"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 332: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)

Từ tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày mùng một Đinh Sửu, Vua ngự ở điện Đại Khánh để nhận lễ chầu. Trước đó, Vua thấy nghi thức và vật dụng trong lễ triều hội đã cũ nát, cần phải thay đổi, bèn xuống chiếu cho các quan ở Cáp Môn và Ngự Sử đài xem xét, định lại nghi thức triều hội, đổi mới nghi trượng, xe kiệu, mũ áo. Đến lúc này, mới bày ra ở điện. Sau đó, vào nửa đêm, ty Nghi Loan dỡ bỏ mái che nhà lều, nhà sập, làm hỏng xe ngọc mới, Vua không vui lâu, bèn xuống chiếu cách chức các quan giám sát ty Nghi Loan, giao cho Đại Lý tự xét hỏi tội, và xét cả các quan túc trực ở Thái Bộc tự[1] để tâu lên. Sau đó, các thừa là An Tông Thích, Vương Đắc Quân đều bị phạt 30 cân đồng, cách chức; quan Nhập nội Tây đầu Cung phụng là Vương Đạt, quan Điện đầu là Lý Vĩnh Cát đều bị giáng một cấp, phạt 30 cân đồng, bãi chức; quan Cao phẩm là Trần Duy Hòa bị giáng hai cấp, bãi chức.

(Sách 《Văn Xương Tạp Lục》 của Bàng Nguyên Anh chép: Đêm trừ tịch, canh ba, gió lớn từ phương bắc thổi đến, làm đổ nhà lều, hỏng xe ngọc mới, lún sâu xuống đất mấy thước, đồ ngọc trang sức đều vỡ tan, người xem kinh hãi. So với thực lục có chỗ khác. Sách cũ chép: “Vua ngự ở điện Đại Khánh nhận lễ chầu, bắt đầu dùng nhạc mới, nhà che xe đổ, hỏng xe ngọc.” Sách mới chỉ sửa “nhà che xe” thành “nhà lều”.

Sách 《Dã Sử》 của Lâm Hi chép: Năm Nguyên Phong thứ 6, Quý Hợi, tháng giêng, ngày mùng một Đinh Sửu, Vua ngự ở điện Đại Khánh nhận lễ chầu. Trước đó, có chiếu xem xét lại nghi thức nguyên hội, so với cũ có nhiều thay đổi, mũ áo, đai thắt của quần thần, nghi trượng trong sân đều mới, vừa lúc Từ Thánh băng hà, đến nay mới thực hiện. Môn hạ Thị lang tấu về điềm lành, trước không có biểu từ[2], Trung thư tỉnh tâu rõ, vẽ chỉ, lệnh Lễ bộ soạn biểu, tôi đứng đầu làm việc này, Cấp sự trung Lục Điền[3] đem án đến dưới thềm đông, Thị lang Chương Đôn nhận rồi bước lên, đến trước ngự tọa, cắm hốt, quỳ đọc. Lúc chúc thọ, bách quan chưa kịp xếp hàng, truyền chỉ nhiều lần thúc giục, hàng mới xếp được một nửa, Vua đã lên ngồi. Các quan Tam tỉnh chạy vội đến, lui về thay thường phục, đến cửa Đông trong cung dâng biểu, tôi vào tỉnh đứng đầu dâng biểu này. Trước đây, năm xe kiệu đặt ở ngoài cửa điện, nay đặt ở giữa sân, các quan lo liệu dựng nhà lều ở phía đông sân để cất xe kiệu. Lệnh ngày hôm đó, canh tư đưa xe kiệu ra, dỡ nhà lều, từ cửa nhỏ của Tam quán chở gỗ nhà tạm đặt ở quán.

Tôi sáng sớm đến sân trước, nghe trong nhà có người rên rỉ rất đau đớn, nghi ngờ nhưng không dám hỏi. Thấy trong sân chỉ đặt bốn xe kiệu, chỗ xe kiệu cũ đã không còn nhà, thấy một vật đổ xuống đất, loại rất nhiều, trời còn tối không thể nhận ra. Hỏi người canh giữ là vật gì, nói: “Xe ngọc đấy. Nửa đêm bị nhà đổ làm hỏng.” Đến khi triều hội xong, vào quán, Chính tự Đặng Cẩn Tư, lại quán Vương Nguyên nói: “Đêm qua túc trực, mở cửa quán, đưa gỗ vào. Đến nửa đêm, có ba hoạn quan đến xem dỡ nhà, vừa đưa bốn xe kiệu ra, vội sai hơn trăm người leo lên nhà dỡ, trong bóng tối lại bỏ đi các cột chống bên cạnh, nên nhà đổ, xe ngọc hỏng, hơn trăm người đều ngã xuống đất, gãy tay chân, vỡ đầu mặt[4], tiếng khóc lóc ầm ĩ. Khiêng ra ngoài, chết bốn người, còn lại đều nặng sắp chết.” Tôi ra cửa trái, xác chết nằm ngổn ngang bên trái đường nhà, chờ kiểm nghiệm, vợ con ôm xác khóc. Mặc áo tay rộng màu tím, là ty Nghi Loan. Quan ty có ba người: Vương Đạt, Lý Vĩnh Cát, Trần Duy Hòa. Duy Hòa ngang ngược nhất, đêm ấy, dùng gậy ép người leo lên nhà. Xe ngọc không phải do Thái Bộc cất giữ, Vua sai Tống Dụng Thần, Lưu Viện ở hậu uyển mới làm, chỉ dùng người đánh xe của Thái Bộc thôi. Hai thừa là Vương Đắc Quân, An Tông Thích tự xin vào túc trực, nửa đêm, Duy Hòa ép họ đỡ xe kiệu, hai người không nghe, Duy Hòa bèn dỡ nhà, vội đưa bốn xe kiệu ra, nhà đổ. Vua phê giao Đại Lý tự xét xử. Ngự dược Đậu Sĩ Tuyên mặc pháp phục đứng hầu, Vua nhận lễ chúc mừng xong, đứng dậy vào cung, Sĩ Tuyên bỗng từ ngự tọa ngã xuống đất, gãy chân, mũ áo tả tơi, đưa về không dậy được, một việc lạ. Xét: Lời chép của Lâm Hi rất chi tiết, quốc sử quá sơ lược, nhân đó chú thêm vào đây.)

[2] Ngày Mậu Dần, ban chiếu giảm thời gian khảo sát một năm cho sáu người từ Phó sứ Chuyển vận Hướng Tông Đán trở xuống thuộc quan lại cứu hộ đê Quảng Vũ, những người còn lại đều được giảm thời gian, thăng chức, ban tặng lụa theo thứ bậc khác nhau.

[3] Ngày Kỷ Mão[5], Ty Chuyển vận Kinh Hồ Nam Lộ tâu: “Huyện Thì Trúc, châu Thiệu gần trạm dịch Phù Dung Thạch, các động chưa quy thuận ở Khê Động đều nguyện nộp đất, xin tăng thêm tiền công sứ.” Chiếu ban cho một nghìn quan tiền.

