp giáng phạt, áp dụng theo quy định chung của các lộ; những người tử thương hoặc vì lý do khác không thể tự trở về, không tính vào số tổn thất. Gửi sắc cho Lưu Xương Tộ biết.”
[10] Quảng Nam Tây lộ Kinh lược ty tâu: “Người Man là Mông Quang Đản nói bán gỗ cho châu Nghi, nhưng các quan Đô giám không theo lệ trả tiền mặt.” Vua phê: “Giao cho Tạ Lân và Mạch Văn Bính xử lý công bằng, không được vì đi qua châu Quế mà bị Trương Giáp mê hoặc, dẫn đến thay đổi sự thật.”
(Tháng 7, ngày Bính Ngọ.)
[11] Chiếu phạt Phán Tư nông tự Tăng Hiếu Khoan 8 cân đồng, Thừa Vương Đoan Thần và Chủ bạ Mạc Sĩ Tiên mỗi người 10 cân đồng. Vì đã trình bày điều lệ không đúng.
[12] Ngày Nhâm Tý, Thiên Bình Tiết độ sứ, Quận quốc công Dung được làm Chương Vũ quân Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, tiến phong làm Diên An quận vương. Chiêu dung Chu thị được tiến phong làm Hiền phi.
(Hai bộ sử đều ghi việc này, nhưng không ghi chức Tiết độ và Nghi đồng.)
[13] Hộ bộ tâu: “Gần đây, số lượng diêm sao nhiều, giá rẻ khó bán. Xét việc chi tiêu cho năm lộ Thiểm Tây để chuẩn bị quân trữ, số diêm sao là hai trăm vạn quan, trong số đó, mỗi lộ được giảm một nửa, tổng cộng một trăm vạn quan. Số tiền mua lương thảo của các lộ, sẽ lấy từ số tiền diêm sao và tiền muối mạt đã giảm bớt để hoàn trả cho Thiểm Tây, tùy theo số lượng phân phối cho các lộ, cho phép thương nhân đổi tiền.” Được chấp thuận.
[14] Bí thư tỉnh tâu: “Tông chính tự tu sửa ngọc điệp, mượn các sách khởi cư chú, thời chính ký, nhật lịch từ khi lên ngôi đến năm Hi Ninh thứ 10 để tham khảo, nhưng xét thấy không có chỉ thị cho phép mượn.” Chiếu cho quan Tông chính tự đến Bí thư tỉnh tu sửa.
[15] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Ở thành Cam Cốc, châu Tần, bộ lạc của Văn Tư phó sứ Bốc Tụ Mã Y Khắc, gồm 29 người và 23 ngựa, đã bỏ trốn về phía Tây, đã đuổi bắt được, xin giao cho Ty Đề cử Phiên bộ cùng xét xử.”
[16] Phong cho Cảnh Thanh Nghi Đảng Lệnh Chi, người tiến cống của Đổng Chiên, làm Qua châu Đoàn luyện sứ, A Tinh làm Tĩnh châu Thứ sử, mỗi người được ban thêm trà và lụa. Đây là phần thưởng cho công lao trước quân.
[17] Ngày Quý Sửu, chiếu cho hai lộ Hi Hà và Tần Phượng mua ngựa, thấy rõ giá ngựa từng loại, giao cho Cảnh Thanh Nghi Đảng Lệnh Chi, sai sứ thần vào Phiên để thông báo.
[18] Quyền Quản câu Đồng Kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ Biên phòng Tài dụng Triệu Tế tâu: “Thần đến Ất Đẩu Bình vào tháng 7 ngày Giáp Thìn, nghe tin ngày Quý Mão, không ngờ có hơn 500 kỵ binh giặc Tây đến ngoài thành giết người Hán và Phiên, cướp ngựa rồi rút đi, lại nghe tin ở núi Thiết Mâu đã tụ tập mấy vạn người. Muốn dùng quân Hán và Phiên của bản lộ cùng Kinh Nguyên, Tần Phượng, chọn ngày bất ngờ hội quân đánh úp.” Chiếu rằng: “Kinh Nguyên lộ Kinh lược Chế trí ty và Hi Hà Lan Hội lộ Đô đại Kinh chế ty, nếu xét thấy tình hình đúng như vậy, lượng sức có thể thắng, thì tùy nghi thi hành.”
[19] Chiếu cho con của cố Dự Chương quận vương là Tông Ngạc là Trọng Doanh được thăng một chức, con gái đã được phong quận quân thì phong làm huyện chủ, chưa có phong ấp thì phong làm quận quân.
[20] Chiếu cho Tam tỉnh, Xu mật viện, Bí thư, Điện trung, Nội thị, Nhập nội nội thị tỉnh, nghe theo sự đàn hặc của trưởng quan Ngự sử và Ngự sử giám sát. Trước đây, đặt chức Giám sát Ngự sử, chia làm sáu sát, tùy theo sở thuộc mà giám sát các tỉnh, tào, tự, giám, nhưng Tam tỉnh đến Nội thị tỉnh không có sở thuộc, nên giao cho trưởng quan và Ngự sử giám sát.
[21] Ngày Giáp Dần, chiếu cho Tri Dĩnh Xương phủ, Tư chính điện học sĩ Hàn Duy được tái nhiệm.
(Vì ngày Đinh Tỵ, Tăng Củng bị phạt đồng.)
[22] Ban thưởng cho các quan phiên là Hoàng thành sứ Ngoa Mạch cùng 25 người khác vật phẩm và lụa theo thứ bậc.
[23] Ty Kinh chế đô đại Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Hai thành trì Nhữ Già Xuyên và Diệt Lạc Tông trên địa bàn chưa xây dựng, đã xem xét nhân dịp phòng thủ mùa thu này khởi công, tiết kiệm tài lực mà hoàn thành công việc, đã gửi văn thư cho Lý Sát hợp đoàn kết 9.000 quân sương Hà Đông, Kinh Tây tiếp tục ứng phó.” Chiếu theo.
[24] Chiếu: “Phán quan Chuyển vận Hà Đông là Thái Diệp chuyên trách việc mỗi năm nhập trung, hoặc di chuyển thuế địch tùy tiện kế hoạch 10 vạn thạch quân lương, tại Ngô Bảo trại và Vĩnh Ninh quan phong trang, mỗi đấu không quá 510 đồng. Số tiền này sẽ được hoàn trả từ giám Viên Khúc, châu Ráng. Lệnh cho Ty Chuyển vận Thiểm Tây kế hoạch vận chuyển vào Mễ Chi trại, không được dùng để thay thế kinh phí của Ngô Bảo trại và Vĩnh Ninh quan.”
[25] Đặt ty Bác dịch từ diêu tại trấn Cảnh Đức, châu Nhiêu. Theo đề nghị của Tuyên nghĩa lang, Đô đề cử thị dịch ty câu đương công sự Dư Nghiêu Thần.
[26] Ngày Ất Mão, phong con gái của Văn tư phó sứ Tào Thức là Thủy Hưng quận quân làm Đồng An quận phu nhân. Vì có chỉ trên phê “trước đã nuôi dưỡng ở cung Khánh Thọ”.
[27] Phong ngự thị họ Lâm làm Vĩnh Gia quận quân.
[28] Chiếu: “Các quan chấp chính khi lui triều lên ngựa: Tể thần tại cửa cách trong Xu mật viện, Tri Xu mật viện trở xuống tại cửa cách ngoài. Khi họp bàn ở Đô đường xong lui về: Tả thừa tại sảnh Môn hạ thị lang, Hữu thừa tại sảnh Trung thư thị lang.”
[29] Kinh Nguyên lộ Chế trí ty Hành dinh Tổng quản Lưu Xương Tộ tâu rằng đã đến Trấn Nhung quân, xin ban cấp một số tiền công sứ. Chiếu ban cho 2000 quan tiền.
(Ngày Bính Ngọ 27 tháng 7, bản Chu chép việc Xương Tộ được bổ làm Kinh Nguyên Tổng quản, nhưng vẫn còn mang chức Hành dinh Chế trí ty, e rằng bản Chu có sai. Tháng 7, tuy có chỉ bãi bỏ quan thuộc Chế trí ty, nhưng thực tế Lý Hiến vẫn còn ở Kinh Nguyên giữ chức Chế trí sứ như cũ. Ngày Tân Dậu 14 tháng 10, Hiến từ Kinh Nguyên trở về Hi Hà, quan thuộc Chế trí ty mới bị bãi. Vì vậy, ngày Nhâm Tuất 15 tháng 10, Xương Tộ mới không còn mang chức Hành dinh Chế trí ty, mà chỉ làm Kinh Nguyên Tổng quản.)
[30] Phu Diên lộ Tổng quản Khúc Trân dẫn quân ra khỏi biên giới đánh Minh Đường Xuyên, bộ tướng Hoàng thành sứ, Tư châu Đoàn luyện sứ Lý Đức Minh dẫn 50 người, chém được 36 thủ cấp, đạt được 7 phần. Chiếu ban cho hai con trai chức Tam ban Phụng chức, hai cháu trai chức Tam ban Tá chức.
[31] Ngày Bính Thìn, chiếu rằng: “Từ nay, các mệnh lệnh nội phê, nếu không có tấu trình gì thêm, thì không cần đệ trình nữa.”
[32] Chiếu rằng: “Từ núi Di Môn, gò nhà họ Phàn ra ngoài trăm bước và từ cầu Giác về phía đông đến gò, từ nay không được chôn cất, lệnh cho hai huyện Khai Phong, Tường Phù kiểm tra.” Trước đó, Chủ bạ Ty Thiên giám là Kháng Thiên Kinh tâu: “Núi Di Môn thuộc quốc âm chủ sơn, là phương vị phúc đức sinh vương, nơi của ba nam dương khí. Trên gò có nhiều mộ dân thường, khí chết ngấm vào gò, thành ra yểm táng, gần đây Vận vương mất, đó là điềm ứng nghiệm. Nếu nhân việc chôn Vận vương mà dời hết mộ trên gò, lấp chỗ trũng, thì sẽ trừ được gốc rễ tai họa.” Việc này được giao cho Ty Thiên giám bàn bạc, quyết định khoảng cách cấm và tâu lên. Sau đó, phủ Khai Phong tâu: “Theo lời Kháng Thiên Kinh, số mộ cần dời lên đến hơn mười ba vạn.” Chiếu bảo đợi chỉ riêng. Cuối cùng không dời, mà có chiếu này.
(Việc Kháng Thiên Kinh tâu xin vào tháng 9 năm thứ 4 ngày Đinh Hợi, nay theo bản Chu nhập vào đây. Tháng 4 năm thứ 4 ngày Tân Dậu nên tham khảo. Chôn Vận vương vào tháng 9 năm thứ 4 ngày Đinh Dậu. Nhật quan Kháng Thiên Kinh kiến nghị, mộ dân thần gần kinh thành không lợi cho quốc tự. Có chiếu bảo đổi chỗ, tính ra số mộ không dưới mười vạn, trong ngoài đều lo sợ, không biết làm sao. Tri phủ Khai Phong là Vương An Lễ nhân dịp tâu lên rằng: “Bệ hạ cho Chu Văn Vương là bậc thánh chăng?” Vua đáp: “Đúng vậy.” An Lễ nói: “Văn Vương bói được ba mươi đời, cũng chỉ là chôn cất xương cốt mà thôi. Chưa từng nghe dời mộ người để lợi cho con cháu. Xin Bệ hạ hãy noi gương Văn Vương.” Vua động lòng bèn bãi bỏ. Việc này theo hành trạng của Vương An Lễ ghi chép, hoặc bỏ đi.)
[33] Huyện Khai Phong tâu: “Hộ nuôi ngựa chưa rõ chỉ lấy tài sản nhà cửa làm vật lực, hay tính cả tài sản kinh doanh.” Huyện Tường Phù tâu: “Từ khi ban lệnh nuôi ngựa, dân mua ngựa xong, cầm cố bán tài sản, hoặc bị ty Thị dịch quản lý thế chấp, chưa rõ có hợp nuôi ngựa hay không.” Chiếu rằng: “Lấy số tiền trong khế ước nhà và tiền thuê nhà làm vật lực, nếu giấu khế ước thì lấy thuế muối làm chuẩn. Nếu đã cầm cố bán, ngựa cũng theo đó. Nếu đã thế chấp, hoặc vì việc quan mà bị quản lý, hộ đó không thu được lợi tức, xét thực thì được miễn.”
