"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 334: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1038)

Từ tháng 3 đến tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông.

[1] Tháng 3, ngày Bính Tý (mùng một), chiếu phạt quan Chuyển vận phán lộ Hà Bắc là Lữ Đại Trung 30 cân đồng, vì sông Hoàng Hà vỡ đê mà không kịp thời cứu hộ.

[2] Chiếu thăng chức một bậc cho Quyền phát khiển Chuyển vận sứ lộ Thiểm Tây, Thông trực lang Lý Sát, và Quyền phát khiển Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Đông, Triều phụng lang Ngô Cư Hậu, vì có công trong việc quản lý muối. Ty Chuyển vận Kinh Đông tâu: “So sánh việc bán muối ở lộ này và các trường muối lộ Hà Bắc, từ khi thi hành pháp mới đến nay đã được một năm rưỡi, tổng cộng thu được 36 vạn quan tiền lãi.” Vì thế có lệnh này. (Ngày 25 tháng 6 năm thứ 3, ngày 10 tháng 3 năm thứ 6).

[3] Đặt Giám Bảo Phong ở Từ Châu, mỗi năm đúc 30 vạn quan tiền[1].

[4] Ngày Đinh Sửu (mồng 2), thăng chức một bậc cho Văn tư phó sứ Tào Di Tôn, Nội điện thừa chế Trương Khoan, và Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Dương Diễm, ban thưởng 100 lượng bạc và 100 tấm lụa, vì có công tu sửa trường hàng hóa Kinh Đông.

[5] Chiếu rằng: “Thành Định Tây đã khởi công, nhưng giặc Tây gần đây tụ tập ở Hi Hà, lo rằng quân phòng thủ chưa đủ đối phó, giao cho Lý Hiến bố trí trạm canh xa.”

[6] Xu mật phó đô thừa chỉ, Khách tỉnh phó sứ Trương Sơn Phủ tâu: “Thần thấy việc tập luyện bảo giáp, triều đình đã định ra ba bậc kỹ năng, chế độ khen thưởng rất hậu. Khi kiểm tra, có người bảo gia nhân hoặc người ở đô bảo khác mạo danh thay thi, không thể nhận ra, lại thêm chính trưởng dạy kỹ năng và người đạt bậc nhất từ chín phần trở lên, liền được bổ vào danh sách ban hàng, sự lừa dối che giấu này cũng cần phòng ngừa. Xin ban chỉ dụ, đặt ra pháp lệnh khen thưởng tố cáo, để ngăn chặn tệ nạn lâu dài.” Vua phê: “Từ nay khi kiểm tra, trước hết cử quan tuần giáo đóng dấu lên tay ghi nhớ bảo phân, đợi kiểm tra xong mới tháo bỏ.”

(Ghi chép việc ngày 2 tháng 3.)

[7] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu cho Ngự sử đài quan sát các cơ quan chậm trễ, đều phải xử theo pháp luật; các cơ quan thi hành sai trái, dù không có luật cũng cho phép đàn hặc tâu lên.

[8] Sư sãi nước Nhật Bản là Khoái Tông cùng 12 người vào chầu ở điện Diên Hòa, Vua nhìn tả hữu hỏi: “Áo tía vuông này ban từ khi nào?” Đô thừa chỉ Trương Thành Nhất đáp: “Năm Hi Ninh, sư nước ấy là Thành Tầm vào chầu được ban, nay lại vào cống.” Vua nói: “Không phải người nước ấy vào cống, vì họ đến lễ bái Thiên Thai nên mới vào chầu.” Đều ban áo tía vuông.

[9] Chiếu cho mượn 30 vạn quan tiền khoan thặng của ty Đề cử Hà Bắc, giao cho ty Chuyển vận mua trước lụa là.

[10] Chiếu cho các hộ bảo giáp đang tập luyện thuộc hạng ba trở xuống ở phủ Khai Phong[2], nợ từ năm trước trở về trước, tạm ngưng thu một năm. Theo lời xin của Đề cử giáo duyệt bảo giáp Lưu Quản.

[11] Chiếu cho trưởng nhị Bí thư tỉnh không được tham gia việc biên soạn nhật lịch của Trứ tác, khi dâng sách tấu trạng thì ghi tên. Việc phòng ngừa tiết lộ, vẫn theo pháp cũ của Biên tu viện.

[12] Chiếu cho ty Kinh lược Thiểm Tây, Hà Đông, từ nay các thành trại biên giới có người Tây Hạ đến đầu hàng hoặc quy thuận, căn cứ số người đến ngay ngày đó cấp lương thực.

[13] Tri An Túc quân Phan Hiếu Xước tâu: “Triều đình trước đây dùng lời bàn của Khai Phong phủ phán quan Đỗ Thường, các lộ lén lút thông đồng với binh lính, tức là ở châu quân đó xăm mình bổ sung vào quân Sương. Thần trộm nghĩ, cấm quân đào ngũ, bị bắt được lén thông đồng, có thể may mắn tránh khỏi lưu đày; còn quân Sương phạm tội đào ngũ, lén thông đồng, cuối cùng không bị phát giác, tránh nơi nặng nhọc thì chạy đến nơi nhẹ nhàng, tránh nơi xa xôi nguy hiểm thì tự thông đồng đến nơi gần, mượn tiền lương vì thế mà thất thoát, tráng thành và thợ thủ công dần dần thiếu người. Xin giao xuống cho hữu ty, lấy lời bàn của Đỗ Thường cùng với thần bàn bạc chi tiết để định ra pháp luật.” Chiếu giao xuống Công bộ.

[14] Ngày Tân Tỵ, Thái học chính Mã Hi Mạnh được làm Thái học bác sĩ, vì Vua phê rằng: “Từ khi Cảnh Linh tân cung xây xong, quần thần dâng văn tụng ca có đến mười người, chỉ có văn của Hi Mạnh là đáng xem.”

[15] Lễ bộ tấu: “Hữu ty nhiếp sự tế Hạo Thiên, xin rằng khi dâng lễ lần đầu thì múa điệu Đế Lâm Gia Chí, lần thứ hai và cuối cùng thì múa điệu Thần Ai Tích Tiện; ở Thái Miếu, lần đầu dâng lễ thì múa điệu Hiếu Hi Chiêu Đức, lần thứ hai và cuối cùng thì múa điệu Lễ Hiệp Trữ Tường.” Vua nghe theo.

[16] Hình bộ tâu: “Xưa, các quan hình án chia công án, xét xong, chủ quản bàn luận, sửa chữa, ghi ngày, rồi mới đưa qua quan tường nghị phúc nghị, nếu có sai sót chất vấn[3], đều ghi ở cuối văn bản, gửi lại cho quan xét án ghi chú sửa chữa, lên chủ phán quan thẩm định, rồi mới kết án tâu lên. Từ khi hai ty hợp nhất về Đại Lý, quan xét án là Bình sự, Tư trực, quan nghị án là Thừa, các án xét không qua trưởng nhị. Gần đây, các án xét thường có nhiều sai sót, xin chia Bình sự, Tư trực và Chính làm Ty xét án, Thừa và trưởng nhị làm Ty nghị án. Phàm xét công án, trước hết đưa lên Chính xem xét đúng sai, bàn luận, sửa chữa, đóng dấu, ghi ngày, rồi mới đưa qua Ty nghị án phúc nghị. Nếu có chất vấn, ghi chú sửa chữa, trưởng nhị lại thẩm định thêm, rồi mới kết án tâu lên.” Vua nghe theo.

[17] Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Nghe nói Thượng thư Hộ bộ An Đạo gần đây vì việc trì trệ vận chuyển lương thực, trốn tránh tội lỗi của mình, báo cáo lên trên không đúng sự thật, theo pháp luật phải cách chức không được tham gia triều chính, nhưng Bệ hạ ban ơn đặc biệt, cho phép miễn cách chức. Gần đây nghe nói vụ án đã xong, các cơ quan hữu trách theo quy định báo cáo rằng Đạo không nên tiếp tục công việc, lúc này Đạo đáng lẽ phải đóng cửa im lặng, chờ lệnh trách phạt, nhưng lại không kiêng dè pháp luật, truyền gọi vào sảnh, Đạo có thể nói là phạm nghĩa mà không biết xấu hổ[4]. Bệ hạ bỏ qua pháp luật để sủng ái cận thần là được, nhưng thiên hạ sẽ noi theo Đạo như thế nào?” Chiếu chỉ gửi cho Đạo.

[18] Chiếu rằng: “Nơi sứ thần phương Bắc đi qua, các tri châu từng mượn chức Triều nghị đại phu vẫn giữ nguyên, từ nay không được mượn chức quan nữa, cho phép tạm mặc áo kim tử, không được đeo đai vàng. Các quan áp tứ ngự diên vẫn được mượn chức lẫn nhau, trước đã mượn chức Triều nghị đại phu thì nay mượn chức Trung tán đại phu, đều được đeo đai vàng, không đeo thẻ bài.”

[19] Ngày Nhâm Ngọ, Phó sứ Chuyển vận Kinh Đông Ngô Cư Hậu tâu: “Từ khi lập ty thuế muối gần hai mươi năm nay, ( “Lập ty thuế muối gần hai mươi năm nay“, theo Ngự tập đã thêm vào, cần xem xét.) thương nhân nợ tiền thuế chính là bảy vạn sáu nghìn quan và tiền thuế gấp đôi là mười lăm vạn hai nghìn quan, đều là do Chu Cách khi làm Đề cử đã không thu hồi kịp thời. Xin theo lệ của ty Thị dịch, miễn trừ tiền phạt gấp đôi, dưới một trăm quan thì hạn trong ba năm[5], trên một trăm quan thì hạn trong năm năm, chỉ thu thuế chính.” Vua phê: “Nên theo lời tâu, ban chỉ huy trực tiếp của triều đình.”

[20] Quý Mùi[6], chiếu rằng: “Tú Châu Đoàn luyện sứ, Phụ mã đô uý Tiền Cảnh Trân phải xét duyệt theo quy định[7], có thể theo lệ gần đây của Vương Sư Ước, giao cho các cơ quan xem xét thi hành. Từ nay, Phụ mã đô uý sau bảy năm, lệnh cho Thượng thư Lại bộ xét duyệt, không cần xin chỉ dụ.”

[21] Ất Dậu, chiếu rằng: “Kinh Đông thi hành phép muối, đã thấy thành công. Chuyển vận phó sứ Ngô Cư Hậu tuy không phải là người đầu tiên đề xuất, nhưng từ khi được giao phó, đã hết lòng cùng làm việc, đến nay đã thành công; kiêm thêm các việc khác, cũng tỏ ra hết sức, tài chính của một lộ tự túc dồi dào, chưa từng làm phiền triều đình. Gần đây đã được thăng chức, nên ban thêm áo tía.”

[22] Bính Tuất, Vua phê: “Chủng Ngạc bệnh nặng, lập tức lệnh cho Phạm Thuần Túy đến Diên Châu, tạm quản lý công việc Kinh lược An phủ ty. Nếu Thuần Túy gần đây tâu bị bệnh chưa khỏi, thì tạm lệnh cho Lý Sát đi ngựa đến ngay.”

[23] Đinh Hợi, Giang, Hoài đẳng lộ Phát vận ty tâu: “Giang, Hoài, Kinh, Chiết sáu lộ[8] Chuyển vận ty còn chưa phát số lương năm nay là bốn trăm mười vạn thạch, tiền bạc, vật dụng tương đương.” Chiếu cho sáu lộ Chuyển vận ty phải hoàn thành số lương năm, nếu trước cuối năm còn thiếu sót, giao cho Tưởng Chi Kỳ chọn quan ở lộ khác xét tội tâu lên.