(Hai bộ sử đều chép việc này vào cuối năm.)

[4] Chiếu rằng nơi chế tạo quân khí và chiến xa không thuộc quyền giám sát của Ngự sử Công sát[6].

[5] Ngày Nhâm Ngọ, Triệu Tiết tâu: “Gần đây người Tây Hạ mang văn thư đến, đã tâu đầy đủ. Lo ngại họ lại cử người mang văn thư đến biên giới, kiên quyết yêu cầu đến Ty này trình bày, chưa rõ có cho phép tiếp nhận hay không.” Chiếu rằng: “Nếu người Tây Hạ lại mang văn thư đến, phải nộp kèm tâu lên, người được cử đến phải lưu lại chờ chỉ dụ triều đình.” Chiếu tiếp theo: “Người lưu lại chỉ được nói theo ý của Kinh lược ty, không được nói là chờ chỉ dụ triều đình.”

(Việc này ghi trong mật ký ngày 6.)

[6] Ngày Quý Mùi, sở Tường định Lễ văn tâu: “Tế lễ có lễ Chá, là để báo đáp công lao của vạn vật, nhưng năm được mùa hay mất mùa khác nhau, bốn phương thuận lợi hay không cũng không đồng đều, nên lễ báo công cũng không thể giống nhau. Vì vậy sách chép: ‘Tám lễ Chá để tế bốn phương. Năm nào bốn phương không thuận lợi, tám lễ Chá không cử hành.’ Các đời trước tế Chá[7], chỉ làm một đàn ở Nam Giao. Xin rằng tế Chá ở bốn giao mỗi nơi làm một đàn, để tế thần phương đó, trước kỳ tế, Ty Nông xem xét phương nào không thuận lợi thì không báo. Lễ tế Tức Dân vẫn cử hành sau lễ Chá.” Theo đó.

(Việc này trong 《Giao Miếu Lễ Văn》 chép vào ngày 9 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 4, đây theo 《Chính Hòa Hội Yếu》.)

[7] Ngày Giáp Thân, có hiện tượng bạch hồng xuyên qua mặt trời.

(Hai kỷ đều ghi chép.)

[8] Ngày Ất Dậu, ra chiếu bãi chức Lý Mậu Chiêu, Huyện úy huyện Thần Sơn, châu Tấn, vì tội khi vận chuyển lương thực đến châu Phu đã bỏ trốn về.

[9] Chiếu rằng: “Nghe tin xung quanh thành Tân Thành, hào nước tràn vào, phá hủy nhà cửa, ruộng đất của công và tư. Giao cho Dương Cảnh Lược ước tính giá trị để bồi thường, hoặc trả lại bằng đất công. Những nhà doanh trại của quan và nhà cửa, chùa chiền, mồ mả của dân, giao cho cơ quan quản lý kinh thành nhận trách nhiệm dời đi và sửa chữa.”

[10] Chiếu cho Ty Điện tiền tuyển chọn năm sứ thần giỏi cung mã theo pháp mới, báo tên lên. Do đó, Ty này đã tiến cử Lôi Du và những người khác, chiếu phân bổ họ làm Câu đương công sự ở Ty Bảo giáp các lộ Hà Bắc Đông và Tây, để dạy bảo đinh các lộ.

[11] Khai Phong phủ tâu: “Theo chiếu khám xét việc Bảo chính huyện Khai Phong thu tiền để tế thần, nhưng những người bị thu tiền chưa dám bắt giữ.” Chiếu chỉ xử tội những người đang bị giam và báo cáo.

[12] Ty Đề cử Doanh điền Phiên bộ lộ Hi Hà tâu: “Những người mới được chiêu mộ làm cung tiễn thủ ở châu Lan và thành Định Tây nghèo khó, không có hạt giống, lương thực và trâu bò, xin cho vay 15 quan tiền, đợi khi khai khẩn đất đai thu hoạch được lúa sẽ hoàn trả.” Được chấp thuận, và tăng thêm 15 quan tiền nữa.

[13] Ngày Kỷ Sửu, nước Tằng Đàn dâng sản vật địa phương. Tằng Đàn là nước nằm ven biển phía nam. Kinh thành cách biển hai mươi dặm[8]. Đường biển cần thuận gió khoảng một trăm sáu mươi ngày đêm đi liên tục, qua các nước Vật Tuần, Cổ Lâm, Tam Phật Tề rồi mới đến Quảng Châu. Quốc vương tên là Á Mỹ La Á Mi Lan, truyền nước đã năm trăm năm, mười đời rồi. Mùa xuân và mùa đông ấm áp. Người quý tộc dùng vải Việt tốt quấn đầu, mặc áo gấm hoa và vải trắng sản xuất trong nước, không mặc lụa là gấm vóc, ra vào cưỡi voi và ngựa. Quan lại có bổng lộc. Luật pháp nước này, tội nhẹ thì đánh trượng, tội nặng thì xử tử. Có lúa, lúa mì, kê, cừu Hồ[9], dê núi, bò sa, trâu nước, lạc đà, ngựa, cá, tê giác, voi, hương huân lục, mộc hương, huyết kiệt, một dược, bằng sa, a ngùy, dầu tô hợp, ngọc trai, pha lê, nho, chà là ngàn năm, rượu mật sa hoa. Giao dịch dùng tiền do nhà nước đúc, chia làm ba phần, vàng và đồng mỗi thứ một nửa, còn bạc thêm một phần. Cấm đúc tiền tư. Tiếng nói của người nước này giống tiếng nước Đại Thực.

(《Tân kỷ》 chép: “Ngày Kỷ Sửu, Tằng Đàn đến cống.” 《Cựu kỷ》 ghi phụ vào cuối năm.)

[14] Chiếu cho Kinh lược phó sứ Huyện Diên lộ là Chủng Ngạc và Quản câu cơ nghi văn tự là Cấp Quang, mỗi người phạt 30 cân đồng, quan người Hán là Lưu Vĩnh Long giáng một chức. Chu Biện và những người khác được tha tội theo lệnh đại xá. Ban đầu, Chủng Ngạc và Kinh lược sứ Thẩm Quát đã nhẹ dạ tin lời Cấp Quang, tâu rằng Lưu Thiệu Năng gặp địch không ra sức chiến đấu, lại thông đồng với người Tây Hạ, đều là không đúng sự thật. Cấp Quang đã mù quáng tin lời quan người Hán là Khuất Mai bịa đặt lời đồn, sai khiến bộ tộc người Hán vu cáo Thiệu Năng, dâng trạng lên Kinh lược ty, và thêm chuyện Bỉnh Thường tặng ngựa của mình cho cháu của Thiệu Năng là Vĩnh Đức để mong được thưởng. Vĩnh Long bị kết tội nhận hối lộ, nhưng đều được tha theo lệnh đại xá.