(Ngày 5 tháng 2, Hoắc Tường nói thêm, cùng ngày 14 tháng 9, lại ngày 8 tháng 2 năm thứ 7, lại ngày 28, lại ngày 23 tháng 3, cần xem xét. 《Hành trạng Vương An Lễ》 chép: “Hộ phường quách ở kinh sư thường lấy gia tài hai nghìn quan nuôi một con ngựa, gọi là hộ mã. Có người kiện ở đường, An Lễ tâu, Vua cho dùng tiền muối ăn làm phép, tính ba nghìn quan mới nuôi một con ngựa, nhờ đó được miễn rất nhiều.” Việc này liên quan, cần xem xét kỹ hơn. Ngày 28 tháng 2 năm thứ 7, chiếu rằng hộ mã ở phủ giới đều lấy gia sản và thuế muối làm chuẩn, e rằng 《Hành trạng Vương An Lễ》 nên phụ vào lúc đó.)
[34] Thượng thư Hữu thừa Vương An Lễ trước đây ở Khai Phong, có người thuộc dòng họ lớn mắc nợ tiền lãi chợ đổi, nhiều lần kiện lên công đường. An Lễ đã làm chấp chính, tâu với Vua rằng: “Phép chợ đổi thi hành đã lâu, thu lãi quá nhiều, mà nộp quan không đúng hạn lại bị phạt thêm lãi. Khi thiên hạ vô sự, mà phép tắc có tệ, dân đến nỗi khốn cùng, thần trộm nghĩ triều đình nên tiếc. Thần mong bệ hạ hạ chiếu rộng rãi, miễn bớt tiền lãi phạt, thì thiên hạ may mắn lắm.” Vua nói: “Khanh nói có lý, quần thần chưa ai nói với Trẫm điều ấy. Hãy hạ chiếu cho các nhà họ lớn nộp trong hạn, bỏ tiền lãi phạt.” An Lễ lui ra, phê thêm chữ “nội ngoại” vào chiếu. Thái Xác nói: “Khi Vua có chỉ, không có chữ ‘ngoại’, ngài muốn thêm vào chiếu sao?” An Lễ nói: “Cũng không nói rõ chữ ‘nội’.” Cuối cùng vẫn thêm vào.
(Việc này căn cứ theo hành trạng, cần xem xét.)
[35] Lúc đó, kinh thành đặt trường đống hàng, hàng hóa tích trữ, thương nhân lo lắng. An Lễ tâu rằng: “Lãi thu được từ đống hàng vốn ít, mà thuế thương chính ngạch ắt bị tổn hại, chỉ có tiếng lợi dân mà không có thực chất làm giàu nước, xin bãi bỏ.” Vua nói: “Khanh hãy bàn với Phùng Cảnh.” Cảnh là hoạn quan, thực tế nắm việc này. Sau đó tính tổng số lãi, không đầy mười vạn, Vua nói: “Gần đây nghe nói chợ đổi làm biến đổi tiền lụa, điều này thật đáng khinh. Con nhà giàu ngàn vàng còn thẹn ở chợ, huống chi triều đình?” Vua cũng có ý định cải cách, nhưng gặp người ngăn trở, việc ấy cuối cùng bị bỏ dở.
(Việc này căn cứ theo hành trạng của An Lễ, cần xem xét.)
[36] Các cầu đường Quảng Tế ở các nơi đều thuộc về Đô thủy giám.
[37] Ngày Đinh Tỵ, hạ chiếu cho Hàn lâm học sĩ một người, ba phiên được miễn một đêm trực.
[38] Chiếu phạt Trung thư xá nhân Tăng Củng 10 cân đồng. Trước đó, Tri Dĩnh Xương phủ Hàn Duy được tái nhiệm, Củng soạn chiếu chỉ, khen Duy rằng: “Thuần minh, trực lượng, luyện đạt kim cổ, là người tiên đế để lại để phò tá Trẫm.” Lại nói: “Vùng Tham, Giác có dấu tích của Hàn Diên Thọ, Hoàng Bá. Hưng lễ giáo, khuyến nông tang, noi theo tiền nhân, đều là sở học của khanh, hãy gắng sức!” Vua phê: “Duy không hiểu đạo thờ Vua, a dua lừa dối, già không đổi lòng, không phải là ‘thuần minh trực lượng’; chỉ vì ân cũ từ thời làm phiên vương, nên cho giữ quận thuận lợi, chứ không thể trông cậy để bố chính tuyên hóa. Nay lời chiếu trái ngược, không đúng sự thật, truyền ra bốn phương, hại lớn đến phong hóa. Có thể gửi lại Trung thư tỉnh sửa lời rồi ban hành.” Vì thế phạt Củng.
(Hàn Duy tái nhiệm Dĩnh Xương vào ngày Giáp Dần tháng này.)
[39] Ngày Mậu Ngọ, chiếu giao cho Trương Vũ Cần, người nhận văn thư ở Ty Kế nghị biên sự lộ Phu Diên: “Khi đánh gần, chỉ dùng đao phủ để thắng. Có thể một mặt sai Thẩm Quát, gần đây đã ban 5.000 chiếc rìu lớn phá trận, hãy lệnh cho các tướng chọn quân tinh nhuệ trao cho. Lại bảo Từ Hi rằng: Nay đã cùng thống lĩnh quân, cốt ở việc yêu thương quân sĩ, chia sẻ ngọt bùi, công bằng thưởng phạt, thực hiện lời nói ngày trước ở điện Thùy Củng, chờ đợi kỳ tích.”
[40] Lệnh cho Trương Sơn Phủ, Phó đô thừa chỉ Xu mật viện, Khách tỉnh Phó sứ, và Lưu Duy Giản, Nhập nội Cung phụng quan, Câu đương Ngự dược viện, xem xét việc dạy võ nghệ cho các Đại bảo trưởng của Ty Bảo giáp lộ Hà Bắc. Việc nhận văn thư và giám sát xem xét, giao cho Nội thị tỉnh cử 6 viên nội thần.
[41] Chiếu rằng: “Phu Diên lộ tính toán chiêu nạp quy thuận bộ lạc người Thổ tráng đinh mười người[5], người già, trẻ nhỏ, phụ nữ bốn mươi người đều được thăng một bậc, trẻ dưới mười tuổi không tính, thăng nhiều lần không được quá ba bậc; nếu không đủ, thì giảm năm khảo hạch; không đủ giảm năm và thăng bậc, thì mỗi tráng đinh được cấp bốn tấm lụa, người già, trẻ nhỏ, phụ nữ mỗi người một tấm. Kẻ giết người đầu hàng, cho phép người khác tố cáo, mỗi người được thưởng ba mươi ngàn tiền, tối đa một trăm ngàn[6]; tố cáo giết năm người trở lên, thì được thăng một bậc; kẻ giết người đầu hàng thì xử trảm.”
[42] Ngày Canh Thân, Vua vì bệnh không ra thiết triều ở tiền điện và hậu điện.
(Cả hai bản kỷ đều chép: “Ngày Canh Thân, Vua có bệnh.” Bản mực chép ngày Canh Thân có lời của Trương Vũ Cần nói, từ ngày Quý Sửu mưa đến ngày Nhâm Tuất, ước chừng vài thước, quân đóng ở thành Tuy Đức. Bản chu sửa ngày Quý Sửu thành Kỷ Mùi. Xét: Ngày Canh Thân là ngày 11 tháng 8; ngày Quý Sửu là ngày 4 tháng 8; ngày Kỷ Mùi là ngày 10 tháng 8; ngày Nhâm Tuất là ngày 13 tháng 8. Không nên ghi trước ngày Canh Thân, cả bản chu và bản mực đều sai, nay bỏ đi. Thêm nữa, việc quân đóng ở thành Tuy Đức, ngày tháng cũng khác với các sách khác, cần xem xét thêm.)
[43] Sách tu định nghi chú Cảnh Linh cung nói: “Theo Chu quan, tế lễ bốn mùa đều làm vào đầu mùa, vì người quân tử cảm nhận sự thay đổi của thời tiết mà nhớ đến người thân, đạt được sự hài hòa trong số mệnh. Xin cho vào ngày lành tháng đầu mỗi mùa làm lễ triều hiến ở Cảnh Linh cung, thiên tử mặc thường phục hành lễ, dâng lễ vật chay ở điện Thánh Tổ, điện Thần Ngự chỉ dâng thức ăn, đồ dùng và nghi thức đều theo quy định hiện nay, việc lên xuống dâng lễ tham khảo theo nghi thức triều yết. Tất cả các việc cổ xưa đều không xen lẫn, để hợp với ý nghĩa của tiên vương là thờ người đã khuất như còn sống.” Được chấp thuận.
(Hai bộ sử đều chép: “Chiếu cho hàng năm vào tháng đầu mỗi mùa làm lễ triều hiến ở Cảnh Linh cung[7].”)
[44] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Dân Hán và quy minh giới cung tiễn thủ tự mua ngựa, xin theo lệ của cung tiễn thủ người Phiên, mỗi con ngựa cấp 5 tấm lụa từ kho Phủ Dưỡng làm thưởng.” Được chấp thuận, lộ Hoàn Khánh cũng áp dụng theo.
[45] Đề điểm hình ngục ty các lộ Vĩnh Hưng quân tâu: “18 châu quân trong lộ này phần lớn chưa bắt được giặc cướp, chưa định được mức thưởng hàng năm, xin lấy 4.000 quan tiền làm mức thưởng bắt giặc.” Được chấp thuận, và cấp tiền từ các trường vụ: mỗi năm Vĩnh Hưng quân 500.000 quan[8], phủ Hà Trung, châu Thiểm,[9] châu Đồng, châu Hoa, châu Diệu, châu Thương mỗi nơi 300.000 quan, châu Quắc, châu Giải, châu Bân, châu Phu mỗi nơi 200.000 quan, châu Diên, châu Khánh, châu Ninh, châu Đan mỗi nơi 150.000 quan, châu Hoàn, châu Phường, quân Bảo An mỗi nơi 100.000 quan.
[46] Ngày Nhâm Tuất, Vua ngự điện.
[47] Học sĩ điện Tư chính Lữ Huệ Khanh làm tri phủ Thái Nguyên, bảy ngày sau, lại được thăng làm Đại học sĩ. Trước đó, Huệ Khanh làm tri châu Diên sắp đủ ba năm, có chiếu phong làm Đại học sĩ điện Tư chính, tiếp tục giữ chức. Ông vừa từ chối thì gặp tang sự nên phải rời chức, đến đây lại được tái bổ nhiệm theo mệnh lệnh trước.
(Ngày Kỷ Tỵ, được thăng làm Đại Tư chính điện[10], nay ghi chung. Tháng 10, ngày Quý Dậu, bị giáng làm tri châu Đơn.)
[48] Từ Hi, Lý Thuấn Cử và Thẩm Quát cùng các tướng khởi hành từ Diên Châu vào ngày Bính Thìn, dẫn theo hơn mười đạo quân gồm cả người Hán và người Phiên, tổng cộng tám vạn quân, cùng số phu dịch gánh lương thực gấp đôi. Lý Phố chỉ huy tiền quân, Lã Chân làm phó; Khúc Trân chỉ huy trung quân, Cao Vĩnh Năng làm phó; Vương Trạm chỉ huy hậu quân, Cảnh Tư Nghị làm phó; Lý Tắc phụ trách lương thực và xây dựng công sự; còn việc bàn bạc và quyết định tiến thoái thì Từ Hi nắm quyền chính, Thẩm Quát chỉ tham gia cùng. (Ngày khởi hành từ Diên Châu căn cứ theo 《Ngự tập》, còn lại đều dựa theo 《Vĩnh Lạc khách thoại》 của Trương Thuấn Dân. Tuy nhiên, 《Khách thoại》 ghi rằng Từ Hi và các tướng khởi hành từ Diên Châu vào ngày Giáp Tí 15 tháng 8, nhưng nay không theo.) Từ Hi vốn ghét Chủng Ngạc, (Theo truyện của Từ Hi.) sau khi quyết định kế hoạch, Chủng Ngạc từ kinh sư trở về, cực lực phản đối việc xây thành Vĩnh Lạc. Từ Hi nổi giận, biến sắc nói với Chủng Ngạc: “Ngươi không sợ chết sao? Dám phá hoại việc lớn!” Chủng Ngạc đáp: “Xây thành ắt thất bại, thất bại thì chết[11]; chống lại mệnh lệnh cũng chết. Chết ở đây còn hơn là mất quân đội và rơi vào tay kẻ thù.” Từ Hi thấy không thể khuất phục được, bèn tâu rằng Chủng Ngạc ngang ngược, có ý kiến khác biệt, không thể cùng hành quân, Vua ra chiếu lệnh Chủng Ngạc ở lại giữ Diên Châu, (Theo 《Khách thoại》.) sai Từ Hi dẫn các tướng đi xây thành, Thẩm Quát dời phủ Kinh lược đến gần trại để hỗ trợ quân dụng. (Theo tự chí của Thẩm Quát.) Hôm đó, quân đội dừng ở thành Tuy Đức.
(Ngày 13 Nhâm Tuất. Theo tấu của Trương Vũ Cần, 《Thực lục》 ghi nhầm là ngày 11 Canh Thân. Việc Thẩm Quát nói dời phủ đến gần trại, có lẽ là trại Mễ Chi, cần xem xét kỹ hơn mới chính thức ghi chép.)
