VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 335: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)
Từ tháng 5 đến hết tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông.
[1] Tháng 5, ngày Bính Tý mùng một, Vua ngự tại điện Văn Đức.
[2] Nước Vu Điền dâng sản vật địa phương, được tiếp kiến tại điện Diên Hòa. Vua hỏi: “Rời nước các ngươi được bao lâu rồi?” Đáp: “Bốn năm.” “Đi đường mất bao lâu?” Đáp: “Hai năm.” “Đi qua những nước nào?” Đáp: “Đường đi qua Hoàng Đầu Hồi Hột, Thảo Đầu Đạt Đát, Đổng Chiên, v.v.” Vua lại hỏi: “Ở lại Đổng Chiên bao lâu?” Đáp: “Một năm.” Vua hỏi: “Đạt Đát có thủ lĩnh và bộ lạc không?” Đáp: “Vì thiếu cỏ và lương thực nên dân cư phân tán khắp nơi.” Vua quay lại nói với Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất: “Đạt Đát thời Đường giáp với Hà Tây và Thiên Đức, nay Hà Tây và Thiên Đức bị ngăn cách ở biên giới phía bắc. Từ thời Thái Tổ, họ từng vào cống, sau đó đường sá bị ngăn trở, việc triều cống bị gián đoạn.” Vua lại hỏi: “Có phải Đạt Đát này từng giao chiến với nước Hạ không?” Đáp: “Đạt Đát và họ Lý có thù truyền kiếp.” Vua lại hỏi: “Đi qua các nước, có bị cướp bóc không?” Đáp: “Chỉ sợ Khiết Đan thôi.” Vua lại hỏi: “Khoảng cách từ đường đi đến Khiết Đan là bao nhiêu?” Đáp: “Hơn nghìn dặm.”
(Sách 《Tân Kỷ》 chép việc Vu Điền vào cống ngày Bính Tý, sách 《Cựu Kỷ》 chép phụ vào cuối năm.)
[3] Chiếu rằng: “Vào ngày đại kỵ, các ty thuộc Lục bộ không được nghỉ, các quan chấp chính phải ra về sớm, các ty khác không được theo ra.”
[4] Chiếu rằng: “Số tiền bán muối theo phép mới do Kinh Đông chuyển vận phó sứ Ngô Cư Hậu phụng hành là 36 vạn quan, lệnh chuyển đến kho Tả Tàng ở Bắc Kinh để phong tồn. Từ nay mỗi năm phải báo cáo số lượng.” Ban đầu, triều đình sợ Ngô Cư Hậu tâu số tiền bán muối nhiều nhưng là số ảo, Vua muốn kiểm tra thực tế nên có chiếu này.
(Ngày 1 tháng 6, ngày 17 tháng 6.)
[5] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Tướng thứ năm báo, Tuần kiểm Vương Thế Long của trại Hi Ninh, bảo Tiêu Khanh, đuổi giặc đến cửa Thủy Đông, tử trận; Thập tướng Vương Hòa cùng mười ba người khác đều bị thương.” Chiếu rằng: “Thế Long tự ý dẫn quân vượt hào, lại không biết phòng bị phục binh, khiến quân sĩ bị thương vong. Nếu còn sống, triều đình ắt sẽ trách phạt nặng, nên không ban ân điển nữa. Những người bị thương nặng nhẹ thì chiếu theo quy định, người tử trận thì chiếu theo lệnh thua trận.”
[6] Chiếu cải việc tôn thụy của Nhân Tông, Anh Tông hoàng đế thành phụng thượng huy hiệu, lệnh các quan Tam tỉnh cùng Thái thường tự xem xét quyết định.
[7] Ngày Đinh Sửu, chiếu cho Kinh chế ty Hi Hà lộ: “Xét trước khi dùng binh, mỗi năm kinh hoạch về tài lợi đều có định mức, hơn nữa khi mới lập ty, những người phụ trách đều đã được thưởng theo mức độ lợi nhuận thu được. Từ năm Nguyên Phong thứ tư về sau, hàng năm không thấy ty này báo cáo số thu tăng, giảm, hiện có và chi tiêu, không rõ nguyên nhân. Hãy truyền lệnh cho ty này khẩn trương phân tích tâu lên.”
(Theo《Ngự tập》, cần tra cứu thêm phần phân tích sau này để bổ sung.)
[8] Ngày Mậu Dần, Đề cử Thiểm Tây Mãi mã ty tâu: “Châu Giai tăng giá trà, sợ người Phiên không đem ngựa đến, xin tăng giá ngựa.” Chiếu rằng vẫn giữ giá cũ, nếu ngựa của người Phiên không muốn đổi trà thì trả bằng tiền và lụa.
(Ngày 21 tháng 6.)
[9] Chuyển vận ty Quảng Nam Tây lộ tâu: “Châu Nghi, Đằng, Dung có mỏ thiếc trắng và chì đen, xin đặt ty đúc tiền ở Châu Ngô, định mức 15 vạn quan. Số tiền lãi xin dùng để trả nợ còn thiếu cho kho Nội tàng và nợ cung ứng 70 vạn quan. Sau khi trả hết, sẽ để dành dùng cho quân nhu.” Chiếu rằng: “Tài lợi Quảng Tây lâu nay khốn khó, gần đây việc quân càng thêm khó khăn. Hãy theo lời tâu.”
[10] Ngày Kỷ Mão, ban chiếu: “Đại thủ lĩnh Vu Điền[1]vẽ bản đồ khoảng cách xa gần giữa các nước Đạt Đát và biên giới nhà Hán, giao xuống cho Lý Hiến.” Vì trước đây có chỉ dụ triều đình giao cho Hiến cử người đi đường tắt qua Đổng Chiên để sứ giả đến Đạt Đát.
[11] Lễ bộ tâu: “Kinh điển có ghi về áo cừu lớn nhưng không nói rõ chế độ, chỉ có thời Lương, Tùy, Đường là có thể tra cứu được. Xin dựa theo chế độ nhà Tùy, dùng da dê đen làm áo cừu, lụa đen làm cổ tay áo và viền trong, tay áo rộng có thể cử động khuỷu tay, dài có thể che đến đầu gối. Kính xét theo lời Hoàng Khản, dưới áo tế phục có áo bào kiển, dưới áo bào kiển có áo trong; dưới áo triều phục[2], dưới áo thế có áo cừu, dưới áo cừu có áo trong. Như vậy thì nay khi tế giao, áo trong nên mặc dưới áo cừu lớn, độ rộng hẹp của tay áo, dài ngắn của áo đều phải giống như áo cừu. Kính xin sửa đổi chế độ.” Được chấp thuận.
[12] Ban chiếu gia tặng chức Anh Châu thứ sử cho Hoàng thành sứ Tống Giới. Vì con ông là Tư tâu rằng Giới có công thu phục thành Thạch Bảo nhưng chưa được ban thưởng đã mất.
[13] Thư Châu phòng ngự sứ Khắc Đôn dâng lên 10 quyển văn tập của cha là Bảo Tĩnh quân tiết độ sứ, Tiêu quốc công Thừa Cán. Chiếu rằng: “Cha con Thừa Cán nhiều đời nổi tiếng về văn chương, Nho học trong hàng tông thất, triều đình có chính sách khen ngợi người hiền tài, nên có sự ban thưởng. Có thể gia tặng tước An Định quận vương, Khắc Đôn vẫn ban lời khen ngợi.”
[14] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu phạt tiền đồng 20 cân đối với các quan tiền Giám ty Lưỡng Chiết lộ là Tô Giải, Hồ Tông Sư, Chu Minh Chi, vì tội không tố giác Tri Tú Châu Ngô An Thế về tội tham nhũng.
[15] Chiếu cho Cung phụng quan Quách Duy Hiền dẫn 90 kỵ binh, chém được 56 thủ cấp, bản thân bị trọng thương, cùng tiên phong phá giặc; Tả Tàng khố sứ Cao Vĩnh Dực[3] dẫn 52 kỵ binh, chém được 102 thủ cấp, mỗi người được thăng 5 cấp, những người khác được thăng chức và ban tơ lụa theo thứ bậc. Đây là khen thưởng công lao xuất quân của binh sĩ thuộc bộ của Tư Hổ. Lại chiếu cho Cao Vĩnh Dực chỉ được thăng 2 cấp, làm Hoàng thành sứ, Quý Châu thứ sử, còn 3 cấp kia cho phép truyền lại cho người thân trong vòng 5 đời.
[16] Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Phạm Thuần Túy xin cho đề điểm hình ngục Hồ Tông Hồi[4] không cần thân hành quản lý việc tiếp đón người Tây Hạ. Chiếu rằng: “Việc đối đãi với người Tây Hạ, triều đình đã có quy định thường lệ. Các quan lại địa phương nếu cung ứng quá mức hoặc không đủ, đều phải trị tội. Thuần Túy trước đây vì hành động hấp tấp, đã từng bị quở trách, nay lại tâu trình, chắc là muốn che đậy lỗi trước. Từ nay nên cẩn trọng trong mọi việc, làm sao cho hợp lý, đừng để sinh sự nơi biên giới.”
(Ngày 29 tháng 4, Thuần Túy tâu trình có thể tham khảo.)
[17] Ngày Nhâm Ngọ, Đơn Châu đoàn luyện phó sứ, Viên ngoại lang Đông Phương Giới dâng lên 《Phi Hổ Lập Thành Trận Đồ》 và phép “Bộ nhân chế nhung kị”, xin được diện kiến trình bày lợi hại. Chiếu cho Xu mật viện triệu đến hỏi.
[18] Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn tâu rằng: “Phụng nghị lang Giáp Thiện được bổ làm Thái bộc tự thừa. Xét Thiện vừa bị kết tội bất chức, đang bị bản đạo điều tra, mà lại được bổ làm chức sự quan, lý lẽ có chỗ chưa ổn.” Vua phê: “Ngày bổ nhiệm Giáp Thiện, bản phòng cũng nên kiểm tra lại mệnh lệnh điều tra gần đây, trình bày với chấp chính. Trong mấy ngày qua, khen chê bất nhất, rất mất quốc thể. Lệnh bổ Thái bộc thừa có thể không thi hành nữa.”
[19] Ngày Quý Mùi, ban chiếu rằng: “Nghe nói ở lộ Phu Diên, ngựa mới được phân phối cho các quân, có nhiều binh lính mới chưa thể ra trận nhưng lại được nhận ngựa tốt, còn những người lính cũ có tài võ nghệ lại thường thiếu ngựa, điều này rất trái với ý của triều đình. Giao cho Lưu Xương Tộ xem xét, nếu đúng như vậy thì lập tức điều chỉnh lại việc phân phối ngựa, và báo cáo đầy đủ số lượng lên triều đình.”
[20] Quốc tử tư nghiệp Chu Phục tâu: “Việc nuôi dưỡng nhân tài không nơi nào tốt hơn Thái học, nhưng các sĩ tử hiếm ai biết bắn cung. Nay trường dạy võ thuật thuộc về bản giám, xin cho phép học sinh mỗi khi có ngày nghỉ được tập bắn cung.” Triều đình đồng ý.
[21] Ty chuyển vận lộ Quỳ Châu tâu: “Ở châu Vạn có nhiều mỏ sắt, xin được lập tiền giám, mỗi năm có thể thu được lợi nhuận ròng 32.000 quan, để đáp ứng nhu cầu của bản lộ.” Triều đình đồng ý.
[22] Ngày Giáp Thân, phân công các quan đại thần cầu mưa.
[23] Lễ bộ tâu: “Thái thường tự tu định nghi lễ tế giao vào năm Hạ chí, hoàng đế thân chủ tế Hoàng Địa Kỳ ở phương khâu phía bắc, và nghi thức do thượng công đảm nhiệm.” Chiếu chuẩn y. Nghi thức tế bắc giao giống hệt như tế nam giao, chỉ thay đổi tên nhạc vũ và không bổ nhiệm đủ quan chức, còn số lượng đồ tế, nhạc cụ, lễ vật, sử quan dâng sách chúc, đều giống như khi hoàng đế thân chủ tế.