Khám quan Ngự sử Vũ Văn Xương Linh tâu: “Vụ án bắt đầu từ việc Cấp Quang tố cáo Thiệu Năng: đã nhẹ dạ tiêu tiền bạc, khéo léo bày mưu do thám, trong vòng một tháng, các bản cáo trạng liên tiếp dâng lên, đều là những lời đồn không có căn cứ từ bên ngoài, chưa phân tích rõ ràng, nhưng ý đồ của Cấp Quang là có mưu đồ riêng, nên đã biến những lời đồn đó thành sự thật, thêm thắt phóng đại. Thẩm Quát nhẹ dạ dễ bị lung lay, không hề suy xét lý lẽ, vội vàng dựa vào bản cáo trạng, trình lên triều đình. Sau khi quân đội chiêu hàng vào mùa thu năm ngoái, lại bị lời nói của Cấp Quang ly gián, quan lại vì muốn hợp tác với chứng cứ, không tìm hiểu sự thật, nhưng trong những lời khai của Chu Biện vẫn còn những điểm không thể bác bỏ được, nhưng bản tấu của Thẩm Quát lại bỏ thật giữ giả, muốn đặt vụ án vào chỗ không còn nghi ngờ, để buộc triều đình phải tin. Chu Biện chỉ lo giữ an toàn cho mình, xu nịnh theo ý người khác. Nay cơ quan có trách nhiệm điều tra, thấy đầu đuôi đều là vu cáo. Thẩm Quát là quan đứng đầu, xin trừng phạt nặng.” Thẩm Quát trước đó đã bị xử tội khác và bị an trí, nên chỉ đặc biệt trách phạt Chủng Ngạc. Lệnh đã ban ra, Môn hạ tỉnh phúc tấu, cho rằng hình phạt quá nhẹ, nên chiếu cho Chủng Ngạc phạt 40 cân đồng, Cấp Quang vẫn bị cách chức.

(Ngày Ất Dậu tháng 2 năm thứ 4, Thiệu Năng được thăng làm Kiềm hạt; ngày Giáp Dần tháng 4 năm thứ 5, sai Xương Linh đi xét xử vụ án.)

[15] Ngày Tân Mão, Thái tử Thiếu sư trí sĩ Triệu Khái mất, thọ 86 tuổi. Được truy tặng Thái tử Thái sư, thụy là Khang Tĩnh.

[16] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu cho Cấp sự trung Lục Điền, Trung thư xá nhân Thái Biện xem xét việc Ngự sử trung thừa Thư Đản tấu trình về việc Thượng thư tỉnh ghi chép mục lục, xét tội để tâu lên. Trước đó, Thư Đản tấu rằng: “Thượng thư tỉnh phàm có tấu sao, theo phép phải lập sổ ghi chép mục lục. Thượng thư tỉnh vi pháp, tự ý không ghi chép mục lục.” Sau khi xét tấu, lại lấy sổ ghi chép văn thư làm sổ ghi mục lục, Thư Đản cho rằng đại thần lừa dối; còn Thượng thư tỉnh lấy sổ ghi việc của Ngự sử đài cũng không có việc ghi mục lục, cho rằng Thư Đản lừa dối. Do đó, xuống chiếu cho Thượng thư Hình bộ hặc tội, nhưng Ngự sử Trạch Tư, Vương Hoàn, Dương Úy tâu rằng: “Trung thừa xét việc Thượng thư tỉnh, không nên giao cho thuộc hạ xử lý đúng sai.” Vì vậy đổi mệnh cho Lục Điền và các người khác xét.

(Việc này có thể gộp với ngày Mậu Ngọ tháng 2.)

[17] Xuống chiếu bãi bỏ pháp luật thay đổi nửa năm một lần của Lục sát Ngự sử.

[18] Phụng nghị lang, Giáp bộ lang trung Vương Khâm Thần được bổ làm Thiểm Tây chuyển vận phó sứ, chuyên trách tại bản ty. Trước đó, Chuyển vận ty tâu rằng: “Quan chức bản ty theo phép phải đi tuần tra các châu huyện, mỗi năm một lượt, không dám để quan lại ở lại bản ty. Phàm có văn thư từ triều đình, không tránh khỏi phải đuổi theo nơi tuần tra, nên việc báo cáo trên dưới thường bị chậm trễ. Xin từ nay thường để một viên ở lại bản ty chủ trì công việc.” Vì vậy Vương Khâm Thần được bổ nhiệm như vậy.

[19] Ngày Giáp Ngọ, Triều phụng đại phu, Trực Long đồ các, nguyên Tri Quế châu Trương Giáp bị cách chức, giáng làm Tri Quân châu[10], vì tội không thể phát hiện man tặc làm loạn, gặp lúc đại xá.

(Trương Giáp năm thứ 3 tháng 9 nhuận, được bổ làm Tri Quế châu; năm thứ 5 tháng 7, bị thay thế; nay bị giáng chức. Xét: Trương Giáp vì tội không phát hiện man tặc làm loạn mà bị cách chức giáng chức, nhưng bản truyện không chép, lại chép việc Trần bị thưởng ít, và nói rằng hải ngoại không có việc gì, thật là sơ suất vậy.)

[20] Em trai của Từ Hi là Từ Bí tâu rằng: “Từ Hi hy sinh vì việc nước, được ban hai chức quan, nhưng không nỡ nhận.” Vua xuống chiếu cho phép.

[21] Phụng Nghị lang Ngụy Luân được quyền tạm giữ chức Tri châu Cát Châu, vì Vua phê rằng: “Cát Châu đang thi hành phép muối, cần người giỏi.”

(Việc này căn cứ theo 《Ngự Tập》. Đầu năm Nguyên Hựu, Tôn Thăng có tấu chương.)

[22] Ngày Ất Mùi, phong con trai của Lỗ Quốc Trưởng Công chúa là Trang Trạch Phó sứ Tào Diệp làm Hữu Kỳ Kỵ Phó sứ, đổi thành Như Kinh Phó sứ; con trai của Trần Quốc Trưởng Công chúa là Cung Uyển Phó sứ Vương Thù làm Đông Nhiễm Viện sứ, Sùng Nghi Phó sứ Thực làm Lục Trạch Phó sứ; con trai của Vệ Quốc Trưởng Công chúa là Như Kinh Phó sứ Trương Bỉnh Uyên làm Trang Trạch Phó sứ.

[23] Vua xuống chiếu: “Lăng miếu của các đế vương từ thời Chu, Hán đến nay đã lâu không được tu sửa. Nay lệnh cho các châu huyện dùng thuế thu từ đất lăng để tu bổ.”

(Cả hai bộ sử đều chép: “Xuống chiếu tu sửa lăng miếu từ thời Chu, Hán.”)

[24] Vua xuống chiếu cho các lộ đặt thêm một chức Kiểm Pháp quan.