[49] Ngày Quý Hợi, Vua vừa khỏi bệnh, không ra thiết triều ở tiền điện và hậu điện.
[50] Cung phụng quan, Cáp môn chi hậu, quyền tri Hoành Châu Ôn Cảo được bổ nhiệm làm Tri Khâm Châu.
[51] Tri An Châu Đằng Phủ tâu: “Nội cung phụng Tạ Nhân phụng chỉ mua một vạn cân hoa hồng, nay lại tiếp tục mua thêm năm vạn cân, nhưng một châu chỉ sản xuất được hai vạn cân, e rằng không đủ số lượng.” Vua liền hạ chiếu ngừng việc này.
[52] Tùy Châu sản xuất loài bướm đỏ, lấy chất độc của chúng làm thuốc tẩm tên, các châu huyện nhận mệnh lệnh rất nghiêm ngặt, có người dân vì thế mà tự sát. Vương An Lễ bàn việc này, Vua nói: “Đây không phải là ý của Trẫm muốn chơi bời, chỉ muốn dùng làm vũ khí để bảo vệ xã tắc mà thôi.” An Lễ nói: “Bệ hạ bình thường thích đọc sách Mạnh Tử, lẽ nào không nghe câu ‘Dân là quý, xã tắc đứng sau’? Hơn nữa, việc dùng bướm đỏ làm thuốc tẩm tên, lợi ích rất nhỏ, dù không có cũng không gây hại gì cho xã tắc. Dù có lợi ích, cũng mong bệ hạ lấy dân làm trọng.” Vua gật đầu đồng ý.
(Việc bướm đỏ ở Tùy Châu, căn cứ theo hành trạng của Vương An Lễ, ghi sau việc hoa hồng, cần xem xét thêm.)
[53] Ngày Canh Ngọ, Vua ngự điện.
[54] Ban chiếu: “Hai người đỗ thượng đẳng trong kỳ thi tuyển, người thứ nhất được thăng một bậc, người thứ hai được ưu tiên bổ nhiệm một lần; bảy mươi chín người đỗ trung đẳng, không theo thứ tự mà bổ nhiệm chức quan; hai trăm hai mươi sáu người đỗ hạ đẳng, được bổ nhiệm chức quan.”
[55] Ngày Tân Mùi, Vương Cư Khanh, Tri Thái Nguyên phủ, Thiên Chương các Đãi chế, được bổ nhiệm làm Tri Doanh Châu, sau đó lại phục chức cũ.
[56] Tri châu Doanh, Thừa nghị lang, Bảo Văn các đãi chế Hàn Trung Ngạn làm sứ sinh thần của Liêu chủ, Dẫn tiến sứ, Huỳnh châu đoàn luyện sứ Tào Bình làm phó; Triều phụng lang, Thủ Lễ bộ lang trung Lưu Chí làm sứ chánh đán, Nội điện thừa chế Trương Phó làm phó. Ba ngày sau, lấy Trung Ngạn thí Cấp sự trung, Trung Ngạn từ chối đi sứ Liêu rằng: “Thần đã từng đi sứ Liêu rồi, nếu lại đi nữa, chẳng phải khiến địch nhân ngờ vực Trung Quốc thiếu người sao?” Vua nói: “Việc phía Tây chưa yên, không ai thay được khanh.” Người Liêu sai Triệu Tư Mục đón, nhân nói đến việc phía Tây, Trung Ngạn nói: “Đó chỉ là việc nhỏ, hỏi làm gì?” Sai Tham tri chính sự Vương Ngôn Phu yến tiệc ở quán, Ngôn Phu hỏi: “Nước Hạ có tội gì lớn mà Trung Quốc không rút quân?” Trung Ngạn nói: “Tội của người Hạ, Trung Quốc đã báo với Bắc triều rồi, sao không lấy mà xem.” Ngôn Phu nói: “Nghe nói đã rút quân về biên giới, nếu như vậy thì tình hữu nghị Nam Bắc có thể giữ được.” Trung Ngạn nói: “Hỏi tội Tây Hạ, có liên quan gì đến tình hữu nghị hai nước?” Liên tiếp cự tuyệt Ngôn Phu. Khi về, Tư Mục nói: “Chế trí việc phía Tây của Tiên thị trung, có sách lược công hiệu. Nay lấy được mấy chục thành trại, nếu Tiên thị trung được thấy, hẳn rất vui.” Trung Ngạn về, Vua sai trung sứ đến thăm hỏi, ban thưởng khen ngợi.
[57] Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, Phượng Châu đoàn luyện sứ Chủng Ngạc bị giáng làm Văn Châu thứ sử, Kim Châu quan sát sứ, đề cử Tây Thái Nhất cung Vương Trung Chính bị giáng làm Gia Châu đoàn luyện sứ. Trên đây là do có chỉ phê rằng: “Trước đây đại quân xuất biên giới, Chủng Ngạc đi đường vòng bỏ lợi thế đường thẳng, nên giáng một chức; Vương Trung Chính không xem xét kỹ lợi hại của đường vòng và thẳng, cùng không đánh dẹp bọn giặc ở địa phận tả sương[12], nên giáng hai chức, và không được áp dụng luật phục chức.” Ban đầu, lệnh cho Chủng Ngạc phân tích, Ngạc bèn nói: “Quân tinh nhuệ của Hoành Sơn ở phía đông, trước đó đã nghe tin giặc chiếm cứ Mễ Chất cùng Ngân, Hạ các nơi, nên ta đón đánh và đánh bại chúng. Thanh thế quân ta đã vang dội, hành quân ngàn dặm không ai dám chống cự. Nếu đi theo đường phía tây lấy đường thẳng, tuy gần sào huyệt, nhưng đại địch xuất hiện phía trước, trọng binh áp sát phía sau, thì sẽ có mối lo bị đánh cả trước lẫn sau, không biết làm sao để chống đỡ.”
(Theo 《Phạm Dục chí Ngạc mộ》. Triệu Khởi viết 《Chủng Thái úy truyền》, lại nói “vì việc của Từ Huân mà bị giáng làm Văn Châu thứ sử”, cần xem xét thêm.)
[58] Chiếu cho Hoàng thành sứ, Chiêu Châu thứ sử, đái ngự khí giới, Quảng Nam Tây lộ kiềm hạt Hòa Bân cùng kinh chế Nghi Châu khê động.
[59] Chiếu rằng: “Nội điện sùng ban Ân Quý đánh Linh Châu bị trúng tên chết, đặc chi cấp 50 lạng bạc, 80 tấm lụa, 80 quan tiền; hai con trai: Hi Bân được làm tam ban phụng chức, Hi Diễn được làm tá chức.”
[60] Ngày Nhâm Thân, chiếu giao cho Trương Vũ Cần: “Nay xuất quân ra ngoài biên giới, muốn hàng ngày nghe tin tức, có thể tường thuật quân sự, mỗi ngày từ sáng sớm gửi tấu; nếu có việc quan trọng, thì lập tức gửi tấu khẩn không cần đợi thời gian.”
[61] Chiếu bãi bỏ việc tăng giảm bổng lộc của mạc chức châu huyện quan. Trước đó, có chỉ lệnh cho Lại bộ căn cứ vào mức độ phức tạp công việc để giảm bổng lộc của tuyển nhân trong thiên hạ, nhưng Lại bộ cho rằng việc đơn giản thì ở nơi xa xôi hẻo lánh mà số quan ít, việc phức tạp thì ở nơi trọng yếu mà số quan nhiều, xa xôi thì người ta không muốn đến, trọng yếu thì nhiều người tranh nhau, bổng lộc không thể giảm. Vì thế việc này bị bãi bỏ.
[62] Ngày Quý Dậu, Chu Củng, nguyên là Phó sứ Chuyển vận Hà Bắc, tâu rằng: “Trong niên hiệu Hi Ninh, Trình Phưởng, Ngoại đô thủy giám thừa, đã cho dựng cầu phao ở bến giữa sông Hô Đà thuộc phủ Chân Định, chi phí tăng gấp mấy lần so với trước, lại không phải là nơi hiểm yếu, chỉ chiếm dụng hư danh sứ thần và binh lính. Xin bãi bỏ tất cả, hàng năm vào tháng 8, 9 tu sửa cầu ván, đến tháng 4, 5 thì phòng lũ tháo dỡ[13], tạm dùng thuyền qua sông.” Triều đình đồng ý.
[63] Sở Biên tu quân khí thập vật pháp chế tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, chọn những quân khí thập vật được ghi trong sắc lệnh mà tinh xảo để tu sửa thành pháp thức. Sở này căn cứ vào công liệu làm cung sáp sảo của Doãn Biện thuộc tác Cung nỗ của Quân khí giám, cùng quy tắc mẫu mực do Diêm Thủ Cần định ra, rất chi tiết và chặt chẽ, xin thay đổi cách làm cung cũ.” Triều đình đồng ý.
[64] Triệu Dương, Quyền Phó sứ Chuyển vận Kinh Hồ Bắc lộ, cùng các quan tâu rằng: “Khi tuần tra đến châu Thành, thấy thành trì, lầu gác đủ để bảo vệ dân chúng không lo ngại. Các đoàn Thượng Giang, Đa Tinh, Đồng Cổ, Dương Trấn đều đến dưới thành buôn bán, có thể dần dần chiêu dụ, đặt thành trại. Và giao cho Ty An phủ Chuyển vận Kinh Hồ Nam lộ[14], ủy thác cho Quan Kỷ, Tri châu Thiệu, chiêu dụ những hộ dân chưa quy thuận ở trạm Phù Dung Thạch thuộc huyện Thì Trúc.” Chiếu chỉ tạm lệnh chiêu nạp, chưa được đặt thành trại.
[65] Ngày Giáp Tuất, Trương Vũ Cần tâu rằng: “Quân đóng ở đập thứ tư sông Vĩnh Lạc. Hôm sau, Kinh lược sứ Thẩm Quát và Chuyển vận sứ Lý Tắc tranh chấp về việc sử dụng sứ thần không hòa hợp, Từ Hi phân xử, lệnh cho Lý Tắc chỉ lo việc cung ứng chi phí tu sửa thành, còn việc tu sửa thành đều nghe theo sự điều hành của Thẩm Quát, mới yên ổn. Hôm đó, thành Vĩnh Lạc bắt đầu khởi công.”
(Theo 《Ngự tập》 ngày 9 tháng 9 và 《Thực lục》 ngày 6 tháng 9 tâu lên. 《Tân kỷ》 cũng chép: “Ngày Giáp Tuất, xây thành Vĩnh Lạc.” 《Cựu kỷ》 thì chép vào ngày Mậu Tý tháng 7.)
[66] Ngày Ất Hợi, An phủ sứ Cao Dương Quan lộ Hàn Trung Ngạn tâu: “Chuyển vận ty muốn dời quân Can Ninh đến trại Can Phù thuộc châu Thương, bãi bỏ quân để lập huyện, nhằm tránh nạn lũ lụt, nhưng dân chúng không cho là tiện.” Tri châu Thương Triệu Chiêm cũng tâu: “Dân Can Ninh lo sợ, đều nói rằng nước sông đã thuận dòng, lại thêm đê điều được gia cố gấp nhiều lần, việc dời quân thực sự có hại mà không có lợi, xin hãy nhanh chóng bãi bỏ để yên lòng dân biên giới.” Triều đình đồng ý.
[67] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Tăng Bố tâu: “Thành cũ Lạc Nguyên có thể xây dựng một thành, chợ Bạch Báo có thể lập một trại, sông Quan Mã có thể xây một đồn.” Triều đình đồng ý, lệnh cho Lý Sát chuẩn bị, đợi khi binh lực Phu Diên tiếp ứng thì mới khởi công xây dựng.
[68] Ngày Bính Tý, ra chiếu rằng mọi việc liên quan đến tu sửa thành trì và đào hào đều được phép thuê mướn nhân công.
[69] Ngày Mậu Dần, sông Hoàng Hà vỡ đê ở Tảo Nguyên Vũ.
(Hai bộ sử đều ghi chép việc này.)
[70] Tri Xu mật viện Tôn Cố xin từ chức, được bổ nhiệm làm Tri châu Dĩnh, chiếu đáp không chấp thuận.
(Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 là sự việc tháng 8, con của Cố là Phác và Dã bị cách chức vào tháng 8 năm thứ 3.)
[71] Tháng 9, ngày Kỷ Mão mùng một, Vua không khỏe, bãi triều ba ngày, chiếu rằng những việc của Trung thư tỉnh cần tâu mặt đối mặt thì phải dâng tấu chương.
[72] Ngày Nhâm Ngọ, lại bãi triều năm ngày, phân công các đại thần cầu phúc ở trời đất, tông miếu và xã tắc.