(Ngày 18 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 5, ngày 12 tháng 6, và ngày 18 tháng 3 năm thứ 7.)
[24] Chiếu rằng: “Thời tiết nóng nực đang đến gần, các tù nhân ở phủ Khai Phong và Đại Lý tự phải được xét xử nhanh chóng. Các án tấu trình lên, đô tỉnh phải hoàn thành trong vòng ba ngày.”
(Sách cũ chép: “Ngày Giáp Thân, ban chiếu: Trời nóng, phủ Khai Phong và Đại Lý tự phải xét xử nhanh chóng.” Sách mới sửa lại: “Vì thời tiết nóng, yêu cầu phủ Khai Phong và Đại Lý tự xét xử nhanh.”)
[25] Ngày Bính Tuất, Vua xuống chiếu cho Từ bộ trình bày số lượng độ điệp cấp cho tăng ni năm trước, so sánh với năm Nguyên Phong thứ 4 xem nhiều hay ít rồi tâu lên[5]. Sau đó, Từ bộ so sánh với số liệu năm thứ 4[6], tổng cộng nhiều hơn 5.700 tờ. Do đó, lại xuống chiếu: “Từ nay về sau, nếu số lượng độ điệp cấp cho tăng ni vượt quá số lượng hàng năm, thì chưa được in cấp, phải trình bày trước rồi tâu lên.”
[26] Ngự sử Hoàng Giáng và các quan khác tâu: “Trước đây, các Ngự sử đều được phép tâu việc, cùng tham gia định đoạt công việc, chỉ khi nhận chiếu xét án mới luân phiên cử người. Gần đây, do khôi phục chức Sát án, nên sáu vị Ngự sử chia nhau phụ trách sáu án, vì thế khi xét xử vụ án ở Thái học, có chỉ lệnh Trung thừa cùng với Ngự sử phụ trách án đó xử lý triệt để, từ nay về sau cứ theo lệ này. Sau đó, chia ba vị phụ trách tâu việc, ba vị phụ trách sát án, nhưng bản đài không kịp thời trình bày rõ, vẫn giữ theo chỉ huy trước đây, chỉ giao cho Ngự sử phụ trách án đó xử lý triệt để, nên từ đó các Ngự sử tâu việc không còn tham gia xét án nữa. Xét theo 《Đường Lục Điển》, chức Thị ngự sử có nhiệm vụ giám sát, tố cáo trăm quan, xét xử các vụ án; chức Giám sát ngự sử chia nhau giám sát sáu ty của Thượng thư, phát hiện những sai phạm. Nay các quan tâu việc phần lớn giống như chức Thị ngự sử thời Đường, còn các quan sát án thì giống như chức Giám sát ngự sử thời Đường. Theo chế độ cũ của triều đình, có tên gọi ‘Tứ suy’, gọi chung là ‘Hậu suy’, và các Ngự sử của ba viện đều tham gia phụ trách. Nay việc xét xử các vụ án chỉ giao cho các quan sát án, mà gần đây theo chỉ dụ triều đình, việc định đoạt công việc của sáu bộ cũng giao cho bản sát[7], điều này gây cản trở và làm hỏng chức trách kiểm sát. Hơn nữa, nếu có sơ suất trong việc giám sát các ty vi phạm, triều đình thường xuyên gia tăng sức ép, trong khi các Ngự sử tâu việc vừa không tham gia định đoạt, lại không tham gia xét án, nên việc ký tên và xử lý công văn càng ngày càng ít đi. Xin ban hành điều lệ riêng để xác định rõ nhiệm vụ.”
Chiếu lệnh lập pháp trình lên. Sau đó, Thượng thư tỉnh có trát tử: “Lệnh giao văn bản định đoạt về bản bộ, nếu cần định đoạt lại, thì giao về Ngự sử đài bản sát.”
[27] Giáng lại tâu: “Việc khó nhất không gì bằng án nghi ngờ. Việc mà châu quận không thể quyết định thì giao cho Đại Lý, Đại Lý không thể quyết định thì giao cho Hình bộ, Hình bộ không thể quyết định thì sau đó giao cho Ngự sử đài, nếu không phải là án nghi ngờ nghiêm trọng thì chắc chắn không đến mức giao cho đài để xét lại. Nếu các quan Ngự sử liên kết với nhau không như Đại Lý, Hình bộ, thì chắc chắn không thể đảm đương được trách nhiệm này. Gần đây có chỉ dụ: ‘Văn bản định đoạt gửi về bản tào, nếu hợp lệ để xét lại thì gửi về bản sát.’ Thần nghĩ rằng việc quyết định hình danh là việc trọng đại, nên vẫn theo lệ cũ để các quan cùng tham gia quyết định, các việc khác thì tùy theo tào mà giao cho sát. Như vậy, việc lớn nhỏ phức tạp hay đơn giản đều được xử lý thích đáng, việc xét án nghi ngờ sẽ hiếm khi không đúng.” Sau đó, Hình bộ xin: “Việc xét án, tâu việc thì các quan Ngự sử luân phiên xử lý; việc quyết định hình danh thì các quan cùng tham gia quyết định; các việc khác tùy theo tào mà giao cho sát[8].” Được chấp thuận.
[28] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Tri phủ châu Chiết Khắc Hành chiêu nạp viên kiềm hạt giả ở biên giới phía tây là Hương Bô thông báo về tình hình và số lượng binh mã, đã lệnh cho Hương Bô chọn người đáng tin cậy, vào biên giới phía tây để chiêu dụ các thủ lĩnh cấp cao đầu hàng.” Chiếu rằng: “Số lượng binh mã mà Hương Bô báo cáo khác nhiều so với các nguồn tin thám báo khác, xem ý đồ của hắn là che giấu sự yếu kém của nước Hạ. Nay dù hắn đã quy thuận, nhưng cho về phủ châu, sai người đi chiêu dụ các thủ lĩnh ở biên giới giặc, e rằng cũng không thật lòng, lại có thể làm lộ việc biên giới. Giao cho Vương Cư Khanh xem xét kỹ hơn, lệnh cho Quách Trung Thiệu bí mật đề phòng.”
[29] Ngày Đinh Hợi, chiếu rằng con gái hoàng tộc không được kết hôn với người đã từng kết hôn, người tái giá thì không áp dụng quy định này.
[30] Chiếu rằng: “Những binh lính bị giáng cấp làm tạp dịch trong doanh cấm quân, ở kinh thành có thể luân phiên tháng để thích phối, trước hết là Điện tiền, sau là Mã quân, rồi đến Bộ quân ty, xoay vòng như vậy.”
[31] Chiếu rằng các quan được ân điển xin bổ nhiệm, từ Thừa vụ lang trở lên được giảm một năm, các đại tiểu sứ thần giảm một năm một quý xét duyệt, tuyển nhân được miễn thi, các quan chấp chính theo chỉ đạo trong tháng 5 năm thứ 5.
[32] Ngày Mậu Tý, quyền Đề điểm Hà Bắc Tây lộ hình ngục Vương Tử Uyên kiêm chức Đồng thố trí Hà Bắc địch tiện. Bãi bỏ Ty Đề điểm Hà Bắc địch tiện, việc quản lý lương thảo đều giao cho Ty Thố trí đảm nhiệm, số tiền của Ty Đề cử địch tiện được tách riêng quản lý, Ty này sẽ cung ứng lương thảo cho những nơi cần thiết, hàng năm căn cứ vào số lượng báo cáo lên Chuyển vận ty, cuối năm tâu lên số liệu, số tiền địch tiện cũ sẽ được hoàn trả.
(Bản chí ghi rằng Đề điểm Hà Bắc Tây lộ hình ngục Vương Tử Uyên kiêm chức Đồng thố trí, sau đổi thành Ty Thố trí Hà Bắc địch tiện. Ngày 11 tháng 3 năm thứ 4, bắt đầu sai Kiển Chu Phụ thố trí.)
[33] Tây đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Tống Minh được bổ làm Cung bị khố Phó sứ, kiêm chức Câu đương Quân đầu Dẫn kiến ty[9], vì đã từng phục vụ Tiên đế khi còn ở phiên trấn.
[34] Chiếu rằng: “Trước đây tu sửa các pháo đài Chất Cô, Thắng Như, Uất Đẩu Bình ở Lan Châu, nhưng không thể phòng thủ, đã bị phá bỏ. Các quan từng khảo sát và bảo đảm việc này là Lý Hiến, Miêu Thụ, Lý Hạo, Khang Thức được đặc cách tha tội, còn Miêu Thụ, Nhạc Sĩ Tuyên, Diêm Nhân Vũ phải trả lại sắc thư, bạc lụa đã được ban.”
(Ngày Đinh Mùi tháng 2, có thể tra cứu.)
[35] Lễ bộ Thượng thư Hoàng Lý tâu: “Một ngày trước khi tế lễ, các quan từ cung phải trai giới, nhưng từ trước đến nay các quan vẫn thường qua lại vì công việc liên quan. Hơn nữa, các quan trong tỉnh đã có lệnh cấm ra ngoài, xin cho dù ở trong từ cung cũng không được thông yết.” Được chấp thuận. Hoàng Lý đến yết kiến Giám tế Vương Hoàn nhưng không được tiếp, nên mới có tấu này.
(Chu bản[10] đã bỏ đi việc Hoàng Lý yết kiến Vương Hoàn.)
[36] Hình bộ tâu: “Nghe nói các cổng thành ở kinh đô có lúc không mở đóng đúng giờ, gây trở ngại cho công việc công tư. Xin lệnh cho các cổng thành mới đều lấy thời điểm mặt trời mọc và lặn làm chuẩn, giao cho Khai Phong phủ kiểm tra.” Được chấp thuận.
[37] Trước đây, người từng làm Tri châu Hồ Châu là Đường Thục Vấn tâu rằng: “Các châu quận ở nơi trọng yếu thường phải tiếp đón khách khứa qua lại, có khi khách không đến thì bị gièm pha, giận dữ. Tình cảm thông thường khó tránh khỏi thiên vị riêng tư, đôi khi vì thế mà bỏ bê công việc. Các lại viên ôm hồ sơ chạy khắp nơi để xin quyết định, dẫn đến việc rò rỉ thông tin và chậm trễ; dân thường mang đơn kiện đến quan phủ lại không biết quan trên đi đâu, khiến việc kiện tụng không được giải quyết kịp thời. Huống chi quan lại trong ngoài đều có nhiệm vụ, thần xin các châu quận cấm tiếp khách theo quy định của các cơ quan trong kinh.” Chiếu chỉ cho Hội đồng biên soạn luật xem xét lại. Sau đó, Hội đồng biên soạn xin rằng các chức Tri châu, Thông phán, Huyện lệnh không được đi tiếp khách ngoài ngày nghỉ, trừ khi thăm người thân, liên quan công việc, hoặc được phái đi sứ, hoặc là chức Tri châu, Thông phán, Đề cử quan, Kiềm hạt trở lên thì được phép.
[38] Tây Thượng Các Môn Sứ, Quả Châu Thứ Sử Tạ Lân tâu: “Trước đây theo chỉ dụ triều đình, giao bốn trại Thác Khẩu, Tiểu Do, Quán Bảo, Phong Sơn và kho Nhược Thủy thuộc về Châu Thành. Vì Châu Nguyên và Châu Thành vốn lấy sông Mai Khẩu làm ranh giới, nay do cắt bốn trại nên lấy cửa sông Hồng Giang làm ranh giới. Từ cửa sông Hồng Giang đến sông Mai Khẩu khoảng ba trạm, từ trại Thác Khẩu đến sông Mai Khẩu thuộc huyện Lô Dương khoảng bốn trạm. Việc cắt đất của Châu Nguyên để thêm vào Châu Thành quá rộng, không chỉ khiến Châu Nguyên thiếu hộ khẩu, thuế má, binh lính để thành quận, mà Châu Thành đang chiêu dụ các động Thượng Hòa, Đàm Khê cũng có thể mở rộng lãnh thổ. Hơn nữa, các động Kết Lang, Cửu Nha nằm ở phía tây nam trại Thác Khẩu, hiện thuộc Châu Nguyên, đường thủy bộ đều qua trại Thác Khẩu. Nếu các động nổi loạn, Châu Thành xa xôi không thể kiểm soát, Châu Nguyên lại bị trại Thác Khẩu ngăn cách, khó xử lý kịp thời, có thể sinh sự. Xin cho hai trại Tiểu Do, Thác Khẩu vẫn thuộc Châu Nguyên, còn các động Đại Do thuộc về Châu Thành.” Triều đình đồng ý.
