"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 331: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 5 (NHÂM TUẤT, 1082)

Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 5 đời Thần Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 11, ngày Mậu Dần (mùng 1), Vua nói với các đại thần: “Ngự sử vốn đã phải phân công giám sát các quan ở kinh đô, công việc đã nhiều, nay lại lệnh cho họ giám sát và tiến cử khắp nơi, thì lấy gì để đòi hỏi hiệu quả trị lý? Hơn nữa, điều này cũng không hợp thể thống. Có thể bãi bỏ việc Ngự sử giám sát các lộ. Nếu các cơ quan có quan lại không làm tròn chức trách, thì lệnh cho Ngự sử giám sát việc tâu bày, và ghi thành lệnh.”

(Sách 《Tân Kỷ》 chép: Ngày Mậu Dần, bãi bỏ việc Ngự sử giám sát các lộ.)

[2] Phó sứ Chuyển vận Thiểm Tây Lý Sát xin rằng các lộ Phu Diên, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Hi Hà mỗi lộ cử một viên Giám ty quan, chuyên lo việc chuẩn bị ứng phó cho các tướng và quân phòng thành cùng các vật dụng quân khí. Vua đồng ý.

(Năm trước đã có đại cử, các quan Chuyển vận ty đã phân công theo từng lộ, nay lại có tấu xin này, cần xem xét thêm.)

[3] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội tâu rằng: “Đổng Chiên, A Lý Cốt, Quỷ Chương tự nhận đã phá được thành Chước Long và Xúc (Khẩu Di) của nước Hạ.” Vua xuống chiếu lệnh cho Kinh chế ty bảo A Lý Cốt liệt kê tên các thủ lĩnh có công để tâu lên. Sau đó, ban thưởng bạc lụa cho họ theo thứ bậc.

[4] Đô Tổng quản ty lộ Định Châu tâu rằng hiện thiếu quân bộ, xin không hạn chế số lượng để chiêu mộ bổ sung. Vua đồng ý, và lệnh cho các tướng ở Hà Bắc làm theo.

[5] Đô thủy sứ giả Phạm Tử Uyên tâu: “Trước đây vâng chỉ cứu hộ đê sông lớn ở Quảng Vũ Tảo bị sạt lở, nhờ các quan lại chạy vạy khẩn trương, thức đêm dầm mưa, ra sức cứu chữa, nên đê mới được ổn định. Nên ban ân thưởng để khuyến khích công lao sau này.” Vua xuống chiếu bảo Tử Uyên liệt kê tên để tâu lên. Sau đó, Phó sứ Chuyển vận Hướng Tông Đán trở xuống đều được giảm tuổi, thăng chức, và ban thưởng lụa theo thứ bậc.

[6] Ngày Kỷ Mão, Tạ Lân tâu về việc tiếp nhận người Man quy thuận ở châu An Hóa, nêu rõ lợi hại. Vua phê: “Tình hình biên giới ở xa, triều đình không thấy rõ thực tế lợi hại, giao cho Tạ Lân và các quan tùy nghi xử lý, không để xảy ra việc gì.”

(Ngày Mậu Tý tháng 9 năm thứ 4, bổ nhiệm Khách tỉnh phó sứ Tạ Lân làm Tri châu Thành. Bản truyện chép: “Không lâu sau, lại làm Tri châu Nguyên.” Ngày Tân Tỵ tháng 7 năm nay, Tạ Lân đã từ chức Tri châu Nguyên để nhận việc kinh chế ở các động Khê châu Nghi, vậy lúc này không nên ghi là Tri châu Thành. Nay thực lục ghi là “Tri châu Thành”, e là sai, nên bỏ chữ “Tri châu Thành”. Ngày Canh Dần tháng 9 sẽ xem xét kỹ hơn.)

[7] Chiếu cho Chủng Ngạc trình bày chi tiết việc Thẩm Quát dẫn theo bao nhiêu tướng quan, sứ thần, quân binh đến thành Vĩnh Lạc, số người tử trận và mất tích trên đường ở thành Vĩnh Lạc, số người được an ủi, tập hợp ở các nơi và số người đi theo Thẩm Quát, phải tâu lên, không được tùy tiện thêm bớt.

(Bản Chu chép: “Lúc đó yêu cầu báo cáo[1], đã xóa. Nay khôi phục lại, để biết số người mất tích thực tế.)

[8] Viện Tường định lễ văn tâu: “Theo Chu lễ, Tiểu tông bá làm lễ cầu đảo, sắp đặt nghi thức và vị trí. Đời Hậu Hán thuộc phủ Tư Đồ, đều không làm ở nơi tế tự, để tránh sự khinh mạn và phòng ngừa sự bất kính. Triều ta khi tế Nam Giao, tập nghi thức ở đàn tế, khi tế Minh Đường, tập nghi thức ở điện Đại Khánh, đều là gần với sự bất kính. Xin cho tập nghi thức Nam Giao ở Thanh Thành, tập nghi thức Minh Đường ở Thượng thư tỉnh, để tỏ lòng tôn kính thần linh.” Vua đồng ý.

[9] Lại tâu: “Ngày Nhâm Ngọ, khi làm lễ phụng an ba vị hoàng hậu ở điện Huy Đức và ba vị hoàng hậu ở điện Diễn Khánh tại cung Cảnh Linh, xin mỗi điện ba vị cùng dùng một tấm chúc bản, không cần lạy riêng.” Chiếu rằng: “Mỗi hoàng hậu dùng một tấm chúc bản, vẫn lạy riêng.”

(Bản Mực chép: “Ngày mai, làm lễ phụng an ba vị hoàng hậu ở điện Huy Đức.” Bản Chu bỏ bốn chữ “Minh nhật phụng an”. Bản mới cho rằng: “Làm lễ phụng an ngày mai là điển lễ, không thể bỏ.” Nay theo bản Chu.)

[10] Đại Tông Chính Ty tâu: “Hưng Châu Phòng Ngự Sứ Trọng Phi trước đây vì dùng lửa đốt mặt người, bị phạt bổng một quý, kéo dài thời gian khảo xét một năm, sau lại đốt mặt nữ nô. Trong một năm, ba lần phạm tội tàn bạo phi lễ, xin trách phạt nặng và giáng chức.” Chiếu kéo dài thời gian khảo xét thêm năm năm.

(Ngày 15 tháng 2, Trọng Phi bị phạt bổng.)

[11] Chiếu: “Chuyển Vận Phán Quan Tử Châu Lộ, Thừa Nghị Lang Trình Chi Tài, và Tri Từ Châu, Triều Tán Đại Phu Triệu Đỉnh đều bị thay thế.” Chi Tài vì kiện tụng với người trước là Tri Lô Châu Nhậm Cấp, báo cáo không trung thực; Đỉnh vì dùng thuyền quan chở vật tư.

[12] Nguyên Vũ quyết đê bị vỡ, chiếu Lễ Bộ Viên Ngoại Lang Vương Tử Thiều đi ngựa trạm đến tế lễ tạ tội.

[13] Sứ thần nước Bột Nê tâu xin được từ Tuyền Châu đi thuyền về nước. Được chấp thuận.

(Cuối tháng 8 năm ngoái, vào cống.)

[14] Chiếu đặc cách hoãn thu nợ tiền và lương thực của các hộ Hán và Phiên ở bốn châu quân Hi Hà Lan Hội Lộ và các trại thành dọc biên giới Phu Diên Lộ.

[15] Ngày Canh Thìn, Ty An Phủ Duyên Biên Lô Nam tâu: “Xin lấy ngựa mua từ Nhung Châu cấp cho quân bản lộ, ngoài ra cấp cho các nhân viên nghĩa quân 19 họ và 7 họ, để họ tập chiến đấu trên ngựa.” Được chấp thuận.

[16] Cấp Sự Trung Lục Điền tâu: “Đọc bản sao của Lại Bộ, Triều Thỉnh Lang, Đề Cử Ngọc Long Quan Ngô Thẩm Lễ được đề nghị thăng lên Triều Phụng Đại Phu. Vì Thẩm Lễ xin về làm quan cung do tuổi già và bệnh tật, theo pháp không nên thăng.” Chiếu bãi bỏ.

[17] Hoàng Thành Sứ, Huệ Châu Đoàn Luyện Sứ Lý Thuấn Thông được cử làm Đề Cử Phủ Giới Đạo Tặc Tuần Kiểm Công Sự, coi sóc các lộ Kiềm Hạt.

[18] Chiếu Kiềm Hạt Tử Quỳ Châu, Cung Bị Khố Sứ Cao Tuân Trị, và Đô Tuần Kiểm Nhung Lô Đẳng Châu, Tây Kinh Tả Tàng Khố Phó Sứ Trương Thọ đều bị giáng một chức. Vì giết giặc Di đã đầu hàng không chịu bỏ cung đao, tự mình bắt người Di ở Du Thủy để mạo nhận thưởng, dù đã được ân xá, nhưng vẫn bị trách phạt đặc biệt.

[19] Ngày Tân Tỵ, các quan đại thần phụ trách lễ nghi là Tể thần Vương Khuê, Thái Xác, Tri Xu mật viện Tôn Cố, Môn hạ Thị lang Chương Đôn, Trung thư Thị lang Trương Tảo, Đồng tri Xu mật viện Hàn Chẩn, Thượng thư Tả thừa Bồ Tông Mạnh cùng các quan viên khác, tập trung trước cửa điện Tập Anh. Hoàng đế đến các điện Giám Châu, Ngưng Hoa để hành lễ cáo từ trước các tượng thần tổ tiên, khi đến trước tượng Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu và Anh Tông Hoàng đế, ngài khóc lóc thảm thiết rất lâu, các quan đều không dám ngẩng mặt nhìn. Sau đó, Vương Khuê và các quan khác đưa tượng thần lên kiệu hoa đến điện Tập Anh. Các quan xin hoàng đế trở về cung, nhưng ngài không nghe, cứ đi bộ theo sau mỗi tượng thần ra khỏi điện, đợi khi rước hết tượng thần mới trở về cung. Lúc này, tượng thần sắp được đưa về thờ tại cung Cảnh Linh, nên khi tượng tạc xong, mới dời về điện Tập Anh.

[20] Chiếu rằng: “Hoàng thành sứ Trương Miễn, Như kinh phó sứ Thạch Ôn Kỳ, Nội điện Sùng ban Triệu Tiềm, mỗi người bị truất năm chức; Văn tư sứ Cao Chính, Văn tư phó sứ Lạc Tiến, mỗi người bị truất bốn chức; Cung bị khố phó sứ Phan Định, Lưu Thanh, mỗi người bị truất ba chức; Hoàng thành sứ Tang Thục, Cung bị khố sứ Nhâm Đoan[2], Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Tống Cầu, mỗi người bị truất hai chức; Hoàng thành sứ, Nghi Châu Đoàn luyện sứ Lý Tường, Tả Kỳ kỵ sứ, Cáp môn Thông sự xá nhân Tôn Hàm Ninh[3], Tả tàng khố sứ Dương Tiến, Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu Tôn Văn, mỗi người bị truất một chức; Đông thượng Cáp môn sứ Địch Vịnh, Tây thượng Cáp môn sứ Trương Thủ Ước, Hoàng thành sứ, Xương Châu Thứ sử, Đái ngự khí giới Lương Tòng Cát, mỗi người bị giáng một chức. Tất cả đều bị xử phạt vì làm tướng ra biên giới mà để mất quân, áp dụng phép “thập phân” để truất đoạt.”