[24] Ngày Kỷ Sửu, có chiếu chỉ: “Giặc ở huyện Phong Khâu đốt phá kho vũ khí, giết hại người, quân lính phòng hộ xe chở vũ khí thuộc đội Hổ Dực là Vương Hà, Lưu Thuận, Hầu Vương[9] đã giết được một tên giặc hung ác và bảo vệ vũ khí quân dụng đúng phép. Vương Hà và những người khác đều được thăng hai bậc[10], đều được thưởng trăm nghìn tiền.” Sau đó lại có chiếu chỉ: “Bọn giặc cướp ở huyện Phong Khâu trước đây bị bắt được đồng bọn, giam trong ngục đã lâu, có kẻ chết đói mà chưa thi hành hình phạt. Hạn trong mười ngày phải kết án, người bắt giặc trong ba ngày phải định thưởng.” Lại có chiếu chỉ: “Khai Phong phủ xét án bọn giặc cướp ở huyện Phong Khâu là Trương Tái Dữ[11] và những người khác đã được chỉ huy xử trảm, treo đầu ở Phong Khâu để răn đe bọn gian ác, làm thỏa lòng người lương thiện và những gia đình bị hại.” Lại có chiếu: “Bọn giặc ở Phong Khâu, trong dân gian vốn thường có, nhưng lần này lại vào huyện thành cướp bóc, tình hình rất nghiêm trọng, nên phải truy bắt nghiêm ngặt như vậy. Nay Lý Nghi Chi không hiểu việc, vội vàng gửi công văn đi mấy nghìn dặm, dán bảng bắt giặc, tuy trong lòng muốn bắt được bọn gian không để chúng trốn thoát, nhưng cách làm không đúng, khiến xa gần đều kinh động, truyền ra ngoài cõi không tiện. Nên răn dừng lại.”

(Lý Nghi Chi giữ chức gì cần tra cứu. 《Ngự tập》 ngày 8 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 6, Hoàng môn nội thị Hàn Sân tâu: “Thần quản lý việc áp tải vũ khí của đội Bảo Giáp huyện Tộ Thành ở dưới huyện, có ba mươi bốn tên giặc vào huyện nha cướp bóc, thần đóng cửa dịch trạm, bọn giặc phóng hỏa đốt kho giáp trượng, vào dịch trạm giết ba người gồm quân viên dưới quyền Tuần kiểm và lính trường hành, ba lính phòng hộ.” Ngự phê: “Xét huyện Phong Khâu cách kinh thành chỉ một bước, vì sao Ty đề cử tặc đạo không kịp thời tuần tra, để bọn hung đồ này tập hợp đảng ngũ, ngang nhiên không chút sợ hãi, ban ngày thẳng vào huyện nha, đốt phá kho giáp trượng, và giết hại quân viên phòng hộ vũ khí áp tải? Hãy sai Lý Thuấn Thông trong hạn chỉ huy đến, khẩn cấp thân hành đi đuổi bắt giết, và lần lượt tâu số người bắt được, còn Tuần kiểm thì trước hết cách chức, lại lệnh cho Dương Cảnh Lược nhanh chóng đi giám sát thúc đẩy việc bắt giết.” Không biết có phải là việc ngày 14 Kỷ Sửu không. Hàn Sân tâu nói “Tộ Thành”, ngự phê lại nói “Phong Khâu”, cần tra cứu. Lý Thuấn Thông lúc đó làm chức Đề cử phủ giới tặc đạo. Ngày 2 tháng 4 có nói thêm.)

[25] Ngày Tân Mão, ban chiếu: “Từ nay, các kế hoạch tạo lập nguồn thu, mỗi năm thu được một vạn quan thì thăng một bậc, cho phép quan lại cùng hưởng. Ghi thành lệnh.”

[26] Chiếu rằng: Việc biên giới Quảng Tây nếu Kinh lược ty xử trí không đúng hoặc còn thiếu sót, cho phép Chuyển vận ty và Đề điểm hình ngục ty trình bày sự việc lên tâu báo.

[27] Kinh lược an phủ chế trí ty Hi Hà Lan Hội tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, tu sửa Củng Ca Quan. Khi mới khai phục, quy hoạch còn sơ sài, nền thành chỉ dựa vào địa thế hiểm trở, đất nhiều cát, tường thành không vững. Đã sai Miêu Lý chọn địa hình khác, mở rộng phòng thủ thành.”

[28] Chiếu rằng: “Thành Lan Châu giải vây, các tướng sĩ phòng thủ: Lý Hạo, giáng chức Tứ phương quán sứ, Thứ sử Giai Châu, Phó tổng quản Hi Hà Lan Hội lộ, có công dẫn quân bảo vệ thành, khôi phục chức Lũng Châu đoàn luyện sứ; Vương Văn Uất, Tây thượng các môn sứ ưu đẳng, chiêu mộ quân lính leo thành giao chiến và trực đêm trên thành, thăng Đông thượng các môn sứ, ban cho một con làm quan; mười hai người hạng nhất do Vương Văn Uất chiêu mộ, giao chiến hiệu quả, mười bốn người phòng thủ thành hiệu quả, mỗi người thăng một bậc; mười chín người hạng nhì phòng thủ thành, hai người dẫn quân Thổ phòng thủ ải Mã Gia Cốc, chiến đấu dũng cảm đẩy lui giặc, giảm ba năm khảo khóa. Một trăm chín mươi ba tướng sĩ Thổ, hạng nhất thăng một bậc, ai muốn được ban lụa thì hai mươi tấm; hạng nhì mười lăm tấm, hạng ba mười tấm. Bốn trăm sáu mươi quân cung thủ, ba mươi sáu người dũng cảm, theo công trạng thăng bậc, ban lụa như tướng sĩ Thổ. Những người chém được giặc hoặc bị thương nặng, theo quy định riêng.” Lúc đó, giặc vây thành Lan Châu sáu ngày, Lý Hạo dâng công trạng chiến đấu và phòng thủ.

(Cựu kỷ chép: “Tháng ba ngày Tân Mão, người Hạ xâm phạm Lan Châu, Phó tổng quản Lý Hạo đánh bại chúng.” Tân kỷ cũng chép: “Tháng ba ngày Tân Mão, người Hạ xâm phạm Lan Châu.” Xét: Tháng ba ngày Tân Mão là thưởng công giải vây, không phải lúc bắt đầu xâm phạm.)

[29] Ngày Nhâm Thìn, lấy Đề cử Hà Bắc lộ Bảo giáp, Tứ phương quán sứ, Vinh châu Thứ sử Địch Tư làm Gia châu Đoàn luyện sứ; Triều tán lang, Tập hiền hiệu lí Lưu Định làm Triều thỉnh lang; Giám giáo sứ thần Tam ban sai sứ Mạnh Bân cùng những người khác dạy võ nghệ đạt chín phần, mỗi người được thăng một chức; Bảo giáp ty Câu đương công sự, Tả tàng khố Phó sứ Lý Nguyên Tế, Nội điện Thừa chế Địch Chương, Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Tôn Văn, mỗi người được giảm thời gian khảo hạch ba năm; Chỉ sử, Hữu ban Điện trực Trương Ngạn Tôn cùng những người khác, mỗi người được giảm hai năm. Đây là việc xét duyệt công trạng tập luyện lần thứ hai của ty Tập giáo Bảo giáp Hà Bắc lộ dâng lên[12].

(Ngày 11 tháng 2.)

[30] Nhập nội Cung phụng Mạch Văn Bính tâu: “Nghi châu trước đây có Trú bạc Sương, Cấm quân hơn ba mươi chỉ huy cùng Trung Cảm năm chỉ huy, không dưới một vạn người. Khi giặc Man xâm phạm biên giới, Trung Cảm xung phong, người Man An Hóa rất sợ uy phong của họ. Sau đó đổi và sáp nhập Trung Cảm toàn bộ thành Trừng Hải, người châu động coi thường, nên năm ngoái xâm phạm biên giới. Xin hạ lệnh cho Quảng Nam Tây lộ Kinh lược ty chuyên giao cho Trưởng lại Nghi châu, theo lệ cũ chiêu mộ Trung Cảm năm chỉ huy thành hai nghìn năm trăm người, và tăng thêm Phó tướng để huấn luyện.” Chiếu cho Quảng Nam Tây lộ Kinh lược ty xem xét.

[31] Môn hạ tỉnh tâu: “Phúc tấu, Trung thư tỉnh lục hoàng hạ Kinh Tây lộ Đề điểm hình ngục, giám bắt giặc huyện Phong Khâu, đã dùng nhầm ấn ngự bảo.” Chiếu rằng: “Người cung nhân dùng nhầm ấn đã bị trách phạt.”

[32] Hà Bắc lộ Duyên biên An phủ ty được phép mỗi năm tiến cử Đại sứ thần và Thừa vụ lang trở lên, An phủ sứ bảy người, Phó sứ, Đô giám năm người.

[33] Đề cử Khai Phong phủ giới bảo giáp Lưu Quản tâu: “Các huyện bảo giáp mỗi khi khởi động phu dịch, không tính đến gia sản giàu nghèo, chỉ căn cứ vào số đinh để phân chia đều, nên hộ dân thấp thường gặp khó khăn trong việc phục dịch. Kính mong lệnh cho các cơ quan lập pháp, các huyện điều động phu dịch không tính số đinh nhiều ít, mà căn cứ vào hộ cao thấp, không chỉ chính sách phục dịch của quốc gia được cân bằng, mà bảo giáp do thần huấn luyện cũng được an cư học tập.” Chiếu cho Khai Phong phủ giới các lộ Giám ty cùng Đề cử ty cùng bàn bạc.

[34] Ngự sử Trương Nhữ Hiền tâu: “Văn bản đàn hặc nên giữ đại thể, các cơ quan xét tội muốn xem xét chi tiết. Xin từ nay các án sát trát tử chỉ ghi rõ nguyên nhân chính yếu; còn lời đàn hặc khi tiến trình, ghi riêng các tình tiết và điều khoản ở sau, để chuẩn bị cho thánh thượng hỏi.” Theo lời tâu.

[35] Chiếu rằng: Tiền dẫn của Giải Diêm ty, nếu không có chỉ dụ triều đình mà tự ý chi mượn, sẽ xử theo pháp luật về việc tự ý sử dụng tiền phong trang. Theo lời thỉnh của Chế trí ty.

[36] Chiếu: “Các điều khoản của Lục tào, đổi sai quan của Môn hạ, Trung thư hậu tỉnh xem xét định lại.”

(Tháng tư Quý Hợi hợp vào.)

[37] Bộ châu tâu: “Bảo giáp huyện Bột Hải là Lưu Tư Lũy bày mưu kế, bắt được trộm cướp, mong được bổ một chức ban hàng.” Trên phê: “Đặc bổ chức Hạ ban Điện thị.”

[38] Ngày Ất Mùi, ngày nghỉ tuần, đặc biệt ngự ở điện Diên Hòa, dẫn Đồng đề điểm Thành Đô lộ trà trường Lục Sư Mẫn, Phụng nghị lang Từ Phát cùng tám viên khác vào chầu, Sư Mẫn được ban áo chầu màu đỏ.

(Hai kỷ đều chép.)

[39] Ngày Bính Thân, Hoàng thành sứ, Gia Châu đoàn luyện sứ Lưu Vĩnh Thọ làm Thanh Châu kiềm hạt, vì trên phê rằng: “Vĩnh Thọ là hậu duệ của Chương Hiến Hoàng thái hậu, có thể đặc sai.”

[40] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: Tả tàng khố sứ Tiết Nghĩa ra khỏi biên giới đánh bại giặc ở phía tây núi Gia Lô. Chiếu thăng làm Hoàng thành sứ. Ất Khuất tiên phong dẫn đường, thăng hai bậc, ban năm mươi tấm lụa. Các quân bị tước ấn, xử theo mức thương nhẹ. Môn hạ hịch phúc: “Bộ hạ của Nghĩa gồm ba nghìn ba trăm lẻ bốn người, trừ số tử trận và người già trẻ nhỏ, tổng cộng bắt được sáu mươi chín thủ cấp.” Chiếu cho Nghĩa chỉ giảm thời gian khảo xét ba năm.

[41] Ngày Đinh Dậu, Vua phê: “Chức Thái học bác sĩ khuyết, tiến cử Lưu Khái, Hoàng Thường làm Thái học bác sĩ.”

(Theo《Ngự tập》. Ngày 22 tháng 2, Thần Tông cải cách chế độ quan chức, các chức khuyết phần lớn thuộc về Lại bộ, cho rằng không thể thêm bớt dù chỉ một chút. Tăng Hiếu Khoan, với tư cách Thượng thư Lại bộ, đối đáp, bị quở trách nghiêm khắc. Hiếu Khoan nói: “Vừa có một việc muốn tâu bẩm. Gần đây có chức Thái học bác sĩ khuyết, một người thần cho là có thể tiến cử, nhưng không có ân lệ; một người thần cho là không thể, vì có ân lệ nên được. Lúc mới thi hành pháp chế, không dám xin chỉ thị, nên muốn tâu trực tiếp.” Người có thể tiến cử là Trạng nguyên Diệp Tổ Hợp, nhưng không có ân lệ, không thể chiếm giữ; người không thể là Đổng Hi, người được thăng chức nhờ bắt giặc, có ân lệ nên đứng trên Tổ Hợp. Thần Tông im lặng, ngay hôm đó phê giao cho Trung thư, Thái học bác sĩ đều do triều đình tuyển chọn.