[25] Thượng thư tỉnh tâu: “Ngự Sử đài biên soạn sắc lệnh cho một ty, sau khi ban hành quan chế lại vi phạm xin tiền công sứ. Khi Ngự Sử Trung thừa Thư Đản làm viện trực học sĩ, sau khi ban hành quan chế lại vi phạm xin tiền bếp. Các quan đài sát che giấu không tâu, xin giao cho hữu ty xét xử.” Vua xuống chiếu giao cho Đại Lý tự xét.

[26] Thái Phủ tự tâu: “Phép thế chấp ở các huyện kinh thành, các lộ bên ngoài chưa thi hành. Nay xin cho phép mượn tiền thị dịch và tiền dư của các lộ từ Ty Thường Bình, năm lộ mỗi lộ mượn 10 vạn quan, các lộ khác mỗi lộ mượn 5 vạn quan, để làm vốn thế chấp.” Vua đồng ý.

[27] Ty Đề cử Bảo giáp Hà Bắc tâu: “Các Đô phó Bảo chính phần lớn được chọn từ những Đại Bảo trưởng đã qua huấn luyện, là người phụ trách dạy võ nghệ cho cả đô bảo. Đang giao trách nhiệm, lại bắt họ quản lý công việc của đô bảo, ứng phó với việc sai phái của châu huyện, nếu trễ hẹn sẽ bị trách phạt, không chỉ cản trở việc dạy dỗ, mà còn trái với ý giáo dưỡng của triều đình. Xin rằng những việc thuộc huyện cần triệu tập trong đô bảo, chỉ giao cho Thừa thiếp nhân lo liệu, không bắt họ trực tiếp làm việc và giải lên huyện.” Vua đồng ý.

[28] Ngày Bính Thân, Kinh chế nghi châu Khê Động, Tây thượng các môn sứ, Quả Châu thứ sử, Tri Nguyên Châu Tạ Lân tâu: “Trước đây đã dâng tấu xin thêm quân đánh dẹp, xây dựng thành ấp, vâng chiếu tiếp nhận các man, không được tiến quân, dùng mưu kế khéo léo xử trí. Bèn chọn sai tướng quan tiến đóng đồn ở các huyện trại trọng yếu, chiêu hàng thủ lĩnh giặc nguyên mưu là La Thế Niệm cùng các thủ lĩnh các động, tộc loại 4.800 người, mang ấn của Khê Động đô tuần kiểm sứ bị cướp đến trước quân, áo giáp khí giới 2 vạn, cùng tù trưởng động Tư Quảng ở vùng sinh giới đem đến 1.417 hộ, 6.263 nhân khẩu, nộp đất quy thuận. Các thủ lĩnh man xảo quyệt, đã giao cho hữu ty, nghe chỉ triều đình xử trí.” (Hai kỷ chép việc động Tư Quảng ở An Hóa Châu quy phụ vào cuối năm.) Chiếu: “Tạ Lân lĩnh Quả Châu thứ sử, giảm thời gian khảo khóa 3 năm; Hoàng thành sứ, Chiêu Châu thứ sử, Đái ngự khí giới Hòa Bân lĩnh Vinh Châu đoàn luyện sứ, Tri An Hóa Châu; cùng 52 thủ lĩnh các động Tư Quảng là La Thế Niệm làm Nội điện thừa chế, Mông Thừa Tưởng, Mông Toàn Thánh, Mông Quang Triệu đều làm Tây đầu cung phụng quan, Mông Toàn Khiếu, Mông Lệnh Kiện, Mông Hoài Hốt, Mông Quang Tốc, Phan Tào đều làm Thị cấm, Phan Toàn Kiếm làm Phụng chức. Đều cấp bổng lộc và áo xuân đông.”

[29] Ban đầu, ba châu An Hóa là Thượng, Trung, Hạ cùng trấn Bắc Hà mỗi tháng đến châu Nghi để tham bái[11] và bán gỗ ván. Châu Nghi mỗi năm bốn lần tổ chức yến tiệc, ba năm một lần cho phép 294 người man đến trại Tư Lập nộp vũ khí cống nạp, châu này chi trả phần thưởng và phí đi đường; bổ nhiệm chức Phụng chức cho Tri châu, Tá chức cho Giám châu, quan viên được thăng một bậc, ban hàng được thêm huân chức, tất cả đều do ty Khê Động châu Nghi thi hành. Tiền Sư Mạnh, nguyên Tri châu Nghi, và Thông phán Tào Cấu tự ý cắt giảm quy định, rượu thịt không như trước, mua gỗ ván không đúng giá, thưởng đáp vật cống nạp thấp hơn giá trị thực, văn thư thăng bổ đến năm năm không được cấp, nên từ tháng 3 năm thứ 5 bắt đầu xâm lấn đất tỉnh. Kinh lược ty hỏi nguyên nhân gây loạn, châu Nghi chỉ nói do lúa núi mất mùa, khê động có tuyết lớn, trâu bò chết nhiều, Kinh lược ty cũng không xét được. Tháng 5, Phí Vạn, Hiệu dụng nguyên Như Kinh sứ, tử trận; tháng 6, Vương Kỳ, Tri châu Nghi, tử trận. Việc tâu lên, Vua xuống chiếu giao Tạ Lân và Hầu Bân lo việc kinh lý khê động, bắt Tào Cấu và Tiền Sư Mạnh giao cho quan lại xét xử. Thế Niệm cùng anh em, con cháu 106 người được bổ làm Tây đầu Cung phụng quan, Hữu Thị cấm, Phi đái Ban hạ Ban Điện thị, lệnh Tạ Lân phân bổ đi làm việc giám đương vật vụ và chỉ huy sứ ở các lộ Quảng Nam, Kinh Hồ.

(Việc tháng 9 năm ngoái ngày Canh Dần có thể gộp vào đây[12].)

[30] Trước đó, Hòa Bân làm Quảng Tây Kiềm hạt, Kinh lược ty giao cho Bân dẫn ba nghìn quân bộ và kỵ đi đánh La Thế Niệm. Giữa lúc nắng nóng gay gắt, ngày đêm thúc quân tiến đến trại Hoài Viễn, nói: “Đây là đất yếu hại, chiếm được thì sống.” Có người hỏi: “Sao lại quay lưng với sông Long Giang?” Bân cười nói: “Đây chính là cách để sống.” Bèn tỏ ra yếu thế để kiêu ngạo địch[13], tướng sĩ đều sợ hãi, nhưng Bân vẫn thong thả tự nhiên. Sau hơn mười ngày, bèn tổ chức duyệt binh lớn. Người Man dò biết quân ít, quả nhiên kéo đến đông. Bân thân đến doanh trại, bỏ tiền lương mua rượu thịt khao quân, nói: “Ta tuy già, nhưng muốn liều chết để báo đền nước nhà. Ngày mai gặp địch, tiến thoái theo mệnh lệnh của ta, ai không tuân lệnh sẽ bị xử tử.” Đêm đó chọn tướng đón địch, bí mật dặn rằng thấy địch thì bỏ chạy. Mọi người nghe tin đều sợ hãi, nhưng Bân vẫn nằm yên không động.