[21] Ngày Nhâm Ngọ, trời vừa sáng, các quan tể tướng và bách quan tập trung ở điện Anh, Vua ngự ở phía đông điện, lên điện dâng lễ theo nghi thức. Lễ nghi sứ dẫn đoàn xe rước thần vị, quan hữu ty tâu xin Vua trở vào cung, Vua không nghe, bước ra khỏi màn, mỗi khi thần vị được rước ra đến cửa Tuyên Đức, lần lượt làm lễ từ biệt xong rồi trở về cung, an vị ở cung Cảnh Linh.

[22] Ngày Quý Mùi, Vua đến cung Cảnh Linh làm lễ triều hưởng, các quan tể tướng và bách quan đi theo dưới điện, trước tiên đến điện Thiên Hưng, sau đó đi khắp các điện, đến điện Kế Nhân, Vua đau buồn khóc lóc rất lâu. Trước đây, các điện thờ thần vị của tổ tiên được xây dựng rải rác ở các chùa quán, Vua cho rằng như vậy chưa đủ để thể hiện sự tôn kính, bèn tham khảo chế độ miếu đường, xây dựng mười một điện ở cung Cảnh Linh, mỗi năm vào tháng đầu tiên làm lễ triều hưởng, để thực hiện đầy đủ lễ nghi của bậc vương giả. Đến lúc này, cung đã xây xong, lễ an vị hoàn tất, bắt đầu làm lễ triều hưởng. Vua ban thưởng cho các quan quản lý và phụ trách cung Cảnh Linh các đồ dùng và lụa theo thứ bậc.

(Sách 《Tân Kỷ》 chép: “Ngày Nhâm Ngọ, cung Cảnh Linh hoàn thành, làm lễ cáo thiên di dời thần vị của tổ tiên. Ngày Quý Mùi, lần đầu tiên làm lễ dâng rượu. Ngày Ất Dậu, đại xá thiên hạ, phong chức cho con cháu của các quan đã có hình vẽ. Ngày Canh Dần, mở tiệc chiêu đãi các quan tham gia tế lễ.” Sách 《Cựu Kỷ》 so với 《Tân Kỷ》 ghi chép chi tiết hơn, nhưng không có sự việc gì khác. Sau khi an vị thần vị của Hoàng đế Anh Tông ở cung Cảnh Linh xong, ngày hôm sau, Hoàng thái hậu thân hành đến làm lễ dâng rượu. Bài chúc văn trong 《Trịnh Vân Khê Tập》[4]: “Các chân thần ở nơi bí ẩn, mở rộng thần cung bên phải, trời mở chín tầng, xe mây xuống đón, vẻ uy nghi rực rỡ, ngai vàng vừa yên, chọn ngày lành thành kính, thân tu sửa lễ vật, dâng lễ triều hưởng đúng thời, mãi mãi phụng thờ hoàng linh.” Xét: Câu “xe mây” nên đặt trước câu “trời mở”, câu “thân tu sửa” nên đặt trước câu “chọn ngày lành”, như vậy mới hợp vần, có lẽ ở đây viết đảo lộn.)

[23] Chuyển vận phán quan Quảng Nam Đông lộ là Từ Cửu Tư tâu: “Ở biển Đông có núi Điểu gọi là Hương Sơn, có 5.838 hộ dân ngụ cư, gồm chủ và khách, phân thuộc ba huyện Đông Quản, Nam Hải, Tân Hội. Mỗi khi có kiện tụng, đều phải về huyện mình thuộc để xử lý, gặp sóng gió thì hơn tháng không thông. Xin lập một huyện, lấy tên Hương Sơn.” Các quan giám sát trong lộ bàn bạc, muốn chỉ đặt trấn Hương Sơn, cử một viên giám quan kiêm quản việc phòng cháy và trộm cướp, được chấp thuận.

[24] Ngày Ất Dậu, vì lễ đưa thần vị vào thờ ở cung Cảnh Linh đã hoàn thành, đại xá thiên hạ. Con cháu các bề tôi văn võ cũ có hình vẽ ở điện Thần Ngự đều được ban chức quan sơ phẩm, con cháu thân vương và những người đang tập tước đều được thăng một bậc.

(Nên chọn lấy điều kiện trong chiếu xá để thêm vào.)

[25] Phong ngự thị họ Trần làm Tài nhân.

[26] Xuống chiếu bãi chức tri châu Tuyên Châu là Trần Đồng, không cho tái nhiệm, sai làm phán viện Đăng Văn Kiểm. Vì ngự sử Vương Hoàn tâu rằng ông ta không nên vì tư lợi mà xin tái nhiệm.

[27] Đô thủy sứ giả Lý Lập Chi tâu: “Ngày Nhâm Ngọ tháng này, đã bịt được cửa sông bị vỡ ở đê Nguyên Vũ Tảo. Đến canh năm, hai đầu ngựa đã chìm xuống nước, mặt nước rộng 25 bước. Tuy đã gia cố và tu sửa, nhưng vì đông sâu trời lạnh, khó thi công, xin đến đầu tháng giêng mới tiến hành.” Được chấp thuận. Các quan lại phụ trách việc bịt cửa sông đều bị Khai Phong phủ xét tội.

[28] Phủ Hà Trung tâu: “Các quan phiên bị ép hàng là điện trực Bảo Tế (Khẩu Lăng), điện thị Lý (Khẩu Lăng) Kỷ, Di Hương ba người, không dám xử phạt như nhau.” Xuống chiếu áp giải đến các châu quân Giang Tây để quản thúc, cấp khoán đại tướng, nơi đó cấp thân phận và lương bổng.

[29] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Phủ Châu, quân Hỏa Sơn báo: Trong sông Hoàng Hà có thuyền người Bắc giới trôi dạt đến bờ sông, đồn canh đã thu cứu được.” Xuống chiếu gửi trả về Bắc giới.

[30] Ngày Bính Tuất, Vua xuống chiếu cho Lý Hiến: “Nghe nói Tri châu Lan Châu là Lý Hạo tính tình cố chấp, sai khiến quân sĩ quá mức, khiến nhiều người oán than. Hãy kín đáo xem xét, nếu quả thật không thể dựa vào người ấy ở đó, thì chọn người khác tâu lên.” Sau vài tháng, lệnh cho Văn Uất thay Lý Hạo làm Tri châu Lan Châu.

(Văn Uất làm Tri châu Lan Châu vào ngày Bính Thìn mồng 9 tháng 2 năm sau[5].)

[31] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Thành Tắc Môn Sơn dựa vào núi nên dễ bị địch tấn công, có nền thành cổ và hào cổ làm ranh giới, tạm giao cho Tướng thứ ba của bản lộ là Mễ Uân chiêu mộ cấm binh xây dựng, chỉ trong bảy ngày là hoàn thành.” Vua xuống chiếu giảm thời gian khảo xét của Mễ Uân ba năm.

[32] Đô thủy sứ giả Phạm Tử Uyên tâu: “Từ Đại Danh đến Cát Ninh, qua mười lăm châu, sông đổi dòng làm mất đất khoảng bảy nghìn khoảnh, xin chiêu mộ người cày cấy thu tô.” Vua đồng ý.

[33] Ngày Mậu Tý, Vua xuống chiếu: “Những người ở lộ Phu Diên hy sinh vì việc nước, có gia đình hiện ở bản lộ, muốn trở về quê hương, ngoài việc cấp tiền phúng viếng, thì Đại sứ thần trở lên được cấp thêm tiền hành lý một trăm nghìn, Tiểu sứ thần năm mươi nghìn, Sai sứ, Điện thị ba mươi nghìn[6], những người khác căn cứ theo loại mà cấp phát.”

[34] Vua xuống chiếu: “Cố Thục phi Đổng thị từng hầu hạ Nhân Tông, sinh ra Lỗ Quốc Đại Trưởng Công chúa, ban cho ân trạch bốn người, lệnh cho gia đình kê tên tâu lên.”

[35] Quyền Kinh Đông lộ Chuyển vận phán quan Ngô Cư Hậu tâu: “Các châu có thặng viên, nơi nào cũng lợi dụng để chiếm dụng quá mức. Xin theo Chuyển vận ty cùng các quan chức xem xét các chỗ cần giữ lại, cắt bỏ chỗ chiếm dụng quá mức, ngoài việc định mức mười phần, thì lập thêm một phần làm hạn mức để phòng khi cần kíp, còn lại đều giảm bớt, biên vào sách tấu.” Vua đồng ý.

[36] Thiểm Tây chuyển vận phó sứ, quyền Hoàn Khánh kinh lược ty Phạm Thuần Túy tấu: “Gần đây, thần thấy quân mã hành dinh của lộ Phu Diên, vì giặc đánh lớn, Vĩnh Lạc bị vây, Từ Hi trở xuống đều bị vây, tình thế bất lợi, cần nhờ viện binh lân đạo. Kinh lược ty của bản lộ gửi văn thư cho các lộ Hoàn Khánh v.v. điều động binh mã. Lúc đó, thần đang ở Hoàn Khánh, trực tiếp nghe Tăng Bố bàn luận, cho rằng không phụng chiếu chỉ thì không dám tự ý điều quân. Sau đó, triều đình hạ chiếu, quả nhiên lệnh điều quân, nhưng chưa kịp đến Diên Châu thì thành Vĩnh Lạc đã thất thủ, sứ giả bị giết, tướng sĩ tử trận, trên khiến Thánh thượng lo lắng, dưới hao tổn sức dân, cơ hội bị bỏ lỡ, hại việc đến thế! Thần tra cứu các quy định trước đây về chiến thủ, các lộ đều định sẵn chủ binh quan tướng, chuẩn bị ứng cứu lẫn nhau, hoặc nếu giặc đánh lớn vào một lộ, ngoài việc đã điều binh tướng, còn cho phép các lộ điều động binh mã, lần lượt ứng cứu. Trước đây, do Từ Hi bàn việc biên giới, bãi bỏ hết phép ứng cứu. Lúc đó, không ai nói gì, nhưng lợi hại được mất đã rõ ràng ngày nay. Há có thể để quân bị vây khốn, xin viện binh lân đạo, mà còn phải chờ xét duyệt rồi mới được sao? Nay biên hoạn chưa tiêu, tình địch khó lường, mong Bệ hạ sâu sắc xem xét việc gần đây, quyết đoán từ Thánh tâm, sửa đổi phép lâu dài, để ngăn ngừa họa bất ngờ. Thần không biết việc biên giới, không rõ kiêng kỵ, chỉ là nghĩ đến điều gì thì không nỡ im lặng, phụ lòng lo nước chân thành.” Chiếu rằng: “Các lộ kinh lược an phủ sứ Thiểm Tây, từ nay nếu có việc, không được lệnh binh mã lộ khác ứng cứu, thường phải lo phòng bị rộng khắp bản lộ, tự lo chống đỡ, không để lỡ việc.”

(Thuần Túy, ngày 11 tháng 10 năm thứ 5 được phục chức chuyển vận phó sứ, mùa đông năm đó vâng chiếu quyền lĩnh kinh lược ty lộ Hoàn Khánh, ngày 11 tháng 11 tấu việc này. Ngày 29 tháng 12, có chỉ hạ các lộ, lúc đó Thuần Túy đã bãi chức, không bàn tấu thêm, có thể tra cứu ở quyển 10 《Tấu nghị》. Ngày 11 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, Thuần Túy lại tấu; ngày 3 tháng 4, lại tấu; ngày 18 tháng 2 năm thứ 2, hạ chỉ huy.)