Theo《Nam du ký cựu》của họ Tăng, cần tra cứu kỹ, nay ghi chép thêm. Ngày 18 tháng 8[13], Hiếu Khoan được triệu từ Vận Châu về làm Thượng thư Lại bộ, lúc này chưa nhậm chức. Lại ngày 22 tháng 8, Tổ Hợp đang giữ chức Quốc tử giám thừa bị phạt đồng, sách cũ chắc chắn sai, hoặc nhầm Hoàng Thường là Tổ Hợp. Hàn Tự nói: Quan chế hoàn thành, Thần Tông cho là đã hoàn hảo. Ban đầu, chức quan Thái học, Tự giám thừa, bạ đều cho Lại bộ bổ nhiệm. Tăng Hiếu Khoan làm Thượng thư, Vua nói chuyện về quan chế, Hiếu Khoan nói: “Vốn là tốt, nhưng thần đến chưa lâu, thấy chức Thái học bác sĩ khuyết, hai người tranh giành. Một là Đổng Hi, nhờ bắt giặc được thăng chức; một là Diệp Tổ Hợp, đỗ Tiến sĩ đệ nhất làm quan kinh. Hai người đang tranh chức này, theo quy định Lại bộ, nên thuộc về Đổng Hi, đây không phải việc cơ quan dám quyết định.” Thần Tông hôm sau phê: “Tự giám thừa, bạ, Thái học quan, đều do triều đình bổ nhiệm.”)

[42] Ngày Mậu Tuất, Tuyên huy Nam viện sứ, Phán Đại Danh phủ Vương Củng Thần được bổ nhiệm làm Vũ An quân Tiết độ sứ[14], Phán Đại Danh phủ. Quan chế không đặt chức Tuyên huy sứ, Củng Thần nhân tái nhiệm nên đổi mệnh.

(Cựu kỷ chép Củng Thần từ Nam Tuyên huy đổi làm Vũ An Tiết độ. Tân kỷ không chép.)

[43] Nội viên sứ, Quản câu Lân Phủ lộ quân mã Quách Trung Thiệu xuất giới ngoại đánh giặc ở Khiết Li Ất, chỉ huy 2.767 người, bắt được 729 thủ cấp, thu nhận 217 hộ và 131 người đầu hàng; Tẩu mã thừa thụ, Nhập nội điện đầu Giả Tông Nguyên thân giám tướng binh, gắng sức giành toàn thắng; Hoàng thành sứ Chiết Khắc Hành chỉ huy 1.421 người, bắt được 459 thủ cấp, chiêu hàng 16 hộ và 66 người; Hà Đông đệ lục phó tướng, Sùng nghi sứ Trương Vĩnh Xương chỉ huy 1.346 người, bắt được 270 thủ cấp, chiêu hàng 11 hộ và 65 người. Chiếu cho Chiết Khắc Hành lĩnh chức Vinh châu Đoàn luyện sứ, Quách Trung Thiệu làm Hoàng thành sứ, Trương Vĩnh Xương làm Lục trạch sứ, Giả Tông Nguyên thăng một bậc.

(Cả hai kỷ đều chép: “Ngày Mậu Tuất, Quách Trung Thiệu đánh bại quân Hạ ở Khiết Li Ất.” Cựu kỷ vẫn chép “Quản câu Lân Phủ lộ quân mã”, Tân kỷ đổi thành “Lân Phủ tướng”.)

[44] Ty Đề điểm phủ Khai Phong tâu: “Huyện uý Dương Vũ, Quyền tri huyện Trương Dịch trước đây khi nước sông Hoàng Hà dâng tràn vào huyện, tổng cộng có bảy chỗ vỡ đê, Dịch thân làm gương, chịu khó nhọc, dẫn dắt mọi người hết lòng cứu hộ huyện thành, công tư đều được yên ổn. Xin không theo chế độ thường, cho quyền tri huyện này.” Lại bộ tâu: “Trương Dịch đã được tiến cử làm huyện lệnh, đang chờ bổ nhiệm, theo pháp lệnh của phủ Khai Phong, tri huyện không được phép mượn chức.” Chiếu cho Trương Dịch đặc cách đổi làm quan hợp lệ, tri huyện Dương Vũ.

[45] Ngày Kỷ Hợi, Thiểm Tây chuyển vận phán quan, Thông trực lang Triệu Tế được bổ nhiệm làm Trực Long đồ các, tri châu Hi.

[46] Lại bộ tâu: “Đoan Minh điện học sĩ Tăng Hiếu Khoan chín năm chưa được khảo xét, nếu tính cả thời gian trước, nên thăng ba bậc, nhưng bản ty chưa có tiền lệ này.” Chiếu cho phép tính cả thời gian trước để khảo xét.

[47] Phục chức Long Đồ các trực học sĩ Lưu Tường làm Triều thỉnh đại phu. Tường trước đây vì tiến cử quan lại không đúng bị truy cứu, hết hạn nên được phục chức.

[48] Chiếu cho người bị tước danh hiệu trước đây là Quyền Tử Châu lộ chuyển vận phó sứ, Triều phụng lang Đổng Việt được phục chức Tuyên nghĩa lang, Quyền quản câu Kinh Hồ, Quảng Nam, Giang Nam Tây lộ đề điểm khanh dã chú tiền sự. Việt vì liên quan đến tội của Hàn Tồn Bảo nên bị tước tịch, đến nay dâng thư nói: “Quân Lộ Nam xuất chinh không thành công, thần liều lĩnh nhận mệnh, lo việc chuyển vận lương thảo, nhưng không được tham gia quân sự. Quân số hành dinh khoảng năm vạn, vào đất giặc hơn sáu mươi ngày, mà mưa dầm chiếm gần một nửa. Việc lương thảo do thần phụ trách chưa từng thiếu một ngày. Việc chần chừ sợ hãi, trách nhiệm thuộc về chủ tướng và những người tham gia quân sự, còn thần không thể tự thoát khỏi tội lỗi. Đã được ân xá, nếu không được đặc biệt thương xót, thì ai sẽ nói giúp thần?” Vì thế có lệnh này.

[49] Kinh lược ty Hà Đông lộ tâu: Tả tàng khố phó sứ Cao Vĩnh Dực ra khỏi biên giới gặp giặc ở Chân Khanh Lưu, chỉ huy năm mươi hai người, dẫn đầu phá giặc[15], chém ba mươi thủ cấp, tự tay bắt được một tên giặc. Chiếu thăng Cao Vĩnh Dực làm Tả tàng khố sứ.

[50] Tri huyện Phong Khâu, Phụng nghị lang Lý Sĩ Tiếp được thăng làm Thừa nghị lang, giảm hai năm khảo xét, vì chiêu mộ quân đạt chuẩn.

[51] Trách thụ Ôn Châu đoàn luyện phó sứ[16] Trầm Khởi xin được xét lại, chiếu rằng tội của Khởi nặng, vĩnh viễn không được dùng.

[52] Ngày Canh Tý, chiếu thêm tôn hiệu của Nhân Tông, Anh Tông lên đến mười sáu chữ, chọn ngày trước đại lễ để thi hành.

[53] Sách Tường định lễ văn nói: “Sách Nghi lễ viết: Vợ chồng là một thể, nên trong lễ cưới cùng ăn chung một mâm, cùng uống chung một chén, khi chết thì cùng chung một huyệt, khi tế thì cùng chung một bàn thờ. Đó là vợ chồng một thể, chưa từng có việc thờ riêng ở các miếu khác nhau. Chỉ có người Chu lấy Khương Nguyên làm thần Mẫu, mà Đế Khốc không có miếu thờ, lại không thể đưa vào miếu thờ của con cháu, nên mới lập miếu riêng để thờ, vì thế sách Lỗ tụng gọi là ‘Bí cung’, sách Chu lễ gọi là ‘Tiên tỉ’. Từ đời Hán trở đi, những người không được hợp táng, không được phối thờ, đều viện dẫn Khương Nguyên để so sánh, hoặc vì họ xuất thân thấp kém, hoặc vì họ là vợ kế. Trong số đó, có những người từ thân phận thấp kém mà lên ngôi thiên tử, nhưng hoàng hậu của họ không được chính vị ở trung cung; hoặc đã từng chính vị rồi, nhưng gặp bất hạnh nên phải lập vợ kế để phụng thờ tông miếu. Vì thế, lễ có câu ‘Nếu có ba bà tổ cô thì hợp táng với người thân nhất’, nên lễ lập vợ kế đã có từ lâu. Người ban đầu thấp kém sau hiển hách, đều là chính thất; người trước cưới sau kế thừa, đều là chính thất. Đời sau lại đem những người ban đầu thấp kém, sau kế thừa đặt ở miếu riêng, không được thực hiện ý nghĩa cùng bàn thờ, như vậy là trái với ý nghĩa của lễ. Vợ chồng là đại nghĩa của trời đất, nên thánh vương coi trọng chính thất, để coi trọng tông miếu, không phải vì ban đầu thấp kém sau hiển hách, trước cưới sau kế thừa mà có sự khác biệt.

Kính nghĩ rằng Thái Tổ Hiếu Huệ Hoàng hậu, Thái Tông Thục Đức Hoàng hậu, Chân Tông Chương Hoài Hoàng hậu đều là nguyên phối, còn Hiếu Chương Hoàng hậu là kế hậu của Thái Tổ. Lúc đó, có người bàn luận cho rằng vì bà chưa từng chính vị trung cung nên không cho phối thờ; hoặc vì bà là vợ kế nên không cho phối thờ. Nếu cho rằng chưa từng chính vị trung cung, thì Ý Đức Hoàng hậu đã phối thờ với Thái Tông rồi; nếu cho rằng là vợ kế, thì Hiếu Minh Hoàng hậu đã phối thờ với Thái Tổ rồi. Thế mà các quan cứ theo lệ cũ mà không xét đến sai lầm, đều thờ ở miếu riêng, như vậy là không hợp lễ. Kính xin đưa lên thờ ở Thái miếu, để được phối hưởng theo thời.”

Chiếu theo lời tâu. Trước ngày đại lễ, chọn ngày tốt để cử hành lễ.

(Sách Tường định lễ văn hoàn thành vào ngày 15 tháng 4 năm thứ 5, lời tâu này có lẽ được dâng lên trước tháng 4 năm thứ 5, đến nay mới thi hành, các việc khác đều theo đó. Ngày 12 tháng 7[17], hợp táng vào Thái miếu.)

[54] Học sĩ viện tâu: “Theo lệ cũ của viện, các Thân vương, Sứ tướng, Công chúa, Phi và Tiết độ sứ khi được bổ nhiệm hoặc ban ân đều được cấp tiền nhuận bút. Từ khi thi hành chế độ quan chức mới, đã tăng lương bổng, xin bãi bỏ tiền nhuận bút.” Trung thư tỉnh cũng tâu: “Các văn thần Đãi chế, vũ thần Hoành hành phó sứ và Dao quận Thứ sử trở lên khi được bổ nhiệm, trước đây cũng được cấp tiền nhuận bút cho Xá nhân, xin theo lệ của Học sĩ viện mà bãi bỏ.” Đều được chấp thuận.

[55] Chiếu rằng: “Những người thuộc bảo giáp ở phủ Khai Phong và năm lộ tự ý đầu quân, sẽ bị đánh tám mươi trượng, rồi trở về làm bản sắc. Lập pháp cáo thưởng. Những người dư đinh đầu quân mà phải làm bảo giáp cũng theo lệ này. Những dư đinh thuộc bảo giáp năm lộ nguyện làm cung tiễn thủ thì không tính vào việc phá đinh.” Theo điều lệ cũ thời Hi Ninh chỉ đánh sáu mươi trượng, nay tăng lên tám mươi, và lập pháp cáo thưởng. Đề cử bảo giáp tâu rằng có nhiều người đầu quân, nên xin răn đe nghiêm khắc.

[56] Chiếu bãi bỏ lệnh của Ngân đài ty về việc yêu cầu báo cáo. Theo lệ cũ, Ngân đài ty đối với các tấu trạng đã thi hành ở các nơi, có quy định được yêu cầu xem xét lại, nếu có điều không đúng, được phép cử tội. Lúc này chế độ quan chức mới thi hành, việc phong bác đều thuộc về Môn hạ tỉnh, nên bãi bỏ.