Sáng sớm, tin báo càng gấp, Bân thong thả dùng bữa, đoán chừng dụ địch đến bình nguyên, bày trận Bát quái để đợi, dàn quân nghi binh trên núi hai bên, dặn quân tiền phong nhìn xuống sông đứng im. Giặc leo lên núi Phật Tử, thấy quân đông, rất kinh hãi. Bân chia kỵ binh ra hai bên, thân không cưỡi ngựa, mặc giáp đi bộ ra, chỉ huy tiên phong, tướng sĩ đều hăng hái chiến đấu, người Man đại bại, sai Mông Lợi ở trấn Bắc Hà đến xin hàng. Lúc đó Tạ Lân được lệnh kinh chế, chưa đến nơi thì Bân đã phá được giặc. Có người muốn tăng quân tiến đánh, mở mang thành ấp, gặp lúc triều đình lấy Bân làm đồng kinh chế Man sự[14], Bân thong thả bàn kế, tiến đóng ở nơi yếu hại, mưu tính việc chiêu phủ, Thế Niệm bèn dẫn thuộc hạ về hàng.

(Theo bài minh trong mộ chí do Tăng Bố soạn. Bân ngày 20 tháng giêng năm thứ 6 làm Vinh đoàn; ngày 24 tháng 2, làm Tuần kiểm sứ; ngày 24 tháng 8, làm Tri Ung châu.)

[31] Sứ giả Long Đạt của Long Phiền ở Tây Nam tiến cống, được bổ làm Bảo Thuận tướng quân, hơn 60 người còn lại đều được bổ làm tướng quân, lang tướng, có phân biệt.

[32] Ngày Đinh Dậu, ban chiếu: “Giá mua thóc ở kho Thường Bình thuộc các lộ Thiểm Tây, Hà Đông không được vượt quá giá của Ty Chuyển Vận; giá mua thóc ở các ty thuộc Hà Bắc không được vượt quá giá của Ty Thố Trí Địch Tiện.”

[33] Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Phạm Thuần Túy tấu: “Thần nghe được rằng trong các châu huyện thuộc bản lộ, dân chúng có nhiều nơi thiếu lương thực, lại có không ít hộ dân bỏ trốn hoặc di chuyển qua địa phương khác. Bản ty gần đây đã ban hành lệnh điều tra thực hư, nay trước tiên nhận được văn bản từ hai huyện Trường An, Vạn Niên thuộc Vĩnh Hưng quân và huyện Bảo Kê thuộc Phượng Tường phủ, tổng cộng ba nơi, đã có hơn năm nghìn hộ bỏ trốn. Các châu huyện khác nếu báo cáo đầy đủ, chắc chắn con số sẽ rất lớn. Thần nghe được rằng nguyên nhân là do nhiều năm mất mùa, lại từ sau khi quân sự khởi động, việc điều động và thuê mướn đã khiến tình hình suy yếu nghiêm trọng; trong khi đó, pháp lệnh tập giáo và đoàn giáo đang được triển khai, cộng thêm việc dân chúng lo lắng về tình hình biên giới chưa yên, lại thêm thiếu lương thực vào mùa xuân, nên đã dẫn đến tình trạng lưu tán. Thần ngu muội không biết cách nào để cứu vãn, lo lắng sâu sắc rằng căn bản của Quan Thiểm sẽ ngày càng suy yếu, việc này liên quan không nhỏ. Kính mong Thánh thượng xem xét, nếu lời thần không sai, xin hãy cân nhắc, ban chiếu chỉ khẩn thiết để an ủi dân chúng, và tạm dừng việc triển khai pháp lệnh đoàn giáo, tập giáo. Nếu triều đình có thêm biện pháp nào để ổn định và dưỡng sức dân chúng, cũng xin Thánh thượng đặc biệt chỉ đạo.”

Thiếp hoàng: “Thần nghe được rằng trong các nơi thực hiện tập giáo và đoàn giáo, dân chúng tham gia tập giáo, ngoài việc bản thân phải phục vụ quan phủ, còn phải cử người nhà đi lại cung cấp lương thực; còn những người tham gia đoàn giáo, tuy không xa nhà, nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc nông nghiệp. Trong lúc tình hình suy yếu và dân chúng lưu tán, muốn ổn định và dưỡng sức họ, thì việc thực hiện pháp lệnh giáo dục hiện nay e rằng không phải là ưu tiên hàng đầu. Thần ngu muội không biết kiêng kỵ, chỉ vì muốn thể hiện ý nguyện yêu thương dân chúng của Bệ hạ, không dám im lặng ngồi nhìn, nên mạnh dạn dâng tấu này. Tấu này do quan văn tự do thần mời là Hồ Tôn Nhụ[15] viết và in ấn, không dám giao cho lại phòng để tránh lộ thông tin. Nếu được thi hành, chỉ xin coi như triều đình tự nghe được, và ban chỉ đạo nội bộ.” (Tấu nghị của Thuần Túy được gửi vào ngày 21 tháng giêng năm thứ 6, đến ngày 26, có chỉ dụ bãi bỏ đoàn giáo và tập giáo, có lẽ là do tấu của Thuần Túy.)

[34] Ngày Mậu Tuất, ban chiếu rằng: “Từ nay những việc đã được chỉ dụ của Xu mật viện, không cần gửi đến Thượng thư tỉnh để soạn thảo văn bản, mà trực tiếp gửi đến Môn hạ tỉnh để phúc duyệt và bác bỏ xong, rồi từ Xu mật viện trực tiếp gửi xuống Thượng thư tỉnh thi hành.”

(Chiếu ngày Nhâm Thìn, 14 tháng 9 năm thứ 5 cần tham khảo thêm.)

[35] Ban chiếu xử tội chết nhưng được tha, cách chức Hữu Giám môn suất Trọng Khiêu, theo lệ của bè đảng bị giam giữ, vì tội sai thị tỳ dùng cháo thuốc độc giết vợ là Hạ thị.

[36] Ban chiếu rằng: “Tám người Thái y sinh, mỗi sứ thần của bốn sương quản lý hai người, phàm thương nhân và người nghèo khổ bị bệnh, ghi tên để chữa trị, căn cứ vào kết quả chữa khỏi hay không để thưởng phạt. Mỗi người mỗi tháng được cấp hai ngàn tiền thuốc.” Theo đề nghị của Phó sứ Chuyển vận Lưỡng Chiết là Hứa Mậu.

[37] Đại Lý tự tâu: “Nội thị hoàng môn Tống Phỏng vào ngày hết phiên trực, tự ý vào điện Nhu Vân lấy chăn gối, phạm tội tự ý vào cửa điện, tội tư hình phạt đồ, nhưng được ân xá.” Chiếu bắt về lại ban ngạch của viện.