[37] Ngày Kỷ Sửu, Hàn lâm Thị giảng học sĩ Hoàng Lí được thử chức Lễ bộ Thượng thư, hàm Thông nghị đại phu.

[38] Lễ bộ Thị lang Tạ Cảnh Ôn giữ chức bản quan làm Tri châu Hồng Châu. Cảnh Ôn dâng sớ trình bày việc biên cương, những điều ông nói phần lớn là do Vua và các quan chấp chính bàn bạc kín, người ngoài không ai biết. Thượng thư Tả thừa Vương An Lễ là em rể của Cảnh Ôn. Vua nghi ngờ An Lễ tiết lộ chuyện này, ghét Cảnh Ôn kết giao và xu nịnh, nên bắt ông ra ngoài giữ chức. (Theo 《Lưu An Thế tập》).

[39] Tri châu Thành Châu là Chu Sĩ Long tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, chiêu dụ các động người Thượng Giang, Đa Tinh, Đồng Cổ, Đàm Khê, Thượng Hòa, Kê Công thuộc hai lộ Khê Động. Các nơi như Hồ Nhĩ, Tắc Khê thuộc đạo Tây có địa giới xen kẽ, sợ rằng việc khao thưởng không đến kịp hoặc có thể xảy ra sự cố, xin giao cho Tạ Lân xử lý, hoặc cho phép bản châu chiêu dụ.” Chiếu giao cho Triệu Dương xem xét. Sau đó lệnh y theo tấu của Đô kiềm hạt ty Kinh Hồ Bắc lộ, một mặt chiêu dụ, không cần đợi Triệu Dương xem xét.

(Việc “không đợi xem xét” ghi ngày Ất Tỵ, nay ghi chung. Tạ Lân trước làm Tri châu Nguyên Châu, tháng 9 năm thứ 4 làm Tri châu Thành Châu, chưa bao lâu lại làm Tri châu Nguyên Châu. Theo bản truyện của Lân, không rõ Chu Sĩ Long làm Tri châu Thành Châu từ khi nào, có lẽ thay thế Lân. Ngày 11 tháng 5 năm thứ 7, Tôn Lãm có nói việc này có thể tra cứu).

[40] Chuyển vận ty Kinh Hồ Nam lộ tâu rằng dân hộ bốn đoàn Khê Thiệu Châu là Viên Thông Hiểu xin quy thuận, chiếu cho phép chiêu dụ.

[41] Kinh chế Nghi Châu Khê Động là Tạ Lân tâu: “Người Man Đản ở Trung Châu và Thượng Châu thuộc An Hóa chưa chịu quy thuận, xin điều quân.” Chiếu chọn 3000 quân ở các lộ Quảng Đông, Giang Tây gần đó, và điều hai chỉ huy Kiêu Kị đóng ở Quế Châu[7].

[42] Tuyên đức lang người Lạc Dương là Dương Úy được làm Giám sát Ngự sử, do Trung thừa Thư Thiện tiến cử.

[43] Ngày Canh Dần, yến tiệc ở điện Tử Thần, vì lễ an vị các vị thánh ở cung Cảnh Linh đã hoàn thành.

[44] Ngày Tân Mão, sai người đi kiểm tra việc tập luyện bảo giáp ở Hà Bắc, gồm Phó đô thừa chỉ Xu mật viện, Khách tỉnh phó sứ Trương Sơn Phủ, và Đông đầu cung phụng quan nhập nội, Câu đương Ngự dược viện Lưu Duy Giản, xem xét việc tập luyện bảo giáp ở các lộ, theo quy định thưởng khi kiểm tra, cấp cho những người đứng đầu trong bắn cung và bắn nỏ: hạng nhất được bát bạc bảy lạng, lụa năm tấm; hạng nhất bắn nỏ được bát bạc năm lạng, lụa năm tấm; hạng nhì và hạng ba mỗi hạng giảm một phần ba. Các Đô phó bảo chính, Đại bảo trưởng đã được bổ nhiệm dạy võ nghệ cho người trong bảo và đạt hạng nhất, Đô phó bảo chính tính theo toàn bộ đô bảo đạt mười phần, Tam ban sai sứ đạt chín phần, Tam ban tá sai đạt tám phần[8], Đại bảo trưởng tính theo toàn bộ đô bảo đạt mười phần, Tam ban tá sai đạt chín phần, Hạ ban điện thị đạt tám phần, đều được cấp bát bạc mười lạng, lụa năm tấm; không đạt mười phần, giảm thưởng theo mức độ.

[45] Ngày Nhâm Thìn, chiếu rằng: “Nghe nói ở Lan Châu giá lương thực đắt đỏ, quân phòng thủ hiện có bảy nghìn người, ngoại trừ để lại bốn nghìn người khỏe mạnh, còn lại cho về các châu quân gần đó để nhận lương.”

[46] Tân tri Hồ Châu Lư Khâu Hiếu Trực tâu: “Thần thấy ở kinh đô đặt bốn sở để đương, cho phép dùng vàng bạc cầm cố để lấy tiền mặt, lãi suất một phần mỗi tháng, mong được áp dụng ở các lộ châu huyện; nơi không có quan thị dịch, giao cho quan trường vụ kiêm giám, lấy số lãi cuối năm nhiều ít làm tiêu chuẩn thưởng.”

(Bản Chu bỏ đi, nói “không thi hành”.)

[47] Chiếu rằng: “Từ nay, Xu mật viện phàm các văn tự do viện này phê duyệt gửi cho Thừa chỉ ty, vì chưa ban hành ra khỏi viện, không cần gửi sang Môn hạ tỉnh.”

(Theo 《Ngự tập》 ngày 15 tháng 11.)

[48] Ngày Quý Tỵ, Bộ quân ty tâu: “Chỉ huy sứ Hiệu trung Lâm Phương có ba lần công lao, nên được thăng chức. Kiểm tra quy định thưởng, chỉ nói chỉ huy sứ hai lần được thưởng thì thăng làm Đô ngu hậu, nhưng quân hiệu trung không có chức danh Đô ngu hậu.” Chiếu cho Lâm Phương đặc cách thăng làm Đô ngu hậu.

[49] Cơ quan Kinh chế đô đại Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Trước đây đại quân xuất chinh, sai Chủ bạ Lý Tông Kiệt theo quân chỉ dẫn dân phu bảo giáp mở kho lương vận chuyển, gặp giặc Thổ Phồn chặn đánh, bị tử trận, chưa được ban ân.” Chiếu cho Tông Kiệt được theo lệ của Quân Chủ bạ Trần Ngạn Trưởng, lấy chức quan của cha để phong cho con, và ban cho vật phúng viếng.

[50] Giám sát Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Tri châu Kiền Châu là Uông Phụ Chi dâng biểu tạ ơn, lời lẽ ngạo mạn, xin đặc cách trừng trị.” Chiếu bãi chức Tri châu Kiền Châu của Phụ Chi, vẫn giữ chức Phân ty như cũ. Trước đây, Phụ Chi làm Suy quan phủ Khai Phong, xin về Phân ty, mãi sau mới được bổ làm Tri châu Kiền Châu. Trong biểu tạ ơn có câu: “Thời thái bình mà vẫn còn vị đời, đầu bạc rồi mà chưa làm nên việc gì.” Lại viết: “Cắm bút có gió, ngục trống không ngày.” Người bàn tán cho rằng câu “Thời thái bình mà vẫn còn vị đời” là thơ của Đỗ Mục, câu cuối là “Trên đất Lạc Du ngắm Chiêu Lăng”, ý Phụ Chi ngầm oán hận, nên bị cách chức.

(Sách 《Tư Mã Ký Văn》 chép: “Phụ Chi làm Giám ty Hà Bắc, vì tính khinh suất mà phạm tội, bị lệnh về Phân ty.” Xét: Phụ Chi về Phân ty không phải vì tính khinh suất, việc này xảy ra vào ngày mồng 4 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 3, có lẽ 《Tư Mã Ký Văn》 chép nhầm. Nay lược sửa lại.)

[51] Ngày Giáp Ngọ, Diên An quận vương Dung tâu: “Nhờ ơn được tiến phong, xin cho các quan trong bản các được xét lệ ban ân.” Chiếu rằng: “Nội Đông đầu Cung phụng quan Phùng Thế Ninh giảm thời gian khảo khóa 2 năm, Nội Tây đầu Cung phụng quan Lý Trác, Lam Tòng Hi đều thăng một cấp.”

[52] Tri châu Tần Châu, Thông nghị đại phu Lữ Công Nhụ được bổ làm Tri châu Tương Châu. Trước đó, Lý Hiến theo chiếu điều quân, Công Nhụ không chịu phái quân, hai bên tranh luận, nên có mệnh lệnh này.

(Theo bản truyện.)

[53] Ty Môn Lang trung Lý Văn Khanh được bổ làm Tri châu Tấn Châu, vì Ngự sử Vương Hoàn tâu rằng phẩm chất của Văn Khanh thấp kém, không xứng đáng được chọn vào chức Lang quan.

[54] Chiếu: “Đề cử giáo tập mã quân sở[9] hiện đang dạy các con em quan lại và dân chúng, ngựa bắn cung rộng và nhanh đều đạt lực một thạch năm đấu, tay chân hợp pháp, liệt kê tên tâu lên.”

(Tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10, ngày Canh Ngọ, mùa thu, chiếu đồng đề cử. Chiếu này trùng với tờ tay ngày 18 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 3, ngày Kỷ Dậu, sợ thực lục có sai, nên xét lại. Cựu lục truyện Vương Trung Chính chép: “Chiếu đề cử dạy duyệt ngựa quân ở kinh, Trung Chính đem các loại cung nỏ và binh khí do mình chế tạo cùng phép đánh và bắn cung ngựa bộ dâng lên, sau khi thử, đều có thể dùng, chiếu ban hành.” Lại chép: “Chiếu chọn dạy nội thần và võ nghệ ngựa quân, để dạy các tướng. Đề cử giáo tập mã quân sở dạy các con em quan lại và học sinh võ học, tổng cộng mấy trăm người, sau khi thành thục, dẫn ra yết kiến, thăng bổ có khác nhau.” Tân lục đều bỏ đi, nay phụ vào đây, nên xét lại. Từ tháng 9 năm Hi Ninh thứ 10, ngày Canh Ngọ đến tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 3, ngày Giáp Tuất, tháng 5 ngày Quý Dậu, tháng 6 ngày Kỷ Dậu, tháng 2 năm thứ 6 ngày Tân Hợi nên xét chung.)

[55] Hộ bộ tâu: “Từ khi thi hành quan chế, chỉ có điều mục lương lại là nhiều nhất, một hạng lại nhân chức vụ giống nhau, trách nhiệm cũng đều, mà riêng về lương bổng lại có hậu bạc khác nhau, thực là chưa ổn. Xin các ty, tỉnh, đài, tự, giám thuộc Tam tỉnh, Lục tào hiện đang sung chính ngạch, không kể lương cũ nhiều ít, đều theo quy định mới cấp phát, những người thuộc các hạng thủ khuyết hoặc mang chữ ‘Quyền’, đều cấp bảy phần mười lương chính ngạch. Các chỉ huy trước sau cho phép mang lương cũ đều không thi hành nữa.” Chiếu trừ Tam tỉnh, còn lại theo lời tâu.

[56] Ngày Ất Mùi, Sái Diệp, chuyển vận phán quan Hà Đông lộ, thông trực lang, được bổ làm Trực Long Đồ các, tri châu Tần.