[57] Ngày Tân Sửu, Vua phê rằng: “Sớm nay xét tấu về pháp lệnh thống nhất việc phối ngũ quân, trong đó có câu ‘chích sung mỗ chỉ huy phối quân’, e rằng có sự hiềm nghi trong cách xưng hô với thượng quân, nên dụ cho quan tu pháp sửa lại thành ‘mỗ chỉ huy tạp dịch’.” Lúc đó, những người phạm tội theo luật phải bị phối lưu, nếu tội nhẹ thì được miễn phối lưu, đều sung vào doanh cấm quân làm tạp dịch. Tuy nhiên, cấm quân vốn sợ pháp lệnh phối lưu, thường xấu hổ khi nhắc đến nên mới có lệnh này. Vua rất tinh tế trong việc hiểu lòng người, không gì là không thấu đáo. Pháp lệnh thống nhất việc phối ngũ quân là do Trương Thành Nhất và những người khác sửa đổi. Những người phạm tội trộm cắp trở xuống đều bị phối về bản châu làm tạp dịch quân, để giảm bớt việc phải hộ tống bằng cấm quân. Nếu người đó phạm tội với tướng hiệu mà mình thuộc quyền, thì xử theo luật chủ nô phạm tội với nhau; nếu phạm tội với quân lính trong doanh, thì gia giảm hai bậc so với người thường.

(Điều này được thêm vào dựa theo 《Thần Tông sử》 và 《Hình pháp chí》. Bản chí chỉ nói “về sau”, không ghi rõ năm tháng, nay chép thêm vào đây. Lúc đó Trương Thành Nhất giữ chức Xu mật đô thừa chỉ, Khách tỉnh sứ, Tú châu Phòng ngự sứ. Ngày 21 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 3, bắt đầu bàn việc sửa đổi pháp lệnh phối lưu cũ; ngày 4 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 8, lại theo pháp lệnh phối lưu cũ. 《Tăng Bố nhật lục》 chép: Ngày 9 tháng 3 năm Thiệu Thánh thứ 2, tâu lại việc trong 《Nguyên Phong biên sắc》 muốn dùng dịch vụ thay cho phối lưu, và Thừa chỉ ty đặt ra pháp lệnh tống quý để giảm bớt nỗi khổ của phối lưu và việc hộ tống. Tiên đế đều cho là khó thi hành, bèn quyết định những người phạm tội phải phối lưu trên 3000 dặm đều sung vào các doanh làm tạp dịch quân, nếu phạm tội thì xử theo pháp lệnh thượng cấm quân; những người phải phối lưu từ 1000 dặm trở lên, đều phối về lao thành hoặc bản thành tại địa phương đó. Đầu năm Nguyên Hựu, cho là không tiện, nên khôi phục lại tất cả như cũ. Gần đây, các lộ nhiều lần tâu rằng cấm quân phải hộ tống vất vả, nên bỏ trốn và phạm tội rất nhiều, xin lập pháp lệnh. Vua xem qua, chưa kịp trình bày, đã nói: “Dùng dịch vụ thay cho phối lưu, hết hạn thì thả, và dùng những kẻ hung ác làm tạp dịch quân, đều chưa ổn.” Tăng Bố nói: “Đúng là như vậy, nhưng tiên đế muốn nới lỏng pháp lệnh phối lưu, đó là ý tốt của nhân chính, không chỉ giảm bớt nỗi khổ hộ tống, mà những người bị phối lưu không phải rời xa quê hương, nên số bỏ trốn chắc chắn ít, cũng tránh được nỗi khổ đường xa và nguy cơ tử vong, pháp lệnh này có nhiều lợi ích.” Vua nói: “Hãy bàn với Tam tỉnh rồi tâu lên.” Cần xem xét kết quả thế nào.)

[58] Ngày Quý Mão, Giám sát ngự sử Đốn Khởi, Vương Hoàn tâu: “Đại Lý tự hặc tội thần không giám sát việc Thư Đản vi pháp chi dùng tiền nhà bếp. Thần giữ chức Ngự sử, nhiệm vụ phải tuân theo pháp luật, nhưng vụ án chiếu chỉ trên, thần đều ở nhà chờ tội, mong trước hết bãi chức.” Chiếu cho Khởi, Hoàn tiếp tục làm việc.

[59] Ty Đề điểm hình ngục Kinh Hồ Nam lộ tâu: “Nhập nội cung phụng quan Tạ Nhân gửi văn thư, vâng chiếu mua 5 vạn cây gỗ dâu làm cung ở lộ này, mỗi cây dài 3 thước 8 tấc, rộng 2 tấc 5 phân, dày 1 tấc, đã giao cho các châu huyện thu mua. Sau nhận được văn thư của Nhân gửi mẫu cung dài 4 thước 2 tấc, rộng 3 tấc 4 phân, dày 1 tấc 8 phân. Tuy đã ban hành, nhưng mẫu trước đã thu đủ số lượng, xin giao cho xưởng nỏ, nếu cũng có thể dùng được, xin trước tiên dâng lên.” Chiếu chỉ y theo mẫu ban đầu. Mẫu sau gửi đến, lệnh hỏi Tạ Nhân nhận chỉ huy thế nào rồi báo lại.

[60] Ngự sử Vương Hoàn tâu: “Lại bộ báo cáo Tuyên đức lang, Thông phán Bá châu Đường Quynh đã nhậm chức. Thần nghe Quynh là người ngang ngược nóng nảy, không an phận, bị giáng chức đã lâu nhưng vẫn không biết hối cải. Vũ thần giữ Bá châu, Thông phán thực sự nắm quyền châu. Nếu để Quynh tự ý làm việc, ắt sẽ không tuân theo lẽ phải. Xin dời Quynh đến châu gần kinh đô.” Vua phê: “Nên theo lời tâu, trên theo triều đình lấy chỗ khuyết, đổi bổ nhiệm vào chức hợp lệ ở Hoài Nam.” Bèn cho làm Thông phán quân Vô Vi.

[61] Ngày Ất Tỵ, giáng chức Hoàng thành sứ, Kinh Nguyên lộ Kiềm hạt, Tri Trấn Nhung quân Diêu Lân làm Tây thượng các môn sứ, theo lời tiến cử của Kinh lược ty Lô Bỉnh.

[62] Mùa hạ, tháng 4, ngày Đinh Mùi, Quyền Lễ bộ Thị lang Vương Khắc Thần bị phạt 8 cân đồng, Lang trung Lâm Hi, Viên ngoại lang Vương Tử Thiều mỗi người 10 cân, vì Ngự sử xét thấy việc tiếp nhận văn bản lập pháp về toán học so sánh với luật học văn võ, thi hành chậm trễ sai sót.

[63] Chiếu rằng bọn giặc ở huyện Phong Khâu tình tội hung ác, đã đặt thưởng lớn, cho phép người tố cáo bắt giữ. Nếu bắt được sau này, không được ân xá. (Ngày 14 tháng 3).

[64] Nhập nội cao phẩm Tăng Xử Hậu tâu: “Theo chỉ triều đình, thần đến các châu Thiều, Huệ để xét lại việc nộp tiền thượng cung vào kho nội tạng. Thần thấy rằng ở Quảng Châu, khi khám xét Huyện úy huyện Phiên Ngô là Thạch Đại Thụ, phát hiện y có tội tự ý tham ô, mua vật phẩm không trả tiền, tra tấn đến chết người vô tội. Chuyển vận phó sứ Tôn Huýnh bao che, không trị tội. Khi tạm quyền tri châu Quảng Châu, y bắt được thuyền buôn chở ngà voi chưa qua kiểm tra, lại cho Cương thủ Vương Tuân chuộc tội bằng đồng. Lại có thuyền buôn đồng của thương nhân đã chết, trị giá hơn hai nghìn quan tiền, y cho Cương thủ Tố Củng mua lại chỉ với hai trăm quan. Lại mua trầm hương của nước Tam Phật Tề đã ngâm nước, hôi thối. Xin sai quan điều tra xác minh.” Chiếu rằng: “Nếu quả như lời Tăng Xử Hậu tâu, thì sứ giả phương xa coi thường pháp luật, tình đáng đáng chết; huống chi còn làm hao hụt tiền công, trên lừa dối triều đình, dưới lừa gạt dân, càng không thể tha thứ. Nên sai Đại Lý tự thừa Quách Khái đi ngựa trạm đến xét án, nếu có tội, lập tức hặc tội tâu lên.”

(Vương Lâm lúc đó tạm quyền tri châu Quảng Châu. Tháng 6 nhuận, ngày Mậu Tuất, có chiếu chất vấn Tôn Huýnh. Ngày 17 tháng 4 năm thứ 7, Tôn Huýnh bị giáng chức.)

[65] Chiếu rằng: Cựu tri huyện Nam Dương, châu Đặng là Tằng Phụ và cựu tri huyện Nhương là Trần Tri Thuần đều bị lưu lại tại huyện cũ, cùng với quan đương nhiệm thu nộp số tiền còn thiếu. Vì ty đề cử tâu rằng trong nhiệm kỳ của Tằng Phụ, thiếu thu tiền phường trường và đò ngang năm vạn quan, tiền thường bình tám trăm quan; trong nhiệm kỳ của Trần Tri Thuần, thiếu thu tiền phường trường và đò ngang bốn vạn quan, tiền thường bình chín trăm quan.

[66] Ty chuyển vận Hồ Bắc tâu: “Châu Thành khai thông các khe suối như Đàm Khê, thẳng đến trại Đô Hoài của Quảng Tây. Nếu thông được con đường này[18], xuyên qua châu Dung, thực sự có thể khống chế được yết hầu của ba đường khe suối. Mong hạ lệnh cho Quảng Tây hợp lực kinh doanh.” Chiếu rằng Hùng Bản lo liệu, không được phô trương, để lỡ mất cơ hội.

(Ngày 3 và ngày 12 có thể tham khảo, lại có ngày 18 tháng 10 và ngày 3 tháng 11.)

[67] Chiếu rằng: “Những nghĩa dũng, bảo giáp bị thương nặng khi đánh thành Mễ Chất, ban thưởng ba mươi tấm lụa; bị thương vừa, giảm một nửa; bị thương nhẹ, từ mười tấm đến bảy tấm.”

[68] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu lên công trạng của Tri châu Lân Châu, Tây Kinh tác phường sứ Tí Hổ xuất giới. Chiếu rằng: “Bộ của Hổ thu được nhiều, theo phép nên thăng một chức, lại có công mưu kế đánh giặc; lại chém giết được nhiều, đặc cách thăng làm Nội viên phó sứ, Thứ sử Khang Châu.”

[69] Chiếu cho Chuyển vận sứ lộ Tử Châu, trước đây vì việc quân[19] sai khiến thuê mướn thuyền bè, ngựa lừa, nhà có người đi làm dịch, những việc mà lệnh ân xá không bao gồm, thì miễn giảm hai phần năm thuế.

[70] Ngày Mậu Thân, Kinh lược an phủ chế trí sứ lộ Hi Hà Lan Hội Lý Hiến xin cấp ba vạn thạch gạo và một trăm vạn quan tiền công cứ được tích trữ riêng ở trại Tĩnh Biên. Được chấp thuận.

[71] Đồng đề cử trà trường thành đô phủ và các lộ Lục Sư Mẫn tâu: “Lý Tắc hy sinh vì việc nước. Xét: Tắc phụ trách việc trà, trong năm năm, trừ các khoản chi phí, thu được lợi nhuận ròng hơn bốn trăm hai mươi tám vạn quan. Xin ban cho Tắc ruộng đất để ghi nhận công lao trong việc hoàn thiện pháp chế về trà.” Lại tâu: “Văn Châu tiếp giáp với Giai Châu, nhưng pháp chế về trà của hai lộ khác nhau. Giai Châu là đất cấm, hiện có trường bán ngựa và trà; Văn Châu là đất thông thương, lại giáp với Long Châu. Xin đặt Văn Châu và Long Châu làm đất cấm, áp dụng theo pháp chế của các lộ Tần Phượng, và giao cho Ty Chuyển vận, ngoài việc bán ngựa, không được sử dụng trà mua được ở Văn Châu và Long Châu vào việc khác.” Lại tâu: “Tần Châu chi tiêu tiền của vượt quá vốn gốc, thu phó chưa đủ. Xin giao Tần Châu cho Ty này, cử một quan viên làm sổ sách chi tiêu.”