(Lúc này Tạ Lân làm Tri châu Nguyên, lo việc quản lý các động ở Châu Nghi, xem ngày 30 tháng giêng, ngày 11 tháng năm năm thứ 7, ngày 1 tháng tám, ngày 13 tháng năm năm thứ 6).
[39] Chiếu rằng những tội nhân phải di chuyển đến các lộ Quảng Nam, Kinh Hồ, Phúc Kiến, Giang Nam, đều phải đi làm tạp dịch ở Châu Đăng.
[40] Ngày Canh Dần, vì trong kinh thành hạn hán, Vua ngự tại điện Sùng Chính để xét xử và quyết định các tù nhân bị giam giữ.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép việc này vào ngày Tân Mão, nhưng sách 《Tân kỷ》 theo 《Thực lục》 thì ghi là ngày Canh Dần.)
[41] Hộ bộ tâu: “Tri Châu Quỳnh là Lưu Uy xem xét việc phân phối muối cho dân chúng ở các quận Xương Hóa, Vạn An, Chu Nhai thuộc Châu Quỳnh. Từ hạng nhất đến hạng ba, mỗi người được cấp một cân muối mỗi tháng; hạng tư, hạng năm cùng khách hộ, tăng đạo, đồng hành thì mỗi người được nửa cân muối mỗi tháng, không tính theo ngày, đến cuối năm phải mua đủ. Nếu có người chết thì xóa tên; có người mới đến thì thêm vào. Xét thấy số lượng muối phân phối quá nhiều, xin giảm một nửa số muối cho hai hạng trên, còn lại theo quy định của Lưu Uy.” Vua đồng ý.
[42] Chiếu rằng: “Ung Vương Hạo và Tào Vương Quần đã nhiều lần xin xây phủ đệ bên ngoài, trong hơn mười năm đã dâng hàng chục tờ tấu. Mặc dù nhiều lần khuyên ngăn vì việc họ vào hầu cận ở cung Bảo Từ vào ngày sóc vọng là không tiện, nhưng họ vẫn kiên quyết xin mãi. Gần đây, Hoàng thái hậu cũng nhiều lần nhắc đến việc này và đã đồng ý cho họ. Nên theo lời xin, cho Học sĩ viện ban chiếu tuyên dụ, đồng thời giao cho hữu ty đo đạc đất đai rồi tâu lên.” Sau đó, Công bộ tâu: “Đã xem xét khu vực phía bắc thành, nơi có giáo phường của quân mã, có thể xây phủ đệ.” Vua đồng ý.
[43] Ngày Tân Mão, Vua triệu tập các quan phụ chính đến vườn sau để xem lúa mạch.
[44] Chiếu cho Ty Chuyển vận Thiểm Tây: “Nghe nói mùa xuân và mùa thu thiếu mưa, các quan địa phương đã cầu đảo nhưng chưa linh nghiệm. Nên tìm thêm các danh sơn và đền linh, cử quan viên cung kính mang chiếu chỉ của triều đình đến, thành tâm cầu đảo.”
[45] Ngự sử Dương Úy tâu: “Trung thừa Thư Thiện không bãi việc cấp tiền bếp của Viện Học sĩ, Đại Lý tự đã hạch hơn trăm ngày, nghe nói án tấu đã xong, nhưng các khanh, thừa giữ ý kiến khác nhau, tờ tâu còn để lại chưa quyết định. Thần nghĩ rằng những vật phẩm cung cấp mà Thiện nhận đều có sổ sách ghi chép, lẽ ra không có lý do gì để giấu giếm không nhận. Các quan chắc chắn dựa vào lời đàn hặc của Đô tỉnh để tham khảo chứng cứ, trải qua nhiều tháng ngày, nay nên tìm ra sự thật, sao có thể còn có ý kiến bác bỏ? Đó chắc chắn là muốn thay đổi tình hình vụ án, mà âm thầm nuôi ý định phụ họa và chờ đợi. Xin hãy xem xét, đừng để vụ án kéo dài, gây hại đến quốc thể.”
(Bản Chu bỏ đi.)
[46] Ngày Nhâm Thìn, đổi tên trại Đống Lũng thành Thông Tây Trại, thuộc quân Thông Viễn.
[47] Ngày Quý Tỵ, Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu Lý A Mại được làm Nội tàng khố phó sứ, vì theo Lý Hạo ra khỏi biên giới, chém được thủ cấp.
(A Mại là con của Trung Kiệt, xem ngày Bính Tý tháng 6 nhuận.)
[48] Chiếu cấp 25 vạn quan tiền từ Ty đề cử Kinh Tây để ứng phó lương thảo cho chợ Lan Châu.
[49] Phạm Thuần Túy tâu: “Nay xét thấy những việc tấu xin của Chủng Ngạc trước khi chết đều do Từ Huân xử lý, Huân đã bị cách chức.” Chiếu cho Trương Nhữ Hiền, Mạch Văn Bính ở Ty chế trí Diên Châu hạch tội Huân, hạn trong 10 ngày phải hoàn thành án tấu.
(Ngày 20 tháng 4, ngày 21 tháng 8[11], ngày 25 tháng 10.)
[50] Chiếu cho các Ty chuyển vận, đề cử Thiểm Tây và Ty kinh chế Hi Hà Lan Hội Lộ, nhân lúc mùa màng thuận lợi, xem xét tình hình các châu, huyện, thành, trại cấp bách hay thong thả, mỗi nơi hạn định số lượng, tự cử quan thu mua, mỗi tháng các ty phải báo cáo số lượng.
[51] Ngày Giáp Ngọ, Đại Lý tự trình lên vụ án Đại Lý chính Đỗ Thuần bàn bậy về việc phèn khách, xử tội không nên nói quan trên, giảm tội công, đánh roi, nên xét xử nhẹ. Chiếu chỉ rằng Đỗ Thuần đặc biệt bị truất một chức, bắt thôi việc, sau này phục chức, vĩnh viễn không được coi việc hình ngục.
(Ngày 25 tháng 4.)
[52] Ngự sử Hoàng Giáng tâu: “Theo sắc lệnh Lục sát, các văn bản đàn hặc, quan sát bản xứ cùng Thừa, Tri tạp cùng ký tên, nếu là việc trong nhiệm kỳ cũ, Thừa, Tri tạp được miễn ký tên, các án kiểm tra lẫn nhau. Xét kỹ việc các án kiểm tra lẫn nhau, chỉ là nếu quan sát có việc trong nhiệm kỳ cũ cần đàn hặc, vì nghĩa có điều hiềm nghi, lý nên gửi lẫn nhau. Nay các án vốn chưa từng nhận việc kiểm tra lẫn nhau gây trở ngại, đã không liên quan, không thể kiểm tra cử. Nếu một án có sai sót, trách chung các án, tức là một quan kiêm nhiệm trách nhiệm Lục sát, e rằng ý pháp vốn không như vậy. Đại Lý tự hiện đang yêu cầu cung cấp tên họ quan lại kiểm tra lẫn nhau, chưa dám báo cáo.” Chiếu chỉ rằng từ nay các án gửi lên đài chuyển kiểm tra, nên gửi mà không gửi, xử tội riêng, việc kiểm tra lẫn nhau vẫn bãi bỏ.
[53] Tả ty lang trung Ngô Ung tâu: “Ruộng mùa hè ở Thiểm Hữu được mùa. Từ khi quân đội dấy lên, kho lẫm trống rỗng, xin cho dân gian nợ nần đều được phép nộp bằng thóc gạo theo giá thị trường tăng thêm phần trăm.” Chiếu chỉ rằng phần tăng không được quá một phần, đợi mùa thu này xem xét mức độ được mùa, lại xin chỉ.
[54] Ty chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ tâu rằng giặc Tây xâm phạm Lan Châu, phá cửa Tây, giết Quản câu, Tả thị cấm Vi Định, và cướp bóc người Vu Điền thuê chở lương cùng lạc đà. Chiếu chỉ truy tặng Vi Định chức Văn Tư sứ, theo lệ Vĩnh Lạc ban ân, người và súc vật Vu Điền bị cướp bóc, lệnh Ty chế trí ưu đãi.
[55] Ngày Ất Mùi, chiếu chỉ: “Lan Châu mở rộng xây thành phía Bắc, thành phía Nam nếu giữ nguyên, thì thành quá rộng, khó phòng thủ, nếu thường ngày đặt nhiều quân phòng thủ, lại hao tốn lương thực. Đợi khi xây xong thành phía Bắc, sẽ bỏ thành phía Nam.”
[56] Ty kinh lược an phủ Hi Hà Lan Hội lộ xin ban 300 tờ tuyên trống, được chấp thuận.
[57] Chiếu cho tướng thứ tám của Kinh Nguyên lộ là Lương Dụng và phó tướng Triệu Tiềm, mỗi người phạt 20 cân đồng. Vì bộ hạ của họ là Thường Bân có lời lẽ xúc phạm đến xa giá, lời nói quá độ không thể ghi chép tâu lên, nên Kinh Lược ty đã báo lên.
[58] Ty Chuyển vận lộ Hà Đông tâu: “Từ khi quân sự khởi phát đến nay, chi phí rất lớn, lại vừa thu phục được trại Gia Lô và Ngô Bảo, tăng thêm quan chức và binh mã, chi phí càng nhiều gấp bội. Gần đây được chỉ dụ dùng tiền giấy để mua thóc, nhưng bản ty thiếu tiền chi dụng, xin theo lệ Thường Bình, tiếp tục cấp 35 vạn quan tiền giấy Kinh Sáo, theo lệ thêm lãi, để có thể chiêu mộ thương nhân mua sắm lương thảo.” Chiếu cho theo lệ năm cấp 30 vạn quan tiền giấy muối cuối năm.
[59] Ngày Đinh Dậu, Ty Chế trí giải diêm lộ Thiểm Tây tâu: “Sau khi thăm dò, giá muối ở biên giới tăng cao, xin cho bản ty tùy nghi tăng giá bán, đợi khi biên sự yên ổn sẽ giảm bớt.” Được chấp thuận.
[60] Kinh Lược ty lộ Phu Diên tâu: “Phó Chỉ huy sứ Cung tiễn thủ người Thổ là Ất Khinh chém đầu người trước đây bỏ trốn sang Tây giới do thám là Phó Binh mã sứ Mạch Di.” Chiếu thưởng cho Ất Khinh 20 tấm lụa, thăng hai bậc.
[61] Ngày Mậu Tuất, sáu người gồm Tá chức Tam ban là Vương Ân Phổ được sai giám sát các kho và cửa thành nhàn rỗi ở kinh đô[12], cùng 36 người dũng cảm người Thổ ở hai lớp cửa thành cũ phía tây và lớp mới của Điện thị Trà tửu, đều là nhạc công người Thổ đầu hàng khi Chủng Ngạc phá trại Mễ Chi, được triệu đến tấu nhạc ở điện Sùng Chính.
[62] Chiếu cho Đô Thủy giám thêm một viên Thừa.
[63] Lại chiếu cho tiền công sứ châu Nguyên mỗi năm lấy 1.000 quan làm định mức.