[57] Chiếu: “Đại Tông Chính ty không thuộc Lục tào, các chức thừa thuộc nghe theo chỉ của Trung thư tỉnh bổ nhiệm, chức đô tri, áp ban do Xu mật viện bổ nhiệm.”

(Tháng 3 ngày Ất Mùi, tháng 7 ngày Canh Tý nên xét lại.)

[58] Cảnh Phúc điện sứ, Vũ Tín quân lưu hậu Lý Hiến được bổ nhiệm làm Kinh lược an phủ chế trí sứ của Hi Hà, Tần Phượng lộ, việc kinh lý biên phòng và tài dụng vẫn như cũ. Ban đầu, Vua muốn dùng Hiến làm Tiết độ sứ, tri Hi Châu, Thượng thư hữu thừa Vương An Lễ tâu: “Theo chế độ của triều ta, nội thần không được giữ chức Tiết độ sứ, sự sủng ái tột bậc cũng chỉ ban cho lương bổng mà thôi. Thời Chân Tông, Lưu Thừa Khuê được yêu quý vì sự trung cẩn, Vua muốn phong làm Tiết độ sứ, nhưng Vương Đán cương quyết cho là không nên, nên đến nay chức vụ cũng chỉ đến Lưu hậu. Huống chi việc dân xã, há dễ dàng giao phó?” Vua nói: “Hiến từ bỏ chức vụ trong cung chưa chắc đã vui.” An Lễ đáp: “Bậc quân chủ dùng người, chỉ xét lẽ phải trái, không tính đến việc người đó vui hay không. Xưa Hán Quang Vũ dùng ngoại thích Âm Thức làm Hầu, mỗi khi tuần du thường giao cho cai quản cấm binh, lưu lại trấn giữ kinh sư. Với tài đức của Thức, việc ấy đáng làm, nhưng đời sau bắt chước, không phân biệt hiền tài, khiến các công khanh lũ lượt nắm quyền, cuối cùng gây họa cho Đông Hán. Nay Hiến tuy có chiến công, nếu quả thật là người hiền, cũng không nên mở đầu việc này, huống chi ông ta cũng chẳng có gì vượt trội.” Thượng thư tả thừa Bồ Tông Mạnh tiến lên nói: “Bệ hạ dùng người, không có gì là không được.” An Lễ nói: “Tông Mạnh trước đây chưa từng nói, nay lại nói thế, thần không hiểu ý gì.” Khi lui ra, An Lễ nghiêm nghị bảo Tông Mạnh: “Ai bảo ngươi nói? Suýt nữa làm loạn việc triều đình!” Tông Mạnh giận dữ nói: “Vua sai ta tham gia chính sự, nay lại không được nói? Ngày mai sẽ tranh luận trước triều đình.” An Lễ đáp: “Các ngươi đủ tài trị quốc sao? Chỉ nói suông, chỉ là nịnh hót mà thôi!” Tông Mạnh xấu hổ, cuối cùng không dám tranh cãi.

(Việc này căn cứ theo hành trạng của An Lễ ghi chép thêm, cần tra cứu thêm ngày tháng, hoặc bỏ đi.)

[59] Chiếu rằng: “Tông thất Thúc Ngao kiện Lễ viện định việc Khắc Du tập phong không công bằng, phạt 20 cân đồng.”

[60] Binh bộ tâu: “Đã chi cấp 110 vạn khí giới cho Thiểm Tây, nay bản lộ lại xin cấp thêm khí giới.” Chiếu chỉ theo số thiếu, cấp một phần ba.

[61] Quản câu hậu uyển phòng lang vật hóa sở tâu: “Từ tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 4 đến tháng 11 năm nay, tổng thu được 67.000 quan tiền.”

(Bản Chu bỏ đi.)

[62] Ngày Bính Thân, Môn hạ tỉnh tấu: “Xu mật viện sai Nhập nội đông đầu cung phụng quan Lý Tông Lập quản lý Vạn Thọ Quan, không nên làm chức Đề điểm.” Chiếu chỉ đổi thành Quản câu.

[63] Lại có chiếu: “Quan chức châu huyện khi thay thế, tính theo quãng đường để cấp tiền công, nếu giữa đường qua đời hoặc để tang, dù quãng đường chưa đủ, cũng không thu lại tiền.”

[64] Chiếu chỉ chọn Tri đăng châu mới, Triều tán đại phu Thạch Vũ Cần làm Tri phủ châu, nếu làm tốt việc thi hành pháp muối, sẽ bàn việc khen thưởng.

[65] Thừa nghị lang, Khảo công viên ngoại lang Phạm Tuân được tăng thêm chức Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự.

(“Tăng sai” cần xem xét.)

[66] Ngự sử trung thừa Thư Thiện tâu: “Điều tra việc trì trệ ở Tư châu lộ chuyển vận ty xin sai quan cấp ruộng đất, và sai Chu Hựu, Thôi Tượng Tiên quản lý việc Quân đầu ty, đã điều tra rõ việc trì trệ, thực ra là do quan lại cẩu thả tạo ra gian lận, dù được ân xá cũng không nên kết án, mong xem xét chỉ đạo.” Chiếu chỉ kết án rồi tâu lên.

(Tháng 10 ngày Giáp Tý điều tra, tháng 2 năm sau ngày Canh Tuất kết án.)

[67] Lại có chiếu: “Các châu trên đường sứ Liêu mới đi qua, tạm thời cho phép nấu rượu không hạn chế số gạo.”

[68] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Các thành trại Bạch Thảo ở Diên Châu và Bảo An quân cùng 22 nơi khác, việc phòng thủ chưa đầy đủ, xin chỉ đạo Phạm Thuần Túy ứng phó.” Chiếu chỉ: “Ghi lại các mức độ phòng thủ khẩn cấp, thứ cấp và tạm thời của Lữ Huệ Khanh ở Phu Diên lộ, cùng các điều khoản về việc chuẩn bị khí giới và vật dụng phòng thành theo mức độ khẩn cấp, gửi cho Phạm Thuần Túy.”

[69] Chiếu chỉ cấp 20 vạn quan tiền từ Địch tiện ty cho Hà Bắc chuyển vận ty để chuẩn bị quân lương.

[70] Ngày Kỷ Hợi, Lý Sát, Thiểm Tây chuyển vận phó sứ, tâu rằng: “Năm đô tác viện của bản lộ, trước khi chia lộ, đều do một viên giám ty phụ trách kiểm điểm. Nay các nơi đang thiếu quân khí, đều dựa vào đô tác viện để ứng phó. Xin cho Hoa Châu ứng phó Phu Diên lộ, Phượng Tường phủ ứng phó Hoàn Khánh lộ, Tần Châu ứng phó Tần Phượng lộ, Vị Châu ứng phó Kinh Nguyên lộ, Vĩnh Hưng quân ứng phó Vĩnh Hưng quân lộ, mỗi nơi đều do giám ty đề cử. Riêng đô tác viện Vĩnh Hưng quân, xin giao cho một viên đề điểm hình ngục phụ trách.” Triều đình đồng ý.

(Ngày 16 tháng 12, sai quan.)

[71] Ngày Canh Tý, đặc phong con gái lớn của Ung vương Hạo làm Kinh Triệu quận chủ.

[72] Ngày Ất Tỵ, Vua phê dụ cho Miêu Thụ: “Theo lời tâu của Diêm Nhân Vũ, ngày Nhâm Thân tháng 10, có hơn 50 tên giặc Tây ở phía bắc Lan Châu, bên kia sông hô rằng: ‘Nước Hạ ta đã thắng quân Phu Diên lộ, đợi sông đóng băng sẽ đến Lan Châu.’ Khanh nên chuẩn bị nhiều dụng cụ phòng thủ, kiểm tra cẩn thận. Nghe nên tên tướng giặc Tinh Đa Lí Đỉnh dùng binh rất hung ác. (Tinh Đa Lí Đỉnh đã xuất hiện từ ngày Kỷ Sửu tháng 11 năm thứ 4.) Trong trận Vĩnh Lạc, ban đầu tướng chỉ huy là Lương Mặc Ninh Lăng, do dự hơn 10 ngày, mỗi ngày chia hơn vạn người cầm cuốc xẻng đào thành, bị quân trên thành đánh chết liền kéo đi, hoặc lấy chiếu che lại, không muốn quân ta thấy. Sau đó Lí Đỉnh dẫn quân đến, thúc giục quân lính leo lên như kiến, xác chết chất đầy dưới chân thành, không chôn cất, ngày đêm công phá, nên thành mới xây không giữ được. Khanh nên biết rõ, và bí mật dụ bảo tướng giữ Lan Châu chuẩn bị đầy đủ dụng cụ phòng thủ.”

[73] Quan đề cử Thiểm Tây mua ngựa tâu: “Bản ty nhận trách nhiệm bù đắp số ngựa thiếu hụt rất nhiều, nhưng ít có ngựa cao đến 4 thước 1 tấn để bán cho quan. Xin tạm mua ngựa đực cao 4 thước 2 tấn, 1 tấn, và ngựa trên 11 tuổi, phối hợp với ngựa đực để điều phối.” Triều đình đồng ý, nhưng không tính vào hạn ngạch.

[74] Phụng nghị lang, Tri châu Diêm Thành huyện là Hướng Tông Hiền tâu: “Vị Giám đô diêm thương trước đây của huyện này là Thông trực lang Vương Trọng Kinh, khi tại nhiệm đã cho vay tiền gấp đôi giá trị vật chất của người thế chấp, đã chuộc lại nhưng vẫn còn thiếu tiền lãi một trăm ngàn. Trọng Kinh là cháu của Tể tướng Vương Khuê, nên không ai dám tố cáo. Xin chọn quan điều tra.” Chiếu cho Hoài Nam lộ Chuyển vận ty xét việc này.

[75] Chiếu giáng chức của Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự[10], Thừa nghị lang Dương Cảnh Lược giáng một bậc, Quản câu quan Âu Dương Xán và Nhậm Nguyên Ác mỗi người bị phạt hai mươi cân đồng. Tất cả đều bị xử phạt vì chậm trễ trong việc dời trụ sở của cơ quan, và Cảnh Lược không trực tiếp đốc thúc việc bắt châu chấu, tuy được ân xá nhưng vẫn bị trách phạt đặc biệt.

[76] Người man ở An Hóa châu là Mông Quang Trọng, Quang Triệu cùng sáu người khác xin quy phụ, mỗi người được bổ nhiệm chức vụ khác nhau.

(Tháng 7, ngày Tân Tỵ.)

[77] Tháng đó, người Hạ dùng thư buộc vào tên, bắn vào biên giới quân Trấn Nhung, Lưu Xương Tộ báo lên Kinh lược sứ Lô Bỉnh, Bỉnh ra lệnh hủy bỏ. Người Hạ lại sai tù binh bắt được mang thư đến cho Bỉnh, đồng thời gửi công văn, Bỉnh không dám không tâu lên. Vua xuống chiếu cho Bỉnh dụ người Hạ theo lệ cũ tự thông hiếu ở Phu Diên. Thư gửi Bỉnh xưng là “Hạ quốc Nam đô thống[11], Mão Tinh Ngôi Danh Tế”, thư viết: “Trước đây trong lúc chiến tranh, cầm giáo đánh nhau, nay dùng thư hỏi thăm, không phải vì tình thế thay đổi khác nhau, mà vì mỗi bên đều trung thành với việc của mình, không thể không như vậy. Trung Quốc là nơi lễ nghĩa tồn tại, mọi hành động đều không sai lệch. Nếu nghe lời gièm pha, dùng mưu kế gây chiến, xâm chiếm đất đai[12], tàn hại dân chúng, việc làm trái với thể chế Trung Quốc, há chẳng phải là nỗi nhục của ngoại di sao?