Lại tâu: “Các lộ Vĩnh Hưng, chỉ có Kim Châu sản xuất, và trà tư từ Sơn Nam hoặc trà giả từ phương Nam lén lút thâm nhập, giá cao, dân Thiểm Tây rất khổ. Xin điều chỉnh trà thừa từ lộ Xuyên bán khắp các châu quân Thiểm Tây, áp dụng theo pháp chế đất cấm trà của các lộ Tần Phượng.” Lại tâu: “Thành đô phủ là nơi giao thương, nhiều thương nhân trà, thường gặp khó khăn do hàng hóa tồn đọng, phải bán rẻ cho các nhà buôn. Xin đặt trường bán trà ở thành đô phủ, cho phép tăng giá bán và đổi các loại hàng hóa, sau đó chuyển đổi, lợi nhuận tăng thêm áp dụng theo pháp chế bán trà ăn của lộ Xuyên và đổi chác ở Thiểm Tây.” Lại tâu: “Ty này trước tâu xin mua muối theo lệ khách nhập vào Xuyên chuyển đổi, mỗi năm không quá một vạn tịch. Theo chỉ triều đình, không được để các châu huyện bán và ép buộc. Nhưng do số lượng lớn, nếu không để các châu huyện tham gia, thì tệ nạn sẽ xảy ra. Xin cho Ty này cử các ty thuế vụ quản lý, bán theo giá thị trường, không cản trở việc buôn bán của khách thương.”

Chiếu đều theo lời tâu của Sư Mẫn, ban cho Lý Tắc mười khoảnh ruộng quan ở Dĩnh Xuyên. Ban đầu, định mức trà Thục mỗi năm ba mươi vạn, đến Tắc tăng lên năm mươi vạn, đến khi Sư Mẫn thay Tắc, lên đến một trăm vạn.

(《Thực hóa chí》: “Từ năm Hi Ninh thứ bảy đến năm Nguyên Phong thứ tám mở rộng pháp chế về trà, trà trường ở Thục đạo có bốn mươi mốt, trà trường ở Kim Châu thuộc Kinh Tây lộ có sáu, trà trường bán trà ở Thiểm Tây có ba trăm ba mươi hai. Năm Hi Ninh thứ bảy, thuế lợi tức bốn mươi vạn quan; năm Nguyên Phong thứ năm, năm mươi vạn; năm thứ bảy, tăng lên một trăm sáu mươi vạn quan. Chiếu định mức một trăm vạn quan mỗi năm, ngoài việc chi dùng cho các quan khác, đều dự trữ ở Thiểm Tây để dùng khi có chiếu.”)

[72] Sư Mẫn lại tâu: “Từ khi Ty Mua Ngựa kiêm quản trường trà, phép trà không thể tự lập. Kính xin nếu Ty Mua Ngựa dùng trà, đều phải dùng tiền và lụa để giao dịch, không cho các ty khác lấy bớt.” Chiếu cho Bồ Tông Mẫn cùng Sư Mẫn cùng trình bày lợi hại để tâu lên.

(Tháng 6, ngày Tân Hợi có thể tra cứu.)

[73] Chiếu rằng các giám quan tại các trường vụ thu lợi nếu so với mức định trước mà còn thiếu, phải vào sớm ra muộn, đợi khi đạt được mức định trước như cũ thì mới được vào giờ Mão ra giờ Thân như trước. Theo lời thỉnh cầu của Đại Lý Thiếu Khanh Lữ Thiếu Liêm[20].

[74] Ngự sử Trạch Tư tâu: “Pháp luật quy định người tiết lộ việc điều tra sẽ bị đánh một trăm trượng. Đài phân chia việc tâu và điều tra, chính là muốn quan điều tra căn cứ pháp luật mà xử lý những việc chậm trễ và sai phạm, nhưng những việc pháp luật không quy định, lý lẽ có thể bàn luận, thì trách nhiệm thuộc về quan tâu. Bởi vì việc tâu và điều tra lý lẽ và tình thế tương hỗ, nên không nên cùng thể chế với các ty khác, huống chi sáng tối cùng gặp nhau bàn việc với các quan chức, há có việc gì không nghe? Thực tế tình thế cũng không thể tự phân biệt. Thần xin trừ những việc đang điều tra mà quan tâu không được biết, còn lại các quan tâu đều được thông báo, không coi là tiết lộ.” Được chấp thuận.

[75] Đô Thủy Giám Thừa Lý Tự Lương[21] tự hặc tội: “Đê Thanh Trì ở Thương Châu trước đây dùng bờ tây sông Ngự làm đê mới của sông Hoàng Hà, đê mỏng, đất thấp, không thể ngăn nước, đã xem xét dùng đê đông sông Ngự làm đê lớn của sông Hoàng Hà, tâu xin chờ chỉ dụ. Trước đây vì dân phu mùa xuân đã đến nơi làm việc, thần bèn lệnh cho quan Đô Đại Tuần Hà xây một đê mới, đắp lên đê đông sông Ngự, có tội tự ý làm mà không chờ chỉ dụ.” Chiếu tha tội.

[76] Kinh Lược Ty lộ Hà Đông tâu rằng sai bộ tộc Phiên là Y Đặc Khải vào địa giới phía Tây dò la việc, bị giặc hại. Chiếu cho Y Đặc Khải và ba người khác, mỗi người được ban ơn cho con trai, thăng một bậc so với chức vụ của cha để kế thừa.

[77] Quảng Tây Kinh lược sứ Hùng Bản tâu: “Theo tờ trát của Viện Mật, Ty Chuyển vận Hồ Bắc tâu xin chiếu hội với Châu Thành về việc sao chép tờ trát: ‘Các khu vực Đàm Khê và các nơi khác thuộc địa phận khê động, thẳng đến trại Đô Hoài của Quảng Tây. Nay nếu mở được con đường này, thông suốt đến Châu Dung, thực sự sẽ khống chế được yết hầu của ba lộ khê động. Kính mong chỉ huy xuống Quảng Tây cùng hợp lực kinh doanh con đường phía nam. Vâng theo chỉ dụ, xin chuyên trát xuống Hùng Bản, mong hợp lực ứng tiếp, không được trì hoãn, để mất cơ hội, gây ra sự việc.’ Ty thần nay theo chỉ huy trên và theo trạng tâu của Tri châu Thành Châu là Chu Sĩ Long, chỉ có Dương Thịnh Hướng và dân chúng dưới quyền, vì trước đây đã gây ra lỗi lầm, chưa chịu theo chúng. Nếu thần vội vàng chiêu dụ bảo họ nộp đất, có thể khiến họ kinh nghi. Thịnh Hướng và những người kia thấy được thứ tự chiêu dụ ở đó, sẽ dần dần thay đổi tâm ý, nếu kéo dài vài năm, tất sẽ tự nguyện quy thuận. Thần đã gửi tờ điệp cho Tri châu Dung Châu là Tiền Sư Mạnh để tường thuật sự việc trên, đồng thời thân hành điều tra. Thần cũng một mặt sắp xếp, xem xét rồi tâu lên.” Được chấp thuận.

(Ngày 2 và 12, nên xóa bỏ phần này.)

[78] Ngày Kỷ Dậu, triều hiến tại cung Cảnh Linh.

[79] Ngày Tân Hợi, Vua Liêu sai Sùng Nghi quân Tiết độ sứ Tiêu Cố, Vệ úy khanh, Đãi chế các Càn Văn là Dương Chấp Trung sang chúc mừng tiết Đồng Thiên.

(Hàn Câu nói: “Sứ giả phương Bắc trước kia đi thuyền qua sông Hoàng Hà, vào niên hiệu Nguyên Phong, hơi kiêu ngạo, muốn đi qua cầu, chiếu cho phép, mỗi năm vào tháng 12 thì bắc cầu phao. Tháng 2 năm thứ 6, cầu bị hỏng, mà sứ giả phương Bắc sắp đến, để chúc mừng tiết Đồng Thiên, lệnh cho Phạm Tử Kỳ từ chức Công bộ Lang trung đốc thúc công việc, ngày 28, cầu xong, ba ngày sau sứ giả đến, Vua rất vui. Đến tiết Khôn Thành vào tháng 7, nước sông dâng cao không thể bắc cầu, chiếu cho đi thuyền, sứ giả đành nghe theo, xin cùng tiếp bạn đi chung thuyền qua sông.”)

[80] Long Thần Vệ Tứ Sương Đô Chỉ Huy Sứ, Văn Châu Thứ Sử là Chủng Ngạc mất. Ngạc giỏi vỗ về và điều khiển quân sĩ, đối mặt với kẻ thù thì biết cách ứng biến, nhưng tính tình gian trá, tàn nhẫn, coi người như cỏ rác. Khi ở trong quân, ông cho bày gươm giáo trước mặt, nếu quân sĩ nào phạm lỗi, lập tức chém ngay, có khi mổ lấy tim gan rồi mới chém, khách ngồi xem phải che mặt, còn Ngạc vẫn ăn uống tự nhiên, vì mắt ông bị cận thị nên không nhìn thấy rõ. Kẻ địch cũng sợ ông dám đánh, nên bộ hạ của ông thường lập được nhiều công. Từ đầu niên hiệu Hi Ninh, Ngạc là người đầu tiên khởi xướng việc biên cương[22], sau đó lại đánh Tây Hạ, đều do Ngạc chủ mưu, cuối cùng dẫn đến thất bại ở Vĩnh Lạc, người bàn luận cho rằng nếu Ngạc không chết thì việc biên cương sẽ không dứt.

[81] Ngày Nhâm Tý, Cơ quan Phát Vận của các lộ Giang, Hoài tâu: “Cơ quan Chuyển Vận Giang Đông mùa đông năm ngoái không lo liệu việc mua lương thực, xin hỏi rõ nguyên nhân của Chuyển Vận Phán Quan là Giáp Đản, và lệnh cho ông ta vận chuyển toàn bộ số lương thực còn thiếu đến Hoài Nam.” Chiếu rằng: “Cơ quan Chuyển Vận chuyên lo việc quản lý tài chính, cung ứng kế hoạch hàng năm, nay Đản buông lỏng như vậy, nên lệnh cho Cơ quan Phát Vận chọn quan điều tra và trị tội.” Trước đó, Đản nhiều lần dâng sách hiến 《Quân Thuế Đồ》, nhưng việc làm rối rắm, Vua cho rằng Đản không lo việc chức trách, chỉ chuyên tìm kiếm điều kỳ lạ để mong lập công, đã lâu muốn cách chức, nên nhân việc này mà trị tội.

[82] Đông Đầu Cung Phụng Quan, Tân Ung Châu Vĩnh Bình Trại Chủ là Long Đạt tâu: “Từng nhiều lần nhậm chức ở các trại thuộc Ung Châu, bị Giao Chỉ giết hại mẹ, vợ, con và em. Nay Vĩnh Bình Trại là nơi biên giới xa xôi, lại ngày ngày phải gặp gỡ người Giao, xin được miễn sai phái.” Vua đồng ý.

[83] (1) Kinh lược an phủ chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ Lý Hiến tâu: “Gần đây được triều đình cấp một trăm vạn quan tiền, sai Trương Thừa Giám lo liệu mang đi, sợ không kịp ứng phó việc cấp bách, mong được cấp thêm số tiền đó dưới dạng công cứ, mỗi tờ chỉ lấy mười vạn quan làm mức, thêm lãi một phần, để có thể nhanh chóng sử dụng.” Chiếu rằng: “Cấp thêm năm mươi vạn quan từ số tiền dư của thường bình và phường trường, hạn trong mười ngày phải cấp công cứ, sai sứ thần mang đến ty kinh chế. Nếu số tiền dư chưa đến, thì mượn tạm số tiền hiện có của kho Nguyên Phong ở lộ Phu Diên.”

[84] Ngày Quý Sửu, chiếu cho đề điểm hình ngục lộ Tử Châu Hà Uyển được Lại bộ bố trí công việc thuận tiện ở quê nhà. Trước đó, Uyển nhân lúc tâu đối, Vua cho là sơ suất không thể giao việc. Đến nay, nhân có lời xin, nên bãi chức.

[85] Ty đề cử bảo giáp Thiểm Tây tâu: “Diêu Dụng Hòa ở phủ Hà Trung dâng chiếu chỉ năm Khánh Lịch thứ tám, nói Diêu Thê Vân mười đời cùng ở, hiếu hạnh đáng noi theo, được ban biển ngạch khen ngợi, miễn trừ sai dịch ngoài hai thứ thuế, xin được miễn bảo giáp.” Theo lời tâu.