[73] Ngày Quý Mùi, Trương Vũ Cần tâu: “Theo tin báo, giặc phương Tây điều động quân từ sáu ty Giám quân đến sông Ngân Châu, Thẩm Quát và Từ Hi đang răn dạy các tướng, phân định chiến trường.”
[74] Ngày Giáp Thân, thành Vĩnh Lạc xây xong. Ban đầu khi khởi công xây dựng, quân địch nhiều lần đến tranh giành, đều bị đánh lui. Đến lúc này công trình hoàn thành, sai Cảnh Tư Nghị đem 4.000 quân trấn giữ (Tư Nghị để quân lại giữ thành, việc này căn cứ theo ghi chép của Thẩm Quát). Khúc Trân tổng chỉ huy hành dinh, đốc thúc xây dựng lầu canh, sửa chữa nhà cửa, cùng Lý Tắc ở lại trong thành. Trước đó, Tây Hạ điều động dân chúng làm lính, cứ 10 người lấy 9, được 30 vạn người, mang theo lương thực đủ dùng trong 100 ngày, đóng quân ở phía bắc Kinh Nguyên, chờ quân triều đình ra khỏi biên ải thì tấn công. Sau khi nghe tin xây thành Vĩnh Lạc, liền dẫn quân tiến về Phu Diên. Người biên giới đến báo tin trước sau hơn mười lần, nhưng Từ Hiệp đều không tin, còn nói: “Nếu giặc đến nhiều, đó chính là cơ hội lập công của ta.” Vua ban cho Hiệp cờ vàng, nói: “Tướng sĩ lập công, sẽ được thưởng gấp đôi so với trận Mễ Châu.” Hiệp sợ Thẩm Quát chia sẻ công lao, bảo Quát rằng: “Thành đã gần xong rồi, nên cùng Tồn Trung về Diên Châu.” Quát nghe theo.
[75] Ngày Ất Dậu, Hiệp, Quát và Thuấn Cử đem 8.000 quân trở về Mễ Châu (việc này căn cứ theo 《Tư Mã Ký Văn》. 《Khúc Trân truyện》 chép: “Tin do thám báo quân địch tập trung rất gấp, Trân dùng lời lẽ khác khuyên Hiệp nên về trước.” Xét: Hiệp không phải người có thể bị khuyên bằng lời lẽ khác, việc về Mễ Châu chỉ là không muốn Quát ở lại, nay không theo). Kỵ binh địch ngay sau đó từ Minh Đường Xuyên tiến vào, đóng trại bên cạnh thành, đối diện với phong đài Hạ Châu, bày trận ở phía tây sông Vô Định, dò xét quân triều đình (việc này căn cứ theo báo cáo ngày Nhâm Thìn 14 của Thẩm Quát và ghi chép của Quát). Khúc Trân sai người phi ngựa báo cho Hiệp, Hiệp nói: “Giặc Khương láu cá dám đến chết sao!” Lập tức dẫn 25.000 quân đi ứng chiến, và bảo Quát rằng: “Tồn Trung là đại tướng, không thể tùy tiện xuất quân, tôi cùng Lý Thường Thị được Vua sai đi, nên lập tức lên đường.” Thuấn Cử ban đầu không muốn đi, Hiệp ép buộc, nên cùng đi. Có người bảo Hiệp: “Nhận chiếu chỉ xây thành, nay thành đã xong, chống giặc không phải là nhiệm vụ.” Hiệp không nghe
(số quân căn cứ theo ghi chép của Thẩm Quát, còn lại căn cứ theo truyện của Hiệp, Trân và lời kể của khách).
[76] Ngày Bính Tuất, ban chiếu đặt tên thành Vĩnh Lạc là trại Ngân Xuyên. Trước đó, Từ Hi và các quan tâu: “Đã quyết định đặt trại ở đập dưới Vĩnh Lạc, địa thế hiểm trở kiên cố, ba mặt dựa vào vách đá, bên trong bên ngoài đều có núi sông, khí thế hùng tráng. Ngày Giáp Tuất tháng 8 khởi công, tổng cộng dùng 20 vạn nhân công. Thành mới cách đập trên Vĩnh Lạc 8 dặm, cách châu Ngân cũ 25 dặm, cách trại Mễ Chi 50 dặm. Vĩnh Lạc vốn lấy tên từ con sông nhỏ, phía trước thành chính là con sông lớn của châu Ngân, xin ban tên.” Vì thế có chiếu này.
(Sách 《Thực lục》 chép: “Từ Hi tâu: Ngày Giáp Tuất tháng 8 khởi công, ngày Giáp Thân tháng 9 thành lũy hoàn thành.” Ngày Giáp Tuất là ngày 25 tháng 8; ngày Giáp Thân là ngày 6 tháng 9. Nếu thành đã xong mới tâu thì việc tấu đến triều đình không thể nhanh như vậy, đây là lời dự đoán. Triều đình căn cứ vào lời tấu trước của Từ Hi, đoán rằng thành ắt sẽ hoàn thành vào ngày 6 tháng này, nên ngày 8 liền ban tên, không đợi Từ Hi tâu xong mới ban tên. Sách 《Vĩnh Lạc khách thoại》 chép: “Ngày Mậu Thìn tháng 8 đến Vĩnh Lạc, điều binh ra ngoài, 12 ngày sau thành lũy hoàn thành.” Từ ngày Mậu Thìn 19 đến ngày Canh Thìn mùng 2 tháng 9, tổng cộng 12 ngày, nhưng các ngày Mậu Thìn, Canh Thìn được ghi chép khác với 《Thực lục》. Lại nữa, Lữ Huệ Khanh viết văn bia cho Từ Hi và truyện của Từ Hi đều chép rằng 14 ngày thành lũy hoàn thành, cũng khác với 《Vĩnh Lạc khách thoại》 và 《Thực lục》. Truyện của Từ Hi phần lớn dựa vào văn bia, không có căn cứ khác. Nay theo 《Thực lục》, ngày Giáp Tuất 25 tháng 8 bắt đầu xây thành, ngày Giáp Thân mùng 6 tháng 9 thành lũy hoàn thành, ngày Ất Dậu mùng 7 người Hạ liền đến tranh thành, ngày Bính Tuất mùng 8 ban tên thành, ngày Đinh Hợi mùng 9 người Hạ liền vây thành. Sách 《Cương yếu》 chép: “Người Hạ nghe tin xây thành Vĩnh Lạc, từ Kinh Nguyên đem 30 vạn quân đến tranh, Từ Hi, Lý Thuấn Cử cũng từ Mễ Chi dẫn quân đến trại Ngân Xuyên để chống cự.”)
[77] Quản câu Vĩnh Hưng quân đẳng lộ thường bình đẳng sự Trương Đại Ninh dời sang Tần Phượng lộ, đề cử Tần Phượng lộ thường bình đẳng sự Trần Khang Dân dời sang Vĩnh Hưng quân lộ. Vì đề cử cung tiễn thủ, doanh điền, phiên bộ sự Khang Thức đặt cơ quan ở Vị châu, Đại Ninh kiêm đề cử, nên dời về bản lộ.
[78] Từ Hi, Lý Thuấn Cử lại vào thành Vĩnh Lạc, Khúc Trân nói với Hi: “Nghe nói quân giặc rất đông, cấp sự và sắc sứ nên lui về nơi an toàn, hịch các tướng đốc chiến là được.” Hi cười nói: “Khúc hầu là lão tướng, sao lại nhát gan thế?” Không nghe.
[79] Ngày Đinh Hợi, giặc ba mươi vạn người tấn công thành, Trân dẫn quân chống cự, tướng quan Khấu Vĩ, Lý Sư Cổ, Cao Thế Tài, Hạ Nghiễm, Trình Bác Cổ cùng sứ thần hơn mười người, sĩ tốt hơn tám trăm người tử trận, giặc bèn vây thành.
(Theo tấu báo của Thẩm Quát ngày 17. 《Tân kỷ》 chép: “Ngày Đinh Hợi, quân Hạ đánh Vĩnh Lạc, tướng quan Khấu Vĩ chết trận.” 《Cựu kỷ》 không chép. 《Cương yếu》 chép: “Ngày Đinh Hợi, quân Hạ đánh trại Ngân Xuyên, Phó tổng quản Phu Diên lộ Khúc Trân xuất chiến, thất bại.”)
[80] Ngày Kỷ Sửu, ban đức âm: “Giảm án tử tội ở kinh thành và các huyện lân cận, tội đồ trở xuống được tha.” Vì Vua uống thuốc khỏe lại.
(Hai bộ 《Kỷ》 đều chép việc này.)
[81] Trước đó, Trứ tác tá lang Phong Tắc được bổ làm Lại bộ viên ngoại lang, Tắc tâu: “Thần trước đây làm Ngự sử, nhiều lần nói về tội trạng của Thượng thư hữu thừa Vương An Lễ, xin cho bãi miễn.” Chiếu theo lời.
(Tắc được bổ làm Lại bộ[15], vào ngày 25 tháng 8, nay ghi chung ở đây.)
[82] Ngày Canh Dần, Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Theo chiếu phát 5.000 mã quân chỉ huy thay thế chín tướng ở Kinh Đông, Kinh Tây về doanh, nhưng các tướng đã ra biên giới.” Chiếu cho phép hợp ba tướng lại tập trung luyện tập, chuẩn bị điều động.
[83] Tạ Lân tâu: “Theo chiếu lập châu Thành nhưng chưa vạch rõ địa giới bốn phía, lo rằng huyện Thì Trúc châu Thiệu tranh chiếm phần đất quản hạt của thành mới châu Thành. Nghe nói châu Thiệu đã cắt thôn Đồng thuộc thành mới, thôn Đồng cách châu Thành 40 dặm, huyện Thì Trúc 80 dặm, đường sá hiểm trở, qua chân dốc Cửu Vĩ, đèo Bàn Lan lớn nhỏ, núi sâu rừng rậm, chính là con đường từ Hồ Nam đến châu Thành. Nay thuộc huyện Thì Trúc, so với châu Thành đã xa, lại thuộc châu Thiệu cách xa 22 trạm, nếu có kiện tụng oan ức, huyện và đồn không thể giải quyết, cách châu đã xa, dân không biết kêu ai. Xin từ đỉnh núi Xương Bồ chia nước, phía tây thuộc châu Thành, phía đông thuộc huyện Thì Trúc châu Thiệu.” Vua nghe theo.
(Tháng 7 ngày Bính Ngọ, tháng 10 ngày Kỷ Mão.)
[84] Chiếu rằng: “Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây đã huấn luyện dân binh, thập trưởng đã thành thạo kỹ năng, nên áp dụng phương pháp tập hợp huấn luyện của phủ Khai Phong. Số tiền lương cần thiết và việc bố trí quan lại, có thể theo lệnh của Xu mật thừa chỉ ty để thu thập và kiểm tra.” Thừa chỉ ty tâu: “Nay lấy Hà Bắc Tây lộ làm bắt đầu, lấy số tiền thu năm Nguyên Phong thứ hai làm chuẩn để kiểm tra, giảm bớt tiền của kỳ trưởng 42.356 quan, hộ trưởng 9.562 quan, tráng đinh 32.815 quan, và phát thêm 6 chỉ huy cấm quân với số tiền 111.186 quan. Xem xét Hà Bắc Tây lộ có 16 châu quân, 55 huyện trại, 1.498 cung thủ. Vì huyện úy không quản lý nông thôn, nên cung thủ cần được cắt giảm. Trong 53 huyện cung thủ, trừ 10 huyện dùng sứ thần làm úy, vẫn giữ nguyên số cung thủ, còn lại 43 huyện, mỗi huyện định 15 người, 2 trại mỗi trại 8 người, tổng cộng giữ lại 1.306 cung thủ, tiết kiệm được 14.392 quan. Bảo giáp có 411 đô bảo, 966 người thừa thiếp, tiền công khác nhau, chia làm 20 bậc, mỗi năm chi 16.048 quan. Nghĩa dũng đổi thành 156 đô bảo, 208 người, mỗi người 24 quan, tổng chi phí 26.626 quan.” Chiếu từ tháng 10 năm nay bắt đầu thu.