[38] Ngày Kỷ Hợi, Lễ bộ tâu: “Hàng năm tế tự Hoàng Thiên Thượng Đế, Cảm Sinh Đế, tế Hoàng Địa Kỳ, Thần Châu Địa Kỳ, đều có tổ tiên phối hưởng, sai một viên Trung thư xá nhân hai ngày trước đến Thái miếu, bản thất tấu cáo, nếu lúc khuyết viên, đổi sai không kịp. Xem xét việc tế tự trong tông miếu đã dùng tông thất đảm nhiệm, việc tấu cáo cũng nên dùng người họ tông để phụng thừa việc tế tự trong miếu là hợp lý.” Theo đó.

[39] Thái thường bác sĩ Hà Tuân Trực tâu: “Tế lễ cảm sinh đế, tế thần châu địa kỳ dùng tổ tông phối hưởng, nhưng quan phụng trở trong tam hiến lại khác với tế thượng đế và hoàng địa kỳ. Thần xin từ nay tế cảm sinh đế và thần châu địa kỳ đều theo lễ nam bắc giao. Lễ tế thần châu vốn nên cùng địa kỳ là một thể, nên trong thời gian trai giới không du ngoạn, không tấu nhạc.” Lễ bộ xem xét: “Lễ tế thần châu địa kỳ và cảm sinh đế so với nam bắc giao có chỗ hơn kém, lễ tế trời đất đã có quy định, còn lại xin vẫn theo lệ cũ.” Lại tâu: “Các lễ tế dùng Lễ bộ làm quan hiến tế, Hộ bộ, Binh bộ, Công bộ làm quan phụng trở, nhưng Lại bộ, Hình bộ không có việc gì, không phải là quan liên. Thần xin từ nay các đại tế, ngoài chấp chính quan và tông thất tiết độ sứ trở lên làm sơ hiến quan chưởng thệ giới, còn lại dùng Lại bộ thượng thư chưởng quản, và dùng Hình bộ thượng thư giám sát lễ thệ giới. Lễ thiên thần đốt khói, chỉ có lễ thân tế dùng trăm bó làm định chế, còn các lễ tế khác ít thì chỉ dùng một bó. Mỗi lễ tế đốt lửa lập lòe, e không đạt khí báo dương, hợp với ý cầu thần. Muốn chất củi cao rộng mà đốt, không cần dùng gỗ bách, xin theo lời Hà Tuân Trực tâu.” Đều theo.

(Ngày Giáp Tý tháng 10 năm thứ 4 cần tra cứu.)

[40] Chiếu cho Hoàng thành sứ, Đan Châu thứ sử Trương Tảo, Tả tàng khố phó sứ Trương Vĩnh Xương mỗi người thăng ba bậc, để thưởng việc ra khỏi biên giới bắt được tù binh.

[41] Chiếu cho Kinh Nguyên lộ kinh lược ty: “Gần đây giặc Tây Hạ vào trại Long Đức, cướp bóc người già trẻ nhỏ và trâu dê, là do quan trại không tuân mệnh, không chuẩn bị kế hoạch thanh dã, nên bắt giam xét tội tâu lên.” Sau đó, trại chủ Giả Tông Lượng[16]bị cách chức, tuần kiểm Trương Chí bị cách chức, còn lại giám áp, theo thứ tự mỗi người chuộc tội bằng đồng, giáng chức khác nhau.

[42] Chiếu cho Khách tỉnh sứ Vương Uyên, Nhập nội đông đầu cung phụng quan, Câu đương ngự dược viện Lương Tòng Chính đi xem xét binh lính của đệ nhất, đệ nhị tướng thuộc Khai Phong phủ.

[43] Ngày Canh Tý, Xu mật viện tâu lên việc xét duyệt công trạng của Lý Hiến, chức Cảnh Phúc điện sứ, Vũ Tín quân Lưu hậu, Nhập nội Phó đô tri. Chiếu rằng: “Hiến trước đây đã ngăn cản thương nhân buôn bán, báo cáo lên trên không đúng sự thật, tuy được hưởng ân xá, nhưng có thể kéo dài thời gian xét duyệt thêm một năm.”

[44] Thượng thư tỉnh xin lập Ngự sử phòng tại đô ty, chuyên trách việc xét xử và sửa sai các vụ án do Ngự sử điều tra, đồng thời ghi chép thành tích và sai phạm của Lục sát. Được chấp thuận.

(Ngày Giáp Tý, 18 tháng 2 năm này[17], và ngày Bính Thân, 24 tháng 9 năm Chính Hòa thứ 4 cần đối chiếu.)

[45] Chiếu rằng: “Tông thất không thuộc hàng thân thích được ấm bổ làm quan ngoài, cha ông đều đã mất, tuổi chưa đến, thì trong thời hạn được bổ nhiệm, giảm một nửa bổng lộc của chức quan đó.” Theo lời thỉnh cầu của Lệnh Bì thuộc tông thất.

[46] Chiếu cho Ngô Cư Hậu, chức Kinh Đông Chuyển vận phó sứ, nếu chức Chuyển vận phán quan của bản lộ khuyết, thì phải trình tên lên để báo cáo.

(Ngày Nhâm Tý tháng 6, bổ nhiệm Mã Xưng[18].)

[47] Từ nay, việc huấn luyện và duyệt binh của Mã quân và Bảo giáp thuộc Cấm quân sẽ do Xu mật viện quản lý.

[48] Ngày Tân Sửu, chiếu rằng: “Quyền Kinh Tây lộ Chuyển vận sứ Hướng Tông Đán và Quyền phán quan Đường Nghĩa Vấn không có khả năng quản lý tài chính, mỗi khi có chi phí đều dựa vào triều đình, không hoàn thành nhiệm vụ, nên đặc cách thay thế.” Lúc đó, Vua thấy Ngô Cư Hậu làm việc ở Kinh Đông, tài chính dồi dào, nên Tông Đán và Nghĩa Vấn bị khiển trách.

[49] Chiếu cho Quảng Nam Tây lộ Đề điểm hình ngục ty điều tra và báo cáo về Chuyển vận phán quan Ngô Tiềm của bản lộ, vì Tiềm đã dâng tấu sai về việc Giao Chỉ muốn mượn gạo.

[50] Ngày Nhâm Dần, Hộ bộ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, các quan đề cử ở các lộ phân phát và thu hồi vật dụng từ kho thường bình, từ khi thi hành pháp lệnh đến nay, xét số liệu trung bình trong ba năm, lấy một năm làm mức định, cuối năm so sánh tăng giảm. Nay lấy tiền, bạc, thóc, lụa tính bằng quán, thạch, thất, lạng để định mức hàng năm: phân phát 11.037.772, thu hồi 13.965.459. Năm Nguyên Phong thứ ba, phân phát 13.186.114, thu hồi 15.004.422, so sánh thì phân phát tăng 2.148.342, thu hồi tăng 1.034.963. Năm Nguyên Phong thứ tư, phân phát 13.837.736, thu hồi 11.978.994, so sánh thì phân phát tăng 2.799.964, thu hồi giảm 1.986.465[19].” Chiếu rằng: “Năm thứ ba, thứ tư, những nơi phân phát nhiều thu hồi ít hoặc cả phân phát và thu hồi đều ít, Hộ bộ giao cho các ty đề cử phân tích tâu lên.”