[64] Kinh Lược An phủ sứ ty lộ Kinh Nguyên tâu, xin sai Kiềm hạt Binh mã Vĩnh Hưng quân là Chủng Chẩn làm Đô Kiềm hạt kiêm Tướng thứ nhất của bản lộ, cùng ghi rõ lai lịch của Chủng Chẩn. Chiếu rằng: “Chủng Chẩn tuổi đã cao, sức lực suy yếu, khó đảm đương chức vụ tướng lĩnh, lệnh cho Kinh Lược ty bản lộ chọn quan khác tâu lên.”
(Ghi chép bí mật ngày 23.)
[65] Ngày Kỷ Hợi, phân công các phụ thần tạ mưa.
[66] Ngày Canh Tý, Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Ôn Cảo được bổ nhiệm làm Tri châu Dung.
[67] Chiếu cho Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận ty lo việc chế tạo 2.700.000 lá giáp để đưa về kinh đô và 470.000 lá giáp cho Quảng Đông, tổng chi phí công liệu là 350.000 quan tiền, lấy từ khoản tiền phong trang khuyết ngạch cấm quân để hoàn trả.
[68] Tẩu mã thừa thụ Hoắc Bính của Phu Diên lộ tâu: “Các tướng ở Vĩnh Lạc xuyên giao chiến với giặc, bộ hạ của Đệ nhị tướng Lý Phố bỏ chạy, không tiếp ứng chiến đấu, khiến Phó tướng Cao Thế Tài bị tử trận. Nay anh trai của ông là Cao Thế Lượng đã trình bày đầy đủ sự việc.” Chiếu xét rõ nguyên nhân bỏ chạy và mệnh lệnh tha tội, cùng với bản tâu của Cao Thế Lượng gửi Kinh lược ty, giao cho Phạm Thuần Túy điều tra xác thực rồi tâu lên.
(Ngày 11 tháng 9.)
[69] Ngày Tân Sửu, chiếu cho hai người đỗ hạng ưu trong kỳ thi tuyển, người thứ nhất được thăng một bậc, người thứ hai được bổ nhiệm chức vụ; 73 người đỗ hạng trung, không theo thứ tự mà bổ nhiệm chức quan; 171 người đỗ hạng thứ, được bổ nhiệm chức quan.
[70] Ngày Nhâm Dần, Hữu chánh ngôn Vương Hoàn tâu: “Nghe nói các quan ngục ở Đại Lý tự phần lớn không tự thân thẩm vấn tù nhân, chỉ khi tù nhân mới đến thì quan chức nhận giao nộp, đến khi kết án thì có khi không gặp mặt nữa. Việc tra tấn, thẩm vấn đều giao cho lại dịch, hành hạ vô lý, tù nhân không có cách nào kêu oan. Nghe nói trước đây có viên Thừa tra tấn tù nhân đến chết, nhưng Trưởng quan và Phó quan vì không tham gia nên được miễn tội. Từ đó về sau, các quan thuộc không còn tự thân xử lý việc nữa. Bệ hạ lập ra chức Trưởng quan, Phó quan, đặt ra chức Chánh, Thừa, há lại muốn họ lười biếng, trốn tránh trách nhiệm? Kính mong xử lý nghiêm minh.” Chiếu cho Đại Lý tự từ nay về sau phải tuân theo điều lệ mà thi hành.
[71] Ngày Quý Mão, ban cho 140 độ điệp để tu sửa thành Bảo Đại quân.
[72] Chiếu ban thóc, lụa cho người con hiếu thảo Chi Tiệm ở Châu Tư. Tiệm là người huyện Tư Dương. Năm Hi Ninh, mẹ ông qua đời, nhiều năm sau mới chôn cất được, ông dựng lều ở bên mộ, mỗi ngày ba lần khóc lóc bên mộ, thường quỳ gối bò lê để đắp đất lên mộ. Ban đầu, có đôi chim sẻ trắng bay lượn trên cây tùng; năm sau, có một con cáo thuần dưỡng ở bên mộ, xem Tiệm đắp đất; lại năm sau vào mùa hè, mỗi khi làm lễ giữa trưa, trời nắng gắt, liền có mây đen che phủ, gặp mưa lớn, lúc đang đắp đất thì trời tạnh tạm thời; lại có một con chim lạ, mắt đỏ như son, đến khi Tiệm khóc, thường kêu bi ai hướng về Tiệm; đêm có hai con cáo, kêu vang như đang tuần tra; lâu ngày, có đàn chim tụ tập, trong đó có một con chim trắng, mỗi ngày đến chỗ Tiệm đắp mộ bay lượn; sau đó có hơn vạn con chim ngũ sắc, theo Tiệm khóc lóc, bảy ngày rồi bay đi. Lúc đó, Tiệm đã bảy mươi tuổi, mỗi lần khóc lóc nước mắt như mưa, ngày chỉ ăn cơm gạo lứt, không rửa tay chân, quần áo vải gai mặc đến rách nát, tóc tai cũng đều rối bù, người thấy đều thương xót. Người con nhà họ Câu ở gần đó, từ khi lấy vợ liền bỏ bê cha mẹ không nuôi dưỡng, thấy Tiệm hạnh kiểm tốt, vợ chồng cảm động, ngay hôm đó đón cha mẹ về nhà, sớm tối hầu hạ không lơ là. Châu huyện tâu việc này, cho rằng Tiệm tinh thành cảm động đến cả vật, các điềm lành liên tiếp xuất hiện, thay đổi phong tục trong làng, xin ban thưởng, nên có chiếu chỉ này.
(Tháng này, người Hạ xâm lấn Châu Lân, Tri châu Ti Hổ đánh bại chúng. 《Tân kỷ》 có ghi chép việc này, vì tháng 6 ngày Tân Hợi, Kinh lược ty Hà Đông tâu lên. 《Cựu kỷ》 lại ghi vào tháng 6 ngày Tân Hợi.)
[73] Ngày mùng một tháng 6 (Ất Tỵ), chiếu chỉ cho Ngự sử đài, mỗi án sát đặt một viên Ngự sử.
(《Tân kỷ》 ghi việc này, 《Cựu kỷ》 không có.)
[74] Thái thường tự tâu: “Bốn hoàng hậu được thăng phối vào thái miếu, xin theo lệ năm Khánh Lịch thứ 5, tháng 10, hai hoàng hậu Chương Hiến Minh Túc và Chương Ý, sau khi lễ thăng phối hoàn tất, tế khắp thái miếu, chỉ hành lễ thăng phối và tế bảy tự, tạm bãi lễ tiến tế tháng 10.” Lễ bộ lại tâu: “Bốn hoàng hậu thăng phối vào thạch thất thái miếu, xin lấy thứ tự phối kế trước sau làm chuẩn.” Chiếu đều chuẩn y.
(Ngày Đinh Sửu, 3 tháng 6 nhuận; ngày Ất Mão, 12 tháng 7.)
[75] Chiếu cho Phó chuyển vận sứ Kinh Đông lộ là Ngô Cư Hậu liệt kê những người mình biết từ chức thông phán trở lên và các quan đề cử ty diêm các lộ khác[13], có thể sung vào chức quan chuyển vận ty bản lộ để cùng nhau thi hành phép diêm; và những người trong bản lộ thi hành phép diêm nên được chọn cử làm tri châu, thông phán, tâu lên.
(Ngày mùng một tháng 5.)
[76] Hộ bộ tâu: “Năm Nguyên Phong thứ 3, các lộ không có quan quản câu nào được xếp hạng ưu, chỉ có ba người xếp hạng liệt: Thông phán Lai châu là Quách Khái, Quyền đoàn luyện phán quan Hoàng châu là Vương Thuấn Thần, và Phán quan Trấn Nhung quân là Triệu Chí.” Chiếu giáng chức cả ba người một bậc.
[77] Ngày Đinh Mùi, Tri châu Tuyên châu là Trần Đồng xin các châu quân ven sông hồ đều đặt thủy quân từ 300 đến 500 người, do tuần kiểm quản lý, dạy thủy chiến, chịu trách nhiệm tuần tra. Chiếu rằng những nơi đã chiêu mộ thổ binh tuần kiểm, nếu có sông ngòi biển cả, lệnh cho báo lên cấp trên để chuẩn bị thuyền bè dạy chiến đấu.
[78] Chiếu cho các thủ lĩnh quy minh của các động man Phù Dung, Thạch Dịch thuộc Thiệu châu được bổ nhiệm danh mục và số người, theo lệ chiêu nạp man ba châu một trấn năm Hi Ninh thứ 9.
[79] Lễ bộ tâu: “Từ bộ cấp độ điệp cho tăng, theo chiếu và số lượng hàng năm thì dừng lại. Xét năm Nguyên Phong thứ 3 là 6.396; năm thứ 4 là 4.196; năm thứ 5 là 9.897[14]. Nay lấy số trung bình, xin lấy ba năm làm định mức.” Theo đó.
[80] Đại Lý tự tâu: “Ty chuyển vận Hà Đông báo lên số phu quan bỏ trốn và chết từ ba phần đến năm phần trở lên, đáng được hưởng ân xá theo đức âm[15], nhưng vì thuộc quân chế, xin thỉnh chỉ để xử đoán.” Chiếu rằng Vương Quân Trần ở huyện Giáng cùng bảy người khác, mỗi người phạt 30 cân đồng; Điện trực Trương Chỉnh cùng chín người khác, mỗi người phạt 20 cân; Cung phụng quan Tiêu Thanh cùng 12 người khác, mỗi người phạt 10 cân; Tá chức Hồ Thích phạt 8 cân.
[81] Ngày Mậu Thân, chiếu triệu tập bàn về đại điển lễ, lệnh Trưởng và Phó Bí thư tỉnh tham dự.
[82] Thượng thư tả ty tâu: “Hộ bộ vâng chỉ đã sai sứ thần Lưu Tòng Chính, Ngô Hữu làm chủ sự, nhưng bản tấu trước không nói đến việc hiện có quyền chủ sự Lưu Chất, mà lại báo là thiếu. Nay Chất chưa đủ điều kiện xuất chức, lại vội trao chức ban hành, đều là không thích đáng.” Chiếu phạt Thượng thư An Đào 10 cân đồng, Thị lang Trần An Thạch 8 cân, Lang trung Kim bộ Triều Đoan Ngạn, Thương bộ Hàn Chính Ngạn, Độ chi Trần Hướng mỗi người 6 cân; Lưu Tòng Chính, Ngô Hữu vẫn giữ chức cũ; Lưu Chất, Lương Sĩ Vĩnh được xuất chức, theo thời gian mà xét lại.
[83] Hộ bộ tâu: “Nhũ hương dân gian dùng nhiều, xin theo điều lệ cũ cấp giấy dẫn dài, cho phép buôn bán. Các lộ bán hương quan cũng theo phép cũ.” Theo lời tâu.
[84] Kinh lược sứ Quảng Nam Tây lộ Hùng Bản tâu: “Tri châu Nghi Châu Hòa Bân, Thông phán Hoàng Đào xem xét việc quản lý hơn 7.000 thổ đinh thuộc các huyện Tư Ân, Thiên Hà, Hà Trì, Long Thủy của Nghi Châu, khi có giặc cướp, có thể kêu gọi ứng phó kịp thời. Cùng với bốn trại Phổ Nghĩa, Đức Cẩn, Tư Lập, Trấn Ninh kiểm soát các đường ra vào của giặc man, xin cho các huyện thuộc quyền sắp xếp thổ đinh, chia thành các đô, ngoài số thổ đinh phòng thủ các ải cũ, mỗi nơi tăng thêm 30 người. Những người không phải phòng thủ, khi có giặc xâm nhập đất tỉnh, cho phép các huyện biên giới và châu kêu gọi, cử người chỉ huy, hội hợp để bắt giết.” Lại tâu: “Đã sai Đề cử Đô tuần kiểm Tả Giang, Cung phụng quan, Các môn chỉ hậu Thành Trác và Giám điền Nãi Kim Khanh, Triều phụng lang Đặng Khuyết cùng đến trại Vĩnh Bình, thương lượng với An Nam để định địa giới, theo chiếu lấy tên là ‘Kế nghị biện chính cương chí sở’.” Đều được chấp thuận.