Trước đây triều đình đột ngột điều quân, tiến hành xâm lược, vì thiên tử và biên thần bàn rằng Hạ quốc đang giữ lời thề cũ, nên bất ngờ tấn công, năm đường tiến quân, một trận có thể dẹp yên, nên mới có trận Linh Châu năm ngoái. Trận Vĩnh Lạc mùa thu này, so sánh thắng bại, với kế hoạch trước đây thế nào? Vả lại, Trung Quốc không phải không tính toán, kế sách năm đường tấn công đã từng thực hiện, mưu kế quấy nhiễu biên giới cũng từng dùng, biết rằng may mắn không thành, nên cuối cùng quay về đạo lý nhỏ nhặt vui với trời. Hơn nữa, Hạ quốc có lãnh thổ một vạn dặm, quân đội mấy chục vạn, phía tây liền với Vu Điền, làm bạn tốt với ta, phía bắc có nước Yến lớn, làm viện binh mạnh. Nay cùng Trung Quốc tranh thủ thời cơ, đấu sức cạnh tranh, dù mười năm cũng chưa chắc kết thúc. Nghĩ đến dân chúng vô tội, chịu khổ cực này, như Mạnh Tử nói “chưa từng có kẻ giết người mà được thiên hạ“.

Huống chi, Hạ quốc chủ từ khi bị triều đình đánh, ngày đêm suy nghĩ, cho rằng từ tổ tiên đến nay hơn tám mươi năm, thần phục Trung triều, ân lễ không thiếu, cống nạp không lười, sao thiên tử một sớm nổi giận, cất quân đánh, khiến máu dân chảy, quân lính bị giết, tổn thương hòa khí, gây ra năm đói kém, nguyên nhân diệt vong, xảy ra ngay trước mắt, triều đình há không thương xót sao? Chỉ vì biên thần tham công, thiên tử nghe lời sai lạc, khiến lời thề của tổ tông bị ngăn trở, quan hệ Vua tôi không thông, nghĩ đến nguyên do, buồn bã biết bao[13]. Tế bèn dò xét ý chủ, được gửi thư, kính mong Kinh lược dùng tài năng lớn được Vua biết đến, dùng mưu lược sâu sắc lo việc phương tây, nên lợi hại của dân chúng, an nguy của xã tắc, đều có thể phân biệt rõ mà nói. Lo lắng của nước Lỗ, không phải ở nước Chuyên Du; mà biến loạn của nhà Tùy, sinh ra từ Huyền Cảm. Điều này đều đã rõ trong lòng, không cần nói mà hiểu. Nay muốn cứu thiên hạ khỏi cảnh nguy nan, phải nhờ người tài đức lớn. Kinh lược sao không tiến lời thẳng thắn, bác bỏ ý kiến sai lầm, khiến triều đình và Hạ quốc hòa hiếu như xưa, dân chúng lại thấy thái bình, há chẳng phải là ý tốt sao? Nếu được như vậy, thì không chỉ nước tôi may mắn, mà thực là ân huệ lớn của thiên hạ.”

[78] Tháng 12, ngày Đinh Mùi mùng một, thăng chức cho quan phiên là Tây đầu cung phụng quan Lý Trung Hòa làm Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ, Nội điện sùng ban Cái Ngạc làm Cung bị khố phó sứ, vì có công trong việc đánh dẹp phía tây, bắt được tù binh đủ tiêu chuẩn.

[79] Phó sứ Chuyển vận Quảng Tây là Ngô Tiềm tâu: “Gần đây cử Ôn Cảo làm Tri châu Khâm, nghe nói giặc Giao Chỉ căm thù, muốn ăn thịt Cảo, e rằng sẽ nhân đó mà gây họa.” Vua phê: “Cảo tính tình nhu nhược, lại có hiềm khích với người Giao Chỉ, thực không nên để ở nơi biên giới trọng yếu, có thể đổi cử Kiềm hạt bản lộ là Lưu Hi kiêm chức Tri châu Khâm.”

(Cùng ngày 14 tháng 8.)

[80] Ngày Mậu Thân, ban chiếu cho Môn hạ tỉnh: “Phàm các văn bản của Trung thư tỉnh, Xu mật viện cần phúc bác, nếu việc lớn thì làm trạng tâu lên, việc nhỏ thì sửa đổi ngay trong tờ chiếu rồi ban hành. Nếu việc không lớn, tuy không đáng tâu, nhưng tình tiết phức tạp khó sửa trong tờ chiếu, thì làm bản tâu trình, đưa việc cần sửa đổi đến Trung thư tỉnh, Xu mật viện xin chỉ dụ.”

(Sách 《Cựu kỷ》 chép: “Chiếu cho Môn hạ tỉnh phúc bác việc, làm trạng tâu lên, nếu không liên quan đến đại thể, thì thi hành xong rồi tâu lên.” và ghi vào ngày Đinh Mùi.)

[81] Đại Lý tự xét xử Thị trưởng Tạ Nguyên Khanh và những người khác không công minh, không triệt để, chiếu cho Ngự sử đài hặc tội tâu lên.

[82] Chiếu cho sứ giả mang sắc phong cho Đổng Chiên là Chủng Nghị giảm thời gian khảo khóa 4 năm, những người khác đều được giảm năm và ban tiền, lụa theo thứ bậc.

[83] Giám sát Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Đại Lý tự nhận chỉ xét lại việc Quần mục sứ Hàn Chẩn đem vật dụng công về nhà, liên quan đến con trai là Tông Thứ, nhưng Đại Lý tự không xét rõ tình tiết, vội dùng ân xá, không kết án. Xin giao cho cơ quan khác xét lại.” Chiếu cho Khai Phong phủ xét lại tâu lên. Sau đó Tông Thứ bị cách chức, Chẩn được tha.

(Cùng lúc với việc xét lần đầu, ngày 5 tháng 6.)

[84] Công sự Câu đương sứ Sát phỏng thường bình đẳng sự Kinh Hồ lộ là Đoàn Tuân được giảm thời gian khảo khóa 3 năm, vì có công khảo sát được hơn 4.100 khoảnh ruộng đất.

[85] Triều tán lang, Phát vận ty thiếu địch hộc đẩu Trịnh Cát giảm ma khám ba năm, tiền Tây đầu cung phụng quan, bị trừ danh lặc đình, biên quản tại Hoàng Châu là Trương Tòng Huệ giảm một lần xá tội. Đều vì từng phụ trách việc ở cửa sông Biện, đề xuất dẫn nước sông Lạc vào sông Biện.

[86] Ngày Tân Hợi, phân mệnh các phụ thần cầu tuyết.

[87] Ngày Nhâm Tý, đề cử việc tu sửa cung Cảnh Linh, ký chức Nội tàng khố sứ, Khánh Châu đoàn luyện sứ Tống Dụng Thần được thăng làm Hoàng thành sứ, Đăng Châu phòng ngự sứ.

[88] Ngày Quý Sửu, Xu mật viện thừa chỉ ty tâu: “Các huyện thuộc phủ Khai Phong cùng các huyện Bạch Mã, Tộ Thành, Vi Thành có cung thủ, trước đây tuy đã định mỗi huyện 20 người, nhưng tiền lương chưa được quy định. Xét thấy huyện úy không quản việc trộm cướp ở thôn quê, cung thủ giảm bớt việc đi lại, nên tiền lương chi trả, nên theo như các lộ cung thủ, định mức một năm 30 quan tiền, tổng cộng giảm 3.620 quan. Xin hãy dự toán tiền lương, gom lại một chỗ để phòng khi cần.” Được chấp thuận.

[89] Đô đại kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ biên phòng tài dụng Lý Hiến tâu: “Theo các tướng trong lộ, dựa vào số quân chính binh và phiên hán cung tiễn thủ hiện có, tập hợp thành năm quân tại các châu quân đóng quân, trước tiên thực hiện ở Hi Hà Lan Hội lộ. Mỗi quân cử hai viên đô ty tổng lĩnh phiên binh tướng, nếu một châu có hơn 1.000 phiên binh, cấp công sứ tiền từ 1.000 đến 3.000 quan, cho phép tướng quan tùy nghi chi tiêu.” Được chấp thuận.

(Bản Chu chép vào ngày Nhâm Tuất tháng 7 năm sau, nay theo bản mới.)

[90] Lại tâu rằng: “Nhân mùa xuân tới, giặc chưa tập trung, nên xây dựng trước pháo đài Nhữ Già, là nơi xung yếu nhất của giặc[14]. Thành trì cần đạt đến nghìn bước, nối liền với pháo đài Thắng Như, ở giữa xây một pháo đài nhỏ thông qua. Sau đó mở rộng thành Định Tây, nơi cũ của châu Lan, rồi mới xây các pháo đài Củng Tâm. Thần thấy rằng quân Thông Viễn nằm ở nơi giao thông quan trọng của Hi Hà và Tần Phượng, dân cư đông đúc, tức là châu Vị cổ, trước thuộc huyện Bình Lương. Xin đổi tên châu, lấy thành Định Tây làm quân Thông Viễn, lấy Nhữ Già làm thành Định Tây, như vậy thì hình thế chiến thắng sẽ hình thành.”

Lại tâu: “Thần trước đây đã tâu về việc khôi phục châu Vị cổ và đổi chỗ quân Thông Viễn, thành Định Tây, bố trí các pháo đài ở châu Lan, vì tình hình Hi Hà phụ thuộc vào các châu thành mới khôi phục để làm lá chắn. Hơn nữa, vùng đất mới chiếm được, đồng bằng rộng rãi, đất đai màu mỡ, hàng vạn người Khương đã bắt đầu cày cấy, mới chiêu mộ được năm nghìn cung thủ, đất đai phì nhiêu chưa khai phá hết, cần tăng cường xây dựng thành lũy, khiến dân có lòng định cư, không chỉ lợi dụng đất đai để hỗ trợ biên cương, mà còn ngăn chặn kế hoạch của địch muốn chiếm lại đất cũ. Thần đến châu Hi, tiền lương chưa chuẩn bị đủ, nay tạm khởi công ở ba nơi Nhữ Già, Lạc Thi, Diệt Lạc Tông. Nhữ Già Xuyên phía tây tiếp giáp thành Định Tây, phía bắc thông với pháo đài Thắng Như, đông bắc chặn đường ngựa giặc từ Thạch Giáp. Còn hai pháo đài Lạc Thi và Diệt Lạc Tông, phía đông tiếp giáp châu Lan, phía bắc giáp Hoàng Hà, mỗi năm sông đóng băng, cần dựa vào Lạc Thi để chặn đường giặc. Sang năm, nếu không xây dựng trước khu vực Nhữ Già, rồi hoàn thiện khu vực thuộc châu Lan, e rằng mùa hè thu giặc lại xâm lấn Định Tây. Trước đây, Kinh lược ty của bản lộ tâu xin dời pháo đài Tam Sá, mở rộng thành Định Tây. Thần cho rằng đất Tam Sá nằm trong tầm kiểm soát, tuy tốn kém nhưng không có tác dụng, còn Định Tây cũng cần đợi đình chướng Nhữ Già xây xong mới có thể nhân cơ hội mở rộng. Mong ban chỉ đặc biệt, cấp thêm một hai trăm vạn quan tiền và vạn quân Sương, nhanh chóng đến bản lộ.”