(《Thực hóa chí》 cũng ghi tương tự, nhưng thêm: “Từ khi ban hành pháp lệnh thời Hi Ninh đến cuối Nguyên Phong, mọi chi phí cứu tế lũ lụt, hạn hán, đói kém đều lấy từ đây, đến nay vẫn dựa vào đó.” Nay không lấy.)

[51] Liên Châu tâu rằng giặc cướp Lý Tiểu Bát cầm vũ khí cướp bóc, chiếu giao cho Đề điểm hình ngục Trần Tri Hòa chọn sứ thần tuyển mộ 100 người dũng cảm để đốc thúc bắt giữ.

[52] Chiếu rằng quyền Khai Phong phủ Thôi quan Tổ Vô Pha, Nội đông đầu Cung phụng quan Cam Sư Nhan mỗi người giảm thời gian khảo xét một năm, vì đã hoàn thành việc sửa chữa đường từ địa giới Khai Phong phủ đến Bắc sứ lộ Hoạt Châu.

[53] Chiếu rằng: “Quảng Nam Tây Lộ chuyển vận phán quan Hứa Ngạn Tiên, đề cử thường bình đẳng sự Lưu Hà, đến ty thừa chỉ Xu mật viện bàn việc áp dụng phép tập giáo, đoàn giáo như bảo giáp ở Khai Phong phủ đối với động đinh Quảng Tây, số tiền lương dùng vào việc này, cùng với Kinh lược ty, Chuyển vận ty tính toán.”

[54] Công bộ tâu: “Theo lời của Đô đại đề cử tu bảo đê sông Hoàng Hà ở Tây Kinh, Hà Dương, Nội điện thừa chế Lý Sùng Đạo nói: ‘Theo điệp của Đô thủy sứ giả Phạm Tử Uyên: Đã được chỉ dụ sửa chữa sông cũ ở bờ đối diện đập Quảng Vũ, đá Khiếu Độ, đập Đại Hòa, để chia dòng nước, giảm áp lực cho bờ nam. Nay muốn từ cảng Đại Hà ở huyện Ôn đào sông Kê Trảo, nối đến dưới đập Đại Hòa thuộc địa giới huyện Vũ Trắc, thông vào sông lớn, chia giảm nước đập Quảng Vũ, cần dùng 47.300 nhân công.’ Xét thấy nên theo lời xin của Sùng Đạo.” Được chấp thuận.

[55] Chiếu rằng: Các quan ty nếu có việc xin chỉ thị, phải nêu rõ điều lệ áp dụng, không được nói chung chung là theo điều lệ. Theo lời xin của đề cử thường bình đẳng sự Kinh Tây Hoàng Định.

[56] Cho Chu thị làm Chưởng bạ, quản câu công việc ở Thượng thư nội tỉnh.

[57] Môn hạ tỉnh bác tấu: “Thập tướng Uy quả ở Phúc Châu là Trịnh Thanh do có công được thăng làm Phó đô đầu, vợ mắng mẹ, đánh vợ chết. Trung thư định tội đánh trượng, xăm mặt, đày 500 dặm, tình nhẹ mà pháp nặng, không nên bỏ qua công mà chỉ xét tội.” Chiếu giáng hai bậc ở chức Phó đô đầu, vẫn đánh trượng.

[58] Thượng phê: “Nghe nói dân hai lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng ở Thiểm Tây, vì mấy năm liền mất mùa, lại thêm việc quân phải điều phát, sức dân khó nhọc, thường có người bỏ trốn đi nơi khác kiếm ăn. Nếu không tìm cách cứu giúp, ắt sẽ càng thêm lưu vong. Lại nghe Ty Đề cử Bảo giáp hiện đang tuyển chọn người để tập trung huấn luyện và triệu tập dạy dỗ, dân chúng cũng vì việc biên giới gần đây chưa yên, nên càng thêm lo sợ, nghi ngờ rằng sau khi học xong sẽ bị điều đi canh giữ nơi biên ải xa xôi, tâm tình càng thêm bất an. Gần đây lại vì Ty Chuyển vận chưa phong trang tiền lương quân cấm khuyết ngạch, đã có chỉ dụ triều đình, đợi khi phong trang tiền lương xong thì mới thi hành đợt tập huấn thứ ba. Vì thế, tình hình nhân tài vật lực hiện nay đều chưa thể thi hành được. Hãy nhanh chóng ban chỉ dụ, bảo Ty Đề cử Bảo giáp cứ tiếp tục huấn luyện những người đã được tuyển chọn đang ở trường tập huấn, đợi khi thành thạo kỹ năng thì nghe chỉ triều đình kiểm tra rồi cho giải tán, ngoài ra tất cả việc tập huấn, huấn luyện tập trung ở hai lộ đều tạm ngừng, đợi khi việc biên giới yên ổn rồi mới thi hành. Còn việc cứu tế những hộ bỏ trốn, hãy bảo Ty Đề cử nhanh chóng xem xét những nơi thiếu ăn, theo điều lệ mà thi hành. Lại hạ lệnh cho Ty Đề điểm hình ngục đi tuần tra khắp các châu quân thuộc quyền, xem xét tình hình cướp bóc trộm cắp hiện nay, ngoài việc nghiêm ngặt truy bắt, những vụ lớn chưa bắt được, hãy nhanh chóng tâu lên.”

(Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 ngày 26 tháng giêng, còn 《Thực lục》 bản Chu thì ghi ngày này rằng: “Chiếu cho hai lộ Hà Bắc tạm ngừng việc tập huấn, huấn luyện tập trung, những hộ thiếu ăn bỏ trốn thì theo pháp cứu tế.” Bản Chu chắc không rõ. Ngày 21, Phạm Thuần Túy tấu trình…, chiếu này thực sự đã được thi hành.)

[59] Ngày Quý Mão, chiếu rằng Thông phán Tô Uông ở Hoạt Châu tu sửa đường đi sứ phương Bắc có công, trước đây vì việc đê Tiểu Ngô Khẩu vỡ mà bị cách chức, nay đặc cách miễn tội.

[60] Châu Thí tâu: “Xin chiếu cho lập sổ dũng cảm, vẫn theo nghề cũ, tập luyện võ nghệ, ứng phó việc khẩn cấp.” Theo lời tâu.