[86] Ngày Bính Thìn, phó sứ Tả tàng khố Tào Di Tôn làm phó sứ Hoàng thành, phó sứ Cung bị khố Trương Khoan làm phó sứ Tả tàng khố Tây kinh; đông đầu cung phụng quan, cáp môn chi hậu Dương Diễm làm nội điện sùng ban, vẫn giữ chức cáp môn chi hậu. Di Tôn và những người khác được thăng chức vì ty đê ngạn sông Biện tâu rằng trường vật hóa ở Kinh Đông có thành tích thu thuế tăng nhiều.

[87] Hộ bộ tâu: “Căn cứ lời tâu của Lý Tông về việc trốn thuế và tuyệt dịch ở lộ Hoài Nam: ‘Nhiều năm thất thu thuế dịch là do sổ sách ghi sai, quan ty không kiểm tra, tích tụ thành tệ nạn. Xin cho dân nộp dần theo kỳ hạn cùng với hai thứ thuế hạ thu.’ Bộ xin theo lời Tông, tha cho số thuế thất thu trong sổ hiện nay.” Theo lời tâu.

(Đoạn này nghi có sai sót, bản chữ đỏ và đen đều giống nhau.)

[88] Tiền triều tán lang, thí trung thư xá nhân Tăng Củng đang chịu tang mất.

[89] Ngày Đinh Tỵ, Kinh lược An phủ sứ Quảng Tây tâu: “Theo trạng của Ty Khê động châu Dung trình báo: ‘Theo trạng của trại Vương Khẩu, châu Hồng Nguyên là Dương Xương Y, Dương Thánh Chiếu, Dương Xương Thủ, Dương Thánh Sinh, Dương Thánh Phán, v.v., gần đây được thành châu sai người đến chiêu dụ Xương Y, v.v., nhưng các thủ lĩnh bản châu đều không muốn đến thành châu. Nay Xương Y, v.v., cùng năm thủ lĩnh và sáu người chèo thuyền, tổng cộng mười một người, đã đến trại, xin chỉ huy giải Xương Y, v.v., đến châu để báo cáo việc khê động. Lại theo trạng của Dương Xương Binh, châu ty đã yêu cầu Xương Y, v.v., trình báo. Xương Y, v.v., thuộc châu Hồng Nguyên, vốn thuộc châu Dung, hàng năm đến châu Dung buôn bán và dự lễ thánh tiết. Vào tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 5, nhận được thiếp của thành châu dọc biên giới khê động, triệu tập Xương Y, v.v., đến nộp đất. Nay Xương Y, v.v., đều không muốn đến thành châu nộp đất, nguyện vẫn thuộc châu Dung, hàng năm dễ dàng đến châu và trại buôn bán và dự lễ thánh tiết. Dương Xương Binh xin mua trâu cày, châu ty đã gửi thiếp cho ty thương thuế thi hành theo điều lệ cũ.’ Xét gần đây theo chỉ của triều đình, Ty Chuyển vận Hồ Bắc tâu thành châu sao chép mở đường khê động, thẳng đến giới trại Đô Hoài Quảng Tây, lệnh thần phối hợp tiếp ứng. Thần đã gửi điệp cho châu Dung là Tiền Sư Mạnh điều tra lợi hại, và đã tâu trình. Nay theo trạng của châu Dung, châu Hồng Nguyên là Dương Xương Y, v.v., được thành châu triệu tập đến nộp đất, nhưng Xương Y, v.v., đều không muốn đi, nguyện vẫn thuộc châu Dung, hàng năm dễ dàng đến châu và trại buôn bán và dự lễ thánh tiết. Thần đã gửi lại điệp cho Tiền Sư Mạnh bí mật điều tra, cân nhắc xử lý, không được gây rối, dẫn đến sinh sự.” Chiếu gửi cho Ty Chuyển vận Hồ Bắc, chỉ huy thành châu chiếu theo.

(Việc ghi chép bí mật là ngày 12, ngày 2 và 3 cần xem xét chi tiết để biên soạn riêng.)

[90] Ngày Mậu Ngọ, Lưu Xương Tộ, Tây thượng các môn sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ[23], Kinh Nguyên lộ tổng quản, được bổ làm Xương Châu thứ sử, Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, tri châu Diên Châu.

[91] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu cho Lưu Xương Tộ: “Chính sự lớn nhỏ ở Phu Diên đều bị Chủng Ngạc làm hỏng, mọi việc đều trở nên bê trễ, kết bè kết đảng che giấu lẫn nhau, việc ăn cắp danh khí và tài sản của triều đình không thể kể xiết. Khanh được đề bạt từ các tướng, nắm quyền thống lĩnh một đạo, khi mới nhậm chức, hãy trừng trị những sai lầm của người tiền nhiệm, lấy công diệt tư[24], quyết tâm cải cách phong tục, bỏ qua mọi lời khen chê, không cần lo lắng, sẽ có sự thăng chức đặc biệt để chờ đợi thành công.”

[92] Thượng hoàng phê: “Số lượng quan chức trong cơ quan Hoàng thành ty quá nhiều, có thể bãi bỏ những người đã làm lâu năm, chỉ giữ lại mười người, từ nay không được tăng thêm người ngoài biên chế.”

[93] Vương Hoài Chính, quan chức Tẩu mã thừa thụ Quảng Nam Tây lộ, dâng lên bản vẽ giếng nước suối Bạch Tháp ở Ung Châu. Thượng hoàng phê: “Nếu như bản vẽ, có vẻ thuận tiện, nhưng e rằng còn có những điều lợi hại khác, có thể giao cho Hùng Bản xem xét rồi tâu lên.” Sau đó, Hùng Bản tâu: “Việc đào giếng nước suối Bạch Tháp theo đề nghị của Hoài Chính là thuận tiện, xin cấp 300 độ điệp cho Ung Châu, để mùa thu đông năm sau khởi công.” Được chấp thuận.

[94] Chu Phục, Quốc tử tư nghiệp, tâu: “Xem xét việc thi công thí luật nghĩa và đoán án trong luật học, người đỗ đầu, xin cho phép theo phép thi của Lại bộ để bổ nhiệm làm quan; những thái học sinh giỏi về luật nghĩa và đoán án, nếu đỗ đầu trong kỳ thi công thí của luật học, thì được xếp ngang với người đỗ thứ nhì trong kỳ thi tư thí để ghi danh.” Được chấp thuận.

[95] Triệu thị, vợ của Lưu Tòng Quảng được truy tặng Thái úy, tước Phổ Ninh quận chúa, xin tăng lương theo lệ của Diên An quận chúa, vợ của Tào Tụng. Chiếu rằng: “Con gái của Ngô vương Nguyên Nghiễm, là người thân tôn của hoàng gia, trong hàng ngũ hiện nay chỉ còn một người, có thể đặc cách cấp lương tháng một trăm ngàn, tăng thêm mỗi mùa xuân đông mười tấm vải, ngày sinh tăng thêm năm mươi lạng bạc.”

[96] Ngày Quý Hợi, ban chiếu cho các cựu tể tướng, chấp chính quan được thêm phụ cấp khi nhận sai phái ở cung quán, theo lệnh lộc của chức tri phủ đại phiên mà cấp phát.

[97] Lại ban chiếu bãi bỏ chức kiêm tướng của các tổng quản ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ.

[98] Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn tâu: “Vâng chiếu xét định điều lệ của Lục bộ, xin đặt tên là Sở Tường định Lục bộ Điều quán.” Chiếu ban nên gọi là Trung thư, Môn hạ ngoại tỉnh.

(Tháng 3, ngày Nhâm Thìn.)

[99] Đại Lý thiếu khanh Lưu Cổn tâu: “Thần thấy từ trước đến nay trong sách xá thư có câu ‘trước giờ muội sảng ngày tháng năm nào đó’, vì ân điển không theo thứ tự, người ta khó đoán trước, xin theo lệ của đức âm, lấy ngày xá thư đến làm hạn.” Theo lời tâu.

[100] Công bộ tâu: “Ty Chuyển vận Thiểm Tây lộ nói, trước đây quản lý sứ phó, phán quan chỉ có bốn sảnh ruộng chức, nhưng vừa rồi do quân sự cấp bách, các lộ tăng thêm viên chức đến mười hai người[25], tuy công việc chức vụ đều vất vả như nhau, nhưng tám người còn lại không có ruộng chức, xin cho phép lấy số thu từ bốn sảnh chia đều cấp phát.” Theo lời tâu.

[101] Ngày Giáp Tý, Tri Dĩnh Xương phủ, Tư chính điện học sĩ, Thông nghị đại phu Hàn Duy được cử làm Đề cử Sùng Phúc cung. Tăng Củng vì soạn chiếu bị phạt đồng, Duy nhiều lần xin từ chức vì bệnh, bèn theo lời xin.

[102] Chiếu ban từ nay các quan đương nhiệm được triệu về kinh, sau khi vào chầu xong, hạn ngày hôm sau từ biệt trở về nhiệm sở, chờ chỉ huy.

[103] Lễ bộ lang trung Lâm Hi dâng 《Lưỡng triều bảo huấn》, được thưởng 200 lượng bạc và lụa.

(Cả hai bản kỷ đều chép Lâm Hi dâng 《Bảo huấn》.)

[104] Cùng ngày, Lý Hạo đánh bại quân Hạ ở Ba Nghĩa Cốc.

(Cựu kỷ có chép việc này, Tân kỷ theo đó, cần xem xét.)

[105] Ngày Bính Dần, Vua phê: “Kinh lược sứ Phu Diên lộ Chủng Ngạc mất ngày Tân Hợi tháng 4. Khi bệnh nặng, tất thần trí mê muội, mấy ngày trước khi mất, tâu việc rất nhiều, không biết do ai xử lý, chiếu cho Thuần Túy điều tra tâu lên.”

(Ngày 18 tháng 5 Quý Tỵ, ngày 21 tháng 8 Giáp Ngọ.)

[106] Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Quả Châu thứ sử, Nội thị áp ban Trương Doãn Thành mất, được truy tặng làm Phụng Quốc quân lưu hậu, ban tặng một nghìn quan tiền, một trăm năm mươi tấm lụa, Hoàng thái hậu tặng hai trăm quan tiền, ban ơn cho sáu người.

[107] Ngày Đinh Mão, Ty An phủ sứ các lộ Vĩnh Hưng quân tâu: “Gần đây, giặc cướp nổi lên nhiều, quân Cấm vệ bị điều động khắp các lộ, biên giới thiếu hụt binh lính chính quy để sai phái. Xin cho phép khi có giặc cướp, cho phép quan ty tại chỗ tùy tình hình triệu tập các Đại bảo trưởng đã qua huấn luyện để bắt giết.” Chiếu rằng: “Khi gặp cường đạo từ mười lăm người trở lên, tùy số lượng người tạm thời điều động, cấp tiền gạo hàng ngày, đợi khi bắt được giặc thì cho về.”

[108] Ngày Mậu Thìn, Đại Lý tự tâu rằng: Hạ ban điện thị, Chỉ sử Ngô Đạo, Thổ đinh chỉ huy sứ Trình Hồng, Đô đầu Vi Thông gặp giặc không ra sức chiến đấu, dẫn đến việc Đô giám Phí Vạn bị giết, theo lệ ân xá nên được tha. Chiếu rằng: Mỗi người đánh hai mươi trượng vào lưng, Trình Hồng bị thích chữ và đày đi ba nghìn dặm, Vi Thông đày đi hai nghìn dặm.

[109] Quyền phát khiển Kinh lược ty lộ Phu Diên Phạm Thuần Túy tâu: “Đô giám bản lộ, Lễ tân sứ Vương Mẫn theo lời tâu của Lý Hiến dời đến Lan Châu, xin tạm thời cho ông ta giữ nguyên chức vụ.” Vua phê rằng: “Thuần Túy gặp việc không cẩu thả, tuy tạm quản lĩnh ty Sứ, nhưng luôn vì việc công, không có tư lợi, trong số các quan giữ biên giới hiện nay, thật khó tìm được người như vậy, nên theo lời xin.” Sau đó, Ty Chế trí lộ Hi Hà Lan Hội tâu: “Vương Mẫn đã đến ty này, xin cho ông ta tiếp tục giữ chức Đô giám bản lộ.” Chiếu ban cho Vương Mẫn hai trăm nghìn tiền trang bị, lập tức lên đường đến nhiệm sở Phu Diên.

[110] Chiếu rằng: Hoàng thành sứ, Đan Châu thứ sử Trương Tảo có công thu phục Hạ Châu, nên thăng ba bậc, cho phép truyền lại cho con cháu: con là Trương Vân, Trương Nhu, cháu là Trương Nghiêu Phu, cả ba người đều được bổ làm Tam ban phụng chức.