(Ngày Tân Hợi mùng 8 tháng 7, ngày Ất Hợi mùng 2 tháng 8, ngày Canh Tuất 12 tháng 5 năm thứ 7, ban thưởng khen ngợi công mở đường. Ngày mùng 7 tháng 8[16], lệnh cho Thành Trác cung cấp phân tích.)
[85] Quyền phát khiển Kinh lược ty Phu Diên là Lưu Xương Tộ tâu: “Cấm quân đào ngũ, giả làm sương quân để đổi ngạch, hoặc lại trở về cấm quân bị bắt, hoặc vì việc bị lộ, xin xử theo quân pháp.” Vua đồng ý. Lại xin từ nay các quân đào ngũ hoặc gặp sự cố, ngựa và yên còn lại, cho phép người có ngựa và người thiếu ngựa so tài võ nghệ, người giỏi hơn thì được nhận ngựa tốt, và ngựa mới do Giám mục ty cấp cũng theo quy định này.” Vua đồng ý, rồi hạ lệnh cho Thiểm Tây, Hà Đông lục. Sau đó, Xương Tộ lại tâu: “Xét thử các tướng dưới quyền mới tuyển chọn và đổi ngạch mã quân, những người xin cấp ngựa, trong số đó có 11 tân binh mới tuyển dưới quyền tướng võ nghệ kém, đã đổi cấp cho người cũ dưới quyền tướng có võ nghệ mà thiếu ngựa.” Vua hạ chiếu, những người võ nghệ kém phải trả lại ngựa, thống nhất trong toàn lộ xét thử người có võ nghệ để đổi cấp. Lại hạ chiếu cho Xương Tộ xem xét, cứ 10 con ngựa thì 7 con đổi cấp cho người võ nghệ cao cường, 3 con cấp cho người võ nghệ hạng nhì xếp trên.
[86] Đoàn luyện sứ Thành Châu, Đề cử cung Sùng Phúc là Lý Bình mất. Vì là cháu của Đại trưởng công chúa, đặc biệt truy tặng chức Quan sát sứ Dịch Châu, ban tặng 1000 lạng bạc. Bình từ nhỏ đã đọc nhiều sách, từng nhờ di tấu của công chúa được triệu thí ở Viện Học sĩ, đổi làm Điện trung thừa, Bình không hài lòng, từ chối. Hai năm sau, lại được triệu thí, nhưng chỉ thăng một chức, Bình càng bất mãn, đến mức dâng thư biện luận. Trước sau dâng nhiều việc, có việc được thi hành, nhưng tính tình khắc nghiệt, khi ở Các môn và Xu mật viện tham quyền không kiêng kỵ, bố trí nhiều tai mắt, nghe ngóng việc bên ngoài, tự cho là trung thành, mong được trọng dụng, trong ngoài đều ghét. Đến khi mất, không ai thương xót.
[87] Cơ quan Chế trí phát vận ty tâu: “Năm Nguyên Phong thứ hai, bản ty được chỉ dụ ban cho vốn mua lúa với số tiền một trăm vạn quan, đến nay vẫn chưa được cấp đủ; hơn nữa, mỗi năm phải vận chuyển sáu trăm hai mươi vạn thạch lương thực từ sáu lộ Giang, Hoài, Kinh, Chiết để cung ứng, nhưng các lộ thường chậm trễ, số lượng không đạt đến vạn thạch rất nhiều, nên phải dựa vào tiền vốn mua lúa để kịp thời mua lúa, vận chuyển cung ứng, đáp ứng nhu cầu hàng năm. Nay cơ quan Thôi xúc tiền bạch sở ở Hoài Nam gửi văn thư hỏi về số lượng[17], bản ty vì không có thánh chỉ nên khó có thể cung cấp thông tin, nhưng e rằng họ sẽ có lời tâu riêng.” Chiếu rằng: “Tiền vốn mua lúa là do triều đình đặc biệt ban cấp, nay không được tùy tiện sử dụng.”
[88] Cơ quan Kinh lược an phủ chế trí sứ ty của Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Theo tờ trình của Vương Thiệm, đồng tổng lĩnh binh tướng Phiên châu Hi Châu, cha ông là Vương Quân Vạn vì lời tố cáo của Tôn Huýnh về việc Trương Mục Chi vi phạm pháp luật trong việc mua lúa, nên cha ông vẫn còn nợ hơn sáu vạn quan, sau khi tính toán và chiết khấu, còn nợ hai vạn ba ngàn quan. Thiệm từng dâng tờ trình lên Viện Đăng Văn vào tháng 5 năm Nguyên Phong thứ tư, xin chuyển một chức quan cho con trai từ công lao của ty Kinh chế, cùng với ân điển đặc biệt cho hai người theo di biểu, để trừ nợ, nhưng bị Trung thư phán rằng không được chấp thuận. Thiệm từ khi quân sự khởi sự đến nay, đã lập nhiều chiến công, thực sự xuất chúng, nhưng số tiền nợ vẫn không thể trả được. Kính mong xét đến công lao khai phá chiến trận của Quân Vạn và những chiến công gần đây của Thiệm, cho phép ước tính gia sản của họ để nộp vào quan phủ.” Vua phê: “Nên xem lại tờ trình của Vương Thiệm vào tháng 5 năm Nguyên Phong thứ tư, đặc biệt chấp thuận theo yêu cầu của ông.”
(Theo《Ngự tập》, vì Lý Hiến từng xin giúp, nay lại xin giúp lần nữa. Quân Vạn mất vào ngày 3 tháng 5 năm thứ ba.)
[89] Ngày Kỷ Dậu, xuống chiếu cho Thông trực lang, thí Ngự sử trung thừa, quyền Trực học sĩ viện là Thư Thiện được miễn bãi chức, chỉ truy thu hai chức quan và bị cách chức; Phụng nghị lang, thủ Giám sát ngự sử là Đốn Khởi bị thay thế, vì việc quan trọng; các quan lại ở Ngự sử đài và Thái phủ tự được tha bổng do xét xử khoan hồng. Ban đầu, Thiện không hiểu ý pháp luật, lầm tưởng phải đặt riêng sổ ghi chép, nên nói rằng Thượng thư tỉnh không đặt sổ ghi chép, không tuân theo pháp luật. Thượng thư tỉnh biện luận rõ ràng, nhưng Thiện vẫn cố chấp. Một hôm, Vua dụ cho Đô tỉnh, lệnh lấy sổ ghi chép mà Thiện đã đặt trong đài, chắc chắn không có. Thiện quả nhiên không đặt, lại lấy sổ sách khác thêm chữ “Lục mục” rồi cùng thuộc hạ ký tên gửi đến Đô tỉnh, vì thế bị hặc tội. Lại nữa, khi công sứ của Học sĩ viện đều bị bãi bỏ, Thiện lại tự ý lấy tiền nhà bếp của viện mình để chi dùng, lại bị xử tội tham ô, đánh 90 trượng. Hai vụ án đều tâu lên, Vua dụ các quan cận thần rằng: “Tội tham ô của Thiện ở Học sĩ viện, tình nhẹ mà pháp nặng; còn việc giả mạo sổ ghi chép, pháp nhẹ mà tình nặng. Làm chức Trung thừa mà gian trá như vậy, không thể tha thứ.” Vì thế xuống chiếu rằng các chức quan mà Thiện từng đảm nhiệm và chức Tri chế cáo đều không được tính là quan chức, nên truy thu hai chức quan, do đó có mệnh lệnh này. Khởi vì a dua theo lời Thiện về việc sổ ghi chép không đúng sự thật, nên cũng bị cách chức.
(Bản truyện của Thiện chép rằng, trước kia các học sĩ soạn chiếu, được cấp dầu đèn hàng tháng. Thiện theo lệ cũ mà lấy, việc đưa xuống Đại Lý, ban đầu cho là dùng nhầm, quan pháp là Ngô Xử Hậu bác bỏ[18], cuối cùng bị kết tội. 《Thực lục》 không chép việc Ngô Xử Hậu bác án, cần xét lại. 《Cựu kỷ》 chép rằng Trung thừa Thư Thiện tự ý dùng công sứ, bị tội tham ô, truy thu quan chức và cách chức. Điền Họa viết 《Vương An Lễ hành trạng》 rằng: Tam tỉnh vừa thành lập, các quan đài gián nhiều lần nói về Trung thư tỉnh, đến mức có người bị cách chức oan. Lúc đó Thư Thiện làm Ngự sử trung thừa, Thiện tính cách xảo trá, có tài gian hùng, nhưng bên trong thực sự ngu muội, không hiểu chính sự, nhiều lần dâng tấu hặc tội để tự khoe khoang, khí thế lừng lẫy, ai thấy cũng phải kiêng dè, nhưng trong lòng lại sợ An Lễ.
Thiện từng dâng sớ nói việc, trong lời lẽ có câu “quan chấp chính thích dùng lời hư để lung lạc sĩ đại phu”, ý chỉ Vương Khuê, để tỏ rằng không nhằm vào An Lễ. An Lễ cho rằng Thiện là kẻ gian, thân làm quan pháp luật, nói về đại thần chấp chính, há lại có thể dùng lời nghi ngờ để đổ lỗi? Thiện lại nói Thượng thư tỉnh không đặt sổ ghi chép, có chỉ truy xét tội đó, An Lễ nói: “Thượng thư tỉnh có sổ phát phóng, ghi chép sự việc, giao cho pháp tào, không gọi là sổ ghi chép sao?” Thiện nói: “Sổ ghi chép ban xuống, mới gọi là phát phóng, đây vốn không phải phép cũ.” An Lễ nói: “Xin được xem sổ ghi chép của Ngự sử đài để làm mẫu.” Thiện xem sổ sách dùng trong đài, thấy giống với Thượng thư tỉnh, liền giả mạo sổ đài, thêm chữ “Lục mục” ở đầu. An Lễ biết được sự gian trá, bèn dâng tấu hặc tội, đồng thời hặc tội Thiện ở Học sĩ viện tự ý dùng công sứ, có chiếu xét xử. Khi án thành, đều thu được chứng cứ tham ô gian trá. An Lễ tâu lên rằng: “Tội Thiện tự ý dùng công vật, thì tội nhẹ mà pháp nặng; còn việc thêm chữ sổ ghi chép, thì việc nhỏ mà tình nặng. Xin bệ hạ xét đoán mà thi hành, để răn đe các quan.” Lại nói: “Thần thấy bệ hạ xử sự lúc nhẹ lúc nặng, lúc co lúc duỗi.” Vua hỏi: “Ý ngươi là gì?” An Lễ đáp: “Bệ hạ mỗi lần trách phạt quan ngôn sự, thì nghi ngờ thần quá duỗi, nên cắt giảm quyền chấp chính, khiến Thiện nhân cơ hội dám vu cáo thần. Mong bệ hạ xét lý lẽ thế nào, tuân theo pháp luật, dù trăm co trăm duỗi, thần cũng cam lòng.” Vua nói: “Thiện sẽ xử theo pháp.” Lúc đó nhiều người bênh Thiện, nên An Lễ đặc biệt tranh luận kịch liệt.)
[90] Ngày Tân Hợi, chiếu rằng: “Đề cử ty mua ngựa Thiểm Tây không kiêm nhiệm ty trà, giá trà dùng để đổi ngựa mỗi kiện giảm hai nghìn, không cần hoàn trả, cho phép tính vào lợi nhuận của ty trà. Giá trà mà ty mua ngựa sử dụng phải hoàn trả đủ trước cuối năm.”
(Xem thêm ngày Mậu Thân tháng 4.)
[91] Kinh lược ty Hà Đông tâu: “Tháng 5, giặc Tây vào trại Thần Đường châu Lân, Tri châu Tí Hổ dẫn quân ra đánh có công.” Chiếu cho Tí Hổ từ nay không được tùy tiện ra vào, gặp giặc chỉ cho phó tướng đem quân đuổi đánh.