Chiếu sai hai viên nội thị và đại sứ thần, đến Thiểm Tây, Hà Đông tập hợp vạn quân Sương, trong tháng hai đến lộ Hi Hà Lan Hội, tiền bạc từ khoản tiền lưu trữ ở lộ Tần Phượng và số tiền Lý Nguyên Phụ biến chuyển từ Tây Xuyên, mỗi khoản cấp năm mươi vạn quan[15].

[91] Ngày Đinh Tỵ, Hiền phi họ Chu được tiến phong làm Đức phi, Kỵ quốc Đại trưởng công chúa được tiến phong làm Ngụy quốc Đại trưởng công chúa.

(Sách 《Tân kỷ》 chép: “Lấy Hiền phi họ Chu làm Đức phi.” Sách 《Cựu kỷ》 không chép.)

[92] Vua phê rằng: “Khởi cư xá nhân Vương Chấn thông hiểu sử văn, hiện nay hoàn toàn không có chức vụ gì. Quan chế sở dự định tu sửa sắc lệnh của sáu bộ[16], văn tự nhiều và phức tạp, các quan Tường định là An Đào và Thôi Đài Phù đều có chức vụ ở Thượng thư tỉnh, không thể chuyên tâm, nên cử Vương Chấn cùng tham gia Tường định.”

[93] Chiếu rằng: Ngự sử đài vào mùa thu đông cử một viên Ngự sử đến ba tỉnh kiểm tra việc chậm trễ văn thư các phòng, không được can thiệp vào việc của tỉnh và gặp các quan chấp chính.

(Sách 《Cựu kỷ》 chép[17]: “Chiếu rằng Giám sát Ngự sử hàng năm vào mùa thu đông kiểm tra việc chậm trễ của ba tỉnh.” Sách 《Tân kỷ》 không chép.)

[94] Chiếu rằng: “Năm thứ sáu, ngày chính đán, dùng nhạc mới khi ngự điện.”

(Sách 《Cựu kỷ》 chép: “Ngày Đinh Tỵ, nhạc mới làm xong.” Sách 《Tân kỷ》 chép: “Ngày Đinh Tỵ, nhạc mới hoàn thành.”)

[95] Hữu Kỳ Kỵ phó sứ, Tri Lô châu Trương Khắc Minh tâu rằng: “Lô châu địa phương rộng nghìn dặm, người Di và người Hoa sống lẫn lộn. Gần đây, các bộ lạc sinh sống ở Bạch Nhai Độn, Lạc Bà Viễn đều đã trở thành thần dân của triều đình, đã nộp thuế, nhưng đôi khi xâm phạm lẫn nhau, chưa có quy định rõ ràng, nếu cứ dùng luật lệ của triều đình để xử lý, e rằng sẽ sinh sự. Thần xin đề nghị rằng nếu người Di ở Lô châu phạm tội với người Hoa, thì dùng luật lệ của triều đình, còn nếu người Di phạm tội với nhau, thì áp dụng pháp luật năm cấp của người Man ở Kiềm châu.” Triều đình đồng ý.

(Ngày 27 tháng 4 năm Canh Ngọ, đã bổ nhiệm Vương Quang Tổ làm Tri Lô châu. Nay ngày 11 tháng 12 năm Đinh Tỵ, Trương Khắc Minh với chức Tri Lô châu tâu việc. Ngày 19 cùng tháng là Canh Thân, lại chép Vương Quang Tổ làm Tri Lô châu, không rõ lý do. Nay bỏ đi phần chép ngày Canh Thân.)

[96] Chiếu rằng: “Các bức vẽ thần linh ở cung Cảnh Linh, nếu trong chi nhánh của thần liêu có hai phòng trở lên, thì chọn người không có ai hưởng bổng lộc. Nếu đều không có ai hưởng bổng lộc, hoặc đều có người hưởng bổng lộc, thì chọn người lớn tuổi nhất. Nếu chưa đều, tức là người hưởng bổng lộc ít hơn thì chọn người lớn tuổi nhất, nhưng vẫn lấy con cháu làm thứ tự. Nếu con cháu cũng thuộc chi nhánh được vẽ, thấy không có ai hưởng bổng lộc, thì không cần hỏi đến phòng khác. Người được ban ơn nếu muốn nhường cho người kế tiếp hoặc phòng khác thì tùy ý.”

[97] Chiếu cho Long Mãnh đô chỉ huy sứ Tạ Hữu đổi làm Văn Tư sứ. Trước đó, Điện tiền ty xét thấy ông có võ nghệ nhưng không đủ tư cách để đổi chức, Vua nói: “Trẫm nhớ có biên thần nói ông ấy có tài dũng, nên xét lại.” Lại chiếu cho Xu mật viện xem xét, đều nói rằng tuy đã hơn năm mươi tuổi nhưng vẫn còn tinh lực, nên có mệnh lệnh này.

[98] Ngày Mậu Ngọ, dẫn hai người là Lý Chấn và một người khác, được giải phát từ sở tập võ nghệ của mã quân, thi đỗ và bổ làm Tam ban sai sứ.

[99] Chiếu rằng những người có võ nghệ xuất chúng trong việc huấn luyện dân binh ở Hà Bắc, dù chưa được huấn luyện tập trung, cũng được phép giải phát trước, đến kinh đô để thi thử.

[100] Ngày Kỷ Mùi, chiếu rằng: “Triều tán đại phu, thí Lại bộ thượng thư Lý Thanh Thần, thông nghị đại phu, thủ Thị lang Tô Tụng[18], phụng nghị lang, thí Trung thư xá nhân Thái Biện, thông trực lang, thí Khởi cư lang Thái Kinh, mỗi người được thăng một chức; Xu mật đô thừa chỉ, Khách tỉnh sứ, Thư châu đoàn luyện sứ Trương Thành Nhất lĩnh chức Tú châu phòng ngự sứ; cố Khởi cư lang Tất Trọng Diễn được ban trăm tấm lụa; các quan kiểm thảo, tường định, nếu làm việc trên một năm thì giảm ba năm khảo khóa, dưới một năm thì giảm hai năm, nếu rời khỏi chức vụ thì giảm một bậc.” Tất cả đều do việc hoàn thành quan chế mà ban ơn.

[101] Chiếu rằng: “Trong buổi triều hội chính mùa đông, các quân mặc y phục, đội mũ, Sương quân Đô chỉ huy sứ, Đô ngu hậu lĩnh Đoàn luyện sứ, Thứ sử mặc áo hạng năm, Quân Đô chỉ huy sứ, Đô ngu hậu mặc áo hạng sáu, Chỉ huy sứ, Phó Chỉ huy sứ mặc áo hạng bảy, đều xếp hàng ở sân. Phó Đô đầu trở lên mặc thường phục, xếp hàng ở ngoài cửa điện.”

[102] Nội viên sứ Quách Trung tâu rằng: “Các sứ thần ở các trại, nếu có hai người trở lên và đều là người địa phương, xin cho một người thuộc hàng quân hoặc con cháu quan lại được thay thế, cùng với người địa phương thay phiên nhau.” Triều đình đồng ý.

[103] Chủng Ngạc tâu: “Tuyên đức lang Từ Huân, Cáp môn chi hậu Chủng Phác mong được đặc biệt khen thưởng.” Chiếu rằng: “Khi tiến vào vùng núi, Ngạc đã tham gia bàn bạc, khi Vĩnh Lạc thất thủ, lại lĩnh chức Kinh lược an phủ phó sứ một lộ, tự nhiên phải có tội. Triều đình khoan dung, trách nhiệm về sau, thế mà dám vì con cháu xin ân huệ, không chút kiêng sợ, đặc biệt phạt 30 cân đồng.”

[104] Châu Tử tâu: “Theo chiếu thu mua 2000 cân màu xanh lục, đã tính toán và vận chuyển, số còn lại đang thu mua.” Vua phê rằng nhanh chóng hạ lệnh ngừng mua, vì sợ làm khổ dân.

[105] Ngày Canh Thân, chiếu rằng: “Pháp lệnh cấm mang gia quyến đến nhiệm sở ở bốn lộ Xuyên Hạp, nay bãi bỏ.”

(Sách 《Cựu kỷ》 chép ngày Mậu Ngọ: “Chiếu rằng: Quan ở Xuyên Hạp không được mang gia quyến, nay xa gần như nhau, bãi bỏ.” Sách 《Tân kỷ》 không chép. Nay theo 《Thực lục》 chép vào ngày Canh Thân. Trương Phương Bình không dám mang cha đến nhiệm sở, có thể thêm vào sách 《Đông trai ký sự》 của Phạm Trấn.)

[106] Thượng phê: “Ty An phủ duyên biên Hà Bắc[19] dò biết người Liêu lệnh cho Phó sứ chúc mừng ngày Chánh đán là Triệu Đình Mục dò xét việc phía tây của triều đình, lo rằng địch nhân thông qua ngôn ngữ dò xét hư thực, những lời đối đáp cần thiết, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng bàn định, viết thành trát gửi cho quan tiếp đón sứ giả.” Trước đó, Lưu Chí đi sứ nước địch, ngày từ biệt trước mặt Vua, thành Vĩnh Lạc đã thất thủ, Vua nhiều lần nhắc đến việc phía tây, trực tiếp ban cho hơn mười điều quy định, chuẩn bị sẵn lời đối đáp, nói: “Những điều này do trong cung tự soạn, lại qua bàn bạc kỹ lưỡng.” Và nói: “Địch nhân nhiều mưu mẹo, đừng để bị họ lấn át.” Chí đáp: “Thần lấy thành tín làm gốc, dựa vào uy linh của bệ hạ, địch dù nhiều mưu mẹo, sao có thể thắng được thần? Thần nghe nói: ‘Lời nói trung tín, dù ở nước man di cũng có thể thực hiện được.’ Thần cho rằng khi đối đáp, không cần quá nhượng bộ.” Vua vui mừng nói: “Đúng vậy.” Hôm sau, sai trung sứ đến ngoại thành ban cho 60 cân trà, dụ rằng: “Đây không phải lệ thường.”

(Việc của Chí căn cứ theo 《Chí hành thực》, hoặc ghi vào ngày Tân Mùi tháng 8 khi mới đi sứ, nhưng ghi vào đây là hợp lý.)

[107] Ty Đề cử đê ngạn sông Biện tâu: “Đê ngạn sông Biện khởi công tu bổ từ tháng 4 năm thứ 3, đến ngày 8 tháng 10 năm nay hoàn thành.” Chiếu cho quan Đô thủy giám xem xét lại và báo cáo.

[108] Đê Nguyên Vũ bị vỡ, đặc cách ban thưởng tiền cho binh lính làm việc có mức khác nhau.

(Cả 《Tân kỷ》 và 《Cựu kỷ》 đều ghi: “Ngày Tân Dậu, đắp đê chỗ sông Nguyên Vũ bị vỡ.” So với 《Thực lục》 chênh lệch một ngày. Lại nữa, ngày Kỷ Mão tháng 11, 《Thực lục》 đã ghi việc sông đã được đắp, sai quan đến tế, cần xem xét lại.)

[109] Ngày Tân Dậu, Vua lại ngự ở điện Diên Hòa, triệu tập các quan phụ tá của Tam tỉnh và Xu mật viện đến điện Cảnh Phúc, xem lễ vật đám cưới của Ngụy Quốc Đại Trưởng công chúa.

[110] Thượng thư tỉnh dâng lên các điều khoản của nửa cuối năm Nguyên Phong thứ 5, chiếu theo việc ký duyệt và sửa đổi rồi ban hành. Mỗi khi tiến trình các sắc lệnh, Vua đều ký duyệt và sửa đổi rồi mới ban ra, những điều chỉnh sửa đều là do các cơ quan có liên quan mâu thuẫn.

