"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 333: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)

Từ tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 2, ngày Đinh Mùi mùng một, Đại Lý tự trình lên vụ án những người cung nộp thuế ở hai địa phương là Chu Tân Tổ, Thuận Tổ và Lục Nhi tự ý vượt qua biên giới phía Bắc cùng với Thôi Học Lang để do thám. Tội phạm xảy ra trước thời điểm ân xá. Chiếu chỉ xử trảm Chu Tân Tổ, Thuận Tổ và Lục Nhi.

[2] Ban thưởng cho Kinh lược sứ Hi Hà Lan Hội lộ là Miêu Thụ một bộ áo đối, đai vàng, 500 lượng bạc và lụa; đồng Kinh chế, Thông trực lang là Triệu Tế 300 lượng; Mã Thân[1]200 lượng; các quan lại khác được thưởng tùy theo mức độ, vì có công xây dựng các đồn Du Mộc Sá, Uất Đẩu Bình thuộc quân Thông Viễn, và đồn Thắng Như ở Lan Châu.

(Cuối năm thứ 5, sách thực lục ghi chép việc bãi bỏ hai đồn Thắng Như và Chất Cô ở Lan Châu; tháng 2 năm thứ 6, Miêu Thụ lại được ban thưởng vì xây dựng đồn Thắng Như, chắc chắn có sai sót, cần xem xét lại. Tháng 5 năm đó, ngày Mậu Tý, thu hồi lại phần thưởng đã ban.)

[3] Ngày Mậu Thân, chiếu chỉ rằng các quan lại ở ba tỉnh ghi chép công trạng và lỗi lầm: Môn hạ ủy thác cho Cấp sự trung; Trung thư, Xá nhân; Thượng thư, Tả Hữu ty. Vẫn theo cách so sánh cũ của Trung thư và Môn hạ.

[4] Chiếu chỉ: “Nghe nói các châu ở Phu Diên có binh lính đào ngũ mang theo vũ khí quan phòng, bán trộm trong dân gian. Ủy thác cho Chuyển vận ty đặt thời hạn để họ tự nộp lại, chi trả một khoản tiền tương ứng. Nếu hết hạn mà còn cất giấu, sẽ xử theo luật thưởng phạt về việc tàng trữ vũ khí cấm.”

[5] Ngày Kỷ Dậu, chiếu cấp 1.000 độ điệp để tu sửa cửa nước ở kinh thành.

[6] Chiếu chỉ: “Các tướng lĩnh vì điều động mà ở biên giới, nếu tướng, phó tướng đã hết nhiệm kỳ, huấn luyện tinh thông, thì bảo đảm và tâu lên. Có thể lệnh cho các lộ phân quyền trú đóng, liệt kê công trạng và lỗi lầm của từng tướng, phó tướng, gửi về nơi an phủ, kiềm hạt, giám ty xem xét tình hình trước khi được điều động, cũng như tình hình quản lý và thử nghiệm sau khi quân trở về nơi trú đóng, bảo đảm và tâu lên.”

[7] Chiếu cho Yến Đạt, Vương Uyên lấy một quân hợp dụng nhân tướng để thử nghiệm việc bày trận doanh. Trước đó, Vua đích thân dùng binh pháp cổ chế ra trận doanh chín quân, bao gồm xuất chiến, hạ doanh, hỗ biến, phân hợp, tác chỉ, tiến thoái, phương viên, tiêm trực, việc tập luyện đều đạt đến chỗ tinh diệu. Đến nay, sai Yến Đạt và những người khác thực hiện.

[8] Xu mật viện tâu: “Trước đây đại quân đến ngoài thành Linh Châu, xa hào ba lớp, không có đất bằng để hạ doanh. Khi giặc quyết sông Hoàng Hà, tháo nước vào hào, khiến quân mã bị ngăn cách, không được địa lợi. Lan Châu cách sông Hoàng Hà không xa, nếu theo đó mà đào kênh, dẫn nước sông để làm hiểm cố, dù giặc có lấp hào, cũng có thể xuất binh ngăn hào để chống giữ. Chỉ là không rõ địa thế gần thành và mực nước sông cao thấp có thể hay không thể dẫn nước, xin cho Lý Hiến ủy quan cùng Lý Hạo xem xét kỹ rồi tâu lên.” Vua nghe theo. Sau đó vì Lan Châu đất cao, cuối cùng không thực hiện được.

[9] Ngày Canh Tuất, chiếu rằng: “Lại bộ viên ngoại lang Lưu Phụng Thế, Văn Cập Phủ mỗi người phạt 8 cân đồng, Tả ty lang trung Ngô Ung 6 cân, Ngự sử đài vì để mất sát quan lại nên phải ghi vào sổ.” Vì tội trì trệ trong việc sai Chu Hựu và những người khác đảm nhiệm văn tự ở quân đầu ty, gặp lúc giáng chức nên đặc biệt trách phạt, còn thượng thư Lý Thanh Thần thì được tha tội.

(Năm thứ 5, tháng 7 ngày Canh Tý, sai; tháng 10 ngày Giáp Tý, hặc tội trì trệ; tháng 11 ngày Bính Thân[2], xin chỉ; đến tháng 2 năm nay ngày Canh Tuất, mới xử đoán.)

[10] Cơ quan Đạo Hà trình bày: “Từ đập Vương Cung xuống thẳng đến cửa đạo thôn Mã, đi về phía đông qua đê Cổ Nguyệt, theo kênh Vĩnh Lạc về phía đông bắc vào thôn Giả Bạt phía tây trấn Tân Hương, hợp vào sông Ngự, địa hình thấp hơn mực nước sông 18 thước, dài hơn 49 dặm. Huyện Hoạch Gia ở phía tây sông được dẫn, địa hình tương đối cao, có thể tu sửa đê điều. Ba trấn Tân Hương, Kỳ Môn, Viên Thủy đều ở vùng đất thấp, lại nằm trong vùng nước xung kích, nên di dời đến nơi cao hơn. Trấn Vệ và cầu Uyển nằm trên đất cao, không cần nhân công. Phía bắc huyện Thành An và huyện Ngụy nên xây đê ngăn nước trước.

Nếu đào một nhánh sông dưới đầm Thiệu Trạch để dẫn nước vào sông Chương và đầm Cự Lộc, thì châu Thâm sẽ bị thiệt hại. Đồi Đoàn ở phía tây bắc châu Vệ, địa hình cao, cách cửa quan 4 dặm, cao 50 thước, chân đồi cao hơn dưới chân thành quan 23 thước. Phía trước đồi Đoàn, cả đông và tây đều có đồi Mã Bằng, gần thành hơn, địa thế dốc xuống, thành châu khó có thể phòng thủ vững chắc; thêm vào đó, sông cảng hẹp, nếu xây đê phía đông lại chắc chắn, thì phải ngăn chặn, bờ đập phía thượng lưu chắc chắn nguy hiểm: châu Vệ cũng nên di dời[3]. Theo công án, xem xét kế hoạch xây đê dài hơn 20 dặm, phía trước cao 7 thước, phía sau cao 1 trượng, cần 16.000 nhân công, 4.997.000 bó cỏ, 115.000 dây tre và cọc, dùng số này có thể làm hai đập.