(Sách 《Tân kỷ》 tháng 5 chép: “Người Hạ vào cướp châu Lân, Tri châu Tí Hổ đánh bại chúng.” Sách 《Cựu kỷ》 vẫn chép việc này vào ngày Tân Hợi tháng 6, nay ghi cả hai.)
[92] Ngày Nhâm Tý, Triều tán lang, quyền Tri châu Đăng Châu trước là Triệu Xưng được làm Chuyển vận phán quan lộ Kinh Đông, theo lời tiến cử của Ngô Cư Hậu.
(Có thể xem thêm ngày Canh Tý tháng giêng.)
[93] Chuyển vận ty và Đề điểm hình ngục ty Hoài Nam tâu: “Huyện úy Định Viễn châu Hào là Giả Đường do bị xét là ngu muội không hiểu việc nên bị cách chức, từ khi bị xét đến nay đã tự bắt được bốn bọn trộm cướp, xin cho được tại nhiệm đến hết kỳ, rồi mới cách chức.” Theo lời tâu.
[94] Ngày Quý Sửu, Lễ bộ Thượng thư Hoàng Lí thụ chức Ngự sử Trung thừa. Lúc bấy giờ có đại thần phạm tội bị phạt tiền, Hoàng Lí tâu: “Giả Nghị nói: ‘Đối đãi bằng lễ thì quần thần tự vui, ràng buộc bằng liêm sỉ nên người ta quý trọng tiết hạnh.’ Quần thần còn như vậy, huống chi đại thần? Vậy nên tội đáng ghét thì cách chức, đáng tha thì tha, sao lại dùng phạt tiền để làm nhục?” Lúc ấy quy định Thị lang trở xuống không được một mình vào chầu, ghi trong pháp lệnh. Hoàng Lí tâu: “Bệ hạ chăm lo chính sự, rộng hỏi được mất, dù quan chức quận huyện được triệu còn cho một mình vào chầu, huống chi là bề tôi theo pháp lệnh? Xin bỏ quy định này.”
(Hai việc này, căn cứ theo bản truyện của Hoàng Lí chép khi mới nhận chức Trung thừa, nên xem xét thêm việc theo hay không.)
[95] Ngự sử Địch Tư tâu việc, có chỉ hỏi rõ nguồn gốc, Lý Lí can rằng: “Ngự sử lấy việc tâu bày làm chức trách, nếu không nghe được điều gì thì không có gì để tâu. Nay lại truy xét nguồn gốc, thì người ta sẽ sợ mà không dám nói, đài gián sẽ không còn nghe được gì nữa, e rằng mất đi ý nghĩa mở rộng đường ngôn luận.” Việc bèn thôi.
(Việc này cũng căn cứ theo bản truyện của Lý Lí.)
[96] Chiếu cho Ngự sử trung thừa, các quan ở ngoại tỉnh của Môn hạ và Trung thư mỗi người tiến cử nhân tài có thể đảm nhiệm việc tâu bày hoặc làm Giám sát ngự sử, năm người.
[97] Chiếu cho Thông trực lang, Hữu chánh ngôn Vương Hoàn bãi chức Hữu chánh ngôn, giao về Lại bộ; Tuyên đức lang, Giám sát ngự sử Địch Tư và Dương Úy đều được tha tội. Vương Hoàn từng bàn tội của Thư Đản là không đúng, Địch Tư và Dương Úy cũng từng bàn luận, đến khi Thư Đản bị cách chức, Vương Hoàn đều đợi tội, nên có mệnh lệnh này.
[98] Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn xin lấy ân điển vẽ chân dung để bổ nhiệm thêm em là Hàn Tuý Ngạn làm Giám tửu thuế ở Tương châu. Chiếu rằng: “Hàn Kỳ có công với nước, không phải bề tôi khác sánh được, đặc biệt chuẩn y lời xin, cho Lại bộ từ nay thường bổ nhiệm một người con cháu trong nhà làm quan ở Tương châu, lại suy thêm ân điển vẽ chân dung.”
[99] Ngày Ất Mão, chiếu rằng: “Gần đây vì nắng nóng, tù nhân ở Khai Phong phủ và Đại Lý tự đã lệnh cho quan chức khẩn trương xét xử xong, các lộ thì lệnh cho Hình bộ chỉ huy các Ty đề hình ngục thúc giục.”
[100] Kiểm hiệu Lễ bộ thượng thư, Nam Đan châu thứ sử Mạc Thế Nhẫn được thăng làm Kiểm hiệu Hộ bộ thượng thư, cấp cho đồng bài và cờ hiệu, con cháu chín người đều được ban quan tước. Vì Kinh chế Nghi châu Tạ Lân tâu rằng: “Đại quân đánh dẹp man lão ở An Hoá, Thế Nhẫn dâng một trăm cây cung gỗ, hai trăm dây cung, năm nghìn mũi tên tẩm thuốc, tự nói đời đời làm bề tôi ngoại phiên, không ngừng cống nạp.” Nên có mệnh lệnh này.
[101] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu rằng: “Binh lính tuần phòng ở trại Gia Lô gặp giặc, vì ít không địch nổi, nên bị hại, chưa dám theo phép trận thua mà thi hành.” Chiếu rằng người tử trận chỉ có tướng quan, sứ thần chia ra trận thắng, trận thua, các quân dùng lệ trận thắng, một bậc suy ân.
[102] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty muốn dùng việc quản lý và tu sửa các trại bảo cũ làm hình thức quân sự, dụ quân địch đến gần biên giới, rồi lệnh cho Diêu Lân đem quân đánh úp, hoặc chờ cơ hội xuất trại tấn công. Chiếu chỉ rằng việc dụ quân địch vào trong biên giới hoặc xuất biên giới tấn công đều giao cho Kinh lược sứ Lô Bỉnh tùy nghi thi hành.
(Ngự tập: Ngày 11 tháng 6, cơ quan phụ trách việc mua lương thực ở Hà Bắc tấu rằng: “Trước đây theo chỉ dụ triều đình, đã tính toán việc xây dựng kho lương ở ba châu Doanh, Định, Hoạt. Nay ở phủ Chân Định có khách buôn gom được hơn 170.000 cây gỗ, đã mượn tiền quan để mua từ các xưởng gỗ trên núi. Nếu không mua lại, e rằng tiền mượn khó thu hồi. Xin triều đình sớm ra chỉ thị, chọn nơi khác để xây dựng.” Ngự phê: “Trước hết hãy khảo sát kích thước và sức chứa của các kho hiện có ở Bắc Kinh, vẽ đồ và tấu lên. Khi nhận được, sẽ cùng với tờ tấu này trình lên xin chỉ dụ.” Xét ngày 23 tháng 9 năm thứ 4, đã xây dựng kho ở Bắc Kinh và các nơi khác, có lẽ ngự phê này thuộc ngày 11 tháng 6 năm thứ 4. Nay ghi chép lại, cần xem xét kỹ. Việc xây kho ở ba châu là ngày 28 tháng 4 năm thứ 4, năm nay ngày 17 tháng 6 nhuận, ban độ điệp để tu sửa kho Bắc Kinh.)
[103] Ngày Bính Thìn, quân Quảng Tín tâu: “An phủ ty phía Tây Nam giới Bắc liên tiếp gửi thư hỏi về việc xây dựng trường tập bắn. Bản quân đã trả lời rằng: ‘Nơi được chỉ định là nhà dân trong thôn, trước đây vì tình hữu nghị giữa hai triều, đã cho phá hủy. Tuy nhiên, nhà dân nằm sâu trong địa phận quân ta, dù là nơi dân làng tập bắn, xây tường, dựng bia tập bắn cũng không vi phạm lời thề, lại không liên quan gì đến Bắc triều, cần gì phải tranh cãi?’ Sau đó, họ lại gửi thư nói: ‘Từ khi hai triều thông hảo, đã răn dè các châu quân biên giới không được gây sự. Nay xây trường tập bắn, luyện tập quân đội, vi phạm lời thề, rất bất tiện. Xin nhanh chóng phá hủy và trách cứ quan lại gây sự, nghiêm khắc răn dè.'” Chiếu chỉ: “Xem thư của họ, lý lẽ đã khuất, không cần trả lời lại.”
[104] Lúc bấy giờ, triều đình đang chú trọng việc quân sự, tăng cường phòng bị biên giới, những người theo thời đều tranh nhau dâng kế sách đánh phương Bắc. Lữ Công Trước đến Định Châu, liền tâu lên Vua rằng: “Trung Quốc và Khiết Đan đã giao hảo lâu ngày, biên cảnh yên ổn không có việc gì, quân đồn trú ở biên giới cũng vốn có quy củ, chỉ nên giữ yên để trấn giữ.” Lại nhân viên chức Tẩu mã thừa thụ vào kinh, ông cũng gửi kèm tấu chương nói về việc này. Khi trở về, viên chức này truyền lại lời Vua dụ Lữ Công Trước rằng: “Biên giới quả thực không có động tĩnh gì, nhưng cần phải tăng cường tuần tra xa, mở rộng việc do thám để phòng bị.” Phép bảo giáp mới ban hành, các vùng biên giới đều lập trường tập, ngày ngày đánh trống, bắt người học tập chiến pháp, tiếng vang đến cả địch cảnh, khiến các quận biên giới cho rằng gây sự vi phạm lời thề ước. Vua giao cho Lữ Công Trước xử lý việc này, và ban chiếu chỉ rằng: “Gần đây vì việc Bắc giới lập trường tập, đã giao cho khanh xử lý và tâu lên. Khanh hãy cân nhắc kỹ, sao cho việc được thích đáng, bên ngoài không gây nghi ngờ cho địch, bên trong không khiến châu huyện bị phiền nhiễu, di dời, tổn hại tài sản, và không để kẻ tham lam nhân đó gây hại, đó là ý của triều đình.” Lữ Công Trước liền tấu rằng: “Người xưa trị quân và nông dân, có nơi dùng phép của nhà Chu, có nơi dùng phép của rợ. Nay bắt người biên giới tập chiến pháp ở biên cảnh, là điều không nên, cũng không phải ý của Quản Tử khi ban lệnh. Xin bãi bỏ hết, chỉ dùng phép cũ của các xạ thủ cung tên.” Vua không nghe.
[105] Ty chuyển vận lộ Hà Đông tâu: “Theo chỉ triều đình, lệnh cho bản ty chuẩn bị 10 vạn thạch lương thực ở trại Ngô Bảo và cửa Vĩnh Ninh để chi dùng cho các nơi như Mễ Châu, Thiểm Tây. Đã chuẩn bị đủ số lượng, xin lấy số tiền hiện có ở tiền giám huyện Viên Khúc, châu Giáng để hoàn lại.” Vua đồng ý.
[106] Ngày Đinh Tỵ, Đề cử bảo giáp lộ Hà Bắc là Địch Tư tâu: “Đất chăn nuôi cũ ở Vệ Châu, xin giao cho quan ty quản lý, thu thuế và giao cho ty chuyển vận.” Vua đồng ý, và lệnh từ năm Nguyên Phong thứ nhất phải chịu trách nhiệm nộp thuế.