(Binh chí ghi số liệu kiểm tra có chỗ khác, nay ghi lại cả ở đây. Chí viết: “Chiếu ba lộ đang huấn luyện dân binh, không lâu nữa thập trưởng sẽ thành thạo, cần áp dụng ngay phương pháp tập hợp huấn luyện của phủ. Tiền lương, quan lại đều như các huyện trong kinh, chưa biết có kịp thời gian hay không; nếu chậm trễ, sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện đại pháp, nên lệnh thừa chỉ ty thu thập và kiểm tra.” Chiếu này ban vào ngày 21 tháng giêng năm thứ 4. Năm đó, phủ Khai Phong, Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây kiểm tra bảo giáp, tổng cộng 3.266 đô bảo, 691.945 chính, trưởng, tráng đinh, mỗi năm tiết kiệm được 1.661.483 quan tiền cũ, chi phí hàng năm 313.166 quan, còn tiền thưởng cho việc tập hợp huấn luyện là hơn 1 triệu quan không tính vào đây. Khi tập hợp và huấn luyện xong, hàng năm cử sứ đi kiểm tra gọi là đề cử án duyệt, thường do cận thần cùng nội thị đi, thưởng theo quy định, các lộ đều theo thứ tự người thành thạo kỹ năng được kiểm tra trước, thường 5-6 năm một lần, riêng Hà Đông vì thiếu vàng lụa để thưởng nên đến 11 năm mới một lần. Thượng chiếu: “Người Tấn dũng cảm, mạnh mẽ, phong tục chuộng võ nghệ, lại ở giữa hai kẻ địch, việc khuyến khích không nên chậm trễ. Nay thưởng thêm 150.000 quan tiền.” Việc này ghi theo bản chí, cần xem xét lại ngày tháng cụ thể.)
[85] Tri châu Nguyên Châu là Tạ Lân tâu rằng, La Thế Niệm ở châu An Hóa làm loạn, đã lập thưởng để chiêu mộ. Đồng thời trình bày việc phân binh tiến đánh châu An Hóa, nêu rõ lợi hại. Triều đình nghe theo, lại hạ chiếu điều hai chỉ huy Kị binh tinh nhuệ ở kinh thành cùng 1.500 quân của Giang Nam Đông Lộ[16], 2.000 quân của Phúc Kiến Lộ đến Nghi Châu, theo yêu cầu của Tạ Lân. Sau đó, triều đình hạ chiếu cho Tạ Lân tạm thời dùng mưu kế xử lý, chưa tiến hành đánh dẹp, các đạo quân khác chưa phái đi. Tạ Lân lại tâu rằng dân binh biên giới muốn tự nguyện tham gia rất đông, xin cấp một số tiền lương, triều đình đồng ý.
(Tháng 7, ngày Bính Ngọ.)
[86] Ngày Tân Mão, hạ chiếu: “Gần đây uống thuốc đã khỏi bệnh, sai quan tạ ơn trời đất, tông miếu, xã tắc, cung quán.”
[87] Đại Lý khanh Dương Cấp và các quan tâu rằng ngục tù trống không, chiếu giao cho Sử quán ghi chép.
[88] Hạ chiếu ban thưởng tiền cho binh sĩ hai chỉ huy Quảng Dũng và Quảng Đức ở huyện Dương Vũ, số lượng khác nhau. Lúc đó sông Hoàng Hà vỡ đê ở Nguyên Vũ, quân sĩ phải dời doanh trại tránh lũ.
[89] Lại hạ chiếu cho Ngô Tiềm điều tra việc ở động Lê châu Chu Nhai, đợi khi việc biên giới Nghi Châu ổn định sẽ nghe chỉ dụ riêng.
(Tháng 6, ngày Nhâm Thân, lại tháng 7, ngày Mậu Tuất.)
[90] Ngày Nhâm Thìn, hạ chiếu tay: “Chỗ vỡ đê sông Hoàng Hà ở Nguyên Vũ đã chiếm hơn một phần tư dòng chính, nếu không kịp thời ứng phó, e sẽ thành họa lớn, gây lo lắng cho triều đình. Có thể tạm dừng việc tu sửa Thượng thư tỉnh và đê sông Biện, điều 5.000 quân của Ty đê ngạn sông Biện cùng làm việc đắp đê. Lệnh cho Dương Cảnh Lược đến lo việc cung ứng vật liệu, dù thuộc ty khác cũng phải cấp phát ngay rồi tâu lên.”
[91] Cấp sự trung Lục Điền tâu: “Xem tờ tấu của Lại bộ, Tống Bành Niên được đề cử làm Thái thường tự thừa. Thái thường lo việc lễ nhạc, nên chọn người có học thuật, Bành Niên không đủ năng lực. Xin cho Bành Niên nhận chức khác.” Triều đình đồng ý.
[92] Chiếu rằng: “Các huyện thuộc phủ Khai Phong bị nước sông tràn vào, dân chúng tụ tập trên gò cao, không thể qua lại, dẫn đến thiếu lương thực. Giao cho Lưu Trọng Hùng đi ngựa trạm đến các huyện có nước để quy hoạch thuyền bè, chở dân đến nơi không có nước, an định họ, cấp củi lương thực. Ba ngày một lần báo cáo số người được cứu giúp lên Thượng thư tỉnh.”
(Sách cũ ghi việc cử quan an định dân các huyện kinh thành bị nạn lụt, nhưng không ghi ngày. Sách mới ghi việc này vào ngày Nhâm Thìn, có lẽ dựa theo thực lục.)
[93] Trương Thế Củ, quan chức Kiềm hạt lộ Thái Nguyên phủ, chuyên quản lý quân mã lộ Lân Phủ, tâu rằng: “Khi đang xây dựng thành Gia Lộ Xuyên, đến thành cũ Gia Lộ và trại mới thì gặp giặc, quan phiên là Tả Thị cấm, Tuần kiểm tộc Kết Đương ở trại Thần Mộc là Sở Mặc đã chém được sáu đầu giặc.” Chiếu cho Sở Mặc thăng năm bậc, những người khác mỗi người được thưởng thêm một bậc, tổng cộng cấp bốn mươi tấm lụa.
[94] Chiếu rằng: “Phép nuôi ngựa dân hộ lấy tiền mua nhà làm tài sản, nếu tính theo nhà ở thì ba nghìn quan tiền mua nhà nuôi một con ngựa, nếu tính theo tiền thuê nhà thì hai nghìn quan nuôi một con ngựa. Nếu vừa có nhà ở vừa có tiền thuê nhà thì tính theo tỷ lệ mà quy đổi.” (Ngày 5 tháng 5[17], ngày 7 tháng 8 cần xem xét.)
[95] Chiếu rằng: Các huyện trong tháng phân phát lương thực, nếu không có chức Thừa thì Chủ bạ không được cử đi nơi khác nếu không phải để kiểm tra thiệt hại của huyện mình. Nếu gặp việc bận, tạm thời miễn xử lý công việc huyện.
[96] Dương Nguyên Tôn, quan chức Tẩu mã thừa thụ công sự lộ Phu Diên, tâu rằng việc tu sửa thành Vĩnh Lạc đã hoàn thành.
[97] Tháng 9, ngày Ất Dậu, Thẩm Quát dẫn đầu bộ trung quân, hữu quân, ngu hậu quân đến trại Mễ Chi, đợi tổng quản Khúc Trân dẫn bốn quân và quân tuyển phong đến, tiến đắp thành trại. Lại tâu: “Việc đắp thành trại không thể chậm trễ, giặc Tây đã mất Hoành Sơn, chẳng bao lâu tất phải tiêu diệt.” Vua phê dụ Thẩm Quát, Từ Hi, Lý Thuấn Cử: “Nếu để lại ba đến năm nghìn quân ở trại Ngân Xuyên để phòng bị chiến đấu, dời đại quân đắp các thành trại tiếp theo, cách bố trí này có lợi hại gì, hãy xem xét kỹ rồi thi hành.” Lúc đó triều đình theo lời tấu của Thẩm Quát, chỉ biết người Hạ đến tranh Vĩnh Lạc, chưa biết Từ Hi đã bị vây, nên có mệnh lệnh này.
[98] Triệu Tế tâu: “Theo công văn của Miêu Thụ, đang phân phái sứ thần đi thu thập những người không thuộc biên chế đoàn kết Hán, Phiên cung tiễn thủ, đều đến hành dinh để chống giặc.” Chiếu rằng: “Những người Miêu Thụ thu thập, nếu không có ích gì cho việc, thì không được triệu tập nữa. Khi nhận được chỉ huy, căn cứ tình hình biên giới mà thi hành. Và gửi công văn cho Lý Hiến.”
[99] Chiếu rằng: “Tất cả chỉ huy việc biên giới, không gửi đến Môn hạ tỉnh phúc tấu nữa.”
(Chu bản chép: “Lúc đó vì việc biên giới gấp rút, không gửi đến Môn hạ tỉnh phúc tấu.” Nay theo Mặc bản.)
[100] Chiếu rằng: “Từ nay, Xu mật viện nhận được chỉ dụ có đóng ấn ngự bảo, nếu không có việc gì cần bàn bạc, thì gửi đến Môn hạ tỉnh để xét lại, viện này không phải phúc tấu nữa.”
(“Không có việc gì cần bàn bạc”, theo 《Xu mật viện thời chính ký》 thêm vào. Ngày 22 tháng giêng năm thứ 6, Mậu Tuất, tham khảo.)
[101] Lại chiếu rằng: “Những việc tu sửa pháp thức, đều do Thượng thư tỉnh bàn định rồi trình lên Trung thư tỉnh, việc gấp thì thi hành trước, còn lại nửa năm ban hành một lần. Những việc thuộc Xu mật viện và không thuộc Lục tào, giao cho Hình bộ; việc liên quan đến công thưởng, giao cho Tư huân soạn thảo, rồi gửi về Thượng thư tỉnh bàn định.”
(Ngày 15 tháng 12, ngày 1 tháng 9 năm thứ 6, ngày 6 tháng 3 năm thứ 7, tu sửa biên soạn lại.)
[102] Ngày Quý Tỵ, Ty Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Thành Định Tây sai dịch ngữ Bành Bảo cùng sáu người vào địa giới do thám, thu được tin thực[18], có công lao.” Chiếu cho thăng một bậc, mỗi người được ban 20 tấm lụa.
[103] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng: “Những người thuộc Lại bộ xin lưu lại Đài, Cung quan, Quốc Tử Giám, tuổi từ 60 trở lên, kiêm dùng ân lệ của chấp chính quan, tổng cộng không được quá ba nhiệm kỳ.”
[104] Chiếu rằng: “Binh mã các lộ Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Tần Phượng, hiện đang điều động đến lộ Phu Diên để cứu ứng, đều được cấp tiền đặc chi.”
(Theo 《Ngự tập》.)
[105] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng vì mới uống thuốc, nên bãi bỏ yến tiệc mùa thu.
[106] Thẩm Quát tâu rằng giặc Tây vây thành Vĩnh Lạc. Chiếu rằng: “Ty Kinh lược Hà Đông và Ty Quân mã Lân Phủ lập tức điều động quân Hán, Phiên đang đóng giữ ở ngoài sông, cần hơn hai vạn người, lệnh cho Trương Thế Củ, Ti Hổ đều thống lĩnh; lại sai thêm tướng quan có năng lực, cùng đi theo đường tiện trong và ngoài sông đến trại Vĩnh Lạc, gấp rút đánh trả và cứu viện. Những binh tướng trong trại có công, so với công thưởng trước đây, được ban ân gấp đôi. Quân cấm được điều động, cấp tiền đặc chi một nghìn, dân binh giảm một bậc. Lại lệnh Ty Chuyển vận sai một viên quản lý lương thảo theo quân, tùy nghi xử lý. Những nơi gần biên giới ngoài sông, các châu, quân, thành, trại có điều động binh lính, đều phải thực hiện kế sách kiên bích thanh dã.” Lại chiếu cho Lý Hiến lưu lại hai vạn quân ở Kinh Nguyên, số còn lại đều thống lĩnh đến Phu Diên ứng viện, ngoài tiền đặc chi còn được cấp thêm lộ phí.
[107] Thẩm Quát tâu: “Thần dẫn quân đến sông Vô Định, muốn chia quân cứu thành Vĩnh Lạc và tiếp ứng đường lương, nhưng bị đại quân giặc ngăn trở, không thể tiến lên được.” Lại tâu: “Đã chuyển chiến đến thành Tuy Đức, bộ đốc tướng quân chiếu ứng các trại.” Lúc đó, kỵ binh tuần tra của giặc xâm phạm Mễ Chi, Quát rút về giữ Tuy Đức, nên có tờ tấu này. Khi Vĩnh Lạc bắt đầu bị vây, Quát chỉ có một vạn quân, không đủ để chiến đấu. Vừa ra lệnh điều quân tiếp viện từ Diên Châu, tù trưởng người Khương là Lăng Kết A Ước Lặc dẫn tám vạn quân đánh úp Tuy Đức từ phía nam, ba trăm người Khương thuộc hạ định lật thành ứng chiến, em của A Ước Lặc là Hưng Nộn báo cho Quát biết. Quát tập hợp tướng tá bàn rằng: “Thắng bại của Vĩnh Lạc chưa ảnh hưởng lớn đến tình hình biên giới. Tuy Đức là cửa ngõ của quốc gia, mất Tuy Đức thì Diên Châu sẽ bị địch uy hiếp, thắng bại khó lường, Quan Trung tất nhiên sẽ chấn động. Đây là cơ hội lớn, nên bỏ Vĩnh Lạc mà cứu Tuy Đức.” Một ngày trước đó, Quát vào Tuy Đức, bắt giết ba trăm người phản loạn treo xác trên thành, A Ước Lặc dẫn quân rút lui. Quân tiếp viện từ Diên Châu chưa đến, có chiếu chỉ bảo Quát rút về giữ Tuy Đức, không được tùy tiện cứu Vĩnh Lạc, đợi quân tiếp viện tập hợp.