[111] Ty Chế trí lộ Hi Hà Lan Hội tâu: “Theo chiếu điều tra tội trạng của Lý Hạo bị cách chức Lan Châu nhưng vẫn giữ chức Kiềm hạt bản lộ, tự ý tâu xin về kinh, nhưng Lý Hạo tự nói rằng tuy có tâu xin về kinh nhưng thực tế chưa rời nhiệm sở.” Chiếu rằng: “Lý Hạo theo luật phải bị xử tội tự ý bỏ nhiệm sở, nhưng vì chưa rời khỏi bản lộ, và gần đây có công xuất quân ra biên ải, nên phạt hai mươi cân đồng.”

[112] Ngày Kỷ Tỵ, Tả Hữu ty tâu: “Ngự sử đài xét Khai Phong phủ không đặt sổ ghi chép việc tiếp nhận và thi hành các điều lệnh, chỉ tập trung nghe và trình bày sổ sách, căn cứ theo quyết định của Hình bộ và Biên sắc sở, đều cho rằng việc xét xử là hợp lý. Tuy nhiên, xem xét kỹ ý chỉ của chiếu thư, chỉ là để lập pháp cho các châu huyện, nên ra lệnh cho các quan án sát kiểm tra. Đối với Khai Phong phủ, vốn không có cơ quan án sát, nên đối với điều lệnh trên dường như không có gì trở ngại. Việc sau khi bị Ngự sử đài xét mà vội vàng lập sổ sách, chính là điều mà Ngự sử đáng phải xét xử.” Chiếu rằng: “Theo quyết định của Hình bộ và Biên sắc sở, các quan lại Khai Phong phủ giao cho Đại Lý tự xét tội và tâu lên. Việc Tả Hữu ty của Thượng thư tỉnh tâu lên, rõ ràng là có sự do dự, Hữu ty lang trung Lưu Chí bị cách chức, thuộc loại sự việc nghiêm trọng.” Sau vài ngày, chiếu đổi thành “sự việc nhẹ.”

[113] Lúc đó, An Lễ vương nói: “Lưu Chí vì dò xét mà bị cách chức, bệ hạ chắc cho rằng thần từng làm quan ở Khai Phong phủ, nên Lưu Chí ở Khai Phong phủ không đặt sổ ghi chép các điều lệ, không dám lấy đó làm tội.” Vua nói: “Không phải vì thế, Lưu Chí cũng từng làm phán quan ở Khai Phong phủ.” An Lễ nói: “Tội không đặt sổ ở Khai Phong phủ chỉ là việc nên làm mà không làm, ngoài việc giảm nhẹ, theo giảm nhẹ, pháp luật có thể không liên quan đến tri phủ. Hơn nữa, thần và Lưu Chí cùng làm việc ở phủ, đều đã rời chức, lại việc phạm đều trước khi được ân xá, e rằng không có việc dò xét gì khác.” Vua nói: “Xét theo pháp luật thì rất nhẹ, việc dò xét chưa chắc có. Lưu Chí bị cách chức, có thể đổi thành ‘việc nhẹ’.” Vương Khuê nói: “Muốn đổi thành ‘hơi nặng’.” Vua nói: “Đã không có việc dò xét, sao lại đổi thành ‘hơi nặng’? Cái gọi là ‘thấy rõ tấm lòng của người tài’ thì nên kính trọng, cũng biết có người không được hưởng. Nay chấp chính đã trình bày, biết rõ không có tội, không nên không biện minh.”

An Lễ nói: “Lưu Chí ở đô tỉnh, mỗi khi báo việc công, đều đến chỗ mọi người nghe, chưa từng gặp riêng chấp chính. Việc này đã đáng khen.” Chương Đôn nói: “Việc vốn không có hai mặt. Sự cẩu thả rất đáng trách, nếu cho là dò xét thì thực không có. Thần thấy Thái Xác nói việc này đều do lại nhân Lô Tông Ngạn chấp hành, Xác cũng từng chất vấn Tông Ngạn, vậy Lưu Chí nên bị tội vì không chất vấn được Tông Ngạn, việc này đáng trách nhưng tình có thể thương. Lưu Chí là người ngay thẳng không hai lòng, trước đây tả hữu ty đều gặp riêng chấp chính, Lưu Chí chỉ báo việc ở đô đường, khác với những người nịnh bợ để được dung thứ.” An Lễ nói: “Lưu Chí thực có đức hạnh, được sĩ đại phu biết đến, bỗng mang tiếng xấu mà đi, thần nếu vì hiềm khích nhỏ mà không biện minh, khiến đức hạnh của người hiền không được minh chủ biết đến, thần không nỡ.” Thái Xác nói: “Lưu Chí vốn là người tốt, chỉ từng có ý kiến khác thôi.” Vua nói: “Ý kiến khác là chuyện cũ.” Đôn nói: “Lưu Chí từ khi bị đuổi, không còn ý kiến khác. Người ta há không cho sửa lỗi?” Xác nói: “Thần hôm trước đã từng tâu, việc này thực do lại nhân mà thôi.” Vì thế có mệnh lệnh này.

[114] Các quan lang thuộc Tả hữu ty trước đây khi các chấp chính chia sảnh làm việc, thỉnh thoảng mới được gặp để trình bày công việc, đến chiều tối vẫn chưa xong, hoặc có việc khẩn cấp, lại phải đến tận nhà riêng; nếu bàn bạc có ý kiến khác nhau, thì phải đi lại truyền đạt, công việc bị đình trệ nhiều. [Lý] Chí hỏi lại các lại viên, lại viên trả lời: “Trước đây các quan lang vốn muốn như vậy[26].” Chí bèn báo với các chấp chính, xin khi họp ở đô đường thì trình bày công việc, quyết định ngay tại chỗ, không có tình trạng truyền đạt qua lại gây đình trệ; các thể lệ quen thuộc và chi tiết[27], lại viên các phòng xin ghi chép như cũ. Mọi người đều nói: “Được.” Từ đó mọi việc đều được quyết định công khai, trên dưới đều thuận tiện; nhưng các quan lang khác không dám thỉnh thoảng gặp chấp chính, ý riêng của chấp chính cũng không được truyền đạt, nên nhiều người âm thầm không vui. [Lý] Chí bị cách chức, các quan lang lại chia sảnh trình bày công việc như cũ.

[115] Ty Đề cử bảo giáp Hà Đông tâu: “Con cháu hậu duệ của Đường Cao Tổ là Lý Nhân dâng trạng, xin được miễn bảo giáp theo lệ của hậu duệ nhà Đường là Lý Hữu Phương ở Châu Càn.” Được chấp thuận.

[116] Ngày Canh Ngọ, Tuyên khánh sứ, Lưu hậu quân Vũ Tín, Nhập nội phó đô tri, Kinh lược chế trí sứ lộ Hi Hà Lan Hội là Lý Hiến được làm Cảnh Phúc điện sứ, Tứ phương quán sứ, Đoàn luyện sứ Châu Lũng là Lý Hạo bị giáng làm Dẫn tiến sứ, Phòng ngự sứ Châu Cao, Hoàng thành sứ, Thứ sử Châu Hoàn là Lý Trung Kiệt được lĩnh chức Đoàn luyện sứ Châu Quang, Hoàng thành sứ, Đoàn luyện sứ Châu Thương là Miêu Lí được lĩnh chức Phòng ngự sứ Châu Cát, Tả Kị kị sứ là Triệu Thuần Trung được làm Hoàng thành sứ, Thứ sử Châu Vinh, Lục trạch sứ là Vương Thiệm được làm Hoàng thành sứ, Lạc uyển sứ là Khang Thức được làm Tả Kị kị sứ, Trang trạch sứ là A Nhã Bốc được làm Hữu Kị kị sứ, Cung bị khố phó sứ là Hàn Tự, Triệu Duy Cát, Đổng Hành Khiêm, Bao Chính đều được làm Tả tàng khố phó sứ Tây Kinh, Nội điện sùng ban là Tiêu Dĩnh Thúc được làm Nội điện thừa chế, do Lý Hiến dâng tâu công trạng của Lý Hạo và những người khác khi xuất chinh, tính theo số thủ cấp để ban thưởng.

[117] Đại Lý tự tâu: “Viện Thương thuế đưa khách nhân Doãn Kỳ ở Châu Thấp buôn phèn xanh, ngoài số lượng dẫn chứng còn có thừa, xin chuyển sang Lộ Hà Đông để xét xử. Lý chính Đỗ Thuần[28] xin tịch thu 600 cân phèn thừa sung công, đồng thời tha tội cho Doãn Kỳ.” Chiếu cho Đại Lý tự xét xử thi hành, còn Đỗ Thuần vượt chức bàn việc, giao cho Ngự sử đài xét hỏi. Sau đó, Vua phê: “Lý chính Đỗ Thuần gần đây vì không giữ đúng chức trách, bàn bậy việc phèn tư, đã giao cho cơ quan xét xử. Trước đây, Trưởng và Phó Đại Lý tự lên điện, hỏi trực tiếp Dương Cấp về tình hình làm việc khác của Thuần tại tự, mới biết từ khi nhậm chức đến nay, gây ra nhiều việc gian trá, thường xuyên tranh cãi với Trưởng và Phó. Căn cứ vào lời tâu của Cấp, ba bốn lần đều là Thuần lý lẽ không đúng, ý đồ lấy lòng kẻ ngu muội, phá hoại pháp lệnh, xét kỹ tâm ý, tội không thể tha. Có thể cách chức trước, đồng thời giao cho Đại Lý tự trình bày chi tiết các việc Thuần trước sau bất đồng, gửi Ngự sử đài cùng xét hỏi.”

(Ngày 19 tháng 5.)

[118] Đề điểm hình ngục Lộ Tần Phượng Lữ Ôn Khanh tâu: “Châu Tần vật giá đắt đỏ, dân đói khổ, xin tạm ngừng mua lương thực đến khi lúa chín.” Theo lời tâu.

[119] Ngày Tân Mùi, Thông trực lang, Giám sát ngự sử Vương Hoàn[29] làm Hữu chánh ngôn.

(Quan chế thi hành, bổ nhiệm chức gián quan bắt đầu từ đây.)

[120] Trước đó, sai quan ngoại tỉnh Trung thư, Môn hạ cùng xem xét định ra các điều lệ của Lục tào Thượng thư. Hôm đó, Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn cùng các quan đối đáp về công việc, Vua nói: “Pháp xuất phát từ đạo, người hiểu đạo thì lập pháp có thể giải quyết hết mọi việc. Lập pháp mà không giải quyết được việc, không phải việc không thể lập pháp, mà là do người lập pháp chưa giỏi.” Lại nói: “Người soạn pháp muốn văn lệnh ngắn gọn, nhưng phải bao quát được sự việc.”

[121] Thiểm Tây chuyển vận ty xin cho thông trực lang, thông phán Giải Châu là Ngô An Hiến được điều đến Diên Châu. Vua phê: “Việc lớn của quân dân vùng biên tuy phần nhiều do Kinh lược ty xử lý, nhưng việc liên quan đến châu cũng không ít, người được cử phải là người minh mẫn thì mới không hỏng việc; hơn nữa hiện nay trong và ngoài châu đang khởi công tu sửa thành lũy, cần phải dựa vào các quan phụ tá để phân công chỉ đạo, có thể theo lời tâu mà cử ngay.”

(Theo tấu nghị của Phạm Thuần Túy, Ngô An Hiến làm thông phán Diên Châu là do Thuần Túy tiến cử. Cả hai bộ sử “Tân kỷ”“Cựu kỷ” đều chép ngày Tân Mùi có mưa bụi, nay bỏ đi.)

[122] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự tại Nhĩ Anh các, Thái Biện giảng đến phần “Tư thị” trong 《Chu Lễ》, Vua hỏi Biện: “Tiên vương lập quan trị chợ, sao lại chi tiết đến vậy?” Biện đáp: “Tiên vương dựng nước, đặt triều đình trước rồi mới đến chợ. Triều đình để trị quân tử, chợ để trị tiểu nhân, không thể sơ sài được.” Vua nói: “Chợ là nơi đông người tụ tập, nên phải chú trọng việc trị an nơi đông người.”