Nếu nước đến chân đê, cũng phải đắp thêm đập để nâng cao, chi phí không nhỏ, từ đó suy ra, chi phí hàng năm trong tương lai có thể biết được. Hơn nữa, đang ở vùng nước xung kích, khó có thể ngăn chặn, ước tính mặt nước chưa đến chân đồi đã có nguy cơ tràn, nên di dời là thuận tiện. Theo án trước, ba nơi châu Vệ, Lê Dương, Nội Hoàng đều có thể bảo vệ vững chắc, nhưng sông Ngự hẹp, không đủ chứa một phần bảy sông lớn, trong tương lai dẫn sông hợp vào sông Ngự, chắc chắn sẽ tràn bờ, tạo thành dòng chảy ngập vài dặm, thế tất phải quay lại sông cũ, xói mòn càng nghiêm trọng. Huyện Lê Dương tuy dựa vào núi làm thành, địa hình cũng thấp, năm Hi Ninh thứ 10, nước sông châu Vệ tràn bờ, đã sâu 5-7 thước trên đê sông Ngự phía tây, nếu toàn bộ sông từ phía bắc đổ về, sẽ gấp nhiều lần, dù như án trước đã xem xét, xây đê nặng dài 16 dặm, e rằng không có tác dụng. Trong tương lai, thế nước chắc chắn sẽ tràn qua đông tây, giống như đảo châu, chi phí công liệu hàng năm không nhỏ, dù cố gắng bảo vệ, cuối cùng cũng không có lợi ích. Lại theo án trước, muốn tăng thêm 10.000 nhân công để đào trước một con sông dưới xoáy Xảo Phụ, khiến thế nước có thể chảy về Lê Dương và dãy núi Bạch Từ, Thượng Dương Sơn, trong tương lai sẽ bắc cầu. Xem xét kỹ, địa lý núi Đồng rộng lớn, thêm vào đó, con sông đào chắc chắn không thể chứa được sông lớn, lãng phí tài sản quốc gia và công sức dân chúng, ước tính việc bắc cầu cũng không chắc chắn.” Do đó, việc này bị bãi bỏ.

[11] Ngày Tân Hợi, Thị lang Lại bộ Lý Thừa Chi tâu: “Nay bàn quyết việc Vương Cung tảo đạo sông Hoàng Hà chảy về phía bắc, đối với nạn lụt ở bờ nam, từ Nguyên Vũ trở xuống đều lùi lại[4], cũng có thể tạm thời làm giảm bớt sự cấp bách ở Huỳnh Trạch. Còn như Hùng Vũ, Quảng Vũ, đang là nơi xung yếu của kinh thành, lo ngại về nạn lụt e rằng không thể chậm trễ. Thần cho rằng nên ở ngoài đê trị thủy, phía đông sông giảm thủy Ngụy Lâu, tu sửa đê lớn, tiếp giáp với sông, phía dưới nối với đê lớn giới hạn của Châu Hoạt, theo hướng đã định[5], lượng đặt binh Hà Thanh và chọn quan chia nhau tuần tra, hàng năm trồng thêm cây du liễu. Bờ nam sông Biện cũng theo như thế, lại thường tích trữ cọc gỗ bên bờ sông Biện để phòng sửa chữa, vạn nhất có việc bất ngờ, có thể giữ vững, ngăn chặn dòng chảy về phía đông, có thể khiến sông trở lại, dường như là lợi ích lâu dài.” Chiếu cho Đô thủy giám xem xét kỹ rồi tâu lên. Sau đó, Đô thủy giám cho rằng việc này quá lớn khó thành, nên bỏ qua.

[12] Cấp 200 độ điệp cho ty Vận chuyển Tam Môn Bạch Ba để thuê người chuyên chở vật tư hàng năm và những vật phẩm công chưa vận chuyển trong nhiều năm.

[13] Tam Môn Bạch Ba Liễn Vận ty tâu: “Xin tạm mượn 300 chiếc thuyền đáy bằng 400 liệu của Phát Vận ty để chở muối, hàng hóa ở trường mậu dịch, trà thưởng… đến Phiếm Thủy, còn thuyền của bản ty sẽ chở lên Hà Bắc.” Chiếu rằng: “Việc cung ứng vật phẩm cho trường mậu dịch là việc trọng yếu, nếu có thiếu hụt, có thể khơi dậy lòng tham của giặc. Triều đình đã ban chỉ, việc điều động không thể chậm trễ, nên chọn sai sứ thần đến Phát Vận ty bàn bạc, hạn trong 10 ngày phải điều động xong.” Sau đó, Phó sứ Phát Vận ty Tưởng Chi Kỳ tâu: “Thuyền Biện Cương mỗi năm định mức hơn 1.700 chiếc, gần đây theo chiếu giảm số lượng, chỉ đóng 748 chiếc, số tiền công liệu giảm đi được niêm phong. Bản ty mỗi năm chở 6.200.000 thạch lương thực quân dụng, mà chỉ dùng hơn 700 chiếc thuyền, nếu gặp gió lớn sóng dữ bị mất mát, còn lo không đủ; hơn nữa đã có chỉ cho phép miễn việc các ty khác mượn thuyền, dù có đơn xin, cũng được phép tâu lên không cho mượn. Nếu lại chia cho Liễn Vận ty Bạch Ba, thì kế hoạch lớn của bản ty ắt bị trở ngại, xin miễn việc mượn thuyền.” Triều đình đồng ý.

[14] Đại Lý tự tâu: “Đại bảo trưởng Vệ Hòa ở Thái Châu buôn bán muối lậu, cầm đầu vây bắt Huyện úy, bắt ép phải viết giấy cam đoan không dám bắt người buôn muối lậu.” Chiếu xử trảm.

[15] Đề cử Giáo Mã quân sở tử đệ Triệu Duy Giản cùng các người khác tấu: “Bọn thần vốn là dân thường, đến đây học tập, gần được ba năm, và theo Vương Trung Chính tiến sâu vào địa giới phía tây, thu phục các châu thành. Xin được thi bắn cung ngựa và bộ, mỗi loại đạt lực kéo một thạch năm đấu trở lên, nguyện mỗi loại tăng thêm hai đấu[6], bắn cung ngựa và bộ mỗi loại một thạch bảy đấu lực, bắn bộ sáu mũi tên, bắn ngựa thẳng và quay lưng sáu, năm mũi tên, số mũi tên và độ sâu, xin được theo thể lệ thi thử trước đây của bản sở, số mũi tên trúng đích đã quy định, dẫn đến trình diễn thi thử.” Ngự phê: “Nên lệnh cho bản sở căn cứ vào việc muốn trình diễn thi thử kỹ năng, tổ chức thi thử rồi tâu lên.”