[107] Chiếu cho Lô Bỉnh, người biết châu Vị, bị cách chức Đãi chế ở Bảo Văn các, giáng xuống làm Trực Long Đồ các, nhưng vẫn giữ nguyên chức vụ cũ. Trước đó, chiếu cho Bỉnh rằng: “Theo lời tâu của bản ty, gần đây giặc phương Tây đã xâm nhập vào khu vực hào của trại Càn Hưng; và theo lời của Phó tướng thứ sáu Hướng Dụng Mệnh, do Mạnh Hạo chậm trễ trong việc điều quân, nên không thể giành được thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, từ mùa đông năm ngoái đến nay, giặc nhiều lần xâm nhập, đều đạt được mục đích rồi rút đi, và khi lệnh cho binh tướng tìm cơ hội phản công, lại thường viện cớ để trì hoãn, sợ hãi, không dám tuân chiếu khích lệ binh tướng truy kích, nên phải trình bày rõ ràng để tâu lên.” Sau đó, Bỉnh tâu rằng: “Trước đây đã lệnh cho Lưu Xương Tộ chọn binh sĩ dưới quyền để lập thành đội ngũ, sắp xếp mọi việc theo phép tắc. Vừa muốn tiến quân đánh giặc, bỗng nhận được chiếu rằng người Hạ đã cử sứ giả đến biên giới, nên binh tướng bản lộ chưa thể hành động. Và lòng dạ thần cũng cho rằng quân đội cần được nuôi dưỡng đầy đủ, khi xuất quân phải đảm bảo an toàn, không dám cố ý trì hoãn, làm trái lời dạy của bệ hạ. Nhưng giặc liên tiếp xâm nhập Hi Ninh, Càn Hưng, Long Đức, mà không thể chém giết được chúng, đó là do thần là kẻ sách vở, không quen việc quân sự, khi đối phó lại lo lắng quá mức, thực không dám trái lệnh chiếu, thần không thể bảo vệ được biên cương, tội đã rõ ràng, kính mong thương xót người cha già tám mươi tuổi, miễn cho thần khỏi bị bàn tán, xử phạt nặng.” Vì thế có lệnh này.
[108] Chiếu cho Đại Lý tự: “Những vụ án hình sự có nghi vấn hoặc tình tiết và pháp luật không phù hợp, cần tâu lên để xét xử, thì giao cho quan định đoạt xem xét kỹ[19]; nếu không phải là nghi vấn hoặc tình tiết và pháp luật không phù hợp, thì đều miễn truy cứu.” Theo lời thỉnh cầu của bản tự.
[109] Thời Nguyên Phong, Vua xuống chiếu cho Đại Lý kiêm xét xử các vụ án, những việc công được chỉ thị từ trong cung, trên dưới đều nói “Đây là án do chiếu chỉ”, ý chắc chắn sẽ xử nặng. Thiếu khanh Hàn Tấn Khanh một mình giữ vững sự công bằng, xét thực tế, không để ý đến dư luận, mọi người đều cho là không oan. Vua biết tài của ông, nên những vụ án khó xử và những việc liên quan đến quyền quý đều giao cho Tấn Khanh. Khi Thượng thư tỉnh được thành lập, ông được thăng làm Hình bộ lang trung. Trong thiên hạ, những án tử hình xin xét lại, các quan chấp chính cho là phiền phức, định hặc tội những người không xin xét lại. Tấn Khanh vừa đến báo việc ở tỉnh, nhân đó nói: “Nghe xét để cứu sống người, đó là tấm lòng của triều đình. Nay xét lại mà bị tội, thì sẽ không còn ai dám xin xét lại nữa.” Có người bàn dẫn chuyện nhà Đường xét lại tấu chương, muốn cho mọi vụ án trong thiên hạ đều phải tâu lên để quyết định. Tấn Khanh nói: “Pháp luật trong thiên hạ, những điều đáng nghi ngờ, đáng thương xin tâu lên, đó là chế độ của tổ tông. Nay bốn biển muôn dặm, nếu muốn trói giam chờ mệnh triều đình, e rằng tội nhân chết trong ngục sẽ nhiều hơn người bị xử tử.” Triều đình đều nghe theo.
(Điều này căn cứ theo truyện Hàn Tấn Khanh, vì có liên quan đến mộ chí của Lưu Chí.)
[110] Ngày Mậu Ngọ, Tri Thanh Châu, Long Đồ các đãi chế Đặng Oản thử làm Lễ bộ thị lang. Bấy giờ, Cấp sự trung Lục Điền, Hàn Trung Ngạn phong bác mệnh của Oản, nói rằng Oản gian trá, lệch lạc, nếu để ông ta đảm nhiệm việc lễ nghi quốc gia, e rằng sẽ làm ô uế thanh tuyển. Vua xuống chiếu bãi chức.
[111] Sở Biên tu sách thiên văn dâng lên 16 quyển sách thiên văn đã biên soạn, xin ngoài việc giám sát thu chưởng, còn ban xuống cho Hàn lâm Thiên văn viện, Sở Trắc nghiệm Hồn nghi Khắc lậu. Vua đồng ý.
[112] Bành Tôn tâu: “Quân phiên ở Kinh Nguyên lộ đều giàu có, ra vào chỉ thuê người làm lính hầu, vì trước đây không có quan chính thức quản lý, khi có việc quân mới cử tướng phó, lòng người không quen biết nhau, nên khó chỉ huy. Xin cử hai viên quan phiên và tướng quen việc cùng quản lý, xử trí, để có được quân được huấn luyện từ trước mà sử dụng.” Vua xuống chiếu cho Kinh lược ty xem xét lập pháp. Sau đó, Kinh lược ty tâu: “Quân mã Hán, phiên cung tiễn thủ từ trước đến nay đều do các tướng thứ hai đến thứ mười thống lĩnh huấn luyện, không có gì bất tiện, khó có thể thay đổi cử quan phiên.” Vua đồng ý.
[113] Ngày Kỷ Mùi, ban chiếu: “Phép muối mới thi hành ở Kinh Đông lộ, trên dưới đều thuận tiện, không ngại thu lợi cho nhà nước, để giúp chi tiêu, áp dụng sang Hà Bắc lộ, không có gì đáng nghi ngờ. Có thể sai Kiển Chu Phụ, Lý Nam Công đến biên giới hẹn gặp Ngô Cư Hậu để truyền lại phép muối thành công ở Kinh Đông lộ mà thi hành.”
(Ngày 1 tháng 10 năm này có thể gộp vào đây. Ngày 28 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, vẫn theo lệ thông thương cũ.)
[114] Ban chiếu cho Kinh lược ty Hà Đông[20]chiêu hàng hai thủ lĩnh Tây Hạ là Ma Mĩ Bột Nhi làm Nội điện Sùng ban, Khất Sỉ Hương làm Tam ban Phụng chức.
[115] Ngày Canh Thân, Tri châu Nguyên Châu kiêm Quản câu Duyên biên An phủ ty công sự Tạ Lân tâu: “Thần trước đây khai phá vùng Khê Động mới quy thuận, đặt Tiểu Do trại, Phong Sơn bảo, cử Trại chủ và Tuần kiểm. Thần tâu xin tuyển chọn Sứ thần, theo lệnh của Thượng thư tỉnh, các cơ quan trong ngoài đều bãi bỏ việc tiến cử quan chức. Đến nay đã một năm, chưa được bổ nhiệm, xin đặc cách cho thần hoặc các quan Kiềm hạt, Chuyển vận ty của bản lộ tiến cử quan chức.” Chiếu đặc cách cho Tạ Lân được tiến cử một lần.
(Ngày 15 tháng 5, ngày 4 tháng 7 năm thứ 7, ngày 1 tháng 8.)
[116] Ngày Tân Dậu, ban chiếu: “Phó sứ Chuyển vận ty Kinh Đông lộ Ngô Cư Hậu đã nộp số tiền muối tăng thêm của bản lộ vào kho Tả tàng của Bắc Kinh. Cư Hậu cẩn thận trong công việc, nhanh nhẹn và có công, có thể ban sắc khen thưởng.”
(Ngày 1 tháng 5.)
[117] Hữu ty Lang trung Dương Cảnh Lược xin các quan Tả Hữu ty theo lệ của Xu mật đô Thừa chỉ cấm tiếp khách, được chấp thuận. Cảnh Lược lại từng nói: “Có những Thượng thư lang không có tài năng, xin cho các quan trưởng tiến cử người không được thăng chức hoặc theo lệ cũ là dừng lại ở cửa.” Cuối cùng không thực hiện.
(Cảnh Lược đã được nhắc đến, là con rể của Hàn Giáng[21], theo bản truyện. Dừng lại ở cửa, là lệ cũ thời Đường. Bản truyện thực chất dựa vào bài mộ chí của Cảnh Lược do Tô Tụng soạn.)
[118] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu cho đề cử ty mua ngựa Thiểm Tây chọn 3.000 con ngựa đưa đến Kinh Nguyên lộ, còn số ngựa ứng phó cho Hi Hà lộ tạm ngừng cấp.
[119] Chiếu cho Lại bộ bốn tuyển, những người phạm tội phải đi xa hoặc đến các nơi xa xôi nhận chức giám đương, không được dựa vào việc ông bà, cha mẹ già yếu để xin nhận chức gần nhà.
[120] Bắc Kinh lưu thủ ty và Hà Bắc đô chuyển vận ty tâu: “Huyện Quán Đào nằm giữa hai con đê sông lớn, xin dời đến thôn Cao Cố để tránh lũ, cả công tư đều cho là tiện.” Được chấp thuận.
[121] Tri châu Đăng là Triệu Xưng xin rằng các huyện có số hộ chủ khách dưới 1 vạn được bổ một người làm y học, trên 1 vạn hộ bổ hai người, cứ thêm 1 vạn hộ thì tăng một người, tối đa năm người. Ngoài việc học các sách y học thông thường, còn phải học sách thương hàn của Trương Trọng Cảnh, do bản châu cử quan khảo thí, theo lệ người đỗ cử nhân được miễn đinh và chuộc tội. Chiếu cho Lễ bộ lập pháp. Sau đó, Lễ bộ tâu: “Các y sinh, kinh phủ và tiết trấn có 10 người, trong đó ba người chuyên về tiểu phương mạch; các châu khác có bảy người, trong đó hai người chuyên về tiểu phương mạch; mỗi huyện cứ 1 vạn hộ có một người, tối đa năm người, nếu có ba người trở lên thì có một người chuyên về tiểu phương mạch. Khi có khuyết, cho phép những người không phạm tội nặng nộp đơn xin bảo lãnh, cử quan khảo thí 10 câu hỏi về sách y học, ai đúng năm câu trở lên thì cấp giấy bổ nhiệm. Phạm tội công từ trượng trở xuống được chuộc tội. Người học đại phương mạch phải học 《Nan Kinh》, 《Tố Vấn》, 《Thương Hàn Luận》 của Trương Trọng Cảnh và 《Bệnh Nguyên》 của Sào Thị gồm 24 quyển; người học tiểu phương mạch phải học 《Nan Kinh》, 《Bệnh Nguyên》 của Sào Thị gồm 6 quyển và 《Thái Bình Thánh Huệ Phương》 12 quyển. Khi có khuyết chức y học bác sĩ hoặc trợ giáo, chọn những y sinh có tài năng xuất sắc bổ nhiệm.” Được chấp thuận.
[122] Tri châu Nguyên là Tạ Lân tâu: “Quản câu cơ nghi văn tự là Diệp An Tiết cùng những người khác đã có công lớn trong việc chiêu dụ các man tộc, nay được ban tặng lụa, nhưng so với các phần thưởng khác thì chưa công bằng. Xin ban ân điển tương tự như Tạ Quý Thành.” Chiếu giảm thời gian khảo khóa của Diệp An Tiết ba năm, Phạm Thiên Ích được thăng một bậc, Ngụy Chu được bổ làm thí quan, còn phần thưởng ban trước đây thì thu hồi lại.
(Ngày Mậu Ngọ, Canh Thân tháng 5, năm thứ 7, ngày 1 tháng 5.)
[123] Chiếu lấy hơn 30 khoảnh ruộng công của chùa Quảng Giáo ở quân Vĩnh Hưng ban cho trường phủ học để nuôi sĩ tử.
[124] Ngày Quý Hợi, chiếu rằng: “Chức vụ chủ bạ ở các tự, giám chỉ chuyên trách việc sổ sách, còn công việc thì từ thừa trở lên cùng bàn bạc rồi thi hành. Nay quân khí giám tự tiện sai người đi kiểm tra việc luyện tập võ nghệ, các quan lại đó đặc cách tha tội, lệnh cho các tự, giám theo đó mà tuân thủ.”