[123] Ra chiếu cho Tuyên đức lang, Vũ học bác sĩ là Thái Thạc thôi chức bác sĩ, chuyên lo biên soạn pháp độ về quân khí và các vật dụng, vẫn được hưởng lương theo chức cũ. Trước đó, Giám sát ngự sử Vương Hoàn tấu: “Gần đây Vũ học bổ nhiệm thêm sinh viên nội xá, bác sĩ Thái Thạc vì đang biên soạn pháp chế về quân khí nên tạm thôi việc, xin tạm cử quan khác coi thi. Tra xét thấy Thạc từ năm Nguyên Phong thứ 4 kiêm nhiệm biên soạn được bổ làm quan tại đây, ngoài ngày trực thì không đảm nhiệm việc gì khác, đã hơn một năm. Hơn nữa, chức bác sĩ chuyên lo việc giảng dạy, mà Thạc trong một tháng đến trường không quá bảy tám lần. Thạc biết mình không đủ sức kiêm nhiệm, đáng lẽ phải từ chối một việc, nhưng lại tham lương bổng, không tự xin miễn nhiệm, là vì ỷ vào anh là Thái Xác làm tể tướng, nên không ai dám bàn tới. Như thế, sao có thể làm gương cho thiên hạ?” Vì thế mới có mệnh lệnh này.

[124] Cung uyển sứ, Vinh Châu thứ sử, Câu đương quân đầu dẫn kiến ty là Thời Quân Khanh được làm Hoàng thành sứ, Gia Châu đoàn luyện sứ, đề cử Lễ Tuyền quan. Vua cho rằng Quân Khanh từng phục vụ ở phủ Bộc, được Tiên đế đối đãi rất hậu nên mới có lệnh này.

[125] Ngày Quý Dậu, Hộ bộ tâu: “Từ Ân châu đến Thương châu và các nơi khác, hiện có khoảng hơn tám mươi vạn thạch lương thực gửi bán. Xin hạ lệnh cho Ty Đề cử Địch tiện đô đại Hà Bắc lộ, cho phép người dân các châu huyện tại địa phương vay mượn, trong đó hạng thứ ba không được quá hai thạch, hạng thứ tư và thứ năm không được quá một thạch, không được ép buộc, đợi đến mùa hạ và thu năm sau thu hoạch xong thì nộp lại. Những người đã có nợ vay trước đây thì không được cho vay nữa.” Triều đình đồng ý.

[126] Ngày Giáp Tuất, Đại Lý tự xử án tông thất là Tử Tuần, con của Tam ban phụng chức, phạm tội loạn luân với em gái, theo luật đều phải xử tử. Chiếu chỉ tước bỏ danh tịch, vĩnh viễn không được bổ nhiệm, Tử Tuần bị giam cầm tại cung của mình[30], còn em gái bị đưa vào chùa cấm để xuất gia làm ni cô.

[127] Ty Kinh lược An phủ Chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ xin mỗi năm Ty Trà trường cấp một vạn đà trà dự trữ tại Hi châu và Hà châu, trừ vào số tiền định mức hàng năm của Ty Kinh chế, để dùng vào việc mua lương thực tại Lan châu. Triều đình đồng ý.

[128] Thiểm Tây chuyển vận phó sứ, quyền Phu Diên lộ kinh lược ty Phạm Thuần Túy tấu: “Ngày 28 tháng này, nhận được trát tử của Xu mật viện ngày 23 tháng 4: ‘Kinh lược ty Phu Diên lộ tấu, gần đây nhận được văn thư từ Bảo An quân gửi đến điệp của Hựu Châu, nước Hạ muốn cử sứ giả và phó sứ đến triều đình tiến cống, đã chỉ huy các nơi dọc biên giới của bản lộ, không được khinh suất phát binh, tự ý xâm phạm nước Hạ, để tránh gây hại cho việc nghị hòa lớn. Lo ngại các lộ khác không biết việc nước Hạ muốn cử sứ giả đến triều đình tiến cống, nên cũng gửi điệp đến các kinh lược ty Hà Đông, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hi Hà Lan Hội lộ, xem xét việc bản lộ đã làm, một mặt cân nhắc thi hành. Tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng chỉ: Tình hình nước Hạ chưa rõ thực hư, những điều Phạm Thuần Túy chỉ huy, ngoài Phu Diên lộ phải tuân theo, các lộ khác chưa cần thi hành vội vàng. Hãy bảo Phạm Thuần Túy nhanh chóng thu hồi, chờ chỉ dụ khác của triều đình. Nếu đã đến các lộ, thì không được giao xuống cấp dưới.’ Trát giao cho thần phải nhanh chóng tuân theo chỉ dụ triều đình thi hành.

Thần gần đây nhận chiếu chỉ tạm quyền kinh lược Phu Diên, khi mới nhận chức, đã xem xét các chỉ dụ triều đình mà kinh lược ty nhận được trước đây, từng điều suy ngẫm, để hiểu ý triều đình xử lý việc biên giới. Trong đó có hai đạo trát tử ngự tiền, lệnh các lộ suý thần xem xét tướng sĩ có thể đảm bảo thắng lợi tuyệt đối, thỉnh thoảng phái ra ngoài biên giới do thám nơi tích trữ của địch để tấn công, hoặc nếu người Tây đến xin hòa, sứ giả đến biên giới, thì tuyệt đối không được hành động gì thêm. Thần lúc đó nhận được văn thư từ Hựu Châu, quả nhiên có lời thỉnh cầu cử sứ giả tiến cống. Vì các tướng và thành trại đều có người do thám, đều đã biết việc này, thần lo ngại các tướng biên giới khinh suất buông lỏng phòng bị, dẫn đến sơ hở, nên ba lần nghiêm lệnh chỉ huy, dặn dò các tướng dưới quyền nghiêm chỉnh binh giáp, tăng cường phòng bị, cùng với thư khuyên răn của thần, đã khá chu đáo.

Lại xét từ khi Chủng Ngạc nhậm chức suý lộ, cho phép các tướng phái quân xâm nhập biên giới phía Tây, đánh cướp gần, gọi là ‘ngạnh thám’. Thần lo ngại các tướng biên giới lại như lúc đó hành động bừa bãi, không chỉ liên quan đến thể diện trong lúc nước Hạ xin hòa, mà còn vi phạm chỉ dụ trước đó là tuyệt đối không được hành động thêm, nên đã khuyên răn tướng lại, tuân theo mệnh triều đình, không được hành động thêm. Thần nghĩ rằng bản lộ tuy đã phòng bị như vậy, nhưng nếu các lộ lân cận không biết việc nước Hạ cử sứ giả xin hòa, vẫn có hành động, thì sẽ trái với ý chỉ ‘tuyệt đối không được hành động’ trong thánh chỉ. Việc liên quan đến quốc sự, thần không dám vì ranh giới giữa các lộ mà không báo, nên theo thể lệ thông báo việc biên giới từ lâu, gửi văn thư đến các lộ thông báo, không xin giao xuống cấp dưới. Nay nhận được thánh chỉ trước đó, cho là khinh suất. Thần gửi điệp đến các lộ, chỉ là lo ngại các lộ không biết việc nước Hạ muốn cử sứ giả tiến cống, nên nêu đại khái, thông báo cho các lộ biết, cân nhắc thi hành, để các việc biên giới phối hợp với nhau, chứ không dám tin vào việc nước Hạ xin hòa mà khinh suất gửi văn thư, làm lỏng lẻo phòng bị của các lộ. Kính mong thánh từ xem xét kỹ lại, các điệp gửi đến các lộ ban đầu, đã không xin giao xuống cấp dưới, nhưng thần gửi điệp đã hơn mười ngày, thực sự lo không kịp thu hồi. Ý thần thực sự là như vậy.”

(Thuần Túy tấu vào ngày 29 tháng 4 năm thứ 6, nay phụ vào ngày tháng này. Chiếu trách Thuần Túy làm quá khinh suất, ngày 6 tháng 5 có thể tra cứu.)


  1. Theo bản khác và 《Ngọc Hải》 quyển 180, mục Tiền tệ, ghi là '40 vạn quan'. 《Tống sử》 quyển 180, mục Thực hóa chí, Tiền tệ, ghi Giám Bảo Phong đúc '20 vạn quan tiền chiết nhị'.
  2. Chiếu cho các hộ bảo giáp đang tập luyện thuộc hạng ba trở xuống ở phủ Khai Phong: hai chữ 'trở xuống' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 2-25 bổ sung.
  3. Có sai sót chất vấn, chữ 'vấn' nguyên là 'gian', theo 《Tống sử》 quyển 201 《Hình pháp chí》 và 《Tống hội yếu》 chức quan 24-9 sửa lại.
  4. Đạo có thể nói là phạm nghĩa mà không biết xấu hổ 'Nghĩa' nguyên bản là 'Nghị', theo bản trong các bản sửa lại.
  5. Dưới một trăm quan thì hạn trong ba năm 'Hạn' nguyên bản là 'Y', theo bản trong các bản sửa lại.
  6. Quý Mùi 'Mùi' nguyên là 'Mão', theo bản các các sửa.
  7. Phụ mã đô uý Tiền Cảnh Trân phải xét duyệt theo quy định 'Pháp' nguyên là 'Hồng', theo bản các các sửa.
  8. Giang, Hoài, Kinh, Chiết sáu lộ 'Hoài' nguyên là 'Hồ', theo 《Tống sử》 quyển 343 truyện Tưởng Chi Kỳ và quyển 167 chức quan chí Phát vận sứ, Đô chuyển vận sứ điều sửa.
  9. Hầu Vương 'Vương', bản các và 《Tống hội yếu》 binh 12 chương 9 chép là 'Ngọc'.
  10. Vương Hà và những người khác đều được thăng hai bậc, chữ 'thăng' nguyên bản chép là 'tuyển', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  11. Trương Tái Dữ 'Dữ', bản các chép là 'Hưng'.
  12. 'Đệ nhị' nguyên là 'Đẳng', theo nghĩa văn mà sửa
  13. Ngày 18 tháng 8, '18' nguyên bản là '16', theo quyển 338《Nguyên Phong lục niên tháng 8 ngày Tân Mão》sửa lại.
  14. Vương Củng Thần làm Vũ An quân Tiết độ sứ, hai chữ 'Vũ An' nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo chú thích và 《Tống sử》 quyển 318, truyện Vương Củng Thần sửa lại cho đúng.
  15. Dẫn đầu phá giặc, chữ 'giặc' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung.
  16. Ôn Châu đoàn luyện phó sứ, chữ 'luyện' nguyên là 'giáo', chữ 'phó' nguyên bản thiếu, theo sách này quyển 309, năm Nguyên Phong thứ 3, tháng nhuận 9, ngày Nhâm Tý sửa và bổ sung.
  17. Ngày 12 tháng 7, chữ 'Thất' nguyên bản viết là 'Thập', căn cứ theo quyển 337 sách này, ngày Ất Mão tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 6 sửa lại.
  18. Nếu thông được con đường này, chữ 'này' nguyên bản là 'bắc', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 88, phần 'Thảo Mai Sơn Man' sửa lại.
  19. 'Quân hưng' nguyên là 'quân dữ', theo các bản sửa.
  20. Theo lời thỉnh cầu của Đại Lý Thiếu Khanh Lữ Thiếu Liêm, 'Lữ Thiếu Liêm', các bản và 《Tống sử》 quyển 179, 《Thực hóa chí》, phần Kế toán đều chép là 'Lữ Hiếu Liêm'.
  21. Lý Tự Lương, chữ 'Tự', các bản chép là 'Sĩ'.
  22. Ngạc thủ hưng biên sự, chữ 'hưng' nguyên là 'dữ', theo các bản và 《Tục Tư Trị Thông Giám》 quyển 77 sửa lại.
  23. Chữ 'luyện' trong Quả Châu đoàn luyện sứ nguyên bản là 'giáo', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 349, truyện Lưu Xương Phụ sửa lại.
  24. Chữ 'diệt' nguyên bản là 'giảm', căn cứ theo bản trong các sách sửa lại.
  25. Các lộ tăng thêm viên chức đến mười hai người: chữ 'nhị' nguyên bản viết là 'nhất', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 58-14 sửa lại.
  26. Chữ 'nguyện' (muốn) nghi là chữ 'cố' (vốn).
  27. Chữ 'lệ' (thể lệ) nguyên là chữ 'lại' (lại viên), căn cứ vào các bản khác mà sửa.
  28. Lý chính Đỗ Thuần 'Lý', các bản và bản in hoạt tự đều viết là 'nhi', nghi ngờ là đúng.
  29. Thông trực lang Giám sát ngự sử Vương Hoàn, dưới 'Thông trực lang' nguyên có thừa hai chữ 'Vương Hoàn', theo các bản mà bỏ.
  30. Tử Tuần bị giam cầm tại cung của mình, 'Cung' nguyên bản là 'Quan', theo bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.