(Từ “Khi Vĩnh Lạc bắt đầu bị vây” trở xuống 160 chữ, căn cứ theo tự chí của Quát. 《Khách thoại》 chép: “Ngày Kỷ Hợi, kỵ binh tuần tra áp sát Mễ Chi, Quát rút về giữ Tuy Đức.” Xét: Vĩnh Lạc thất thủ ngày Kỷ Hợi, Kỷ Hợi là ngày 20. Tờ tấu này của Quát đến vào ngày 17, vậy việc Quát bỏ Mễ Chi chắc chắn không phải ngày 20.)
[108] Chủng Ngạc tâu: “Thần chỉ có bốn nghìn quân ốm yếu nhút nhát còn lại, cố gắng hết sức giữ Diên Châu.” Ngạc ban đầu bàn việc tiến quân vào thành Hoành Sơn, vốn có ý tự mình làm thống soái, lập đại công, nhưng bị Từ Hi và Thẩm Quát gạt ra ngoài. Đến khi Vĩnh Lạc bị vây, Ngạc đóng quân trong thành quan sát tình hình, nên mượn danh giữ Diên Châu, không lập tức đi cứu.
[109] Hoắc Bính, chức Tẩu mã thừa thụ công sự của Phu Diên lộ, và Lý Cự, chức Phụng nghị lang, Quản câu văn tự của Thiểm Tây chuyển vận ty, cùng tâu rằng hơn hai mươi vạn quân Tây Hạ vây chặt, thành Vĩnh Lạc nguy cấp. Cự là em của Tắc.
[110] Chiếu rằng: “Từ Hi, Lý Thuấn Cử bị giặc Tây vây hãm, tuy triều đình đã phát nhiều viện binh ứng cứu, nhưng lo rằng thành trì phòng thủ chưa chuẩn bị kỹ, quân số ít không địch nổi giặc, hoặc đường vận lương bị cắt đứt, không thể cố thủ, giao cho Thẩm Quát, Chủng Ngạc tuyển chọn những người dũng cảm đáng tin, hứa hẹn ban thưởng tước lộc hậu hĩnh, sai họ mang văn thư đã hội binh cứu viện, tìm đường tắt đến bí mật truyền lệnh cho Từ Hi, nếu thực sự không thể giữ được, nên tùy cơ từ bỏ thành mà rút về.”
[111] Chiếu gửi Trung thư: “Lý Tắc bị vây ở thành Vĩnh Lạc, hiện thiếu quan Chuyển vận sứ ty, nên cử Lý Cự tạm quyền quản lý chức Chuyển vận phán quan.”
[112] Tây Kinh lưu thủ Văn Ngạn Bác tâu: “Đề cử Sùng Phúc cung Tư Mã Quang trước đây vì biên soạn 《Tư trị thông giám》, phải mất nhiều năm mới có thể hoàn thành sách, nhiều lần xin được giữ chức quan nhàn để tiện biên soạn. Nay nhiệm kỳ tái nhiệm sắp hết, xin cho phép tái nhiệm thêm, để không ảnh hưởng đến việc biên soạn.” Triều đình đồng ý, và ra chiếu cho Tư Mã Quang tái nhiệm thêm 30 tháng, không cần đợi người thay thế, sau đó sẽ triệu về kinh.
(“Không cần đợi người thay thế, triệu về kinh”, chi tiết này căn cứ theo tập tâu trạng của Tư Mã Quang, hoặc xem thêm vào tháng 12 năm thứ 7 khi được bổ nhiệm chức Tư chính.)
[113] Chiếu rằng: “Các vật dụng quân khí trong Nội Cung Tiễn và Nam Ngoại hai kho chỉ cung cấp cho Ngự Bảo trướng và sổ sách của bản kho[19], không được dùng sổ sách cung cấp cho Binh bộ, Vệ úy tự.”
[114] Ngày Bính Thân, Vua phê dụ Thẩm Quát: “Thành Vĩnh Lạc đang rất nguy cấp, nếu không cân nhắc tình thế mà xử trí, e rằng sẽ làm việc triều đình thêm trầm trọng. Hiện nay dù đã phát binh các lộ đến cứu viện, nhưng ước tính phải mười mấy ngày nữa mới tập hợp đủ quân. Khanh hãy cân nhắc sai người bí mật thương lượng với giặc, hẹn rút lui quân mã, ta sẽ thu hồi binh lính ở Vĩnh Lạc và trả lại đất đai. Nếu thấy khả thi thì cứ theo mệnh lệnh mà thi hành, nếu e rằng sẽ làm tăng thế lực của giặc thì đừng làm. Nay các tướng ở Vĩnh Lạc đã thất bại, việc đã rồi không thể làm gì được, khanh chớ hoang mang, hãy chỉnh đốn tinh thần, xử lý việc biên cương, an ủi lòng dân trong thành, chiêu tập binh sĩ và sứ thần bị thất lạc. Chỉ cần trên dưới một lòng, kiên cường giữ thành, thu thập dân chúng, đốt hết kho tàng, đừng để lộ ra ngoài, đó là việc cấp bách hiện nay. Đừng tùy tiện phái thêm viện binh nhỏ, e rằng sẽ làm tăng thêm khí thế của giặc, làm nản lòng quân sĩ. Tất cả những mệnh lệnh đã ban trước đây, hãy tìm cách truyền đạt, bảo họ tìm cách thoát vòng vây, bỏ thành.”
[115] Ngày Đinh Dậu, Vua phê dụ Miêu Thụ: “Quân lính lâu ngày phơi mình ngoài trận, không chỉ tốn kém lương thảo, mà còn là cô quân giữa đồng trống, thành Sở Đống Lũng nhỏ không thể chứa được, nếu chẳng may quân giặc xông tới, vừa không thể đánh ngoài đồng, lại thêm tướng soái ở ngoài, căn bản bị bỏ trống. Hãy nhanh chóng phân định quân mã đóng đồn ở Hi Châu, Thông Viễn quân, trở về phủ soái để xử lý công việc, còn Thông Viễn quân thì giao cho Miêu Lý tổng quản.”
[116] Vua xuống chiếu cấp 800 độ điệp cho Đô thủy giám để ứng phó với vật liệu ở ba đập Nguyên Vũ, Thiên Đài, Tề Cổ.
(Thực lục chép thêm: “Lý Cự, Chủng Ngạc, Thẩm Quát tâu: Ngày Mậu Tuất, thành Vĩnh Lạc thất thủ, 230 quan lại Hán và Phiên cùng hơn 12.300 binh sĩ đều tử trận.” Chu Thiêm Thiếp ghi: Việc Vĩnh Lạc là do ngày 1 tháng 10 mới tâu lên, nên dời về sau. Điều này cho thấy Thực lục cũng có chỗ nhầm lẫn về việc gắn sự kiện với ngày tháng.)
[117] Đại Tông Chính ty tâu: “Từ trước đến nay, các tông phụ, tông nữ có lỗi, việc liên quan đến vi phạm, bản ty ghi chép tấu lên, đưa vào ngục xét hỏi kỹ càng, quan pháp tiết lộ những điều xấu xa trong màn trướng, kể lại chi tiết để báo cáo, làm nhục lễ nghi quá mức. Xin từ nay những người phạm tội đưa vào nội tỉnh, giao cho quan xét thực, tóm tắt vụ án để tâu lên.” Không được chấp thuận.
[118] Hoài Nam Chuyển vận ty tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, cho phép các quan ở Hoài Tây một lộ tự bán muối, đến cuối năm so sánh số thuế thực thu để tấu lên.” Được chấp thuận.
(Bản chí chỉ ghi vào năm thứ 5: “Năm sau, áp dụng phép của Chu Phụ ở Hoài Nam Tây lộ.”)
[119] Ngày Mậu Tuất, thành Vĩnh Lạc thất thủ. Lúc đầu, Thẩm Quát nói với Từ Hi: “Quân ta chỉ có ba vạn, trong khi quân giặc tập hợp hỗn tạp đến mấy chục vạn, làm sao chống nổi? Chi bằng bỏ thành Vĩnh Lạc để làm khốn địch.” Hi không nghe. Trước đó có chiếu chọn quân tinh nhuệ làm kỳ binh, nhưng Hi lại muốn dùng kỳ binh làm tiên phong. Quát nói với Hi: “Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân ta. Khí thế giặc đang hăng, nếu dùng ngàn quân đối đầu với tiên phong của chúng, ắt không địch nổi, thế là ta mất đi lực lượng tinh nhuệ, không đánh cũng tự thua.” Hi lại ra lệnh trong quân không căn cứ vào việc chém giết để luận công, nhất định phải đánh bại địch rồi mới chia đều phần thưởng. Quát nói: “Không lấy việc lập công để thưởng thì quân sĩ không có gì để khích lệ; chia đều phần thưởng thì dung túng cho kẻ may mắn, làm nản lòng những người xông pha.” Hi đều không nghe. Lại trở về Vĩnh Lạc, quân không có do thám, khi vào thành, địch kéo cả nước đến, các tướng đều xin thừa cơ chúng chưa tập hợp mà đánh úp, Hi lại không nghe. Cao Vĩnh Năng nói rất khẩn thiết: “Tính người Khương nhẹ dạ, nếu bất ngờ đánh mạnh thì chúng sẽ mất khí thế, không làm hại được ta. Nếu do dự không quyết, để chúng tự do hoành hành, thì chúng sẽ làm gì cũng được. Nay những kẻ đến trước đều là quân tinh nhuệ, nhanh chóng đánh bại chúng thì chúng sẽ hoảng loạn bỏ chạy, sau đó dù có đại quân cũng không dám tiến lên nửa bước, đó là lẽ thường. Bụi bay mù trời, ắt là mấy chục vạn quân, nếu để chúng tập hợp đủ thì quân ta ít không chống nổi quân địch đông, việc lớn hỏng mất!” Hi ngạo nghễ vuốt râu, nói với Vĩnh Năng: “Ngươi biết gì! Quân vương không đánh trống thì không bày trận.” Vĩnh Năng lui ra, vỗ ngực nói với mọi người: “Ta không biết sẽ chết ở đâu nữa!”
[120] Quân địch kỵ binh dần áp sát, Từ Hi bèn lệnh cho Khúc Trân đem toàn bộ quân trong thành bày trận dưới chân vách núi bên bờ nước. Từ Hi cắm cờ vàng, tay cầm kiếm, ngồi trên thành quan sát. Quân địch trước tiên dùng năm vạn kỵ binh đối đầu với ta, Từ Hi liền phái kỳ binh xông lên phía trước, nhưng trận thế vững chắc không thể lay động. Sau ba trận đánh, toàn quân địch tiến lên, kỳ binh của ta bỏ chạy, quân ta đại bại. Khúc Trân gõ cổng thành nói với Từ Hi: “Quân ta đã thua rồi! Quân địch đối đầu với ta đều là tinh nhuệ, tiền quân thắng trận nên lơ là, quân ở phía sau đều là già yếu, ngài nên nhanh chóng xuất kích, bí mật vượt qua núi phía tây, vòng ra phía sau đánh vào quân già yếu, quân địch ắt sẽ rối loạn, đây là cách đánh vào tâm lý.”
Từ Hi đóng cửa thành không trả lời, Khúc Trân bèn phá cửa vào giữ thành, thu thập tàn quân được một vạn năm nghìn người, kỵ binh đều bỏ ngựa leo lên vách núi, Từ Hi giận đổ mồ hôi như mưa. Thành Vĩnh Lạc dựa vào núi không có nước, phía dưới giáp sông Vô Định, đào được mười bốn cái giếng, xây lũy để phòng thủ. Quân địch ập đến, Lý Tắc tiếc lương thực quân đội, không cho binh lính vào, binh lính dùng cuốc xẻng đào lũy làm bậc thang[20], tranh nhau leo lên, quân địch thừa cơ đoạt được thủy trại. Trong thành đào được ba cái giếng, đến mạch nước, chỉ đủ cho tướng lĩnh uống, binh lính chết khát quá nửa, đến nỗi phải vắt phân ngựa để uống. Từ Hi ngày ngày mang theo hai cái bánh nướng, đi lại tuần tra trên thành, tự mình dùng tên đá đánh quân địch, mệt thì gối lên đùi lính chợp mắt, quân sĩ đều chịu thương chịu khát để chống giặc.