(Theo《Ngự tập》quyển 136, ngày 5 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 6 thêm vào. Ngày 19 tháng 9 năm Hi Ninh thứ 7, ngày 23 tháng 9 năm thứ 10; ngày 14 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 2, ngày 11 tháng 3, ngày 11 tháng 5, ngày 18 tháng 6, ngày 3 tháng 11 năm thứ 3, ngày 17 tháng 11 năm thứ 5, ngày 5 tháng 2 năm thứ 6.)

[16] Ngày Nhâm Tý, chiếu cho các lộ Kinh Tây, Hà Đông, Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hi Hà tập hợp toàn bộ quân Sương, sai đi đến Lan Châu.

(Lại ngày 24.)

[17] Chiếu cho Ty Kinh lược chế trí Hi Hà Lan Hội chuẩn bị lương thảo cho một vạn người và hai nghìn ngựa ở Lan Châu, từ các châu quân thuộc các lộ thứ yếu, thu gom ba nghìn con lạc đà của quan và tư, giao cho Ty Kinh lược[7], lệnh từ Hi Châu vận chuyển, nếu không đủ sức, thì điều động Nghĩa Dũng và Bảo Giáp. Chiếu cho Tả ty lang trung Ngô Ung giám đốc Triệu Tế, Mã Thân đi lại thúc giục việc vận chuyển.

(Lại ngày 24.)

[18] Lý Hiến tâu: “Đợi khi triển khai định xong Tây thành, chọn quân Hi, Tân và quân kỵ của Lưu Xương Tộ mỗi bên một vạn, tập kích Thiên Đô.” Chiếu sai Nội cung phụng quan Phùng Cảnh đến dụ Lý Hiến: “Thiên Đô cách Hi Hà rất xa, lương thảo làm sao chuẩn bị được? Nay nếu nghiêm ngặt phòng bị, lấy nhàn đãi mệt, hoặc có thể lập công. Lệnh cho bàn bạc thêm, nếu tình thế cần phải hành động, thì trình bày kế hoạch quân hành và biện pháp ứng phó cụ thể để tâu lên.”

[19] Ngày Quý Sửu, Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Bộ tộc Kỳ Ô vốn là thập tướng cung tiễn thủ của gia tộc Vi, trước bị giặc bắt, nay dụ dỗ được 24 hộ với 156 người mang theo dê ngựa đến đầu hàng.” Chiếu thăng Kỳ Ô một bậc.

[20] Chiếu: “Sứ giả nước Tằng Đàn, ngoài lễ thường, đặc biệt ban thưởng 2.000 lạng bạc.”

[21] Ngày Giáp Dần, chiếu: “Ty đề cử lộ Tử Châu cấp 50.000 quan tiền phường trường, giao cho Ty chuyển vận ứng phó cho Lộ Châu.”

[22] Ty chuyển vận Kinh Tây tâu: “Ngoài số tiền thượng cung hàng năm, còn chi tiêu ngang 490.000 quan, mới được hoàn lại 120.000 quan, xin hoàn lại toàn bộ.” Chiếu cho Ty đề cử lộ Kinh Tây Nam và Bắc cấp thêm 50.000 quan tiền phường trường.

[23] Ngày Bính Thìn, chiếu: “Kinh lược an phủ chế trí sứ lộ Hi Hà Lan Hội, Vũ Tín quân lưu hậu, Nhập nội phó đô tri Lý Hiến giáng làm Tuyên Khánh sứ[8], Kinh lược an phủ đô tổng quản, Điện tiền đô ngu hậu, Nghi Châu phòng ngự sứ Miêu Thụ phạt 30 cân đồng, Kinh lược an phủ phó sứ, Tri Lan Châu, Dẫn tiến sứ, Lũng Châu đoàn luyện sứ Lý Hạo giáng làm Tứ phương quán sứ, Thứ sử Giai Châu, vì để giặc Tây xâm phạm Lan Châu, suýt mất cửa Tây thành mới phát hiện, giặc nhân cơ hội phá được Tây quan. (《Tân kỷ》 chép: “Ngày Bính Thìn, vì quân Hạ xâm phạm Lan Châu, giáng chức Kinh lược sứ lộ Hi Hà Lý Hiến và phó sứ Lý Hạo.” 《Cựu kỷ》 không chép.)

[24] Lạc uyển sứ, Hi Hà Lan Hội kiềm hạt Văn Uất được bổ nhiệm làm Tây thượng các môn sứ, tri châu Lan Châu, thay thế Lý Hạo. Khi quân Tây Hạ vây đánh Lan Châu, với số lượng lên đến mấy chục vạn người ập đến, Lý Hạo đóng cửa thành cố thủ. Văn Uất xin ra quân đánh, Lý Hạo nói: “Trong thành kỵ binh không đầy vài trăm, sao có thể giao chiến được?” Văn Uất đáp: “Giặc đông ta ít, chính là lúc cần chặn đánh khí thế của chúng để yên lòng quân sĩ, sau đó mới có thể cố thủ. Đây là cách Trương Liêu dùng để bảo vệ Hợp Phì.” Tẩu mã Diêm Nhân Vũ nói: “Theo chiếu chỉ, chúng ta được lệnh cố thủ chứ không được lệnh giao chiến. Nếu nhất định muốn mở cổng thành, tôi sẽ tấu hặc.” Văn Uất nói: “Nay ta xông ra khỏi thành, lấy một địch ngàn, dù có chết vạn lần cũng không sợ bị hặc! Huống chi cố thủ thì không có thế tất thắng, mà giao chiến thì có cơ hội thừa thắng.” Ông kiên quyết xin mãi, Lý Hạo đành đồng ý. Văn Uất bèn tuyển hơn trăm tử sĩ, đêm hôm đó dùng dây thòng xuống thành, cầm vũ khí ngắn xông vào đánh. Quân giặc kinh hãi tan vỡ, tranh nhau qua sông, chết đuối rất nhiều. Quân ta thu hồi những người bị giặc bắt vào trong thành. Lúc đó, người ta so sánh Văn Uất với Uất Trì Kính Đức.

(Điều này căn cứ theo truyện cũ của Văn Uất. Lý do Văn Uất thay thế Lý Hạo, tuy là do chiếu chỉ ngày Bính Tuất tháng 11 năm ngoái, nhưng cũng nhờ công lao này. Không rõ vì sao truyện mới lại bỏ đi.)