(Ngày 14 tháng 9, ngày 12 tháng 10.)

[111] Chiếu rằng: “Công sứ tiền cũ của Ty Đô tuần kiểm các châu Lam, Thạch, Thấp là 1500 quan, nay chuyển ban cho Đô tuần kiểm sứ các trại Giá Lô, Ngô Bảo ở vùng biên giới. Ty Đô tuần kiểm cũ của châu Thạch trước đây kiêm nhiệm ba châu, nay chỉ cho các châu Lam, Thạch kiêm nhiệm Đô tuần kiểm sứ vùng biên giới của châu mình, khi có việc khẩn cấp ứng cứu, mỗi nơi cấp riêng 100 quan công sứ tiền.”

[112] Ngày Nhâm Tuất, chiếu cho các lộ Giám ty kiêm chức Đề cử Đô tác viện: Hà Đông lấy Đề cử Thường bình đẳng sự Triệu Hàm, Lộ Tử Châu lấy Chuyển vận phán quan Hứa Ngạn Tiên, các lộ Tần Phượng lấy Đề điểm Hình ngục Lữ Ôn Khanh, Lộ Kinh Đông Tây lấy Chuyển vận phán quan Lữ Hiếu Liêm, Lộ Hoài Nam Tây lấy Đề điểm Hình ngục Vương Du, Lộ Giang Nam Đông lấy Đề điểm Hình ngục Cao Phục, Lộ Giang Nam Tây lấy Đề điểm Thường bình đẳng sự Kiển Tự Thần[20].

(Ngày 22 tháng 11, Lý Sát nói thêm.)

[113] Ngự sử đài và Cáp môn tâu: “Các quan chức thuộc Khai Phong phủ, quan Tả Hữu quân tuần hai sương, Thừa huyện Xích, đều là chức tương đương được tham gia thiết triều. Các chức Hiệu thư lang, Chính tự của Bí thư tỉnh, Hiệp luật, Phụng lễ lang, Thái chúc, Giao xã lệnh của Thái thường tự, Bác sĩ của Tam học, Chủ bạ của Ngũ giám, đều là chức sự quan, thứ bậc cũng cao hơn Thừa huyện Xích, nhưng lại không được tham gia. Xin từ nay cho tất cả đều được tham gia thiết triều.” Vua đồng ý.

[114] Ngày Quý Hợi, Vua phê rằng: “Ngày Nhâm Thân, sứ nhà Liêu đến yết kiến, vì đang trong kỳ trai giới lễ tế cuối năm, không dùng nhạc, tuy có lệ cũ, nhưng sứ phương Bắc vốn coi việc dùng nhạc trong yến tiệc là trọng lễ. Các ngươi ở Tam tỉnh, Xu mật viện hãy xem xét kỹ lại rồi tâu xin chỉ dụ.” Trước đó, Cáp môn tâu: “Ngày Giáp Tuất, ba ngày trước lễ tế cuối năm, hoàng đế không đi chơi, không dùng nhạc. Việc ban yến tiệc cho sứ chúc mừng năm mới mà bỏ nhạc, theo lệ năm Chí Hòa thứ 2 và năm Nguyên Phong thứ nhất.” Đã theo lệ ấy, nhưng lại có chiếu này, cuối cùng vẫn dùng lệ cũ.

[115] Phụng nghị lang Vương Khâm Thần tâu: “Các lộ Giám ty nhận chiếu thư xét việc, có khi sai quan đi khám xét, có khi khám xét rồi tâu lên, đều sai quan như nhau. Vì chiếu chỉ vốn có sự phân biệt, xin rõ ràng: nếu có chiếu chỉ gọi là khám xét, thì Giám ty tự khám, giao cho nơi khám xét hoặc thông phán lân cận xét hỏi và kết án; nếu liên quan nhiều người, cần phải lập ty riêng, mới được sai quan.” Vua nghe theo.

[116] Thiểm Tây chuyển vận phán quan Phạm Thuần Túy tâu: “Trước đây sai câu đương quan của ty là Lữ Tông Nhạc đảm nhận việc chuẩn bị phòng thủ trại Hoài Ninh, Phù Đồ ở Diên Châu, nhưng y đã nhận mệnh rồi lại viện cớ không chịu làm việc. Xin trước hết cách chức.” Vua phê: “Cứ theo lời tâu mà xử lý ngay, để răn đe những quan lại lười biếng, khiến họ chuyên tâm làm việc, không dám coi thường pháp luật.”

[117] Tiếp bạn sứ Ngô An Trì tâu: “Sứ nhà Liêu trên đường đi mọi việc đều như cũ, chỉ có việc tặng người nhạc công một con ngựa là không đến, bọn thần đợi họ nói đến trước.” Vua xuống chiếu bảo An Trì đừng hỏi nữa.

[118] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu: “Ở bốn mặt ngoài thành mới kinh đô, đào hào rộng 50 bước, thu nhỏ dưới 40 bước, sâu 1 trượng 5 thước, chỗ nào đất không đủ thì đào đến mạch nước ngầm.”

(Bản chí lại thêm: “Từ đó nước có chỗ chảy, mà kinh thành vững chắc.” Nay không lấy.)

[119] Hà Bắc đô chuyển vận ty, Triều phụng đại phu, Tập hiền điện tu soạn Kiển Chu Phụ được làm Bảo văn các đãi chế.

[120] Tỷ bộ viên ngoại lang Vũ Văn Xương Linh từ Phu Châu đi khám xét trở về, vào chầu, được ban áo mũ màu đỏ. Xương Linh tâu: “Quân đào ngũ ở Thiểm Tây, xin tăng thưởng cho người bắt được.” Chiếu rằng mỗi khi bắt được một người lính cấm quân, thưởng năm nghìn tiền.

(Ngày Giáp Dần mùng 3 tháng 4, Xương Linh nhận mệnh đi Phu Châu với chức Ngự sử; ngày 25, đổi làm Tỷ bộ viên ngoại lang; ngày Giáp Tý tháng 12, trở về; ngày Kỷ Sửu tháng giêng năm sau, bị bắt giam xét xử.)

[121] Ngày Bính Dần, Vua đặc biệt ngự ở điện Diên Hòa, cho dẫn Phụng nghị lang[21], quyền phát khiển phủ giới thường bình đẳng sự Trương Tuân cùng mười người khác vào chầu. Hôm đó là ngày nghỉ, các cơ quan không làm việc, Vua đặc biệt ngự ở điện nhỏ tiếp kiến quần thần, đến quá trưa mới xong. Khi ấy, người biên soạn văn thư quốc tín, Thừa nghị lang Vương Nhữ Dực, cùng người trước đây quyền phát khiển đề cử thường bình đẳng sự lộ Tử Châu là Giang Diễn, đều được ban áo mũ màu đỏ.

(Hai bộ sử đều chép: “Ngày nghỉ, Vua ngự ở điện Diên Hòa, cho dẫn mười quan vào chầu.”)

[122] Đô đại đề cử ty đê ngạn sông Biện tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, vì việc đóng cửa cống nước ở đập Nguyên Vũ[22], hiện đang tăng cường đê đập, xin cho ty thần tạm đóng các cửa cống Ngụy Thê, Khổng Cố, Huỳnh Trạch trong năm đến bảy ngày. Từ khi đóng ba cửa cống, nước sông Biện dâng cao, nay từ cầu phao cửa Khai Viễn trở lên, bè gỗ bị tắc nghẽn, nước sắp tràn bờ, mong ban chỉ dụ mở các cửa cống dọc sông Biện; và xin ở phía tây kinh thành, dọc hai bờ sông Biện, xem xét chỗ nào có thể xả lũ thì lập tức phá đê để giảm bớt thế nước.” Chiếu rằng nếu thực sự nguy cấp thì làm theo lời tâu.

[123] Ngày Đinh Mão, Phó sứ Chuyển vận Quảng Tây là Ngô Tiềm tâu: “Đất Lôi, Hoá là nơi phát thuyền, đối diện với Quỳnh Châu, nay lệnh xuống Quảng Châu khoảng năm ngàn dặm để xin dẫn, không tiện. Xin cho các châu huyện ven biển Quảng Tây, nếu người địa phương hoặc khách thương dùng thuyền chở gạo, trâu, rượu, cá hoàng và các vật không thuộc diện trừng giải của Ty Thị bạc, đều theo lệ cũ, không cần xuống Quảng Châu xin dẫn.” Chiếu cho Tôn Huỳnh xem xét việc này có trái với pháp Ty Thị bạc hay không. Sau đó không thực hiện.

(Chu bản chú thích: Sau khi tiến trình xong, không thi hành, đã xoá. Nay vẫn giữ lại.)

[124] Ngày Mậu Thìn, chiếu từ kho tiền phong trang của Thiểm Tây chi ra ba trăm vạn quan, chia cho các lộ Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng, nhân thời cơ mua lương thảo.

[125] Hộ bộ tâu: “Trước đây sai Lý Nguyên Phụ kinh lý việc chuyển vận tiền vật từ Tây Xuyên đến Thiểm Tây lộ, nay kê khai số đã đến: vàng bạc, vật phẩm, lụa là tám trăm mười sáu vạn một nghìn bảy trăm tám mươi tấm, lượng; tiền ba trăm bốn mươi sáu vạn hai nghìn quan.”

[126] Chiếu cho Môn hạ tỉnh: Phàm việc của bản tỉnh, do bản ty xin chỉ.

[127] Lại chiếu cho Đại Lý tự xét việc Lang trung Từ bộ là Triệu Lệnh Thước, vì trên đường gặp chú là Tông Thịnh mà không tỏ lòng kính trọng. Sau đó Lệnh Thước bị phạt bốn cân đồng.

[128] Đô thủy sứ giả là Phạm Tử Uyên tâu: “Xem xét việc đào dẫn sông lớn ở đập Vương Cống, châu Vệ, có thể thực hiện được hay không, lợi hại ra sao, xin thêm một vạn phu dịch, đào trước một con sông ở dưới xoáy Xảo Phụ.” Và trình bày việc vẽ đồ án đào đắp đập Vương Cống. Chiếu sai Thị lang Lại bộ là Lý Thừa Chi và Nội cung phụng quan là Phùng Tông Đạo đi xem xét lại.

[129] Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Nghi thức hành hương ngày kỵ tại chùa Khải Thánh và chùa Tướng Quốc, các quan Tả Hữu Tuần sứ và lệnh hai huyện Xích đứng đối diện nhau ở cửa giữa, đợi Tể tướng đến thì đứng trước vị trí, quan Trực tỉnh thống quản. Xét ra nghi thức này tuy đã thực hiện lâu, nhưng không có căn cứ, đại ý là tôn sùng Tể tướng, nên bắt đứng hàng đón chờ. Ngày nay, việc tế lễ tổ tiên tại cung Cảnh Linh đã được thực hiện đầy đủ, lễ nghi đều chỉnh tề, những sai sót trước đây nên được sửa chữa. Khi trăm quan đứng hàng lễ bái tổ tiên, e rằng không phải là lúc các quan lớn nhỏ cùng nhau tỏ lòng kính trọng, xin bãi bỏ.” Vua nghe theo.

[130] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu: “Ngày chính đán triều hội, các quan dẫn giá điện tiền tả hữu ban và nhân viên, khi đến điện các, lập tức đứng chia hai bên đông tây điện, các quan Hiệp hành môn đứng trong lan can đông tây long trì, các quan Khởi cư lang, Xá nhân, Tả Hữu Tuần sứ đều đứng tại vị trí của mình mà lạy. Các quan Khởi cư lang, Xá nhân ngày sóc triều bái cũng theo như thế.”