[125] Ngày Giáp Tý, quan đề điểm hình ngục lộ Hà Đông là Hoàng Liêm tâu: “Dân châu Lam, châu Thạch di cư đến quân Khả Lam, theo chiếu phải đưa về quê. Nghe nói dân lưu tán trước đây vì mưa lâu ngày làm hư hại hết ruộng mùa thu, nên tạm đến đây trồng một vụ lúa hè. Xin hạn trong một tháng hoàn thành việc ruộng, nếu chấp thuận lời xin, thì quân Hỏa Sơn cũng xin theo như vậy.” Theo lời tâu, lại lệnh cho Hoàng Liêm đến hai quân để ổn định dân chúng.
(Hoàng Đình Kiên viết hành trạng của Hoàng Liêm chép việc này rất chi tiết, nên lược bớt.)
[126] Ngày Ất Sửu, chiếu cho các lộ cấm các chức quản câu cơ nghi văn tự và câu đương công sự không được tư thông.
[127] Quan kiêm đồng đề cử trà trường các lộ Thành Đô là Quách Mậu Tuấn tâu: “Trước đây theo chiếu chuyên trách việc mua ngựa kiêm quản việc trà, nhưng ty trà trường không kiêm việc mua ngựa, đã không chịu trách nhiệm, lại đặt ra phép tắc gây hại cho việc mua ngựa, giá trà mỗi đà tăng hơn 10 nghìn, e rằng ngựa của người Phiên năm nay không vào, làm hỏng việc quốc gia. Xin hợp nhất ty trà trường và ty mua ngựa làm một, để ty trà cùng chịu trách nhiệm mua ngựa.”
(Ngày 4 tháng 7 năm thứ 4, Mậu Tuấn chuyên trách việc mua ngựa kiêm quản trà trường. Ngày Bính Thìn tháng 10 năm thứ 5, chỉ xưng là phụng nghị lang, không xưng chức vụ. Bản Chu có dán thiếp rằng: “Xem văn bản của hộ bộ, không thấy bản tấu này của Mậu Tuấn. Vì hiện nay ty trà trường và ty mua ngựa vẫn là hai cơ quan riêng biệt, tức là việc này trước đây chưa từng thi hành, nên xóa bỏ.” Bản mới vẫn giữ lại.)
[128] Ngày Đinh Mão, chiếu cho hộ bộ chuyển 1 vạn quan tiền chia đều cho các ty đề cử lộ Vĩnh Hưng và Tần Phượng.
[129] Ngày Mậu Thìn, Lại bộ tâu: “Viên chủ bạ huyện Đại Đàm, châu Dân là Dư Tông Đạo, mẹ đã 87 tuổi, vì bệnh nặng, xin được về phụng dưỡng. Theo chiếu chỉ, nếu bổ nhiệm vào chỗ khuyết ở Thiểm Tây thì không được, xin cho nghỉ dài hạn để tìm thuốc và phụng dưỡng.” Chiếu chuẩn theo lời xin của Dư Tông Đạo.
[130] Quan chuyên sai đồng đề cử việc giáo duyệt bảo giáp phủ Khai Phong là Lưu Quản tâu: “Bảo giáp các huyện phủ Khai Phong và châu Hoạt trước nuôi 5.000 con ngựa, chết và tổn thất hơn 1.900 con, đã thu nộp tiền bồi thường 10.000 quan. Xin cử quan chuyên trách đi mua ngựa, số tiền chưa nộp cũng có thể giao cho họ đôn đốc thu nộp.” Chiếu cho Lữ Công Nhã: “Số ngựa mua được giao cho Lưu Quản, ưu tiên cấp cho người võ nghệ cao.”
(Lữ Công Nhã lúc đó giữ chức gì, tháng 12 ngày Giáp Thân, theo lời tâu của đồng đề cử bảo giáp. Công Nhã là cháu của Di Giản, có truyện vào tháng 10 năm Chính Hòa thứ 3.)
[131] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu bãi bỏ việc nuôi ngựa ở các trại chăn nuôi, tiêu tốn tiền phong trang[22], giao cho ty Thừa chỉ Viện Xu mật chuyên trách điều tra và quản lý; các khoản tiền phong trang còn lại, giao cho ty Thượng thư đô lập sổ quản lý. Trước đây, Trung thư sai quan đường hậu lập sổ quản lý tiền phong trang, đến nay, quan chế đã thực hiện, phân chia quản lý.
[132] Long đồ các trực học sĩ, quyền tri phủ Khai Phong là Vương Tồn tâu ba viện đều không có tù nhân, chiếu cho quan lại phủ Khai Phong đều được hưởng ân điển như năm Nguyên Phong thứ 5.
(《Cựu kỷ》 chép việc phủ Khai Phong không có tù nhân, 《Tân kỷ》 bỏ đi.)
[133] Thượng phê: “Việc chăn nuôi ngựa là việc trọng yếu, trong lúc mới bắt đầu, nếu không có cận thần bên cạnh chuyên trách tổng quản chính sự, tùy việc tấu trình, giao cho các cơ quan hữu ty, thì khó mà làm được. Từ nay, pháp chế về việc chăn nuôi ngựa ở Vụ Trạch Pha, tạm đặt mười giám trong kinh đô, đợi khi ổn định, sẽ mở rộng thực hiện ở các lộ. Có thể sai Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất, Phó đô thừa chỉ Trương Sơn Phủ chuyên trách việc đề cử, kinh độ, chế trí, điều hoạ về chăn nuôi ngựa, tấu trình thi hành. Theo lệ của ngũ lộ bảo giáp, tạm thời không thuộc quản lý của Thượng thư giá bộ và Thái bộc tự. Những việc cần xử lý từ triều đình, do Xu mật viện thi hành.”
[134] Ngày Tân Mùi, chiếu rằng những nơi bị thiên tai, hộ thuộc đệ tứ đẳng trở xuống thiếu lương thực giống, dù không phải thời điểm phát chẩn, cũng cho phép kết bảo để vay mượn; dù có nợ nần, cũng cho phép chi trả, hạn trong một năm phải nộp, nhưng được miễn lãi.
[135] Ngày Nhâm Thân, chiếu rằng Hình bộ lang trung Đỗ Hoành bị phạt 8 cân đồng, kéo dài thời gian khảo xét thêm hai năm. Trước đây, Thiệu Vũ quân tấu án, người đàn bà họ Trần thông gian với người khác, đã định mưu giết chồng, khi chồng say rượu về, Trần không khóa cửa, người gian phu nhân đó vào giết chồng. Pháp tự xử Trần tội mưu sát, theo mà không gia công; nhưng Hoành nghị rằng Trần có gia công, tội đáng chết không nghi ngờ. Lại có vụ án ở Hưng Nguyên phủ, Lương Hoài Cát nghe vợ cũ là Triều bệnh nặng đến thăm, nhân đó gửi lúa giống, con của Triều liền lấy ăn, Hoài Cát đánh chết đứa con đó. Pháp tự xử con của Triều tội trộm lúa, Hoài Cát tội tạp phạm tử hình, dẫn xá để tha; nhưng Hoành nghị rằng con của Triều ăn lúa của Hoài Cát, là hành vi sử dụng tài sản được gửi mà không được phép, không thuộc phạm vi bắt giữ. Vì nghị án không thống nhất, giao xuống Ngự sử đài định đoạt. Ngự sử đài nói rằng Hình bộ bác nghị đều không đúng, nên phạt như vậy.
(Xem thêm ngày Tân Dậu tháng 2[23].)
[136] Chiếu: “Những việc liên quan đến sứ giả đi lại, bắt dân sửa đường, tính số ngày phải làm, được chiết khấu vào số xuân phu.” Theo yêu cầu của Tiếp bạn Liêu sứ Giả Thanh.
[137] Ngày Quý Dậu, ban chiếu rằng: “Tông chính và các quan phụ trách việc tu sửa ngọc điệp, phải căn cứ theo văn tự của cơ quan Nhật lịch sở, đồng thời chỉ định rõ những việc cần ghi chép, bảo cơ quan này trích lục. Việc phòng ngừa lộ lọt thông tin, cũng phải tuân theo quy định của Nhật l
- Chữ 'đại' nguyên bản là 'nhân', theo 《Tống hội yếu》 phần Phiên Di 4 tờ 17 sửa lại. ↵
- Chữ 'triều' trên nguyên bản thừa chữ 'phục', theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 151 phần Dư Phục Chí, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 79 phần Tường định Giao Miếu Lễ Văn mà bỏ. ↵
- Tả Tàng khố sứ Cao Vĩnh Dực: Chữ 'khố' dưới nguyên có thêm chữ 'phó', theo sách này quyển 334, ngày Kỷ Hợi tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 6, Cao Vĩnh Dực đã từ Tả Tàng khố phó sứ được thăng làm Tả Tàng khố sứ, nên xóa chữ 'phó'. ↵
- Đề điểm hình ngục Hồ Tông Hồi: Chữ 'tông' nguyên viết là 'Tống', theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 318 truyện Hồ Tông Hồi sửa lại. ↵
- So sánh với năm Nguyên Phong thứ 4 xem nhiều hay ít rồi tâu lên: Hai chữ 'tâu lên' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 13-21 bổ sung. ↵
- Sau đó, Từ bộ so sánh với số liệu năm thứ 4: Chữ 'tứ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung. ↵
- Cũng giao cho bản sát: chữ 'sát' nguyên là 'án', căn cứ theo 《Tống Hội Yếu》 chức quan 17/12 sửa lại. ↵
- Các việc khác tùy theo tào mà giao cho sát, chữ 'phó' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo sách trên để bổ sung. ↵
- Chữ 'Quân' trong 'Câu đương Quân đầu Dẫn kiến ty' nguyên bản bị thiếu, căn cứ vào các bản khác bổ sung. ↵
- Chu bản, chữ 'Chu' nguyên là 'Tống', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Ngày 21 tháng 8, chữ 'Nhất' nguyên là 'Nhị', chữ 'Nhật' bị thiếu, theo chú thích trong quyển 334, ngày Bính Dần tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 6 và quyển 338, ngày Giáp Ngọ tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 6 sửa lại. ↵
- Chữ 'nhàn' nguyên là 'bế', theo các bản và 《Tống hội yếu》 quyển 5, trang 39 sửa lại. ↵
- Chữ 'diêm' trong 'biệt lộ diêm ty đề cử quan', theo 《Tống hội yếu》 thực hóa 24-23 chép là 'giám'. ↵
- Chữ 'thiên' trong 'cửu thiên bát bách cửu thập thất' nguyên chép là 'niên', theo các bản khác, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 chức quan 13-21 sửa lại. ↵
- 'hợp' nguyên là 'các', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 66-23 sửa ↵
- Ngày mùng 7 tháng 8 xem quyển 348 sách này, ngày Giáp Tuất mùng 7 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 7 không có việc này, việc này ở ngày Mậu Tý 21 tháng 8. ↵
- Chữ 'Kim' trong 'Kim Hoài Nam thôi xúc tiền bạch sở điệp hội vấn số mục' nguyên bản là 'Lệnh', căn cứ theo ý nghĩa sửa lại. ↵
- Quan pháp Ngô Xử Hậu bác bỏ, chữ 'xử' nguyên là 'cư', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 329, truyện Thư Thiện sửa. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Giao cho quan định đoạt xem xét kỹ, 'xem xét kỹ' nguyên bản là 'tường tống', căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 24-9 sửa lại. ↵
- Kinh lược ty Hà Đông, chữ 'Đông' nguyên bản viết 'Bắc', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- Con rể của Hàn Giáng, theo 《Tô Ngụy Công văn tập》 quyển 56 《Long đồ các Đãi chế Tri Dương Châu Dương công mộ chí minh》, Cảnh Lược là con rể của Hàn Duy. ↵
- Chiếu bãi bỏ việc nuôi ngựa ở các trại chăn nuôi, tiêu tốn tiền phong trang, chữ 'mục' nguyên là 'thu', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 6-8 sửa lại. ↵
- Ngày Tân Dậu tháng 2, nguyên bản viết 'tam', căn cứ vào sự việc này trong quyển 323, năm Nguyên Phong thứ 6, tháng 2, ngày Tân Dậu, sửa lại. ↵