[25] Ngày Đinh Tỵ, chiếu chỉ phục chức cho Dương Cảnh Lược, người trước đó bị giáng làm Phụng nghị lang, Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, lên làm Thừa nghị lang, vì có lời phê của Vua rằng: “Cảnh Lược lo việc ứng phó với việc đắp đê ngăn lũ ở Nguyên Vũ và cứu giúp dân chúng bị nạn lụt, sửa chữa đường dịch trạm tiếp đón sứ thần Liêu, rất chăm chỉ.”

[26] Chiếu chỉ: “Các giáo đầu ty Bảo giáp Hà Bắc, tổng cộng 56 người: 5 bảo trưởng được thăng chức tá, 17 người được thăng chức sai sứ, giảm thời gian khảo hạch 2 năm; 26 người được thăng chức sai sứ; 4 chỉ sử dạy quân được thăng một bậc, giảm thời gian khảo hạch 3 năm; 3 người được thăng một bậc, giảm thời gian khảo hạch 2 năm, kiêm nhiệm làm tuần kiểm ở các huyện mới lập đoàn giáo trường; 1 chỉ sử được thăng một bậc, giảm thời gian khảo hạch 3 năm.” Lúc đó, việc luyện tập của Bảo giáp Hà Bắc đã hoàn thành, bắt đầu được dẫn vào yết kiến, tài nghệ đều đạt chuẩn, nên có chiếu chỉ này.

(Ngày 17 tháng 3.)

[27] Ngày Mậu Ngọ, Đề điểm Quảng Nam Tây Lộ hình ngục Bành Thứ Vân tâu: “Trại ngoại trấn Ung Châu đất đai cằn cỗi, xin lưu lại một số binh lính thay phiên canh giữ, còn lại đều dùng động đinh, ở các châu thuộc quyền quản hạ theo tháng quý luân phiên sai phái, cấp tiền lương như cấm quân.” Chiếu cho Hứa Ngạn Tiên, Lưu Hà xem xét. Sau đó, Ngạn Tiên tâu: “Nếu dùng hết động đinh thay thế chính binh phòng thủ, sẽ cản trở việc nông nghiệp, lâu dài không tiện. Xin chia quân đồn trú làm ba phần, dùng một phần động đinh thay thế, mỗi quý luân phiên 2000 người đến Ung Châu tập luyện võ nghệ.” Được chấp thuận.

[28] Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Trung thừa Thư Đản bàn việc Thượng thư tỉnh tấu sao nên đặt lục mục, nhưng bản tỉnh cho rằng không có điều lệ riêng, xem việc Đản tâu là dối trá. Bệ hạ thấy hai bên tranh luận, bèn sai Lục Điền, Thái Biện xem xét, nhưng lục hoàng thánh chỉ lại nói rõ Thư Đản bàn tấu sai. Xét: Đản giữ chức gián quan, ngự sử năm sáu năm, những việc lớn trong triều đình, Đản sao có thể bàn hết cho bệ hạ, không sót việc nào? Bệ hạ cứ một việc mà cách chức, ai dám nói không đúng? Nay chỉ vì tranh luận văn pháp với đô tỉnh, liền giao cho bản tỉnh thuộc tài hặc tội dối trá, lại giao cho Điền, Biện, lại chiếu theo ý chỉ, khiến Điền, Biện chỉ có cái danh xem xét, còn việc được hay không, chấp chính đã quyết định trước. Hơn nữa, việc đặt hay không đặt lục mục, không liên quan đến trọng trách của chấp chính, mà phạm tội với đại thần như vậy, thần xem ý của họ, đâu chỉ nhắm vào Đản, mà là muốn khiến quan ngự sử không dám bàn về mình nữa.” Không được trả lời.

(Ngày Quý Tỵ tháng giêng có thể gộp vào đây.)

[29] Ngày Kỷ Mùi, chiếu: “Lại bộ viên ngoại lang Đường Thục Vấn từ khi được thăng làm tỉnh lang, không chuyên tâm làm việc[9], giả bệnh để tiện việc riêng, có thể sai làm Giám Phủ Châu diêm phàn tửu thuế vụ.” Thục Vấn vì bệnh nhiều lần xin ra ngoài, Vua cho là không chịu nhận chức.

[30] Chiếu cho Cung bị khố phó sứ, Đô giám huyện Uý Thị Phùng Nghiêu Chính thăng một chức, giảm thời gian khảo khóa hai năm, vì trong năm chiêu mộ được 1280 quân.

[31] Lại có chiếu rằng: “Tội đúc tiền riêng đến mức tử hình, trước đây đã được tha, nhưng vợ con vẫn bị áp dụng luật biên quản, nay bãi bỏ, từ nay không bị liên lụy.”

[32] Ngày Canh Thân, Hoàng thành sứ, Vinh châu Đoàn luyện sứ, Đái ngự khí giới, Quảng Nam Tây lộ Kiềm hạt, Đồng kinh chế Nghi châu Khê động Hòa Bân được làm Tuần kiểm sứ, chuyên quản việc binh giáp và trộm cướp ở các châu Dung, Liễu, Tượng và một vùng khác.

(Ngày 14 tháng giêng, ngày 24 tháng tám, có thể bỏ.)

[33] Lại bộ tâu: “Nguyên là An Hóa huyện úy châu Khánh là Hác Tông Thần đánh nhau với giặc muối Lý Bình, bắt được 20 cân muối xanh, đáng được thưởng hạng nhất, nhưng trước đây đã phạm tội tham nhũng bị cách chức.” Chiếu cho Tông Thần được đổi sang chức thứ hạng thấp hơn hợp với quan chức.

[34] Khai Phong phủ xin từ nay các quan lại trong phủ cứu hỏa ban đêm ở thành mới, nếu cửa cũ đã đóng, được phép mở kho chìa khóa trong cung[10], sai quan nội thần túc trực ngoài cửa Đông Hoa trao chìa khóa. Được chấp thuận.

[35] Đại Lý tự tâu: “Văn Tư phó sứ châu Lô là Tần Thế Chương, Nội điện Thừa chế là Tiêu Thắng, Thị cấm là Mạnh Văn Hựu đều phạm tội mua đầu giặc Khất Đệ để con mình lừa thưởng. Xét lại vụ án riêng của Tần Thế Chương về việc thề với Khất Đệ, bị truất một chức và cách chức, đuổi ra khỏi địa giới Xuyên; còn Tiêu Thắng phải chịu tội đồ một năm, Mạnh Văn Hựu phải chịu tội đồ hai năm. Tần Thế Chương phạm tội tư đánh trượng, đều xảy ra trước khi có ân xá.” Chiếu cho Tiêu Thắng, Mạnh Văn Hựu mỗi người bị truất một chức, miễn cách chức; Tần Thế Chương kéo dài thời hạn một kỳ để xét lại.

[36] Ngày Tân Dậu, chiếu sai Yến Đạt, Trương Sơn Phủ xét thử ngựa và trận đồ của tướng quân thứ tư ở phủ giới.