Quân địch như kiến bò lên thành[21], xác chết chất đống như núi, giẫm lên mà leo lên, thành mới chưa kịp chuẩn bị dụng cụ phòng thủ, quân địch biết Thẩm Quát rút về giữ Tuy Đức, Vĩnh Lạc bị cô lập, càng đánh càng gấp. Cao Vĩnh Năng nói với Lý Tắc: “Thành mới mưa nhiều ngày, đất ướt và sụp đổ, chi bằng dùng hết tiền trong kho để chiêu mộ tử sĩ[22], đột phá vòng vây mà ra, mười phần còn được bảy tám; nếu không, ngồi chờ chết mà thôi.” Khúc Trân cũng báo với Từ Hi, Từ Hi vẫn không nghe, lại trách Khúc Trân: “Khúc hầu đã làm quân thua trận, lại còn muốn bỏ thành sao!”
[121] Giặc vây thành đã mười ngày, sai sứ gọi người trên thành xin hòa, Hi biết thế không địch nổi, bèn sai Lữ Văn Huệ ra ứng phó. Văn Huệ đến trướng giặc, tướng giặc bắt Văn Huệ ngồi dưới đất, nói: “Ngươi là tiểu tướng, không thể bàn ước, phải để Khúc Thái úy đến.” Liền sai Văn Huệ trở về. Hi cho rằng Khúc Trân đang nắm tổng quân chính, không thể sai đi, mà Cảnh Tư Nghị tự xin đi, Hi nói: “Vạn một có sai sót, e tổn thương quốc thể.” Tư Nghị nói: “Nay thế đã bức, nếu có thể dùng lời lẽ thuyết phục chúng, khiến chúng hoãn đánh để đợi viện binh, chẳng phải cũng được sao? Muốn cứu mạng sống mấy vạn người, há tiếc một thân mình!” Tướng giặc thấy Tư Nghị, nói: “Nếu trả lại ta đất Lan Hội, Mễ Châu, sẽ lập tức rút quân.” Tư Nghị nói: “Việc này thuộc về triều đình, không phải bề tôi biên cương có thể chuyên quyết.” Giặc bèn giam giữ ông. Ban đầu, khi Tư Nghị đi, chỉ có Hi và Thuấn Cử có hai bình nước, các tướng đã ba ngày không được uống nước, giặc cũng không biết, nên tấn công có phần chậm lại. Hôm ấy, giặc bỗng gọi dưới thành: “Người Hán sao không hàng? Đã ba ngày không có nước rồi.” Hi lấy nước trong bình vẩy ra ngoài, chỉ cho chúng xem: “Không có nước, đây là gì?” Giặc cười nói: “Chỉ có thế thôi.” Từ đó nghi ngờ Tư Nghị đã tiết lộ.
[122] Đêm đó, trời mưa lớn, quân địch từ bốn phía tấn công gấp, quân sĩ đói mệt, không thể chống cự nổi. Nửa đêm, thành bị hạ, Hy và Thuấn Cử đều chết, Tắc bị loạn quân giết, Khúc Trân cùng Vương Trạm, Lý Phố chạy về, quân sĩ sống sót chỉ được một hai phần mười. Thuấn Cử sắp chết, xé vạt áo viết tờ tấu rằng: “Thần chết không hận, chỉ mong triều đình đừng xem thường quân địch này.” Tắc cũng viết tờ tấu rằng: “Thần nghìn cay muôn đắng vậy!” Hy không rõ kết cục thế nào, có người nói Hy thực ra không chết, có người từ quân địch trở về từng thấy ông.
(Hy không chết, theo《Thuấn Dân tiểu sử》[23]; Cao Vĩnh Năng chết, phụ lục ngày Bính Dần tháng 10. 《Cựu kỷ》 chép: “Ngày Mậu Tuất, quân Hạ chiếm Vĩnh Lạc, Từ Hy, nội thị Lý Thuấn Cử, Thiểm Tây chuyển vận phán quan Lý Tắc đều chết.” 《Tân kỷ》 chép: “Ngày Mậu Tuất, quân Hạ chiếm Vĩnh Lạc, Từ Hy, nội thị Lý Thuấn Cử, Thiểm Tây chuyển vận phán quan Lý Tắc đều chết.”)
[123] Ngày Kỷ Hợi, cơ quan Thố trí Hà Bắc Địch tiện ty tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, xây sáu kho ở hai châu Doanh, Định, trước sau đã cấp một nghìn năm trăm độ điệp. Số tiền đó đã dùng hết[24], xin thêm cấp hai nghìn.” Chiếu cấp một nghìn.
(Năm thứ 6, kho mới xây xong, theo bản chí.)
[124] Ban thưởng tiền đặc chi cho binh lính các trạm cấp cước và trạm ngựa từ kinh đô đến Thiểm Tây, Hà Đông để chuyển văn thư về việc biên cương.
[125] Chiếu cho Thẩm Quát đợi Chủng Ngạc đến Tuy Đức thành rồi trở về Diên Châu.
[126] Chiếu rằng: “Khách tỉnh, Dẫn tiến, Tứ phương quán mỗi nơi đặt hai chức sứ, Đông và Tây thượng các môn cùng đặt sáu chức sứ, Khách tỉnh, Dẫn tiến, Các môn cùng đặt tám chức phó sứ, Các môn đặt mười chức thông sự xá nhân. Từ chức phó sứ các môn trở lên, đều theo điều lệ khảo xét của các ty sứ, phó sứ. Chức sứ các môn trở lên, nếu có khuyết, đổi chức và đủ năm kỳ, thì Xu mật viện xét cử. Nếu từng giữ chức vụ ở các môn, sau phạm tội tham nhũng hoặc tội tư hình từ trượng trở lên, khi có việc thăng chuyển đều bổ sang ty khác. Chức sứ các môn và Tứ phương quán đủ bảy năm không phạm tội tư, chưa có khuyết để thăng chuyển, thì được thăng thêm chức dao quận. Những người được đặc chỉ bổ nhiệm chính thức, chức Dẫn tiến sứ đủ bốn năm thì thăng làm Đoàn luyện sứ, chức Khách tỉnh sứ đủ bốn năm thì thăng làm Phòng ngự sứ.”
[127] Hoàng thành sứ, Khang Châu thứ sử, quyền Phu Diên lộ phó tổng quản kiêm Đệ nhất tướng Hạ Nguyên Tượng được bổ làm Tây thượng các môn sứ, Khang Châu Đoàn luyện sứ. Do Chủng Ngạc tâu rằng Nguyên Tượng làm tướng trung quân, đã chia quân ra đánh ở vùng sông Vô Định và tự mình đánh thành Mễ Chi, lập được hai công.
[128] Ngày Canh Tý, Triều phụng lang, thí Lại bộ thị lang Lý Thừa Chi được cử làm quyền Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, đi ngựa trạm đến nơi, đợi khi việc biên giới xong thì trở về như cũ.
[129] Sai Thái thường bác sĩ Vương Cổ đến tế ở miếu Linh Tế phu nhân tại Nguyên Vũ tảo, vì việc đắp đê ngăn sông quyết.
[130] Lại bộ dâng lên bảng xếp hạng của sở khảo thí hình pháp được biên soạn lại, chiếu rằng: “Người hạng nhất là Tôn Phụ Đạo, lệnh cho Đại Lý tự thử xử ba mươi vụ án, nếu đủ năng lực giữ chức, thì do trưởng quan bảo đảm[25]; người hạng nhì, hạng ba thì tuỳ theo thứ bậc, được bổ nhiệm, miễn thi, thăng thứ bậc khác nhau.”
[131] Chiếu rằng quân viện binh của Hà Đông và Thiểm Tây đều thuộc quyền thống chế của Chủng Ngạc, lệnh cho Chủng Ngạc tuỳ nghi dùng hậu thưởng để khích lệ tiến quân, mong không để lỡ việc.
[132] Chiếu rằng: “Như kinh phó sứ Vương Kỳ được truy tặng Hoàng thành sứ, Trung châu phòng ngự sứ, ban ân trạch sáu bậc, cấp bạc, lụa mỗi thứ một trăm ngàn; Phí Vạn Tử được ban chức Tam ban tá chức, cấp bạc lụa năm mươi tấm, tiền năm mươi ngàn; Đàm Tuấn không con không em, được truy tặng Hạ ban điện thị, cấp lụa hai mươi tấm, tiền hai mươi ngàn.” Để khen thưởng người chết vì việc.
(Đàm Tuấn chưa rõ. Vương Kỳ chết vì việc vào tháng bảy ngày Tân Tỵ, sách mới chép việc này vào tháng này ngày Canh Tý, có lẽ chưa xét kỹ. Sách mới và sách cũ đều chép: “Giặc An Hóa xâm phạm Nghi châu, Tri châu Vương Kỳ chết vì việc.”)
[133] Các quan giám sát Phúc Kiến lộ dâng tấu về công trạng chém được tên Khang Sân, chiếu rằng: “Đội trưởng Đông Nam đệ thập tướng là Trình Kiến có công đầu, được thụ chức Hữu ban điện trực, Cáp môn chi hậu, Kiếm châu đô tuần kiểm sứ, điều về Nghi châu. Lưu Phúc, Hoàng Chu Lũy mỗi người được thăng hai bậc, Ngô Cốc được thăng một bậc, Lý Sĩ Xương, Lý Khánh được ban chức Hạ ban điện thị. Người chém được thủ cấp ngoài việc được thưởng tiền đầy đủ, mỗi thủ cấp được thăng thêm một bậc. Những người giết được vợ con Khang Sân và bắt được người bị bắt đi, được ban ân theo lệ đối với giặc chính. Binh lính hỗ trợ mỗi khi chém được một thủ cấp, người hỗ trợ được thưởng một trăm ngàn tiền, chém được nhiều thì thưởng nhiều. Thủy thủ bị thương được ban thưởng theo lệ binh chính.”
(Việc Khang Sân, cần xét kỹ để chép thêm.)
[134] Ngày Tân Sửu, chiếu rằng: “Cơ quan Tường định quan chế bãi bỏ, các điều lệ của Lục bộ gửi về Biên sắc sở, những việc chưa xong, hạn trong mười ngày phải kết thúc, trước hết bãi bổng lộc của quan lại.”
[135] Nhập nội cung phụng quan Phùng Tông Đạo dâng sách sắc lệnh cách thức sáu mươi quyển lên cung Cảnh Linh.
[136] Sứ ban cáo mệnh cho Đổng Chiên là Chủng Nghị dâng tên các thủ lĩnh có công đánh Hạ quốc, chiếu rằng: “Mười ba người bậc trên được làm Đô quân chủ của bộ tộc, mỗi năm được cấp trà, lụa theo thứ bậc.”
[137] Chiếu rằng: “Các việc liên quan đến Nghĩa dũng, Bảo giáp đều thuộc về Xu mật viện, các việc dân binh khác đều thuộc về Binh bộ.”
[138] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng: “Các vị thần Thần Tế phu nhân dọc sông Hoàng Hà đều được xưng là Hiển linh thần phi, lấy miếu Linh Tân làm tên.”
[139] Chiếu cho Triệu Hàm, đề cử thường bình đẳng sự ở Hà Đông lộ, và Trang Công Nhạc, quyền chuyển vận phán quan, Phụng nghị lang, mỗi người giáng một cấp. Vì tội khi đại quân xuất biên, lương thảo không tiếp tục được, dân phu chết quá nửa, mà báo cáo lên trên không đúng sự thật, do Ngự sử Vương Hoàn tâu luận vậy.
[140] Ngày Quý Mão, Chủng Ngạc tâu: “Vâng chiếu cứu viện thành Vĩnh Lạc, chưa biết kế hoạch phòng thủ lớn của Diên Châu giao cho ai.” Chiếu cho Hồ Tông Hồi quyền quản câu Diên Châu sự, đợi Thẩm Quát đến thì bàn giao, lại chiếu cho Thẩm Quát chỉ mang quân nha về Diên Châu.
[141] Chiếu cho Liêm Chính Thần, Tư nông thiếu khanh, giảm thời gian khảo xét một năm, vì đề cử mua lương thực phong trang ở kinh đô, thu được một trăm vạn quan tiền.
[142] Châu Hoạt tâu: “Nước sông Đao Mã tràn ngập, từ phía nam thành Vi đến Trường Viên, người ngựa không đi lại được.” Chiếu: “Đường đi của sứ giả ở phủ Khai Phong và châu Hoạt, giao cho Tô Chú, thông phán châu Hoạt, chuyên trách quản lý.”
(Sách 《Tân kỷ》 chép: “Ngày Quý Mão, nước sông ở châu Hoạt tràn.” Sách 《Cựu kỷ》 không chép.)
[143] Ty đề cử Quảng Nam Tây lộ tâu: “Theo chiếu y theo lời thỉnh cầu của Chu Sơ Bình, Lưu Nghị, bốn châu quân Quỳnh Châu, Xương Hóa, Vạn An, Chu Nhai không thi hành phép dịch, vẫn theo lệ cũ sai dân phu. Nay muốn lấy tiền dịch dư thừa ở các châu phía bắc biển sung vào việc thuê dân phu ở các châu quân phía nam biển.” Theo lời tâu.