[131] Quan Tỷ bộ viên ngoại lang Vương Tử Thiều đi ngựa trạm đến đê Nguyên Vũ làm lễ tế, vì chỗ vỡ đê đã được đắp lại.

[132] Lại bộ thượng thư Lý Thanh Thần tâu: “Theo chiếu điểm duyệt việc ứng phụng triều hội, xin cho các quan chấp sự từ cao phẩm trở xuống đều mặc áo giới trách, áo tía, đai lớn, đai da, tất, giày, và đeo phương tâm khúc lĩnh.” Vua nghe theo.

[133] Ngày Canh Ngọ, Vua phê: “Triều đình thương xót các ngục tù, không phân biệt xa gần, nếu có việc bị trì hoãn, nên xử lý đồng đều. Châu Thành tâu về vụ tạo yêu đạo của Triệu Phúc, bắt giam hơn 80 người, án đã kéo dài hơn một năm, nhiều lần xét lại, nhưng chưa xử lý và cũng không có sự đốc thúc.” Do đó, các quan Phán Hình bộ, Đại Lý khanh trở xuống 20 người, Ngự sử trung thừa trở xuống 10 người bị phạt tiền và kéo dài thời gian khảo xét.

[134] Ban chiếu: “Các quan văn từ Thái trung đại phu, quan võ từ Quan sát sứ trở lên, Lại bộ soạn tấu, giao xuống Trung thư tỉnh lấy chỉ; các quan còn lại tấu sao lên Môn hạ tỉnh, không dùng từ ngữ. Vẫn cho phép dùng tước Tam công, Tam sư và Đông cung Tam sư, Tam thiếu để phong tặng.”

[135] Ngự sử đài tâu: “Theo chiếu, ngày sứ Liêu vào yết kiến và từ biệt, đều đặc cách dự khởi cư, trong ba ngày trước và sau đó tạm ngừng khởi cư. Tháng này ngày Nhâm Thân, sứ Liêu vào yết kiến ở điện Tử Thần, ngày mồng 6 tháng giêng năm sau, vào từ biệt ở điện Thùy Củng, nếu mỗi nơi dùng ban của điện đó, thì ngày yết kiến dùng ban vọng tham, ngày từ biệt dùng ban lục tham.” Chiếu đều dùng ban vọng tham.

[136] Ngày Tân Mùi, thủ lĩnh Long Phiền ở tây nam là Át Hạt sứ Long Dĩ Đạt cùng bộ lạc Liêu Các, tổng cộng 376 người đến cống[23].

[137] Ban thưởng tiền cho binh lính làm việc ở đê Nguyên Vũ, mức độ khác nhau.

[138] Ngày Nhâm Thân, chúa Liêu sai Tiết độ sứ Trường Ninh quân là Gia Luật Nghi, Thái thường thiếu khanh, Đãi chế Các Văn các là Triệu Đình Mục đến chúc mừng năm mới.

[139] Chiếu rằng từ nay sứ và phó sứ sang Liêu, nếu được mời dự yến tiệc, gặp lúc khuyên rượu, phải uống cạn.

[140] Chiếu cho Hà Bắc lập ngạch bộ quân, mỗi chỉ huy ngoài ngạch được tuyển thêm 100 người.

[141] Ngày Ất Hợi, lấy Tả lĩnh quân vệ Đại tướng quân, Phò mã đô úy Quách Hiến Khanh làm Đoàn luyện sứ châu Khai.

[142] Tặng chức Hoàng thành sứ, Gia Châu đoàn luyện sứ Khấu Vĩ làm Dẫn tiến sứ, Quân Châu phòng ngự sứ; chức Cung bị khố sứ Ôn Phổ làm Hoàng thành sứ, Gia Châu thứ sử; chức Tả tàng khố phó sứ Lý Sĩ Ngôn làm Văn tư sứ; chức Tây Kinh tả tàng khố phó sứ Chu Phụ Lương, Môn Đô cùng làm Cung bị khố phó sứ; Tôn Khánh, Lý Thế Trung cùng làm Tả tàng khố phó sứ; chức Nội điện thừa chế Lý Tín, La Cừ, Cam Sư Đạo cùng làm Văn tư phó sứ; Mã Khắc Mật Ngạc Đặc Tang, Lý Sĩ An, Trương Trọng Mô cùng làm Tây Kinh tả tàng khố sứ. Tất cả đều là những người theo quân và tử trận ở thành Vĩnh Lạc. Lại ghi chép những người tử trận là Đông thượng các môn phó sứ Cảnh Tư Nghị cùng 90 người khác, cha, con, em, cháu, chắt và con rể, anh vợ được thăng chức gồm 14 người; phong chức Đông đầu cung phụng quan 1 người, Tả, Hữu thị cấm mỗi chức 1 người, Tả, Hữu ban điện trực 24 người, Phụng chức, Tá chức 156 người, Sai sứ hơn 200 người; cùng những người không có con cháu, ban tiền cho gia đình họ theo thứ bậc khác nhau.

[143] Ngày Bính Tý, ban chiếu rằng: “Các chức Thừa vụ lang trở lên[24] cùng các quan chức châu huyện và những người chưa nhập quan, từng giữ chức mà không phạm tội tư hoặc tội đồ, cũng như không nhận hối lộ hay xử án oan sai dẫn đến tử hình, đều bị cách chức, sau khi bị thay thế đã qua một nhiệm kỳ, cho phép thi về hình pháp. Nếu không có người tiến cử, cho phép đến Lại bộ hoặc cơ quan tại chỗ nộp đơn xin thi. Những người đang giữ chức ngoại nhiệm hoặc được bổ nhiệm vào các chức vụ hiện đang khuyết ở khu vực sông Hoàng Hà, không được phép dự thi. Những người được tiến cử thi về hình pháp, các quan Thượng thư Hình bộ, Đại Lý trưởng và phó mỗi năm tiến cử 10 người, các chức Thị tòng, Tam tỉnh, Lục tào, Ngự sử, Khai Phong phủ suy phán quan và Giám ty mỗi chức tiến cử 7 người.”

[144] Mùa đông năm đó, bọn cướp ở Châu Giang là Vương Đạt và đồng bọn dựa vào núi hoành hành cướp bóc, Đạt giương dù đỏ vào các huyện, trấn. Triều đình ra chiếu cho Đề điểm hình ngục Hoàng Liêm đốc thúc bắt giết hết. Tháng 12, bắt giết hết bọn chúng.

(Hành trạng của Liêm có việc này, cần xem xét. Việc của Vương Đạt nhân đó chép thêm vào để tham khảo.)

[145] Năm đó, khôi phục huyện Trình Hương thành Châu Mai. (Sách 《Tân kỷ》 chép: Khôi phục đặt Châu Mai. Sách 《Cựu kỷ》 lại không chép.) Đặt thành Lạc Cộng ở Châu Lô. Bãi bỏ hai bảo Thắng Như và Chất Cô ở Châu Lan.

[146] Con cháu hoàng tộc được ban tên và bổ nhiệm làm quan có 35 người, xử tử 2085 người.


  1. Chữ 'nhất' trong 'nhất thời thủ sách' vốn bị thiếu, theo bản các để bổ sung.
  2. Chữ 'Cung' trên nguyên bản thừa chữ 'Bị', theo bản khác mà bỏ.
  3. Chữ 'sứ' nguyên bản đặt sau 'Cáp môn', theo bản khác mà sửa.
  4. 《Trịnh Vân Khê Tập》 theo ghi chép: 《Vân Khê Tập》 do Trịnh Giải đời Tống soạn, căn cứ vào văn lệ của sách này, nghi ngờ rằng chữ 'Trịnh' ở đây thiếu chữ 'Giải'.
  5. Ngày Bính Thìn mồng 9 tháng 2 năm sau, chữ 'Thìn' nguyên bản là 'Dần', căn cứ theo bản trong các và quyển 333 năm Nguyên Phong thứ 6 tháng 2 ngày Bính Thìn sửa lại.
  6. Sai sứ, Điện thị ba mươi nghìn, chữ 'mười' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Lễ 44-27 bổ sung.
  7. Chữ 'Kiêu' trong 'Kiêu Kị hai chỉ huy' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung
  8. chín phần Tam ban sai sứ, tám phần Tam ban tá sai, bốn chữ 'chín phần Tam ban' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Binh nhị chi nhị tứ bổ.
  9. Đề cử giáo tập mã quân sở 'Mã quân' hai chữ nguyên đảo, căn cứ bản trong các bản và văn dưới sửa lại.
  10. Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự, chữ 'Điểm' nguyên là chữ 'Cử', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 66.20 sửa lại.
  11. Hạ quốc Nam đô thống 'Nam', Tống sử quyển 486 Hạ quốc truyền chép là 'Tây Nam'.
  12. Xâm chiếm đất đai 'Cương' nguyên bản chép là 'Cương', theo các bản khác và Tây Hạ thư sự quyển 26 sửa lại.
  13. Buồn bã biết bao 'Trướng' nguyên bản chép là 'Hận', theo các bản khác và Tây Hạ thư sự sửa lại.
  14. Xây dựng trước pháo đài Nhữ Già là nơi xung yếu nhất của giặc, chữ 'tiên' nguyên bản thiếu, theo bản trong các sách bổ sung
  15. Lý Nguyên Phụ biến chuyển tiền Tây Xuyên, 'Tây Xuyên' nguyên bản viết 'Tứ Châu', các bản viết 'Châu' thành 'Xuyên', theo điều tháng Mậu Thìn quyển 12: Hộ bộ tâu rằng trước đây sai Lý Nguyên Phụ kinh lý biến chuyển tiền vật Tây Xuyên đến Thiểm Tây, vậy 'Tứ Châu' là sai, nên sửa thành 'Tây Xuyên'.
  16. Quan chế sở dự định tu sửa sắc lệnh của sáu bộ, chữ 'chế' nguyên bản là 'kỷ', căn cứ theo các bản và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 80 sửa lại.
  17. Chữ 'kỷ' nguyên bản là 'ký', căn cứ theo các bản và bản hoạt tự sửa lại.
  18. Thông nghị đại phu thủ Thị lang Tô Tụng, chữ 'Thông' nguyên là 'Triều', theo các bản, bản hoạt tự và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 80, cải quan chế sửa.
  19. Ty An phủ duyên biên Hà Bắc, chữ 'bắc' nguyên bản là 'nam', căn cứ theo bản trong các và 《Tống hội yếu》 chức quan 51-3 sửa lại.
  20. Kiển Tự Thần, chữ 'Thần' nguyên bản là 'Trưởng', theo bản khác sửa lại. Xem 《Tống sử》 quyển 329, truyện Kiển Tự Thần, Kiển Tự Thần từng giữ chức Đề cử Giang Tây Thường bình.
  21. Chữ 'lang' nguyên bản thiếu, theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 nghi chế 6-17 bổ sung.
  22. Chữ 'Nguyên Vũ' nguyên bản đảo ngược, theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 phương vực 16-16 sửa lại.
  23. Liêu Các, tổng cộng 376 người đến cống. Chữ 'tam' nguyên bản thiếu, theo bản các và 《Tống hội yếu》 phiên di 7-37 bổ sung.
  24. Chữ 'vụ' trong 'Thừa vụ lang' nguyên bản là 'Nghị', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 quyển 13, tờ 21 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.