[37] Chiếu cho Ty An phủ biên giới Hà Bắc, quan Cơ nghi văn tự Quản câu châu Hùng, từ nay được phép tiến cử.

[38] Chiếu cho Ty Bảo giáp các lộ Hà Bắc, Hà Đông[11], các châu quân biên giới từ nay không được dạy tập ở phía nam 20 dặm ngoài khu vực không dạy tập, mới được đặt trường tập đoàn; các đường nhỏ mà sứ giả phương Bắc đi qua, đều dời ra ngoài 5 dặm.

[39] Ngự sử Dương Úy tâu: “Đại Lý tự gần đây xử án phụ nữ A Trần ở Thiệu Vũ quân[12], án tâu lên Hình bộ Lang trung Đỗ Hoành bàn rằng không đúng, vâng chiếu giao Ngự sử đài xem xét lại và quyết định. Xét Hình bộ từ Thị lang Thôi Đài Phù trở xuống có bốn viên, chỉ có Hoành dâng lời bàn[13], các quan khác không có ý kiến gì, chỉ căn cứ vào tình trạng tâu lên Đô tỉnh. Đài Phù vốn là quan pháp lại, bệ hạ cất nhắc lên chức gần, không nghĩ đến báo đáp, chỉ im lặng qua loa, không có tâm trách nhiệm.” Chiếu phạt Đài Phù 10 cân đồng, Hàn Tấn Khanh và Mạc Quân Trần mỗi người 8 cân.

(Tháng 6, ngày Nhâm Thân, Hoành bị phạt đồng.)

[40] Chủng Ngạc tâu: “Giặc Tây cướp bóc dân chúng ở khu vực An Định bảo, đã sai quan đi xem xét. Nay muốn chỉ huy các tướng dọc biên giới, cẩn thận do thám tình hình địch: nếu quả thật chúng đợi đến để nói chuyện, xin thông hòa, thì theo chỉ thị ngày 9 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 6; nếu tình hình giặc có âm mưu khác, nói là đợi đến để nói chuyện, dụ dỗ phòng bị biên giới của ta, nhân lúc ta không đề phòng, xông vào thành trì, thì theo chỉ thị ngày 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 5. Hai việc trên, xin ban chỉ thị nhanh chóng.” Chiếu rằng: “Hai việc Chủng Ngạc tâu không mâu thuẫn nhau, nay tại sao lại dám tâu lên triều đình, chờ chỉ thị? Lệnh cho Chủng Ngạc xem xét kỹ các chỉ thị trước đây mà thi hành, và gửi văn thư cho quan chức Tẩu mã thừa thụ của bản lộ, cử một viên quan đến tận nơi bị giặc cướp, xem xét số lượng ngựa giặc rồi tâu lên.”

(Ghi chép bí mật ngày 15.)

[41] Ngày Nhâm Tuất, chiếu rằng các châu quân mà sứ Liêu đi qua, lệnh cho Hà Bắc đô chuyển vận ty xem xét, nếu có người tuổi cao sức yếu không đủ năng lực, tạm thời đổi chỗ, để họ qua biên giới rồi trở lại như cũ.

[42] Thượng phê: “Nghe nói các lộ có nhiều quân thừa, là do tướng, phó không thể mở rộng việc dạy tập, lại không cho lui về làm quân sương, trong đó cũng có người tránh việc dạy tập, giả bệnh để giảm bớt, khiến dưới quyền tướng có nhiều chỗ khuyết. Có thể lệnh cho An phủ ty các lộ Hà Đông, Thiểm Tây cử quan đến các châu quân để kiểm tra, những người dưới 45 tuổi, có thể mang giáp, tuy có bệnh nhẹ nhưng không ảnh hưởng đến việc kéo cung nỏ và các võ nghệ khác, thì theo chỉ huy trước đây mà thu nhận, căn cứ vào võ nghệ hiện nay giảm bậc để dạy tập[14].”

[43] Chiếu lệnh bái yết các lăng, từ nay mỗi nơi cử quan, Thái thường tự luân phiên trưởng, phó, còn lại dùng tông thất làm Phòng ngự sứ các quận xa để luân phiên. Do Thái thường bác sĩ Hà Tuân Trực tâu: “Theo nghi lễ thời Hi Ninh, ba lăng cùng cử một viên quan triều bái đến chia nhau bái yết, là không đúng.”

[44] Chiếu lệnh Đồn điền ty Hà Bắc xem xét kích thước, lập quy tắc nước ở đầm hồ, mỗi quý báo cáo tăng giảm. Lệnh cho Lý Lượng[15] mang chiếu đến cùng bàn bạc, không được phô trương lộ liễu.

[45] Ngày Quý Hợi, đặt một viên Chủ bạ ở thành Định Tây, theo lời thỉnh cầu của Lý Hiến. Hiến lại tâu: “Thành Định Tây là nơi hiểm yếu chặn giặc, nguyên là nơi địch đặt Giám quân. Hiến xin trước tiên mở rộng xây dựng, sau đó dồn lực lượng về Lan Châu, đã cử Lạc Uyển sứ Khang Thức dời quân đến khởi công[16].” Chiếu theo lời tâu.

(Việc này căn cứ vào 《Ngự tập》 ghi chép thêm. Ngày 4 tháng 3, Khang Thức mới tâu đầy đủ, nay không ghi lại ở đó nữa.)

[46] Ban cho Châu Thành một ngàn quan tiền công sứ, theo lời thỉnh cầu của Tri châu Chu Sĩ Long.

[47] Giáp Tý, xuống chiếu giáng chức Cung bị khố sứ Cao Tuân Trị và Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Trương Thọ mỗi người một bậc, vì tội đánh dẹp man Nam Lộ Châu đã đầu hàng, nhưng chưa nộp cung tên, đao kiếm mà đã giết họ. Sau đó lại vì có công phá được sào huyệt của Khất Đệ, nên mỗi người được giảm thời gian khảo khóa ba năm. Đông đầu cung phụng quan Đỗ Nghị tính tội phải giáng một bậc, tính công được giảm thời gian khảo khóa bốn năm, nhưng đã chết, nên ban cho nhà ông ta hai mươi tấm lụa.

[48] Tam tỉnh tâu: “Các quan án thuộc Lục sát của Ngự sử đài lấy hai năm làm một nhiệm kỳ, muốn lập sổ ghi chép số lượng và đúng sai trong việc hặc tội để định thứ bậc, cuối năm trình bày chi tiết xin chỉ thăng giáng, việc quan trọng thì tùy việc xin chỉ.” Được chấp thuận.

(Ngày 24 tháng giêng, Canh Tý, hợp tham chiếu.)