[144] Sở tu định nghi chú cung Cảnh Linh tâu: “Theo lệnh nghi chế: Cửa các miếu xã, cung môn đều có hai mươi bốn cây kích, cung Thái Thanh đời Đường chín cửa cũng đặt kích vẽ. Kính nghĩ rằng cửa Thiên Hưng và cửa ngoài cung Cảnh Linh vốn để kính thờ thiên thần, không nên dựng kích. Các điện thờ thần ngự, vì theo lễ sinh mà thờ tổ tông, nên theo lệnh nghi chế về chế độ cung môn, mỗi cửa dựng hai mươi bốn cây kích.” Theo lời tâu. Lại tâu: “Theo chế độ cũ: Ngày quốc kỵ không có điện thờ thần ngự thì đến chùa Phật hành hương. Nay các điện thờ thần ngự đều ở cung Cảnh Linh, ngày kỵ đều đến điện đó, xin đặt vị trí của Hi Tổ, Dực Tổ ở điện Thiên Hưng, của Văn Ý, Giản Mục hoàng hậu ở các Bảo Ninh, ngày kỵ đều bày trướng thứ ở phía trước điện Thiên Hưng bên trái, quan cung trước dời vị thần đến trướng thứ, việc xong thì trở lại.” Theo lời tâu.
[145] Chiếu cho Viện Xu mật: “Các chỉ huy Long Mãnh, Long Kỵ tuy đã lệnh tuyển bổ, nhưng số thiếu vẫn còn nhiều, có thể sai Tào Chiếu, Bành Đạc chia nhau đến các lộ Khai Phong phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây, Giang Hoài, Kinh Hồ để tuyển bổ, lệnh cho đủ số quy định.”
[146] Ngày Ất Tỵ, Vua lại ngự điện Sùng Chính, tuyên triệu các tể thần trở xuống đến Trung thư xá nhân, Quan sát sứ trở lên, xem 11 tấm biển ngự thư ở cung Cảnh Linh.
[147] Hoàng tử thứ 10 băng, mẹ là Hoài Dương quận quân Quách thị sinh ra, ngày hôm sau mất, chưa kịp ban tên và phong tước.
(Sau ban tên là Vĩ. 《Cựu kỷ》 chép: “Ngày Giáp Thìn, hoàng tử Vĩ sinh; ngày Ất Tỵ, mất.” 《Tân kỷ》 chỉ chép: “Ngày Ất Tỵ, hoàng tử Vĩ băng.”)
[148] Ngày Bính Ngọ, chiếu cho Tư nông thiếu khanh Liêm Chính Thần, Đổng Sân đều xử lý việc thuộc thứ tự đề hình.
[149] Mùa thu năm đó, quan phán phủ Hà Nam là Văn Ngạn Bác tâu rằng: “Thần năm ngoái vào mùa đông, đã dám dốc hết sức ngu muội, nhiều lần tâu trình việc biên giới Thiểm Tây. Mùa xuân năm nay, may được ban cho con trai thần là Di Khánh đặc biệt trao chiếu chỉ ngày 25 tháng 2 để an ủi thần, sau đó lại được bệ hạ thương xót, không trách tội thần cuồng vọng. Thần kính đọc chiếu chỉ rằng: ‘Sáu quân đã trở về trại, tướng sĩ đã mệt mỏi, dân chúng đã kêu than bệnh tật, tình thế hiện nay, há có thể lại tiến xa vào sâu được sao? Chỉ nên củng cố biên giới để tự phòng thủ mà thôi. Gần đây đã ra lệnh cho Kinh Nguyên chế trí các thành trại, đình chướng để ngăn chặn quân địch, không phải là có ý đồ như trước đây.’ Thần ngẫm lời thánh, lòng vui mừng khôn xiết, thấy được tấm lòng của bệ hạ noi theo đạo Nghiêu, Thuấn, thương xót nỗi khổ của dân chúng, bao trùm khắp nơi, rộng khắp sự nuôi dưỡng, thật là may mắn!
Tuy nhiên, từ mùa thu năm nay, lại có việc điều quân đi mở rộng biên giới, vận chuyển lương thực vào sâu, việc này chắc chắn là do các quan biên thần ham công, mưu cầu may mắn, đề xuất kế hoạch, lừa dối triều đình, không hiểu rõ địch tình, dẫn đến thất bại. Người đề xuất kế này, bệ hạ ắt biết rõ, xin hãy trừng trị rõ ràng để răn đe những kẻ ham lợi lộc về sau, tránh để việc lớn của triều đình bị lầm lỗi. Mong bệ hạ lấy đại ý chiếu chỉ ngày 25 tháng 2 năm nay, bí mật dụ bảo các quan biên thần, nghiêm chỉnh phòng bị, củng cố biên giới để tự bảo toàn, địch đến thì chống cự, địch đi thì không đuổi theo. Qua vài năm nữa, khí thế quân sĩ sẽ hồi phục, sức dân sẽ hồi sinh, lương thực đầy đủ, binh lực hùng mạnh, còn gì không thể làm được? Quân Khương nghe tin ắt sẽ tự khuất phục. Thần lại nghe rằng, mưu tính đánh địch, liệu đoán tình hình, ngay cả các tướng lão thành cũng khó làm được, không nên chỉ nghe theo những kẻ mới vào triều, bạch diện thư sinh, chỉ biết nói suông, dễ dàng lập kế hoạch. Nay thiên hạ rộng lớn, nhân tài đông đảo, há lại không có người thấu hiểu sâu xa, lo xa nghĩ kỹ, trung thành giữ vững chính nghĩa, từng trải qua nhiều việc? Mong bệ hạ hãy tìm hiểu kỹ và cẩn thận sử dụng, như những danh tướng, danh thần từng giữ biên cương, phòng thủ biên ải thời tổ tiên, được ghi chép trong quốc sử rất nhiều, xin bệ hạ hãy xem xét kỹ. Lời thần nói đây, không phải không biết sẽ đụng chạm đến sự giận dữ hiện thời, nhưng vì tuổi già, từng đảm nhận trọng trách ba triều, được bệ hạ đặc biệt yêu quý, lòng thần hướng về triều đình, nghĩa vụ gắn liền với vận mệnh, há lại nên im lặng theo thói thường, phụ lòng thánh minh? Kính mong bệ hạ thương xét đến tấm lòng thành khẩn tận tụy của thần.”
(Theo 《Văn Ngạn Bác tập》 bổ sung, phụ vào cuối tháng 9 năm thứ 5. 《Cương yếu》 chép: Tháng này, lộ Hoài Tây[26] bắt đầu thi hành pháp diêm của Kiển Chu Phụ.)
- Đô sự, chữ 'sự' nguyên bản là 'ty', xét: Đô ty tức là Tả Hữu ty, rõ ràng là sai. Theo 《Tống sử》 quyển 161, chí về chức quan, Thượng thư tỉnh lấy Đô sự làm đứng đầu các lại viên, dưới có Chủ sự, Lệnh sử, v.v., nên sửa lại. ↵
- 'Bội' nguyên bản là 'bộ', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa 70-173, 20-10 sửa lại. ↵
- đợi năm dạy xong tính số tiền lương thực chi 'đợi' nguyên là 'sau', theo 《Tống hội yếu》 binh 2/24 sửa ↵
- Thần được ơn nhẹ trách, chữ 'nhẹ' trong các bản khác và 《Tống hội yếu》 đều ghi là 'sổ'. ↵
- Chiếu Phu Diên lộ tính toán chiêu nạp quy thuận bộ lạc người Thổ tráng đinh mười người, chữ 'kế' nguyên bản là 'chư', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa. ↵
- Mỗi người được thưởng ba mươi ngàn tiền, tối đa một trăm ngàn, chữ 'bách thiên' nguyên bản là 'bách nhân', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phần Hình pháp 7-19 mà sửa. ↵
- Chiếu cho hàng năm vào tháng đầu mỗi mùa làm lễ triều hiến ở Cảnh Linh cung, hai chữ 'Mạnh nguyệt' ban đầu viết ngược, căn cứ vào bản trong các và sách Tống sử quyển 16, Thần Tông kỷ sửa lại. ↵
- Mỗi năm Vĩnh Hưng quân 500.000 quan, chữ 'quân' ban đầu viết là 'binh', căn cứ vào bản trong các sửa lại. ↵
- Phủ Hà Trung, châu Thiểm, hai chữ 'phủ Thiểm' ban đầu viết ngược, xét: 4.000 quan tiền phân bổ cho các châu phủ, từ phủ Hà Trung đến châu Thương chỉ có thể chia cho 6 châu phủ, phủ châu thuộc lộ Hà Đông, rõ ràng không hợp, hai chữ 'Thiểm phủ' viết ngược là chắc chắn, căn cứ vào đó sửa lại. ↵
- Ngày Kỷ Tỵ thăng làm Đại Tư chính điện, 'Kỷ Tỵ' nguyên bản viết là 'Ất Tỵ', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa. Xét: Đại học sĩ điện Tư chính thời Tống thường gọi tắt là 'Đại Tư' hoặc 'Đại Tư chính', chữ 'điện' ở đây có lẽ là thừa. ↵
- Thiếu một chữ 'bại', theo bản các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 về thất bại của Từ Hi ở Vĩnh Lạc bổ sung. ↵
- Cùng không đánh dẹp bọn giặc ở địa phận tả sương, 'sương' nguyên là 'tương', 'phận' nguyên là 'phương', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66.19 sửa lại. ↵
- Chữ 'tháo dỡ' nguyên bản là 'chiết', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phương vực 13/6 sửa lại. ↵
- Chữ 'Kinh' nguyên bản là 'Hồ', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 phương vực 19/8, phiên di 5/87 sửa lại. ↵
- 'Lại bộ' nguyên là 'Ngự sử', theo các bản và văn trên sửa. ↵
- 'Lộ' trong 'Giang Nam Đông Lộ tướng binh 1.500 người', các bản và 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 5-7 đều chép là 'Tây'. ↵
- Ngày 5 tháng 5 trong sách này, quyển 344, năm Nguyên Phong thứ 7, tháng 3, ngày Nhâm Tuất (23) có chú thích của Lý Đào giống nhau. Các bản khác và quyển này, năm Nguyên Phong thứ 5, tháng 8, ngày Bính Thìn
(7) có chú thích của Lý Đào đều ghi là 'ngày 5 tháng 2'. ↵
- Thành Định Tây sai dịch ngữ Bành Bảo cùng sáu người vào địa giới do thám, thu được tin thực. 'Dịch' nguyên là 'Dịch', căn cứ vào bản các và 《Tống hội yếu》 binh 18 chi 11 sửa lại. ↵
- Chiếu rằng các vật dụng quân khí trong Nội Cung Tiễn và Nam Ngoại hai kho chỉ cung cấp cho Ngự Bảo trướng và sổ sách của bản kho, chữ 'Nam' dưới nguyên có thêm chữ 'Nội', theo 《Tống sử》 quyển 164 Chức quan chí và 《Tống hội yếu》 Chức quan 22-1, Vệ úy tự có Nội Cung Tiễn kho, Nam Ngoại kho, không có Nam Nội kho, văn dưới chỉ rõ 'hai kho', nên chữ 'Nội' là thừa, theo đó mà bỏ. Chữ 'thập' nguyên là 'Pháp', chữ 'chỉ' nguyên là 'thượng', hai chữ 'Ngự Bảo' nguyên bị đảo ngược, theo 《Tống hội yếu》 Chức quan 22-4 sửa lại. ↵
- Dùng cuốc xẻng đào lũy làm bậc thang, chữ 'đào' nguyên bản là 'nắm', căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 sửa lại. ↵
- Quân địch như kiến bò lên thành, chữ 'thành' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác bổ sung. ↵
- Chi bằng dùng hết tiền trong kho để chiêu mộ tử sĩ, chữ 'kho' nguyên bản là 'vận', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 sửa lại. ↵
- 'Sử' trong 'Thuấn Dân tiểu sử' nguyên là chữ 'Lại', căn cứ vào chú thích trong quyển 330, tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 5, ngày Nhâm Thân, có ghi chép về Trương Thuấn Dân tiểu sử, nên sửa lại. ↵
- 'Tận' trong 'kì tiền dĩ tận dụng' nguyên là chữ 'Tiến', căn cứ vào bản các và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 54-5, 62-57 sửa lại. ↵
- Nếu đủ năng lực giữ chức, do trưởng quan bảo đảm, chữ 'minh' vốn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 tuyển cử 13.21 bổ sung. ↵
- 'Hoài' nguyên là 'chuẩn', theo 《Hoàng Tống thập triều cương yếu》 quyển 10, hạ, tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 5 sửa lại. ↵