[61] Thái thường bác sĩ Hà Tuân Trực tâu: “Xuân thu sai quan đến lăng tế, dùng sinh lao, trở đậu, mặc lễ phục hành lễ, thật không hợp lễ. Kính xét: Từ Tần, Hán đã lập điện tẩm ở lăng, có đủ đồ dùng như lúc sống. Nay bốn mùa tháng đầu dâng lễ ở cung Cảnh Linh, hoàn toàn dùng chế độ của Vua đương thời, thì nghĩa lý cùng với lăng tẩm là một. Xin từ nay khi đến lăng tế, dâng đồ ăn trên bàn ngà, quan tế mặc thường phục hành lễ. Lại theo lệnh về nghi chế, ở cửa miếu, xã, cung đều dựng 24 cây kích, hạ cung của sáu lăng là nơi cất y phục mũ mão, xin theo lệnh dựng kích.” Vua nghe theo.

[62] Ty Đề điểm hình ngục Kinh Hồ Nam lộ tâu: “Vâng chiếu mua gỗ nam, dâu, đàn để sửa kinh thành, muốn theo lệ phòng thủ sông, chia đẳng cấp bắt dân đóng góp.” Vua phê: “Chỉ cho mua ở nơi sản xuất, và lập trường mộ người thu mua, không được bắt dân gánh vác.”

[63] Ngày Ất Tỵ, Vua ngự điện Sùng Chính, xem 70 người thị vệ do Yến Đạt huấn luyện, mỗi người bắn cung nặng một thạch bốn đấu. Vua hỏi có thể tăng sức nặng không, đều đáp: “Xin bắn cung một thạch bảy đấu.” Vua cho đổi cung, đều giương cung đầy đủ, quay lại bảo Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất: “Tài năng kỹ nghệ của người, đại để như nhau. Huấn luyện bao lâu rồi?” Thành Nhất đáp: “Nửa năm.” Vua nói: “Huấn luyện chưa lâu, đã đạt chuẩn, đều cho chức Tam ban tá chức, ban áo bào, hốt, đai bạc, làm chỉ huy ở biên giới.” Vua lại hỏi Yến Đạt: “Có bao nhiêu người huấn luyện thị vệ?” Đạt đáp: “82 người.” Vua nói: “Người được huấn luyện không chỉ là thị vệ, trong 82 người, có bao nhiêu là thị vệ?” Đạt không trả lời được.

[64] Xuống chiếu cho Thượng thư Hộ bộ An Đào cùng các lang quan trong bộ lập pháp lộc mới và cũ cho lại dịch ở các tỉnh, tào, tự, giám.

[65] Tuyên đức lang, Thủ Đại Lý chính Giả Chủng Dân làm Viên ngoại lang Lại bộ. Cấp sự trung Lục Điền dâng tấu: “Lang quan Lại bộ thực sự tham gia việc tuyển chọn, không phải là chức của lại thuộc hình pháp như Chủng Dân nên đảm nhận.” Bèn đổi sang Giá bộ.

[66] Ngự sử Vương Hoàn, Trạch Tư, Dương Úy tâu: “Nguyên tri Nghi Châu, Triều thỉnh lang Đổng Dương Hưu trao cho thần một tập văn tự, chỉ trích Kinh Đông lộ Chuyển vận phán quan Ngô Cư Hậu, Đề cử thường bình đẳng sự Bành Trì có việc bất công, xin xét trị.” Chiếu rằng: “Dương Hưu vốn là Giám ty Kinh Đông, án đã phát sinh, bị cách chức, việc ông ta nói lại không liên quan đến mình, không cần xét trị.”

[67] Chiếu rằng: “Giặc Tây vượt sông, thẳng đến dưới thành Lan Châu, số người không ít, bản châu lại không biết trước, đó là do người trông coi hoàn toàn không có hiệu quả, giao cho Lý Hiến một mặt xử lý xong rồi tâu lên.”

[68] Đề cử Hà Bắc bảo giáp ty tâu: “Xin cho con nuôi, con rể ở rể, con theo mẹ, chồng nối dõi v.v., hiện là bảo giáp, đợi khi chia cư, so với người thân có phần thì cho một nửa.” Chiếu lấy làm lệnh.


  1. 'Thái' nguyên bản viết là 'Đại', căn cứ vào các bản khác và sách 《Tống Hội Yếu》 chức quan 66-21 sửa lại.
  2. 'Không' nguyên bản viết là 'có', căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  3. 'Sự trung' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  4. 'Mặt' nguyên bản viết là 'mà', căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  5. Nguyên văn là 'Ất Sửu', theo bản trong các sách sửa lại.
  6. 'Công' nguyên văn là 'thượng', theo 《Tống Hội Yếu》 chức quan 17-11 và 17-35 sửa lại.
  7. 'Chá tế' hai chữ nguyên văn đảo ngược, theo bản trong các sách và 《Tống Sử》 quyển 103, 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 79 sửa lại.
  8. Kinh thành cách biển hai mươi dặm, chữ 'mười' nguyên bản là 'ngàn', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 490, phần Ngoại quốc truyện sửa lại.
  9. Cừu Hồ, chữ 'Hồ' nguyên bản là 'Cừu non', căn cứ theo bản các và 《Văn hiến thông khảo》 quyển 332, phần Tứ di khảo sửa lại.
  10. Nguyên bản chép 'Quân châu' là 'Quân châu', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66.21 và 《Tống sử》 quyển 331, Trương Giáp truyện sửa lại.
  11. 'Tham bái' trong bản gốc và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89 đều ghi là 'tham công'.
  12. Việc tháng 9 năm ngoái ngày Canh Dần có thể gộp vào đây, xem 《Trường biên》 quyển 329, năm Nguyên Phong thứ 5, tháng 9, ngày Canh Tý, nghi ngờ chữ 'Dần' ở đây là nhầm với chữ 'Tý'.
  13. Tỏ ra yếu thế để kiêu ngạo địch, chữ 'kiêu' nguyên là 'thảo', theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89, sự việc kinh chế An Hóa Man sửa lại.
  14. Gặp lúc triều đình lấy Bân làm đồng kinh chế Man sự, chữ 'Man' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung.
  15. Hồ Tôn Nhụ, chữ 'Tôn' trong các bản khác ghi là 'Tăng'.
  16. Giả Tông Lượng 'Lượng', Tống hội yếu chức quan 66/21 chép là 'Ngạc'.
  17. Ngày Giáp Tý, 18 tháng 2 năm này, chữ 'Nhị' thừa, chữ 'Bát' nguyên là 'Lục', căn cứ vào các bản và sách 《Tục tư trị thông giám trường biên》 quyển 333, ngày Giáp Tý tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6, cùng 《Tống hội yếu》 chức quan 17-11 để sửa.
  18. Ngày Nhâm Tý tháng 6 bổ nhiệm Mã Xưng, 'Mã Xưng', trong 《Tục tư trị thông giám trường biên》 quyển 335, ngày Nhâm Tý tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 ghi là 'Triệu Xưng'.
  19. Thu hồi giảm 1.986.465 '465', các bản, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 176 《Thực hóa chí》, 《Tống hội yếu》 Thực hóa 53-13 đều ghi là '515'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.