[49] Công bộ lang trung Phạm Tử Kỳ tâu: “Cầu phao ở Hoạt Châu hàng năm trước khi nước lên thì tạm tháo dỡ, cuối thu lại buộc lại, tốn kém tiền của hàng năm. Muốn ở dưới chỗ đê vỡ chọn chỗ khác buộc cố định, để tránh việc buộc tháo và tắc nghẽn.” Xuống chiếu cho Tử Kỳ xem xét chỗ có thể buộc cầu, trình bày lợi hại lên.

[50] Bính Dần, Vũ Tín quân lưu hậu, được tặng chức An Hóa quân tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam ty, Cao Mật quận vương là Triệu Tông Đạt mất. Vua định đến thăm nhà ông ta, gặp trời mưa, quan hữu ty tâu đường lầy lội, Vua sai sửa đường ngay, ba ngày sau, đến viếng khóc.

[51] Đinh Mão, xuống chiếu: “Điển lệ thưởng của Đông Tây tác phường thuộc Quân khí giám quá hậu, sở chế tạo quân khí mỗi ngày sử dụng mấy trăm người, mà theo lệ được hai năm thăng một bậc, khá may mắn. Từ nay mỗi tác thực sự sử dụng một trăm vạn công, theo lệ cũ.”

[52] Ty đề cử Hà Đông bảo giáp tâu việc tập luyện võ nghệ của bảo giáp ở mười ba châu quân, chín trường thuộc Thái Nguyên phủ đã đạt yêu cầu. Sai Vương Uyên và Lương Tòng Chính đi kiểm tra.

[53] Quyền phát khiển Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Lý Sát tâu: “Trước đây sát phỏng Lý Thừa Chi xin đổi Hoa Trì trấn làm trại, lấy huyện Hoa Trì cũ làm trấn, các viên tuần thú, giám quan thuộc ty thuế vụ đều phải dời theo.” Được chấp thuận.

[54] Chiếu rằng: “Ty Chuyển vận Thiểm Tây thiếu đồng để đúc tiền, đã nhiều lần báo lên Kim bộ nhưng chưa được cấp phát. Nay việc quân chưa xong, nguồn thu kinh phí sao có thể bị hao hụt? Hộ bộ không kịp ứng biện, nguyên nhân chậm trễ, Ngự sử đài hãy điều tra rõ rồi tâu lên.” Sau đó, Thượng thư Hộ bộ An Đào bị phạt 8 cân đồng, Thị lang Trần An Thạch và Lang quan Triều Đoan Ngạn bị phạt 10 cân đồng, cùng các viên chức bị đánh trượng, phạt bổng và chuộc tội bằng đồng với mức độ khác nhau.

(Bản Chu ghi Lang quan Triều Đoan Ngạn, Trần An Thạch là sai. An Thạch đã làm Thị lang từ tháng 4 năm thứ 5.)

[55] Phán quan Chuyển vận Kinh Tây Giang Diễn tâu: “Năm nay ở đập Quảng Vũ thiếu tiền để mua củi và cỏ, Tây Kinh và Hà Dương cung cấp lương thảo cho quân cũng thiếu tiền ứng phó, xin mượn 50 vạn quan.” Chiếu cho Ty Đề cử Nam, Bắc lộ cùng cấp 30 vạn quan tiền phường trường, hạn trong 5 năm phải hoàn trả.

[56] Chiếu thăng Hữu Thị cấm, Cáp môn Chi hậu Lỗ Phúc làm Tây đầu Cung phụng quan, Bộ tướng dưới quyền Tướng thứ hai lộ Kinh Nguyên, ban thưởng 50 tấm lụa để băng bó vết thương. Phúc, người được cử làm Chuẩn bị Sai sứ lộ Kinh Nguyên, khi về triều yết kiến, tự tâu rằng mặt bị trúng tên, cho thầy thuốc xem, mũi tên gần mắt không thể lấy ra được. Sau đó, Phúc chết vì vết thương do tên, con trai là Kiên được bổ làm Tam ban Tá chức.

[57] Ngày Canh Ngọ, chiếu rằng: “Nghe nói lộ Hi Hà thiếu chiếu và da để làm đồ phòng thủ, giao cho Vương Khâm Thần chuẩn bị 3000 tấm chiếu và 10.000 tấm da bò, tùy theo châu huyện mà huy động dân phu vận chuyển.”

[58] Đề điểm Công sự các huyện trấn phủ Khai Phong Dương Cảnh Lược dâng phương pháp làm vòng trúc và giá gỗ để chế rượu cung ngự. Chiếu cho áp dụng.

[59] Lý Hiến tâu: “Kế hoạch dự trữ lương thực ở Lan Châu mười vạn, xin điều động bảo giáp hoặc lạc đà công tư để vận chuyển, nhưng lại lo ngại ảnh hưởng đến việc cày cấy mùa xuân. Thần đã sửa chữa thuyền bè, từ sông Đào vận chuyển đến trại Xuy Long, đợi quân Sương vận chuyển tiếp đến Lan Châu.” Chiếu rằng: “Nếu lạc đà và thuyền bè vận chuyển không đủ, cần điều động nghĩa dũng, bảo giáp, thì theo chiếu trước.”

(Ngày 6 tháng 2.)

[60] Xu mật viện tâu: “Ở Kinh Tây, Hà Đông, Thiểm Tây tập hợp quân Sương đến Lan Châu, tổng cộng một vạn năm nghìn người.” Chiếu thêm ở Kinh Tây tuyển hai nghìn người nữa.

[61] Vua phê: “Hi Hà lộ đang tu sửa biên phòng, chi phí lớn, gần đây tuy đã cấp hai trăm vạn quan tiền, nhưng do giá cả ở địa phương này đắt đỏ, chi phí chưa đủ, tiếp tục cấp thêm một trăm vạn quan tiền dư từ phường trường.”

[62] Chiếu cho Hi Châu tạm thời tăng công sứ tiền ba nghìn quan, Thông Viễn quân hai nghìn quan.

[63] Ngày Tân Mùi, Chủng Ngạc tâu: “Từ nay bắt được người Tây xâm phạm biên giới, theo chỉ dụ triều đình thi hành, nếu các nơi bắt được người Tây không phạm tội, xin đều thích phối đến Kinh Hồ hoặc Kinh Tây bản thành.” Theo lời tâu.

[64] Chiếu rằng các thông phán, chức quan ở Thiểm Tây lộ, không được để giám ty điều động. Theo lời thỉnh cầu của Tri Khánh Châu Triệu Tiết.

[65] Đồng kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng Triệu Tế kiêm Thiểm Tây chuyển vận phán quan, lo việc dự trữ lương thảo ở Hoàn Khánh lộ; Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Lý Sát lo việc dự trữ lương thảo ở Tần Phượng lộ, kiêm ứng phó nhu cầu của Hi Hà lộ; Đề cử Hi Hà, Tần Phượng, Kinh Nguyên lộ cung tiễn thủ doanh điền Trương Đại Ninh tạm quyền đồng kinh chế Hi Hà lộ biên phòng tài dụng.

[66] Ngày Quý Dậu, ba tỉnh tâu: “Quốc tử giám trong kỳ thi công, đề thi hỏi: ‘Công việc của các ty, tự, giám có chỗ chưa xét kỹ; chức trách của tự, giám, lục tào có chỗ chưa xem xét; chính sự của lục tào, đô tỉnh có chỗ chưa thấu suốt, người đảm nhiệm trách nhiệm, e rằng chưa đủ để thực hiện đạo lý nhỏ lớn nương tựa nhau, trên dưới kiềm chế lẫn nhau. Há chẳng phải là người chế định và sử dụng, pháp luật chưa đủ để tuân thủ; người suy xét và thi hành, con người chưa đủ để sáng suốt chăng? Muốn xét hợp thời nay, theo cổ lệ, mà phát huy hết ưu điểm, thì công việc nhiều, sẽ có nỗi lo trì trệ. Các sinh viên cho rằng làm thế nào thì được?’ Đề thi này do Khởi cư lang Thái Kinh soạn.” Chiếu cho Thái Kinh trình bày rõ việc hỏi đó nên sửa chữa thế nào, những sinh viên được chọn thế nào là bậc ưu tú.

[67] Kinh nói: “Thần trộm nghĩ rằng việc bổ nhiệm quan chức không hợp lý đã lâu. Bệ hạ với trí tuệ thánh nhân, đã truy cứu và khôi phục lại, mọi quy tắc và độ số đều được quyết định trong lòng, và quyết đoán bằng trí tuệ độc lập. Vì vậy, việc thiết lập chức vụ và bổ nhiệm thuộc hạ, liên kết công việc để cùng trị lý, quan chức không có danh hư, người có chức vụ đều giữ đúng phận sự, xét xưa so nay, rõ ràng đầy đủ, là điều may mắn cho muôn đời. Thần với học vấn nông cạn mà được tham gia thảo luận, thực sự tự cảm thấy hổ thẹn, không thể đóng góp được một phần vạn cho công lao thánh đức.

Thần trộm nghĩ rằng bậc thánh trí làm ra pháp luật, cũng như bốn mùa tạo thành năm, từ đời Đường đến đời Chu, chưa từng có một ngày mà hoàn thiện ngay được, vì vậy việc giảng giải và làm sáng tỏ, là việc của ngày hôm nay. Vừa được chiếu chỉ khảo thí các học sinh, nên thần mạo muội thảo luận, xem xét chính sự và học vấn của họ. Lời nói không rõ ràng, đáng bị bàn luận bởi quan lại, nhưng Bệ hạ ban ơn tha thứ cho thần, cho phép thần trình bày hết ý kiến, thần vâng mệnh mà run sợ, dám không hết lòng.

Triều đình có trăm chức vụ, trăm chức vụ có thuộc hạ, cũng như tâm điều khiển tay, tay điều khiển ngón tay. Vì tay dừng hay hoạt động, không phải do tự nó quyết định, mà là do tâm điều khiển; ngón tay co duỗi, không phải do tự nó quyết định, mà là do tay điều khiển. Tại sao vậy? Vì máu huyết liên kết với nhau và thông suốt. Nay thiết lập quan chức và phân chia chức vụ, có danh nghĩa là thuộc về nhau, nhưng không có trách nhiệm phải đảm nhận lẫn nhau, có thế lực kiểm soát nhau, nhưng không có phương pháp để kiểm tra lẫn nhau, đó là điều khiến thần nghi ngờ. Chỉ vì không kiểm tra, không đảm nhận, nên người ta có thể dựa dẫm lẫn nhau, khiến tiểu lại do dự không dám hành động, đại lại lưỡng lự không dám quyết đoán, việc đến mà không ai quyết định, thì tất sẽ có người chịu hậu quả. Nếu mỗi người đều đảm nhận trách nhiệm của mình, thì trưởng quan và thuộc hạ sẽ cùng lợi ích và lo lắng, như tay chân hỗ trợ nhau, việc không thành công sẽ ít đi.

Tuy nhiên, nếu kiểm tra không có thời điểm, thì sẽ mệt mỏi vì phải ứng phó mệnh lệnh, mà công việc không được cải thiện, giải pháp là kiểm tra theo tháng; nếu trách nhiệm quá nặng, thì sẽ phiền phức vì phải xử lý, mà người ta không thể đảm đương, giải pháp là giảm bớt theo thứ bậc. Như vậy, quan lại sẽ tự giác và uy nghiêm hình pháp sẽ được thiết lập.

Có người nói: ‘Nay Ngự sử đã kiểm tra công việc rồi.’ Thần nói không phải vậy. Việc trị lý của quan phủ, có người chính thức trị lý, có người bên cạnh trị lý, có người thống nhất trị lý. Các tỉnh, tào, tự, giám do trưởng quan trị lý thuộc hạ, là người chính thức trị lý, nên pháp luật của họ phải chi tiết; Ngự sử không phải là trưởng quan, mà lấy việc kiểm tra làm chức trách, là người bên cạnh trị lý, nên pháp luật của họ phải đơn giản; Đô tỉnh quản lý mọi việc, là người thống nhất trị lý, nên pháp luật của họ phải xem xét kết quả. Vậy thì trưởng quan kiểm tra hàng tháng, Ngự sử kiểm tra hàng quý, Đô tỉnh kiểm tra hàng năm, như vậy là hợp lý. Thần với suy nghĩ nhỏ bé, trộm nghĩ như vậy, nhưng cho rằng chưa đủ để thực hiện, nên đem ra hỏi các học sinh. Nhưng các học sinh đều chưa có luận điểm chính xác, những người đứng đầu phần lớn lấy kinh nghĩa làm chủ, còn những lời đối đáp, chỉ lấy văn từ mà thôi.”

(Bản Chu cho là không thi hành, nên bỏ đi. Bản mới lại giữ lại, nay theo bản mới.)

[68] Thái thường tự tâu: “Nhạc dùng ở Giao miếu có hai mươi khoáng, nếu gặp mưa tuyết thì phủ bằng màn, khi tế lễ e không kịp chuẩn bị. Từ nay, nếu tế lễ thì bày ở trên điện.” Giám sát ngự sử Vương Hoàn tâu: “Đồ tế tự như trâu dê và rượu đều do Quang lộc quản, nhưng quan trong tự chưa từng đến giám sát, làm mất sự kính trọng thần linh. Xin rằng các đại tế đều luân phiên do Quang lộc khanh, Thiếu khanh, các tế sóc và trung tế thì luân phiên do Thừa, Chủ bạ giám sát việc giết mổ, lễ xong thì ban thịt tế. Nếu có việc bận hoặc tiểu tế, thì cho Cung vi lệnh hoặc Thái chúc, Phụng lễ thay. Người phải dâng thịt tế thì Khanh, Thiếu một người hướng về cung khuyết lạy hai lần rồi dâng.” Đều theo lời tâu.

[69] Đô đề cử Biện hà đê ngạn ty tâu: “Cối xay nước ở sông Đinh Tự, gần đây vì nạo vét sông Thái mà đào ngăn cửa nước, làm trở ngại việc xay chè. Ty chúng tôi xét thấy sông Biện ngoài cửa Thông Tân cách sông Tự Minh chỉ một chút, sông Tự Minh chảy xuôi vào sông Hoài, không hại gì đến công tư, xin đặt một trăm cối xay nước, cho nước chảy vào sông Tự Minh.” Theo lời tâu.

(Sông Đinh Tự, ngày 16 tháng 6 năm Hi Ninh thứ 8 mới đặt cối xay cá, năm tháng đặt cối xay nước cần tra cứu ngày 12 tháng 8 năm thứ 6, ngày 6 tháng 2 và ngày 1 tháng 6 năm thứ 7.)

[70] Ngày Giáp Tuất, Xu mật viện tâu: “Hàng ngày chép thánh chỉ, các phòng cuối tháng tập hợp thành sách dâng lên. Tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 4, chiếu rằng thánh chỉ mà Xu mật viện nhận được, đều phải tâu lại ngay hôm ấy để thi hành, cuối tháng không cần dâng nữa. Các phòng vì thế mà trì trệ, không chép ngay, đã bắt phải chép gấp trong hạn. Xin từ nay thánh chỉ mà các phòng nhận được, đều phải gửi ngay đến ty tạp của viện để chép vào sổ, cuối tháng gửi đến phòng Thời chính.” Theo lời tâu.

[71] Thái thường bác sĩ Hà Tuân Trực tâu: “Theo nghi lễ thời Hi Ninh, vào tháng Trọng Xuân và Trọng Thu tế lễ Cửu cung quý thần, trong văn tế xưng là ‘Tự thiên tử thần mỗ’. Cửu cung quý thần có công phò tá Thượng đế, đức che chở dân chúng, xét về lễ nghi thì nên ngang hàng với Xã Tắc. Xin theo nghi lễ thời Hi Ninh, coi là đại tế, bản văn tế[17] nên theo lệ thời Hội Xương và 《Khai Bảo thông lễ》, ghi tên hoàng đế, không xưng thần. Lại nữa, Vũ sư và Tiên nông đều là trung tế, Mã tổ, Tiên mục, Mã xã, Mã bộ là tiểu tế, mỗi vị dùng một thiếu lao. Nay Cửu cung quý thần có chín vị, tế riêng ở các đàn khác nhau[18], tôn là đại tế, nhưng chỉ dùng chung hai thiếu lao, khiến cho phần thịt sống và chín không đủ, so với tiểu tế còn không bằng. Xin nên dùng chín thiếu lao, để hợp với tình lễ.” Được chấp thuận.

[72] Chiếu rằng: “Quan chủ binh ở Lan châu là Lý Hạo, Lưu Chấn Tôn, Vương An Dân để lại những binh sĩ bệnh tật không thể mang giáp ở nơi biên giới xa xôi khó kiếm lương thảo. Lý Hạo vì tội không rõ tình hình địch, đã bị giáng chức, nên xử nặng thêm; Chấn Tôn, An Dân mỗi người phạt 30 cân đồng.”

[73] Chiếu rằng: “Đô tuần kiểm ở Nghi châu là Tiết Ứng Chi đánh nhau với giặc man, thua chạy trốn, bị tước chức, cách chức.”

[74] Chiếu rằng: “Hàn lâm học sĩ Đặng Nhuận Phủ vi phạm pháp luật, chi dùng tiền bếp của viện[19], đã tự giác báo, Ngự sử đài không cần xét.”


  1. Mã Thân, chữ 'Thân' nguyên bản là 'Giáp', theo bản trong các kho lưu trữ và quyển 340, ngày Mậu Dần tháng 10 năm Nguyên Phong thứ nhất sửa lại.
  2. Tháng 11 ngày Bính Thân, chữ 'Nhất' nguyên là 'Nhị', căn cứ theo quyển 330 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 10 ngày Giáp Tý chú văn và quyển 331 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 11 ngày Bính Thân sửa lại.
  3. châu Vệ cũng nên di dời 'di' nguyên văn là 'tuyển', theo bản trong các bản sửa
  4. Từ Nguyên Vũ trở xuống đều lùi lại, chữ 'Nguyên' nguyên bản là 'Nguyên', theo bản trong các sách sửa lại.
  5. Theo hướng đã định, chữ 'Địa' nguyên bản là 'thành', theo bản trong các sách sửa lại.
  6. Nguyện mỗi loại tăng thêm hai đấu, chữ 'nhị' nguyên bản là 'tam', theo bản trong các kho và văn cảnh sửa lại.
  7. Ty Kinh lược, chữ 'lược' nguyên bản là 'chế', theo《Tống hội yếu》Thực hóa 43-3 sửa lại.
  8. Chữ 'Tuyên' nguyên bản viết là 'Nghi', theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 chức quan 66-22 sửa lại.
  9. 'không chuyên tâm làm việc', chữ 'vụ' nguyên là 'thắng', theo các bản khác sửa.
  10. 'kho chìa khóa' nguyên là 'kho đề', theo bản trong các kho sửa lại.
  11. 'Ty' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 2-25 bổ sung.
  12. Đại Lý tự gần đây xử án phụ nữ A Trần ở Thiệu Vũ quân, hai chữ 'A Trần' nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ, bản in hoạt tự và 《Tống hội yếu》 chức quan 66/22 sửa lại.
  13. chỉ có Hoành dâng lời bàn, chữ 'hiến' trong sách trên viết là 'nghiễn'.
  14. Căn cứ vào võ nghệ hiện nay giảm bậc để dạy tập, hai chữ 'giảm bậc' nguyên bản đảo ngược, theo bản các đính chính lại.
  15. Lý Lượng, trong 《Tống hội yếu》 thiên Thực hóa 4 chương 5 chép là 'Lý Tiết'.
  16. Đã cử Lạc Uyển sứ Khang Thức dời quân đến khởi công, chữ 'hưng' nguyên bản là 'dữ', theo bản các sửa lại.
  17. Bản văn tế 'bản' nguyên là 'vi', căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 103, 《Lễ chí》, 《Tống hội yếu》 lễ 19-5 sửa lại.
  18. Nay Cửu cung quý thần có chín vị, tế riêng ở các đàn khác nhau, chữ 'tế' nguyên bản thiếu, căn cứ vào sách trên bổ sung.
  19. Hàn lâm học sĩ Đặng Nhuận Phủ vi phạm pháp luật, chi dùng tiền bếp của viện, chữ 'dụng' nguyên là 'đồng', căn cứ vào các bản sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.